Tình hình đầu tư phát triển của Công ty Chế biến ván nhân tạo - LICOLA

Lời Mở đầu Nền kinh tế Việt Nam qua hơn mười năm đổi mới, mở cửa đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên thách thức phải đối đầu với cạnh tranh, hội nhập khu vực và quốc tế cũng ngày càng gay gắt. Việt Nam đã trở thành thành viên của ASEAN, APEC và không bao lâu nữa ra nhập AFTA(2006), WTO. Xu thế hội nhập, mở cửa đã trở thành tất yếu. Tuy nhiên theo ý kiến của nhiều chuyên gia, các doanh nghiệp Việt Nam đến nay phần lớn vẫn chưa chuẩn bị sẵn sàng cho hội nhập, vẫn quen với sự bảo hộ

doc59 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1545 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình đầu tư phát triển của Công ty Chế biến ván nhân tạo - LICOLA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của nhà nước. Nâng cao hiệu quả đầu tư để góp phần đưa các doanh nghiêp Việt Nam có sức cạnh tranh với các công ty trong và ngoài nước. Vấn đề đặt ra là phải làm gì để có thể sử dụng hiệu quả vốn đầu tư. Công ty chế biến ván nhân tạo là một doanh nghiệp nhà nước, được thành lập theo quyết định của chính phủ và bộ Lâm nghiệp Việt Nam cũng nhận thức được mục tiêu và vai trò của mình trước nền kinh tế thị trường trong việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Xuất phát từ bối cảnh chung của nền kinh tế và thực trạng hoạt động của công ty chế biến ván nhân tạo thì vấn đề đầu tư nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư đang được quan tâm nhất không chỉ đối với công ty chế biến ván nhân tạo mà còn đối với tất cả các doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì những vấn đề nêu trên nên em đã nghiên cứu đề tài: “ Tình hình đầu tư phát triển của công ty chế biến ván nhân tạo – LICOLA" Nội dung bài viết gồm: Chương I : Những vấn đề chung về đầu tư phát triển Chương II: Thực trạng Đầu tư của công ty Chế biến ván nhân tạo - LICOLA- trong thời kỳ 1999-2001 Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư ở Công ty chế biến ván nhân tạo . Em xin chân thành cám ơn cô giáo Nguyễn Bạch Nguyệt và các cán bộ nhân viên của Công ty chế biến ván nhân tạo đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Chương I Những vấn đề lí luận chung về đầu tư đầu tư phát triển I. Lý luận chung về đầu tư phát triển. 1. Khái niệm về đầu tư. 1.1. Khái niệm. Thuật ngữ “Đầu tư” có thể được hiểu trên nhiều góc độ , khía cạnh khác nhau nhưng đều cùng mục đích nhằm giải thích nó. - Trên góc độ tài chính, đầu tư là một chuỗi hoạt động chỉ tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu, nhằm hoàn vốn và sinh lời - Trên góc độ tiêu dùng, đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện đại để thu được mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. - Trên góc độ nền kinh tế, đầu tư là sự hi sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. - Trên góc độ chung, đầu tư có thể hiểu là sự bỏ ra, hi sinh các nguồn lực ở hiện tại nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Nguồn lực dành cho đầu tư có thể là vốn, tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động, trí tuệ, con người... xét về thời gian các nguồn lực này được bỏ ra ở hiện tại để thu về kết quả trong tương lai. Những kết quả đạt được có thể là các mục tiêu kinh tế như lợi nhuận, sự tăng lên của tài sản tài chính, tài sản vật chất, có thể là các mục tiêu chính trị văn hoá, xã hội như sự gia tăng tài sản trí tuệ, nguồn nhân lực cho nền kinh tế. Tuỳ thuộc vào từng chủ thể và đối tượng đầu tư cụ thể mà các mục tiêu đầu tư được trú trọng khác nhau và trong một điều kiện cụ thể thì các chủ thể đầu tư khác nhau sẽ chọn các phương pháp đầu tư khác nhau nhằm đạt được mục tiêu cao nhất có thể. Như đã nói, hiệu quả của hoạt động đầu tư là rất phong phú và đa dạng đối với từng cá nhân, đơn vị, đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vị. Đối với nền kinh tế, đầu tư quyết định sự phát triển của nền sản xuất xã hội, là chìa khoá của sự tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nếu xem xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế thì không phải mọi sự bỏ vốn để tiến hành các hoạt động nhằm thu lợi đều được co là đầu tư, chỉ những hoạt động bỏ vốn ra tiến hành các hoạt động đầu tư và tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mới được gọi là đầu tư phát triển. Nhưng xét trên một tổng thể với những mối quan hệ tương tác thì đầu tư phát triển giúp các loại đầu tư khác vận động và tồn tại còn các loại đầu tư khác lại có tác động thúc đẩy đầu tư phát triển. Do đó, khái niệm chung nhất về đầu tư là sự chi tiêu vốn cùng với các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó ( tạo ra hoặc khai thác...) nhằm thu về các kết quả có lợi trong tươnglai, lớn hơn chi phí đã bỏ ra. 1.2. Phân loại. Để đáp ứng các nhu cầu quản lý và nghiên cứu khác nhau, các nhà kinh tế đã phân loại hoạt động đầu tư theo nhiều tiêu thức. Theo bản chất của các đối tượng đầu tư chia thành đầu tư cho các đối tượng vật chất, đầu tư cho các đối tượng tài chính và đầu tư cho các đối tượng phi vật chất. Theo cơ cấu tái sản xuất có thể phân loại thành đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng. Đầu tư chiều rộng làm tăng quy mô sản xuất, còn đầu tư chiều sâu gắn liền với việc đổi mới công nghệ và kỹ thuật. Theo phân cấp quản lý phân thành ba nhóm A, B, C tuỳ theo tính chất và quy mô của dự án, trong đó nhóm A do thủ tướng chính phủ quyết định, nhóm B và nhóm C do Bộ trưởng, Thủ tướng các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định. Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư có thể phân thành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư chia thành đầu tư cơ bản và đầu tư vận hành. Đầu tư cơ bản nhằm sản xuất các tài sản cố định, còn đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Đầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành tạo điều kiện cho các kết quả của đầu tư cơ bản phát huy tác dụng. Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội có thể phân thành đầu tư thương mại và đầu tư sản xuất. Đầu tư thương mại là loại đầu tư ngắn hạn, vốn vận động quay vòng nhanh, độ rủi ro thấp. đầu tư sản xuất là loại đầu tư dài hạn, vốn đầu tư lớn thu hồi vốn chậm, thời gian thực hiện đầu tư dài, độ mạo hiểm cao vì có tính kỹ thuật phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố bất định. Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi vốn đã bỏ ra của các kết quả đầu tư có thể chia thành đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn. Theo quan hệ quản lý của chủ, đầu tư được phân thành đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. Đầu tư gián tiếp trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp được phân thành đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển. Theo nguồn vốn đầu tư có thể chia thành đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, đầu tư trong nước sử dụng vốn huy động trong nước, gồm vốn tích luỹ của ngân sách của doanh nghiệp và tiết kiệm của dân cư. Đầu tư nước ngoài sử dụng vốn huy động trong nước gồm vốn tích lũy của ngân sách, của doanh nghiệp và tiết kiệm của doanh thu của dân cư. Đầu tư nước ngoài sử dụng vốn huy động cuả nước ngoài gồm vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp. Theo vùng lãnh thổ, đầu tư được chia thành từng tỉnh, thành phố và theo vùng kinh tế của đất nước. Ngoài ra, trong thực tế tuỳ theo những nhu cầu và mục đích cụ thể người ta còn chia đầu tư theo quan hệ sở hữu, theo quy mô và theo các tiêu thức khác nữa. Tuy nhiên, về bản chất, nhình chung có 3 loại đầu tư là đầu tư thương mại, đầu tư tài chính và đầu tư phát triển. Cả 3 loại đầu tư này có quan hệ tương tác, giúp đỡ lẫn nhau, trong đó đầu tư phát triển có tính chất quyết định. 2. Đầu tư phát triển và vai trò của nó. 2.1. Hoạt động đầu tư phát triển - vốn đầu tư phát triển. 2.1.1. Hoạt động đầu tư phát triển. Hoạt động đầu tư phát triển hay hoạt động đầu tư vốn là quá trình sử dụng vốn đầu tư sản xuất giản đơn và tái sản xuất các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, của địa phương của ngành hoặc của các cơ sỏ sản xuất - kinh doanh dịchvụ nói riêng. Hoạt động đầu tư vốn còn được hiểu là quá trình chuyển hoá từ tiền thành các cơ sở vật chất, các yếu tố của quá trình sản xuất thông qua các hoạt động như xây dựng, mua sắm, lắp đặt, chi phí xây dựng cơ bản khác và thực hiện các chi phí với tài sản cố định vừa tạo ra. Như vậy quá trình đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn đã được tích luỹ trong quá khứ vào quá trình sản xuất kinh doanh, quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm nâng cao đời sống của mọi người trong xã hội. 2.1.1. Vốn đầu tư phát triển. Vốn đầu tư phát triển là tiền tích luỹ của xã hội của các tổ chức sản xuất , kinh doanh, dịch vụ tiền tiết kọm của dân, vốn huy động từ nước ngoài và các nguồn khác được sử dụng để tái sản xuất mở rộng nhằm duy trì và nâng cao tiềm lực kinh tế cho các đơn vị và cho nền sản xuất xã hội. Vốn đầu tư được sử dụng để tái sản xuất giản đơn và mở rộng các tài sản cố định, tạo ra các tài sản lưu động để duy trì và phát triển các tài sản cố định mới tăng thêm. Nguồn vốn đầu tư gồm hai nguồn cơ bản là nguồn huy động trong nước và nguồn huy động nước ngoài. Nguồn vốn trong nước đa dạng, bao gồm vốn tích luỹ từ ngân sách từ các doanh nghiệp và huy động vốn tiết kiệm của dân cư. Nguồn vốn nước ngoài cũng khá quan trọng và phong phú, gồm vốn đầu tư trực tiếp, và vốn đầu tư gián tiếp, trong đó gồm việc trợ không hoàn lại việc trợ có hoàn lại, cho vay với lãi xuất ưu đãi hoặc thông thường. 2.2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển. Hoạt động đầu tư phát triển được phân bịệt rõ ràng so với các hoạt động khác chính nhờ các hoạt động khác biệt của nó. Thứ nhất nguồn lực cần thiết cho một hoạt động đầu tư là rất lớn. Do đó có thể dẫn đếntình trạng nhiều dự án không có đủ vốn và nguồn lực thực hiện đồng thời sau mỗi dự án có số lao động khá lớn không được giải quyết công ăn việc làm còn gọi là “bện dự án” hay “hậu dự án”. Thứ hai, thơi gian cần thiết thực hiện một công cuộc đầu tư thường kéo dài do nhiều hạng mục công trình với tính chất kỹ thuật phức tạp. Thơi gian thực hiện dài đồng thời với lượng vốn lớn vì vậy nếu quản lý không chặt chẽ có thể dẫn đến cơ cấu vốn đầu tư không hợp lý, sử dụng vốn không hiệu quả có lúc thiếu vốn song có vốn lại bị ứ đọng. Thứ ba, thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài, nhiều khi là vĩnh viễn, do đó nếu trong quá trình vận hành mà kết quả đó gây ra hiệu ứng tiêu cực cho môi trường, xã hội thì toàn xã hội sẽ phải gánh chịu hậu quả lâu dài. Mặt khác thời hạn vận hành dài nên phải có tỷ lệ khấu hao hợp lý để có thể hoàn vốn, trả nợ và thu được lợi nhuận. Thứ tư, các công trình đầu tư đựoc tạo ra ở vị trí cố định, chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện kinh tế, tự nhiên của vùng đó, do vậy trong quá trình chuẩn bị đầu tư cần phải có quy hoạch, kế hoạch phù hợp với phong tục tập quán, chính trị tại nơi đó. Thứ năm, đầu tư phát triển có độ rủi ro cao do thời gian vận hành fài vốn đầu tư lớn... phải chịu nhiều yếu tố bất định, do đó cần phải có những biện pháp phòng tránh rủi ro giảm bớt thiệt hại nếu xảy ra. Thứ sáu, đầu tư phát triển có độ trễ thời gian, vốn đầu tư được thực hiện ở kỳ này nhưng không có tác dụng ngay, mà đến khi kết quả đầu tư được tạo ra đầu tư lúc này đầu tư phát triển mới có tác dụng, có thể là ở các kỳ sau nắm được đặc điểm này để có những tính toán chính xác nhằm đưa ra các quyết định đầu tư phù hợp. 2.3. Vai trò của hoạt động đầu tư phát triển. 2.3.1. Vai trò đối với nền kinh tế. Có thể nói đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng của mỗi quốc gia. Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu của nền kinh tế. - Về tổng cầu: Cùng với chỉ tiêu của dân cư, chính phủ giá trị xuất nhập khẩu, đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn, trong khi tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư bằng tăng từ Q0 đến Q1 và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng từ P0 - P1 điểm cân bằng dịch chuyển từ E0 đến E1. - Về tổng cung: khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên (đường AS dịch chuyển sang AS,,) kéo theo sản lượng tiềm năng từ Q1 đến Q2 và giá sản phẩm giảm từ P1 đến P2, do đó tiêu dùng có thể tăng, tiêu dùng gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động nâng cao đời sống dân cư. - Dầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế. Sự tác động không đồng thời về mặt thơi gian của đầu tư với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định kinh tế mọi quốc gia. Đầu tư có tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế: thông qua quan hệ só ICOR (hệ số gia tăng vốn - sản lượng) người ta có thể xác định được mức độ ảnh hưởng của vốn đầu tư đến tốc độ tăng trưởng. Icor = Vốn đầu tư Mức tăng GDP Từ đó suy ra: Mức tăng GDP = Vốn đầu tư ICOR Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Do vậy, ở nhiều quốc gia, đầu tư đóng vai trò như một “cú huých” tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế, và phát triển về bản chất được coi là vốn để đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt đựơc một số tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến. Đầu tư ảnh hưởng đến việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế của nền kinh tế, đầu tư làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật phát triển, với chiến lược phát triển kinh tế trong từng thời kỳ. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới, cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ, đối với các ngành nông lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khă năng sinh học, để đạt đựơc tốc độ tăng trưởng cao là rất khó, như vậy chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Đầu tư còn taọ ra sự cần bằng trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, giữa các ngành, đầu tư tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh của từng ngành vùng. Đầu tư ảnh hưởng đến trình độ phát triển khoa học công nghệ của đất nước. Công nghệ là trung tâm công nghiệp hoá, và đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khă năng công nghệ cho đất nước, thực hiện tốt công cuộc công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước. Có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và chuyển giao thông công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài, đều cần phải có tiền, có vốn đầu tư, mọi phương án đổi mới công nghệ mà không gắn liền với nguồn đầu tư sẽ là phương án không khả thi. 2.3. Vai trò đối với các cơ sở sản xuất - kinh doanh dịch vụ Đầu tư quyết định sự ra đời tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở, không chỉ đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ mờ đối với cả những đơn vị vô vụ lợi. Để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm, lắp đặt máy móc, thiết bị, thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất mới tạo ra, các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư cho sự ra đời và tồn tại của cơ sở, đơn vị đó. Sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở, đơn vị đang tồn tại sẽ bị hư hỏng, hao mòn, để duy trì được hoạt động bình thường cần tiến hành sửa chữa thay mới, mặt khác để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho nền sản xuất xã hội cũng như thích ứng với điều kiện phát triển khoa học công nghệ, cần phải mua sắm các trang thiết bị , công nghệ mới hiện đại hơn và như vậy cũng cần phải có hoạt động đầu tư. 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp: Trong doanh nghiệp để tiến hành một hoạt động đầu tư, thông thường người ta căn cứ vào rất nhiều yếu tố khác nhau, cụ thể bao gồm các nhân tố sau: *Tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư: Tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư hay còn gọi là lợi nhuận thuần thu được từ hoạt động đầu tư. Đầu tư và lợi nhuận thuần thu được từ hoạt động đầu tư có mối quan hệ đồng biến. Các nhà đầu tư sẽ gia tăng quy mô đầu tư nếu như lợi nhuần thu được từ hoạt động đầu tư tăng và ngược lại, nếu lợi nhuận thu được giảm hay nói cách khác là mức gia tăng lợi nhuận giữa các năm giảm thì các nhà đầu tư sẽ giảm dần quy mô đầu tư. *Tỷ lệ lãi suất thực tế (Chi phí của hoạt động đầu tư): Khi các doanh nghiệp vay vốn để đầu tư thì lãi suất thực tế sẽ phản ánh giá của khoản vay mượn đó. Chính vì thế quyết định có nen đầu tư hay không sẽ phải căn cứ vào mức lãi suất đi vay để tiến hành hoạt động đầu tư đó. Có thể biểu diễn mối quan hệ giữa đầu tư và lãi suất bằng sơ đồ sau: r I Qua sơ đồ trên ta thấy lãi suất thực tế luôn luôn tỷ lệ nghịch với đầu tư. Lãi suất cao hơn so với tỷ suất lợi nhuận bình quân thì các nhà đầu tư sẽ giảm quy mô đầu tư, lãi suất vốn vay càng thấp thì mức đầu tư càng tăng lên. *Lợi nhuận kỳ vọng: Lợi nhuận kỳ vọng là mức lợi nhuận mà nhà đầu tư hy vong đạt được ttrong tương lai nếu tiến hành đầu tư. Các nhà đầu tư hy vọng vào tương lai chắc chắn sẽ đạt được lợi nhuận cao thì họ sẽ gia tăng quy mô đầu tư và ngược lại. Lợi nhuận kỳ vọng rất khó xác định nhưng nó lại là nhân tố kích thích các nhà đầu tư đầu tư thêm, nhất là đối với các nhà đầu tư ưa thích mạo hiểm. Trên đây là các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp. Doang nghiệp quyết định đầu tư hay hạn chế đầu tư là tuỳ thuộc vào những nhân tố đó. Để hoạt động đầu tư đạt kết quả cao cần phải căn cứ vào các nhân tố trên. 5/ Đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp: Hiệu quả đầu tư là một khái niệm rộng và tổng hợp, một phạm trù kinh tế khách quan. Trên giác độ nền kinh tế đó là mức độ thoả mãn nhu cầu phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người lao động. Trên giác độ từng ngành, từng địa phương, cơ sở, từng giải pháp kinh tế kỹ thuật thì đó là mức độ đáp ứng những nhiệm vụ kinh tế chính trị xã hội đã đề ra cho ngành, địa phương, doanh nghiệp, cho từng giải pháp kỹ thuật khi thực hiện đầu tư. Căn cứ vào bản chất của hiệu quả, người ta chia hiệu quả thành hai loại: hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội. 5.1/Hiệu quả tài chính: Hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư là mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời sống của người lao động trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ trên cơ sở vốn đầu tư mà cơ sở đã sử dụng so với các kỳ khác , các cơ sở khác hoặc so với định mức chung. Để tính toán hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư, có thể sử dụng công thức tổng quát sau: Các kết quả mà các cơ sở thu được do thực hiện đầu tư Hiệu quả tài chính = Số vốn đầu tư mà cơ sở đã thực hiện để tạo ra các kết quả trên Các kết quả do hoạt động đầu tư mang lại cho cơ sở rất đa dạng. Các kết quả đó có thể là lợi nhuận thuần, là mức tăng năng suất lao động, là số lao động có việc làm do hoạt động đầu tư mang lại...Do đó để phản ánh hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư người ta phải sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh của hiệu quả và được sử dụng trong những điều kiện nhất định. *Tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư (RR):Phản ánh mức độ lợi nhuận thuần thu được từ một đơn vị vốn đầu tư được thực hiện. Wipv Nếu tính cho từng năm hoạt động thì : RRi= IV0 Trong đó: Wipv: lợi nhuận thuần thu được năm i tính theo mặt bằng hiện tại. IV0:Vốn đầu tư ban đầu. NPV Nếu tính cho toàn bộ công cuộc đầu tư: npv= IV0 Trong đó: NPV: giá trị hiện tại của thu nhập thuần của cả đời dự án RRi và NPV càng lớn càng tốt. *Tỷ suất sinh lời của vốn tự có : Vốn tự có là một bộ phận của vốn đầu tư, là một yếu tố cơ bản để xem xét tiềm lực tài chính cho việc tiến hành các công cuộc đầu tư của các cơ sở không được ngân sách Nhà nước tài trợ. Wipv Nếu tính cho một năm hoạt động thì : = Trong đó: : Vốn tự có bình quân năm i. NPV Nếu tính cho toàn bộ một công cuộc đầu tư: = Trong đó: : Vốn tự có bình quân của cả một thời kỳ đầu tư tính ở mặt bằng hiện tại. , càng lớn càng tốt *Số lần quay vòng của vốn lưu động: Vốn lưu động là một bộ phận của vốn đầu tư. Vốn lưu động quay vòng càng nhanh, càng cần ít vốn và do đó càng tiết kiệm được vốn đầu tư. Oi Công thức tính: = WCi Trong đó: Oi: doanh thu thuần năm i. WCi :Vốn lưu động bình quân năm i. Chỉ tiêu :càng lớn càng tốt. *Thời hạn thu hồi vốn đầu tư (T): Là thời gian mà các kết quả của quá trình đầu tư cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra từ lợi nhuận thuần thu được. IV0 Công thức tính: T= WPV Trong đó: WPV :Lợi nhuận thuần thu được bình quân một năm . *Chỉ tiêu tính mức chi phí thấp nhất trong trường hợp các điều kiện khác như nhau. Tính cho toàn bộ một công cuộc đầu tư: IV0 + CPVT min Trong đó: CPV: Chi phí hoạt động đầu tư bình quân năm tính theo mặt băng hiện tại. *Hệ số hoàn vốn nội bộ IRR: Là tỷ suất lợi nhuận mà nếu được sử dụng để tính chuyển các khoản thu chi của toàn bộ công cuộc đầu tư về mặt bằng hiện tại sẽ làm cho tổng thu cân bằng với tổng chi. Công thức tính IRR: 1 1 = (1+IRR)i (1+IRR)i Công cuộc đầu tư được coi là hiệu quả khi IRRIRRđịnh mức IRRđịnh mức có thể là lãi suất đi vay nếu vay vốn để đầu tư, có thể là tỷ suất lợi nhuận định mức do Nhà nước quy định nếu vốn đầu tư do ngân sách Nhà nước cấp. *Chỉ tiêu điểm hoà vốn: Chỉ tiêu này cho thấy số sản phẩm cần sản xuất hoặc tổng doanh thu cần thu do bán số sản phẩm đó đủ để hoàn lại số vốn đã bỏ ra từ đầu đời dự án. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt, mức độ an toàn của dự án càng cao, thời hạn thu hồi vốn càng ngắn. Công thức tính: f x= (p-v) Trong đó : x:Số sản phẩm cần sản suất để hoà vốn. f:Tổng định phí v: Biến phí /1 đơn vị sản phẩm p: Giá bán 1 sản phẩm 5.2 Hiệu quả kinh tế xã hội: Hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động đầu tư là chênh lệch giữa các lợi ích mà nền kinh tế và xã hội thu được với các chi phí mà nền kinh tế và xã hội đã bỏ ra khi thực hiện đầu tư. Xuất phát từ góc độ doanh nghiệp, lợi ích kinh tế xã hội của hoạt động đầu tư được thể hiện qua các chỉ tiêu sau: *Mức đóng góp ngân sách. *Số chỗ việc làm tăng thêm từ hoạt động đầu tư. *Số ngoại tệ thu được từ hoạt động đầu tư. *Mức tăng năng suất lao động sau khi đầu tư so với trước đầu tư. *Mức nâng cao trình độ nghề nghiệp của người lao động. *Tạo thị trường mới và mức độ chiếm lĩnh thị trường do tiến hành đầu tư. *Nâng cao trình độ kỹ thuật của sản xuất. *Nâng cao trình độ quản lý của lao động quản lý *Các tác động đến môi trường *Các tác động khác. Chương Ii Thực trạng đầu tư của công ty chế biến ván nhân tạo licola - thời kỳ 1998-2001 1. quá trình hình thành và phát triển của công ty chế biến ván nhân tạo - licola Giới thiệu Công ty chế biến ván nhân tạo Công ty chế biến ván nhân tạo là Công ty thành viên, hạch toán độc lập trực thuộc Tổng Công ty Lâm Nghiệp Việt Nam, thuộc Liên hiệp Khoa học sản xuất, thiết kế và xây dựng công trình Lâm nghiệp. Công ty có nhiệm vụ sản xuất các loại ván nhân tạo: Ván dăm, ván sợi, ván ghép thanh tre luồng ghép.... trang trí bề mặt các loại. Sản xuất các loại đồ mộc và trang trí nội thất, kinh doanh và xuất khẩu các mặt hàng lâm sản và trang trí nội thất. Công ty là một đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân có quyền và trách nhiệm theo luật định, tự chịu trách nhiệm về số vốn mà Công ty quản lý, có con dấu riêng để giao dịch, có tài sản và các quỹ. Công ty có quyền tự chủ về tài chính nhưng chịu sự ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ với tổng Công ty theo Điều lệ tổ chức, hoạt động và quy chế tài chính của Bộ Lâm nghiệp Công ty chế biến ván nhân tạo - Trụ sở: Thị trấn Văn Điển - Thanh Trì - Hà Nội - Tên giao dịch: LICOLA - Điện thoại: (84-8) 5632496 Fax: (84-8) 5632187 1.2 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Công ty chế biến Ván nhân tạo ngày nay tiền thân là sự hợp nhất của Xí Nghiệp liên hợp chế biến lâm sản xuất khẩu Việt Trì ,xí nghiệp Mộc trang trí nội thất Văn Điển và Xí nghiệp trang trí bề mặt nội thất Văn Trung thành công ty Chế biến ván nhân tạo Thuộc liên Hợp khoa học sản xuất, thiết kế, và xây dựng công trình Lâm nghiệp. - Theo nghị định 08/CP ngày 1/2/1994 của chính phủ quy định chức năng nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Bộ Lâm nghiệp - Theo đề nghị của ông Tổng Giám Đốc liên hiệp khoa học sản xuất, thiết kế và xây dựng công trình lâm nghiệp va Ông Vụ trưởng tổng cục lao động (TCLĐ). Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Bên cạnh việc lo đầu vào, Công ty còn phải chịu sự cạnh tranh gay gắt về đầu ra với các Công ty khác, và các cơ sở sản xuất tư nhân....Mức tiêu thụ chậm vì chất lượng sản phẩm chưa cao, các khách hàng truyền thống thì hầu như chuyển sang nhập nguyên vật liệu từ nước ngoài. Giai đoạn này Công ty phải sản xuất cầm chừng, bên cạnh đó máy móc đã cũ kỹ lạc hậu nhưng vẫn phải sử dụng để sản xuất, do đó năng suất và chất lượng sản phẩm không cao. Năm 1995, Công ty đã đưa vào dây chuyền thuộc da hoàn chỉnh và một số máy móc thiết bị nhập từ Italia vào lắp đặt và sử dụng đã làm cho năng suất và chất lượng sản phẩm tăng lên đáng kể. Mặc dù mới sản xuất các mặt hàng: - Sản xuất các loại ván nhân tạo: ván dàm, ván sợi, ván ghép thanh, tre luồng ghép…. - Trang trí bề mặt các loại - Sản xuất các loại đồ mộc và trang trí nội thất - Kinh doanh và xuất nhập khẩu các mặt hàng lâm sản và trang trí nội thất. lại trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt trên thị trường thế giới và trong nước song toàn bộ công nhân viên trong công ty chế biến ván nhân tạo vẫn cố gắng vươn lên tự khẳng định mình trong cơ chế thị trường. 2. các đặc điểm về công nghệ và tổ chức sản xuất của công chế biến ván nhân tạo 2.1 Đặc điểm tổ chức sản xuất Việc tổ chức qui trình công nghệ sản xuất chế tạo sản phẩm khoa học hợp lý là tiền đề quyết định năng xuất chất lượng sản phẩm của bất kỳ một doanh nghiệp công nghiệp nào. Tuy nhiên, việc tổ chức sản xuất lại phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp. Công ty chế biến ván nhân tạo là một doanh nghiệp chuyên sản xuất ván nhân tạo và các trang trí bề mặt nội thất… đó để phù hợp với quy trình sản xuất sản phẩm. Công ty tổ chức sản xuất với các phân xưởng và các xí nghiệp sau: - Xí nghiệp chế biến gỗ công nghiệp - Nhà máy cơ khí Nội thất - Xí nghiệp Mộc và trang trí nội thất * Xí nghiệp chế biến gỗ công nghiệp: là xí nghiệp sản xuất và phục vụ cho công ty Xí nghiệp bao gồm : - Phân xưởng cắt ván công nghiệp - Phân xưởng khoan gia công cơ khí - Phân xưởng trang trí bề mặt - Phân xưởng hoàn thiện ,đóng gói, nhập kho * Nhà máy cơ khí nội thất: Nhiệm vụ chính là sản xuất Ván cho quá trình sản xuất của công ty Nguyên liệu chính là những Gỗ, ván ghép tre, luồng…. Nhà máy được chia thành các phân xưởng: - Phân xưởng thép tấm - Phân xưởng thép hình - Phân xưởng tẩy rửa sơn tĩnh điện * Xí nghiệp mộc và trang trí nội thất: Nhiệm vụ chính của xí nghiệp mộc và trang trí nội thất chính là tạo ra những sản phẩm, nhưng mẫu mã mới để tiêu thụ sản phẩm của công ty. Xí nghiệp bao gồm: - Phân xưởng gia công mộc - Phân xưởng tẩm sấy - Phân xưởng gia công trang trí bề mặt Các xí nghiệp chế biến gỗ công nghiệp, xí nghiệp mộc và trang trí nội thất, nhà máy cơ khí nội thất đều được trang bị máy móc hiện đại nên chất lượng sản phẩm cao bền, đẹp, kiểu dáng hấp dẫn nên đã đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng. Tóm lại, cơ cấu tổ chức sản xuất của công ty rất hợp lý tuy đã chia thành các phân xưởng, các xí nghiệp khác nhau song các bộ phận vẫn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, kết hợp với chính sách khoán gọn tới từng xí nghiệp, từng phân xưởng của công ty càng làm cho hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh cao hơn. 2.2 Đặc điểm quy trình công nghệ của công ty Quy trình công nghệ sản xuất ở công ty chế biến ván nhân tạo là quy trình công nghệ chế biến phức tạp liên tục bao gồm nhiều công đoạn khác nhau. Sản phẩm có nhiều loại, hiện nay công ty đang tập trung vào hai mặt hàng chính: sản phẩm Mộc và trang trí nội thất để bán ra thi trường. Các quy trình sản xuất sản phẩm được thể hiện qua các sơ đồ sau: Sơ đồ 1: Quy trình chế biến thành sản phẩm ván nhân tạo Gỗ, tre, luồng Bộ phận ghép ván Ván nhân tạo ép Tinh luyện qua máy cơ khí Tinh luyện 2.3 Đặc điểm tổ chức quản lý Trong những năm qua, công ty chế biến ván nhân tạo luôn quan tâm tới việc kiện toàn bộ máy quản lý của mình sao cho ngày càng phù hợp với tình hình sản xuất. Công ty chế biến ván nhân tạo tổ chức quản lý theo mô hình trực tuyến chức năng để tránh tình trạng quản lý chồng chéo, trùng lặp hay bỏ sót. Các chức năng quản lý được phân cấp phù hợp với các phòng ban để quá trình sản xuất được tiến hành nhịp nhàng hiệu quả. Ta có thể hình dung bộ máy quản lý của Công chế biến ván nhân tạo qua sơ đồ sau: Sơ đồ 4: bộ máy quản lý của công ty ván nhân tạo Giám đốc Các phân xưởng Các phân xưởng Các phân xưởng Phó GĐ kỹ thuật Phòng xuất nhập khẩu Phòng tổ chức hành chính XN chế biến gỗ công nghiệp Nhà máy cơ khí nội thất Xí nghiệp mộc và trang trí nội thất Văn phòng Phòng kế hoạch Phòng kinh doanh Phòng tài chính kế toán Phòng ISO Phòng kỹ thuât công nghệ Phó GĐ đời sống Trợ lý giám đốc Các phòng ban của công ty vànhững nhiệm vụ các phòng ban của công ty: - Ban giám đốc: + Giám đốc: Ông Phan Văn Tô, là người có quyền điều hành cao nhất trong công ty, chịu trách nhiệm với tổng công ty và nhà nước về mọi hoạt động của công ty mình. Giúp việc cho giám đốc có hai phó giám đốc và một trợ lý giám đốc + Phó giám đốc kỹ thuật: Có nhiệm vụ quản lý về mặt kỹ thuật sản xuất trong công ty, nghiên cứu các mẫu hàng về mặt kỹ thuật. + Phó giám đốc đời sống: Có nhiệm vụ quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ công nhân viên. +Trợ lý giám đốc: Có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc các kế hoạch sản xuất và tiêu thụ hàng hoá... - Các phòng ban chức năng của công ty. + Phòng kỹ thuật công nghệ: Bộ phận thiết kế sản phẩm, bộ phận giám sát kỹ thuật( CKS ). Trung tâm này có nhiệm vụ thiết kế và kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi sản phẩm hoàn thành nhập kho. + Phòng ISO: Có nhiệm vụ giám sát đôn đốc công nhân sản xuất sản phẩm theo quy cách nhất định. + Phòng kinh doanh( Phòng Marketting ) Chịu trách nhiệm về việc giới thiệu sản phẩm cũng như tổ chức các hoạt động, xúc tiến bán hàng trong và ngoài nước. + Phòng xuất nhập khẩu: Có nhiệm vụ giao dịch ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu của công._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0051.doc
Tài liệu liên quan