Tài liệu Tình hình đầu tư của Công ty tài chính Dầu Khí: ... Ebook Tình hình đầu tư của Công ty tài chính Dầu Khí
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1434 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tình hình đầu tư của Công ty tài chính Dầu Khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong tình hình hội nhập kinh tế thế giới việc ra đời các tổ chức tài chính là điều có tầm quan trong rất lớn đối với việc phát triển kinh tế của một quốc gia. Việc huy động vốn từ các đơn vị vốn nhỏ lẽ để mang lại những nguồn đầu tư lớn cho các dự án của quốc gia hay việc sử dụng các nguồn vốn lớn của các tổng công ty mạnh tham gia vào việc đầu tư cho các dự án lớn sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh.
Trong thời đại ngày nay khi các kênh huy động vốn của ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác đang đi vào hoạt động một cách quy cũ hơn và có nhiều các đơn vị mạnh đi vào hoạt động hơn sẽ là một dấu hiệu tốt cho thị trường tài chính trong nước lành mạnh và phát triển tốt. Phục vụ cho nhiệm vụ phát triển đất nước mà Đảng và nhà nước chúng ta đã đề ra.
Được thực tập tại Công ty Tài Chính Dầu Khí một trong những công ty tài chính có quy trình huy động và sử dụng các nguồn vốn rất hiệu quả. Một thượng hiệu uy tín trên thị trường tài chính cũng như đối với các nhà đầu tư tôi biết thêm nhiều kinh nghiệm bổ sung cho những kiến thức được trau dồi trong nhà trường sẽ giúp ích rất lớn lúc tôi ra trường. Trên quan điểm một nhà đầu tư Tôi đưa ra đề tài “ Tình hình đầu tư của công ty Tài Chính Dầu Khí”.
Ngoài phần mở đầu và kết luận. Chuyên đề được trình bày theo 2 chương như sau :
Chương I: Tình Hình Đầu Tư Tại công ty Tài Chính Dầu Khí
ChươngII: Một số giải pháp nhằm tăng cường đầu tư ở công ty Tài Chính Dầu Khí.
Do hạn chế về kinh nghiệm thực tế nên chắc chắn bài viết còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp các thầy cô giáo và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm!
CHƯƠNG 1
TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH DẦU KHÍ
1. Tổng quan về công ty Tài Chính Dầu Khí
1.1. Quá trình hình thành, phát triển của Công ty Tài Chính Dầu Khí
1.1.1.Giới thiệu về công ty Tài Chính Dầu Khí.
Công ty Tài Chính Dầu Khí ( Có tên viết tắt là PVFC – Petro Viet Nam Finance Company) Là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng với 100% vốn của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam ra đời với phương châm hoạt động “Vì sự phát triển vững mạnh của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam”. Công ty xác định hợp tác chặt chẽ, chân thành với các tổ chức tín dụng, các nhà đầu tư trong và ngoài nước nhằm đảm bảo nguồn vốn cho các dự án của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam - yếu tố quan trọng đầu tiên đảm bảo sự thành công của Công ty. Với tôn chỉ hoạt động:
"Tầm nhìn tăng trưởng - Cam kết vững chắc - Thành công tài chính"
Ngoài các thành bằng khen là đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hằng năm của tổng công ty, năm 2005 PVFC đã nhân được bằng khen của thủ tướng chính phủ là đơn vị có nhiều thành tích trong công tác góp phần vào sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩ Xã Hội và Bảo vệ tổ quốc, đạt Cúp vàng thương hiệu và nhân hiệu và vinh dự Nhận giải thưởng Sao Vàng Đất Việt Năm 2005 và nhiều danh hiệu danh giá khác
Xu thế hội nhập và xu thế toàn cầu hoá trên thế giới sẽ mang đến cho mọi doanh nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức. Với lòng quyết tâm, đoàn kết, trí tuệ Công ty Tài chính Dầu khí đã góp phần thực hiện thành công sứ mệnh của mình góp phần xây dựng thành công Tập đoàn Công nghiệp - Thương mại - Tài chính Dầu khí ở Việt Nam.
1.1.2.Lịch sử hình thành và phát triển công ty
Sự ra đời các công ty Tài chính trong Tập đoàn kinh doanh là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường và là bước phát triển cao hơn của Tập đoàn kinh doanh, làm tăng hiệu quả huy động vốn cho Tập đoàn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong Tập đoàn và phát huy triệt để sức mạnh của Tập đoàn trên thị trường tài chính.
Thực hiện chủ trương xây dựng Tổng công ty Dầu khí Việt nam thành tập đoàn kinh tế mạnh, bằng Quyết định số 04/2000/QĐ - VPCP, Chính phủ đã cho phép Tổng công ty Dầu khí Việt nam thành lập Công ty Tài chính Dầu khí - định chế tài chính 100% vốn của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, doanh nghiệp thành viên hạch toán kinh tế độc lập nhằm đảm bảo nhu cầu vốn tín dụng đầu tư phát triển của Tổng công ty và các đơn vị thành viên với chức năng của một tổ chức tín dụng phi Ngân hàng tại Tổng công ty Dầu khí Việt nam để thực hiện mọi dịch vụ liên quan đến việc quản lý sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn của các tổ chức tín dụng, các đơn vị, tổ chức và cá nhân trong Tổng công ty trên nguyên tắc sinh lời. Với mục đích nói trên, 19/6/2000: Bằng quyết định số 903/QĐ - HĐQT của Hội đồng quản trị Tổng công ty Dầu khí Việt nam, Công ty Tài chính Dầu khí được chính thức thành lập.
5/2/2001: Lễ khai trương Công ty Tài chính Dầu khí đã được Tổng công ty Dầu khí Việt nam tổ chức trọng thể tại Hà Nội đánh dấu sự hội nhập chính thức của Công ty vào cộng đồng các đơn vị trong Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, vào cộng đồng các định chế tài chính trong nước và quốc tế. Phương châm của mọi hạnh động của PVFC là: "Vì sự phát triển vững mạnh của tập đoàn Dầu khí Việt Nam"
1.1.3.Các lĩnh vực kinh doanh:
1.1.3.1.Dịch vụ đầu tư:
Gồm dịch vụ đâu tư cho cá nhân, dịch vụ đầu tư cho tổ chức nhà đầu tư có quyền chọn một trong hai hình thức là uỷ thác đầu tư và môi giới đầu tư
1.1.3.2. Hợp tác đầu tư:
Là Một trong những lĩnh vực hoạt động chủ đạo của PVFC từ những ngày đầu hoạt động. PVFC luôn chú trọng mở rộng các hoạt động hợp tác của mình trong nhiều lĩnh vực, các lĩnh vực hợp tác đó là:
- Hợp tác đầu tư dự án- Kinh doanh cổ phiếu và Chứng từ có giá
1.1.3.3. Hoạt động thu xếp vốn:
Đảm bảo thu xếp vốn tín dụng cho tất cả các dự án đầu tư của ngành Dầu khí và các đơn vị cùng ngành kinh tế kỹ thuật với các điều kiện tối ưu nhất. Là hoạt động được coi là nhiệm cụ trong tâm của Công ty tại thời điểm hiện tại
1.1.3.4.Dịch vụ, tín dụng cá nhân:
Tạo ra cơ hội tốt nhất cho mọi nhu cầu tham gia đầu tư vào ngành Dầu khí” Các dịch vụ bao gồm: - Huy động vốn cá nhân bằng hình thức tiền gửi hoặc uỷ thác
- Hình thức tín dụng cá nhân bằng cách vay vốn
1.1.3.5.Thu xếp vốn và tín dụng doanh nghiệp:
Gồm có bảo lãnh; Bao thanh toán;Thu xếp vốn; Tín dụng cho doanh nghiệp
1.1.3.6.Dịch vụ tài chính:
Gồm Huy động vốn uỷ thác; Tư vấn tiền gửi; Thẩm định và tái thẩm định; tư vấn tài chính; Tư vấn cổ phần hoáMục tiêu của PVFC là phát triển hoạt động dịch vụ tài chính thành hoạt động cao cấp và đặc trưng của PVFC
1.1.4. Các lĩnh vực đầu tư của công ty:
Trong giai đoạn phát triển 5 năm, các lĩnh vực đầu tư của PVFC đã định hình và ngày càng đa dạng. Hoạt động đầu tư dần đi vào bài bản và được thực hiện theo quy trình, quy chế đối với từng lĩnh vực đầu tư. Tính đến thời điểm hiện tại, hoạt động đầu tư của PVFC bao gồm:
Đầu tư dự án:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Thành lập Công ty cổ phần
Đầu tư Chứng từ có giá:
Trái phiếu chính phủ
Trái phiếu Doanh nghiệp và CTCG khác
Đầu tư cổ phần:
Đầu tư cổ phần với tư cách nhà đầu tư chiến lược
Mua cổ phần trên thị trường OTC
Mua qua đấu giá
Các lĩnh vực ưu tiên đầu tư của PVFC:
+ Dầu khí: Là một đơn vị trong ngành Dầu khí, PVFC luôn dành quyền ưu tiên đầu tư vào các dự án trong ngành Dầu khí, các dự án đầu tư phát triển các sản phẩm dịch vụ của ngành Dầu khí.
+ Năng lượng: Ngoài ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực Dầu khí, PVFC còn đa dạng hoá hoạt động đầu tư của mình vào các lĩnh vực cùng ngành kinh tế kỹ thuật khác. mong muốn được hợp tác với các đối tác để thực hiện các dự án trong lĩnh vực năng lượng.
+ Du lịch cao cấp: Trong chiến lược đầu tư của mình, PVFC luôn mong muốn được tham gia đầu tư vào các dự án du lịch có hiệu quả đầu tư cao.
1.1.5.Mạng lưới của PVFC
Tính đến thời điểm hiện nay PVFC có Chi nhánh đã đi vào hoạt động là:
+ Chi nhánh tại Hà Nội: gồm có một trụ sở chính và các phòng giao dịch số 10,11,12
+ Chi nhánh Tp.Hồ Chí Minh: Gồm một trụ sở chính và phòng giao dịch số 20
+ Chi nhánh Vũng Tàu: Gồm một trụ sở chính và phòng giao dịch số 30.
+ Chi nhánh Đà Nẵng: Gồm một trụ giao dịch.
+ Chi nhánh Hải Phòng ( Chi nhánh mới thành lập)
Hiện tại để đáp ứng nhu cầu của mình PVFC đang có kế hoạch mở chi nhanh trên rất nhiều địa phương như: Cần Thơ, Quy Nhơn, Nghệ An….
Hoạt động của các chi nhánh: Thông tin , quảng bá, nghiên cứu thị trường, tìm kiếm và tìm cơ hội kinh .
Thông báo chỉ dẫn khách hàng về hoạt động của công ty .
Thực hiện thông tin liên lạc trong công ty và với các thành viên của Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam.
Làm đầu mối liên hệ và giao dịch của khách hàng cho công ty.
Đón tiếp, bố trí cơ sở sinh hoạt cho các đoàn công tác tại các chi nhánh
Thực hiện các nhiệm vụ khác do giám đốc.
Với các hoạt động của các chi nhánh là tổ chức các nghiệp vụ về giao dịch, tín dụng, Đầu tư. Các chi nhánh là đầu mối quan trọng của công ty trong việc Thực hiện lĩnh vực kinh doanh tài chính của PVFC. Với các chi nhánh giao dịch của mình PVFC đã giúp cho khách hàng cũng như công ty có thể giao dịch dễ dàng trên phạm vi cả nước.
2.Thực trạng đầu tư tại công ty.
2.1.Tổng quản nguồn hình thành vốn đầu tư của công ty.
Nguồn vốn của PVFC bao gồm Vốn Điều lệ, Vốn huy động, vốn uỷ thác, vốn tự bổ sung.
2.1.1.Vốn điều lệ.
Vốn điều lệ của PVFC do Tập đoàn Dầu Khí Việt Nam cấp 100%
(Trước đây là Tổng công ty Dầu Khí Việt Nam). Tại thời điểm thành lập vốn điều lệ của PVFC là 100 tỷ đồng. Số vốn này ngoài mục đích kinh doanh, PVFC được sử dụng để mua sắm TSCĐ và các phương tiện trực tiếp phục vụ kinh doanh theo các quy định của Tổng công ty nhưng không vượt quá 25% vốn điều lệ của PVFC, không sử dụng vốn điều lệ để chia lợi tức, trích lập các quỹ phúc lợi dưới bất kỳ kình thức nào. Việc tăng, giảm vốn điều lệ của PVFC do hội đồng quản trị TCT Dầu Khí quyết định và được thống đốc ngân hàng nhà nước chấp nhận bằng văn bản.
Tháng 5.2006 Bằng quyết định số 1999/QĐ-DKVN của Tổng công ty Dầu Khí Việt Nam và việc thông qua của NHNN về việc cấp bổ sung vốn điều lệ cho PVFC và tăng vốn điều lệ lên 1000 tỷ đồng.
Trong năm tài chính 2007 Công ty Tài Chính Dầu Khí được chấp thuận tăng vốn điều lệ từ 1.000 tỷ lên 3.000 Tỷ trong quyết định số 385/QĐ-NHNN 14/02/2007 Do trong Năm 2006, PVFC đã đạt một kết quả hết sức ấn tượng. Quy mô hoạt động của Công ty đã gia tăng đáng kể, trong đó tổng giá trị tài sản đạt 17.730 tỷ đồng, doanh thu đạt 1.016 tỷ đồng, lợi nhuận đạt trên 128 tỷ đồng. Với kết quả này, PVFC đã chính thức đứng trong hàng ngũ các doanh nghiệp có doanh thu 1.000 tỷ đồng.
Theo PVFC, cùng với vốn điều lệ tăng lên 3.000 tỷ đồng, những kết quả khả quan trong năm 2006 sẽ là tiền đề để PVFC đạt được những kết quả cao hơn trong năm 2007: tổng tài sản đạt 40.000 tỷ đồng, số dư huy động cuối kỳ đạt 37.000 tỷ đồng, số dư cho vay cuối kỳ 12.000 tỷ đồng, doanh thu 2.660 tỷ đồng, lợi nhuận 400 tỷ đồng. Và cũng theo PVFC thì cuối năm 2007 với sự đồng ý của Tập đoàn Dầu Khí Việt Nam cũng như sự thống nhất của Thống đốc ngân hàng nhà nước sẽ tăng vốn điều lệ lên 5000 tỷ đồng. ( Mức vốn điều lệ mà kế hoạch trước đây là 2010 mới đạt được)
2.1.2. Vốn huy động.
Vốn huy động của PVFC chỉ được sử dụng để cho vay, kinh doanh dịch vụ được phép, không được sư dụng vốn hùn vốn, mua cổ phần hoặc mua sắm tài sản cố định cho mình.
- Các kênh huy động của PVFC:
+ Nhận tiền gửi có kỳ hạn một năm trở lên của tập đoàn Dầu Khí Việt Nam, các đơn vị thành viên, các tổ chức cá nhân theo quy định của pháp luật. Lãi suất tiền gửi kỳ hạn, lãi suất rút trước và lãi suất cho số dư gốc còn lại khi rút một phần do PVFC và khách hàng thoả thuận trong hợp đồng tiền gửi kỳ hạn.
+ Phát hành kì phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các chứng từ có giá trị khác để huy động vốn của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
+ Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước, ngoài nước và các tổ chức tài chính quốc tế. cho đến Hiện nay PVFC đã có quan hệ với rất nhiều tổ chức tín dụng trong và ngoài nước như: CITI BANK, BIDV, AZN, ABN, ICB, AMBRO BANK, BẢO VIỆT, HAMU BANK…v…v
+ Huy động từ công tác tiết kiệm: PVFC đã xây dựng và ban hành thể lệ tiết kiệm dầu khí, đào tạo cán bộ làm công tác tiết kiệm, mở nhiều quỹ tiết kiệm ở Hà Nội, Vũng Tàu, Đà Nẵng, TP HCM, Hải Phòng
2.1.3. Vốn uỷ thác:
Đây là vốn mà bên uỷ thác cho PVFC quản lý, đầu tư theo các dự án của tập đoàn Dầu Khí, các đơn vị thành viên hoặc các dự án của bên uỷ thác đầu tư. Nếu như trước đây nguồn vốn ủy thác chủ yếu là từ tổng công ty hoặc các đơn vị thành viên thì hiện nay có rất nhiều nguồn ủy thác từ các tổ chức tài chính, doanh nghiệp ủy thác để đầu tư trong đó một sản phẩm mà PVFC rất thành công trong giai đoạn vừa qua là nguồn vốn ủy thác do các cá nhân ( chủ yếu là ủy thác đầu tư chứng khoán). Và nếu như trước đây chủ yếu là ủy thác để đầu tư các dự án trong ngành Dầu Khí thì hiện nay việc ủy thác đã được đầu tư ra nhiều lĩnh vực hơn ngoài lĩnh vực và ngoài các thành viên của Dầu khí.
2.1.4. Vốn tự bổ sung:
Đây là lượng vốn hình thành trong qua trình hoạt động kinh doanh của PVFC và được sử dụng như vốn điều lệ. Đây là nguồn vốn không lớn so với lượng vốn mà PVFC có được song nó rất quan trọng trong việc đánh giá hoạt động hiệu quả của PVFC trong những năm qua vì vốn tự bổ sung được lấy từ lợi nhuận kinh doanh hằng năm của công ty. Các năm vừa qua nguồn vốn này tăng thường xuyên
Tổng hợp sau về nguồn vốn của PVFC trong những năm qua như sau:
Bảng 1: Nguồn vốn đầu tư của công ty giai đoạn 2001- 2006
Đơn vị:Tỷ đồng
Stt
Nguồn vốn
2001
2002
2003
2004
2005
2006
1
Vốn điều lệ
100
100
200
200
300
1000
2
Vốn Huy động
255.7
1120
2000
3000
7568
10489
3
Vốn uỷ thác
92.3
852.9
1426.5
2156.8
5895
7689
4
Vốn tự bổ sung
5
9
15
17
23
30
Tổng
453
2081.9
3641.5
5373.8
13786
19208
Nguồn : Phòng đâu tư PVFC
Qua bảng trên cho ta thấy sự tăng trưởng về vốn trong những năm qua số vốn của công ty không ngừng được tăng lên rất nhanh trong những năm vừa qua đặc biệt trong 2 năm 2005,2006 sở dĩ có được điều này là do các gói sản phẩm của PVFC đưa ra ngày càng đa dạng và có nhiều hấp dẫn. Với các gói sản phẩm về huy động vốn thì với lãi suất hết sức hấp dẫn và trong năm 2005 công ty còn đưa ra gói ủy thác cá nhân ( Đây là công ty đầu tiên nhận ủy thác cá nhân trên thị trường Việt Nam) Chính vì vậy việc thu hút nguồn vốn đã có những đợt tăng đáng kể.
Sau 6 năm đi vào hoạt động số vốn điều lệ tăng lên gấp 10 lần, số vốn huy động tăng hơn 41 lần. số vốn ủy thác tăng 83 lần và số vốn tự bổ sung tăng gấp 6 lần. nhìn vào biểu đồ trên cho ta dễ dàng thấy được sự tăng trưởng này của đồng vốn.
Tốc độ tăng của các nguồn vốn trong những năm qua như sau:
Bảng 2: Tốc độ tăng của các nguồn vốn PVFC giai đoạn 2001-2006
đơn vị: %
2001
2002
2003
2004
2005
2006
1
Tăng định gốc
Vốn điều lệ
-
0
100
100
200
900
Vốn huy động
-
338
682
1855
2860
4002
Nguồn ủy thác
-
820
1446
2237
6286
8230
Vốn tự bổ sung
-
80
200
240
360
500
2
Tăng liên hoàn
Vốn điều lệ
-
0
50
0
50
233
Vốn huy động
-
338
79
50
152
39
Nguồn ủy thác
-
824
67
51
173
30
Vốn tự bổ sung
-
80
67
13
35
30
Với việc đánh giá chỉ tiêu tăng định gốc và tăng liên hoàn cho ta thấy được việc tăng vốn trong mỗi giai năm so với năm gốc (2001) và so với năm trước đó .Qua bảng số liệu về tính tốc độ tăng trưởng trên cho ta thấy về tốc độ tăng qua các năm của các nguồn vốn. Trong các nguồn vốn trên có một lượng vốn luôn có được mức tăng mạnh kể cả tăng định gốc cũng như tăng liên hoàn đó là vốn huy động. mức vốn uỷ thác thì tăng mạnh so với năm gốc vì ở thời điểm 2005, 2006 lượng vốn ủy thác khá lớn và nếu đem so với năm gốc thì tại năm gốc số vốn ủy thác nhận được là không lớn. Tốc độ tăng liên hoàn của nguồn ủy thác năm 2005 cũng tăng nhanh là do có một sản phẩm mới của PVFC thu hút được khá đông lượng khách hàng tham gia đó là uỷ thác cá nhân cùng với sự bùng nổ của thị trường chứng của năm 2006 với lợi thế của PVFC về lượng vốn cũng như mối quan hệ với các công ty trong ngành dầu khí và các công ty lớn cũng là nguyên nhân khiến cho uỷ thác đầu tư cá nhân của PVFC rất hấp dẫn trên thị trường.
Vốn huy động là một nguồn vốn đóng vai trò lớn trong nguồn vốn của công ty và nó có nhịp độ tăng khá đều qua các năm nếu xét tốc độ tăng định gốc. Thu hút vốn từ nguồn huy động có một phần rất lớn là huy động từ các nguồn để nhằm mục đích thu xếp đủ vốn cho các dự án – yêu cầu chính của PV đối với PVFC.
Vốn điều lệ cũng là nguồn vốn quan trọng song các bước tăng vốn của nó phụ thuộc vào sự đồng ý của Tổng công ty Cũng như quyết định của Thống đốc ngân hàng nhà nước chính vì vậy cho nên mức tăng không có sự đột biến . Tuy vậy so với các công ty tài chính khác thì mức tăng vốn điều lệ của PVFC cũng là những con số đáng nể.
Ta có thể xem xét thêm cơ cấu của nguồn vốn tại hai thời điểm là lúc bắt đầu thành lập và tại thời điểm năm 2006
Theo bảng về cơ cấu trên cũng cho ta thấy sự thay đổi rõ rệt từ khi thành lập đến nay. Số vốn huy dộng luôn chiếm một tỷ trọng lớn tại thời điểm năm 2001 thì nó chiếm 57% phần vốn chủ yếu trong nguồn vốn đến năm 2006 thì nguồn vốn từ huy động chiếm 55% tổng nguồn vốn. Nguồn vốn uỷ thác tại thời điểm năm 2001 chỉ chiếm 20% thì tại thời điểm 2006 chiếm đến 40% lượng vốn. trong đó có một lượng lớn vốn uỷ thác đầu tư đến từ tổng công ty cung như các đơn vị thuộc ngành dầu khí. Lượng vốn điều lệ là một nguồn vốn quan trọng song đến 2006 thì nó chỉ chiếm và lượng vốn bổ sung vào nguồn vốn tại thời điểm 2006 là coi như không đang kể so với tổng lượng vốn.
Để hiểu rõ hơn việc huy động vốn cũng như các nguồn uỷ thác của công ty. Ngoài các mối quan hệ uỷ thác có sẵn hoặc động vốn có sẵn của công ty với các thành viên trong tổng công ty Dầu khí thì một nguồn rất quan trọng nữa là các chi nhánh hoạt động rất hiệu quả trong thời gian qua. Các chi nhánh hoạt động tốt trong những năm qua:
+ Chi nhánh HCM: Tổng tài sản của chi nhánh tại thời điểm cuối năm 2006 là 5.465,39 tỷ đồng, tăng so với cuối năm 2005. Trong đó, số dự tiền gửi đạt khoảng 3.146 tỷ đồng tăng 294.8% so với năm trước. Tuy nhiên vào thời điểm cuối năm 2006, Số dư gửi tiền giảm 1.310 tỷ so với số dư tại thời điểm cao nhất (4.457 tỷ đồng) Tổng sô dư cho vay đạt 1.252 tỷ, tăng gần gấp đôi năm ngoái và chiếm 23% tổng tài sản có. Số dự cho vay tăng mạnh chủ yếu là do giải ngân cho vay tổ chức và cho vay cá nhân.
- Chi nhánh Vũng Tàu: Các chỉ tiêu doanh thu, lãi gộp của chi nhánh Vũng Tàu đều hoàn thành vượt mức kế hoạch năm đề ra, trong đó tổng doanh thu đạt 96,6 tỷ chiếm 11,8% (Chủ yếu đạt đựoc từ doanh thu nội bộ nguồn nhận ủy thác bằng USD của VSP, Ủy Thác của Đạm Phú Mỹ và số đầu tư cổ phần là 68 tỷ, doanh thu thực tế đạt 30tỷ đồng chiếm 31% tổng doanh thu trong năm từ hoạt động cho vay cá nhân và cho vay tổ chức kinh tế) Lợi nhuận đạt 18,4 tỷ chiếm 165,2%.
về mảng huy động : Số dư huy động cuối tháng 12.2006 đạt 3.054 tỷ đồng, giảm so với tháng 11do trong tháng đến hạn uỷ thác của VSP 10 triệu USD, đến 31/12/2006 nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế giảm đáng kể do đến hạn khoản 20 tỷ của công ty đạm và hoá chất dầu khí, 70 triệu USD từ VSP, 145 tỷ từ ngân hàng ANZ.
Về sử dụng vốn: Dư nợ cho vay cá nhân cuối kỳ đạt 67 tỷ, dự nợ cho vạy tổ chức kinh tế là 69.4 tỷ. Đến 31/12/2006 tăng dự nợ cho vay các tổ chức kinh tế lên 110 tỷ đồng do giải ngân các khách hàng mới. Như vậy tổng quát cả năm 2006 tổng nguồn vốn chi nhánh huy động về tương đối lớn. Hiện chi nhánh mới sử dụng được 25.3%nguồn vốn huy động về
Chi nhánh Đà Nẵng: Hoạt động kinh doanh triển khai chủ yếu tại chi nhánh là cho vay cá nhân, uỷ thác quản lý vốn từ các Tổ chức kinh tế và đầu tư chứng khoán. Về hoạt động sử dụng vốn số dư đến cuối tháng 12/2006 vẫn không có sự biến đổi so với cùng kỳ tháng 11 là 22.3 tỷ đồng, trong đó cho vay cá nhân là 1.5 tỷ đồng và cho vay doanh nghiệp là 20.8 tỷ ( Do điều chuyển nợ của công ty Biển Tiên Sa 17.5 tỷ và trong tháng giải ngân 3.3 tỷ cho công ty Du lịch Cố Đô Huế). Về hoạt động huy động vốn: Trong năm chi nhánh đã huy động được từ công ty phân đạm và hoá chất Dầu khí 50tỷ và từ công ty TNHH du lịch và dịch vụ Hoàng Sa là 1.3 tỷ làm tăng tổng nguồn huy động lên 51.3 tỷ. Về hoạt động đầu tư: Chi nhánh thực hiện đầu tư mua cổ phần của công ty PTSC, Công ty xây lắp điện 3, Công ty cao su đồng khánh và một số công ty khác với tổng giá trị đầu tư lên đến 76.4 tỷ ( trong đó bao gồm 10tỷ trái phiếu Vinashin). Do chi nhánh mới được được thành lập nên hầu hết các chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận năm 2006 đều không hoàn thành kế hoạch công ty đề ra cụ thể: Doanh thu đạt 18.9% và lãi gộp đạt 11.9% kế hoạch đề ra. Tổng chi phí hoạt động của chi nhánh đến 22/12/2006 là 918 triệu đồng.
Nói tóm lại với các hoạt động của chi nhánh khá hiệu quả trong thời gian vừa qua đó chính là cơ sở của các nguồn vốn cho PVFC và cũng chính các hoạt động đầu tư hiệu quả của các chi nhánh chính là thương hiệu của PVFC được khẳng định rõ hơn trong các tỉnh để từ đó các nhà đầu tư, các nhà uỷ thác, các cá nhân hay tổ chức muốn gửi tiền sẽ chọn đến PVFC như một địa chỉ đáng tin cậy.
2.2.Tình hình thực hiện vốn đầu tư qua các năm
2.2.1.Tình hình chung:
Được chính thức thành lập từ ngày 19/6/2000, chính thức khai trương và đi vào hoạt động 5/2/2001. Những năm đầu đi vào hoạt động tổng số vốn dành cho đầu tư rất ít vì tổng số vốn của công ty cũng không thật nhiều và những hoạt động đầu tiên bao giờ cũng đòi hỏi sự cẩn trọng cao. Đến năm 2006 số vốn dành cho đầu tư đã lên đến hơn 1.679 tỷ đây là một kết quả rất ngoạn mục. một thay đổi lớn cho toàn bộ công ty. Khoác hẳn bộ áo mới cho PVFC một thương hiệu mạnh, uy tín trên thị trường tài chính. Với đặc thù là một tổ chức Tài chính phi ngân hàng hoạt động đầu tư cũng là một trong những thế mạnh của PVFC. Trong những năm qua, PVFC đã hợp tác chặt chẽ với các đơn vị trong ngành Dầu khí và một số đối tác lớn ngoài ngành như Tổng công ty Xây dựng Sông Đà, Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 5 (CIENCO 5), Tổng công ty Xây dựng Nhà Hà Nội (HUD), Công ty Xây dựng và đầu tư Việt Nam (CAVICO.VN)… để cùng hợp tác đầu tư trên nhiều lĩnh vực như Dầu khí, Thuỷ điện, xây lắp, đầu tư khu du lịch sinh thái. Với các dự án, bỏ vốn kinh doanh, mua bán cổ phần v..v . PVFC đã và đang tham gia nhiều dự án lớn trong nhiều lĩnh vực như:
- Các dự án trong ngành Dầu khí:
+ Dự án đầu tư sản xuất nhà máy vỏ bình khí.
+ Hợp đồng hợp tác đầu tư và kinh doanh tàu FPSO.
- Các dự án phát triển và phân phối sản phẩm, dịch vụ của ngành Dầu khí:
+ Dự án “Hệ thống mạng phân phối Gas khu đô thị mới Mỹ Đình II”.
+ Dự án “Hệ thống mạng phân phối Gas khu đô thị mới Mỹ Đình I”.
- Lĩnh vực Năng lượng:
+ Dự án Thuỷ điện An Điềm II.
- Lĩnh vực đầu tư hạ tầng đô thị và khu công nghiệp:
+ Dự án Khu đô thị mới Nghi phú – Vinh – Nghệ An.
- Lĩnh vực kinh tế môi trường:
+ Dự án Nhà máy xử lý chất thải rắn và sản xuất phân hữu cơ Bỉm Sơn.
- Lĩnh vực Vật liệu xây dựng:
+ Dự án nhà máy xi măng Mỹ Đức – Hà Tây.
+ Dự án nhà máy xi măng Thanh Liêm – Hà Nam.
- Các công ty cổ phần PVFC đã tham gia góp vốn:
+ Công ty Cổ phần Dầu khí Sông Hồng.
+ Công ty Cổ phần xây dựng và đầu tư Việt nam (CAVICO)
- Hàng trăm loại cô phiếu, trái phiếu và chứng từ có giá khác
Các đơn vị đang chuẩn bị cổ phần hoá, các đơn vị đã cổ phần hoá và sẽ phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ…. Cổ phần bán ra của các đơn vị sẽ được nghiên cứu đầu tư.Cũng như các loại CTCG trên thị trường thường rất đa dạng, PVFC sẽ tìm kiếm thông tin và mua của các tổ chức phát hành đáng tin cậy.
Với các hoạt động đầu tư của mình PVFC đã thực sự tham gia sâu rộng vào thị trường đầu tư một cách mạnh mẽ. Cho thấy sự lớn mạnh của PVFC trong lĩnh vực tài chính nói chung và lĩnh vực đầu tư nói riêng.
Trong những năm vừa qua ngoài tình hình đầu tư do chính số vốn mà PVFC đem đi đầu tư còn một phần vốn mà PVFC dàn xếp cho các dự án thực tế được coi là nguồn vốn của PVFC nhưng lại không được coi là số vốn của PVFC vì trên thực tế PVFC chỉ đứng làm trung gian sắp xếp, huy động vốn và việc quan lý dự án và lợi ích đầu tư từ các dự án đó PVFC lại không được hưởng chính vì vậy với một lượng vốn lớn được coi là huy động được của PVFC nhưng thực chất lượng vốn PVFC được phép chính thức đầu tư và lợi nhuận của các dự án đưa lại cho mình là rất nhỏ so với số vốn mà PVFC huy động được. Chính vì vậy ta không xét các dự án mà PVFC đã thu xếp vốn.
Bảng 3: Tình hình Thực hiện vốn đầu tư của công ty giai đoạn 2001 - 2006
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Tổng VĐT
9
14,01
16
16,10
136,25
1.679,71
Tốc độ tăng định gốc
0
55,67
77,78
78,89
1413,9
18563,4
Tốc độ tăng liên hoàn
100
55,67
14,20
0,63
746,30
1132,78
Nguồn:phòng đầu tư PVFC
Dựa vào bảng và biểu đồ minh họa ta dễ dàng thấy được trong giai đoạn 2001-2006 tốc độ tăng định gốc của tổng vốn dầu tư tăng khá đều và đến thời điểm 2006 số vốn đã tăng gần 1.680% so với mốc ban đầu. Tuy nhiên Tốc độ tăng liên hoàn lại giảm trong giai đoạn 2001-2004 và có sự tăng mạnh mẽ trở lại trong 2 năm gần đây là 2005 và 2006. Tổng vốn đầu tư thực hiện qua các năm trong những năm 2001 đến năm 2004 chỉ có tổng là 55,11 tỷ đồng đây là giai đoạn công ty vừa mới thành lập còn cẩn trong với các dự án đầu tư của mình và cũng như có những khó khăn nhất định về mặt tài chính lúc mới ra đời trong 55,11 tỷ VNĐ thì đầu tư tàu FPSO đã chiếm tới 23,73 tỷ VNĐ. Trong cả năm 2005 không có dự án nào được đầu tư thêm nhưng cũng Từ năm 2005 do có thêm nguồn vốn ủy thác đã làm cho PVFC có nhiều hơn lượng vốn trong tay để thực hiện công cuộc đầu tư của mình đây cũng là cách để giải quyết cho việc hạn chế về số lượng vốn được góp của công ty đối với các dự án và đầu tư cổ phần năm 2005 số vốn đầu tư tăng lên là 136,2536 tỷ tăng 127,2536 tỷ đồng với thời điểm 2001 và tăng 120,1536tỷ so với năm 2004 tăng gần 8,5 lần so với năm 2004 đây là một con số nhảy vọt và cho ta thấy sự hấp dẫn của đầu tư tài chính đối với các nhà đầu tư tư nhân và các công ty khi mở cửa thị trường tài chính hơn bằng biện pháp cho phép ủy thác vốn đầu tư đi kèm với vốn đầu tư của công ty . Năm 2006 hoạt đông đầu tư đã trở nên sôi động hẳn với giá trị đầu tư tính đến thời điểm cuối 2006 là 1.679 tỷ VNĐ tăng gần 1671tỷ so với năm 2001 và tăng 1543,4539 tỷ so với năm 2005 tăng hơn 13.3 lần so với năm 2005. sự sôi động hẳn này trên thị trường tài chính năm 2006 có thể giải thích được bằng số vốn đầu tư dành cho thị trường chứng khoán năm 2006 vượt trội hẳn so với các năm trước đó. Tài chính Dầu Khí đã huy động các nguồn lực bên ngoài rất lớn cộng với số vốn được ủy thác tài chính Dầu Khí đã chọn đầu tư vào cổ phiếu của các công ty làm trọng tâm đầu tư năm 2006 và đến hiện nay cũng gặt hái được không ít thành công năm 2006 đặt một dầu mốc quan trọng khi vào thời điểm cuối năm 2006 Tài Chính Dầu Khí đạt doanh thu 1016 tỷ chính thức gia nhập vào đội hình doanh nghiệp có doanh thu mỗi năm hơn 1000 tỷ.
Tổng lượng vốn đầu tư xét trên tổng nguồn vốn của công ty:
Bảng 4: Tỷ lệ vốn đầu tư PVFCso với tổng vốn và nguồn vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Tổng Vốn
453
2081.9
3641.5
5373.8
13786
19208
Vốn đầu tư
9
14.01
16
16.10
136.25
1679.71
% Vốn đầu tư/ Tổng vốn
2
0.67
0.44
0.30
0.99
8.75
% Vốn đầu tư /Vốn chủ sở hữu
9
14.01
8
8.05
45
168
Qua bảng trên cho ta ngay một nhận xét rằng số vốn dành cho hoạt động đầu tư trên tổng số vốn không phải là lớn tỷ lệ lớn nhất năm 2006 là 8.75%. mức thấp nhát là 0.30% của năm 2004 với một vài lý do chính là khó giải ngân và tình hình đầu tư khó khăn trong các dự án đang mắc phải mức vốn dành cho đầu tư các dự án trong giai đoạn này cũng giảm còn khoảng 5tỷ ( năm 2003 là 9tỷ và 2005 là 12tỷ ) Với tỷ lệ so với tổng vốn huy động được như vậy không phải là lớn nhưng cũng không nhỏ lý do:
thứ nhất: Là trong ngành ngân hàng tài chính vì theo quy định chỉ được đem một lượng tiền nhất định đi đầu tư mà không được sử dụng một tỷ lệ lớn đi đầu tư.
Lý do thứ 2: Nguồn vốn mà PVFC có được có một phần lớn là nguồn vốn huy động với nguồn vốn này thì không được đem đi đầu tư theo quy định như trên phần nguồn vốn đề cập.
Lý do thư 3: Mục đích là thu xếp nguồn vốn cho các dự án, các dự án do PVFC dàn xếp vốn lớn hơn rất nhiều so với các dự án mà do chính PVFC đứng ra đầu tư. Các dự án mà PVFC không được coi là nhà đầu tư mà chỉ được coi là người đứng giữa thu xếp vốn cho các dựa án tuy nhiên nguồn vốn này vẫn được công ty coi là nguồn vốn của công ty.
Chính vì vậy tỷ lệ đầu tư khá thấp so với tổng nguồn vốn. Tuy vậy xét trên tổng thể năm 2006 vẫn có tỷ lệ vốn được dành cho đầu tư là cao nhất do năm 2006 số vốn được uỷ thác đầu tư chứng khoán rất lớn việc uỷ thác này vẫn được coi là đầu tư của công ty vì nhiều nguồn vốn được uỷ thác toàn quyền cho công ty và lấy một tỷ lệ lãi nhất định. Năm 2006 có nhiều nguồn vốn được uỷ thác trực tiếp từ phía tổng công ty và coi như đó là nguồn đầu tư của PVFC tỷ lệ 168% so với vốn chủ sở hữu đây là tỷ lệ vượt quá rất nhiều so với hạn mức được đầu tư của công ty là không vuợt quá 40% vốn điều lệ. có được một mức đầu tư cao như vậy là nhờ vào sự linh động trong chính sách đầu tư xin cho phép được sử dụng nguồn vốn của tổng công ty vào nhiệm vụ đầu tư đối với các dự án tin chắc đưa lại lợi nhuận và sự nhanh nhạy của cán bộ đầu tư vì vậy tỉ lệ đầu tư đã vựơt quá 40% - Mức quy định được phép đầu tư với số vốn của công ty
Nếu xét trên nguồn vốn chủ sở hữu thì lại khác hẳn. Tỷ lệ đầu tư của PVFC là rất lớn những năm đầu các dự án còn được đầu tư dè dặt mà chủ yếu vốn chủ sở điều lệ được dùng để mua sắm các thiết bị và đầu tư vào các tài sản cố định khác. Các năm 2005 vốn dành cho đầu tư tăng lên rất nhanh và đặc biệt là năm 2006 vượt qua cả mức vốn điều lệ của công ty.
Nếu xét thêm về các dự án mà PVFC dàn xếp vốn thành công nếu coi các việc đầu tư của PVFC bao gồm cả các dự án mà PVFC dàn xếp được thì ta có các vốn đầu tư trong những năm qua như sau:
Bảng 5: Tỷ lệ vốn đầu tư chung trên tổng mức vốn giai đoạn 2001-2006
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Tổng Vốn
453
2081.9
3641.5
5373.8
13786
19208
Vốn đầu tư
35
157
256
923
1327
2610
% Vốn đầu tư/ Tổng vốn
7.73
7.54
7.03
17.17
9.63
13.59
Theo mức đầu tư của PVFC nếu coi các dự án mà PVFC tham gia giàn xếp được vốn thì mức tăng trưởng qua các năm là khá cao và khá đều. Tỷ lệ tổng vốn đầu tư trên nguồn ốn là khá lớn tỷ lệ này tăng cũng không đều theo cá năm riêng năm 2004 tỷ lệ đầu tư tăng lên hẳn do các dự án của ngành Dầu Khí tăng lên khá nhiều và các dự án mà PVFC dàn xếp được vốn tăng lên. Sau đó tỷ lệ giảm xuông 9.63% và rồi thời điểm 2006 lại tăng lên 13.59% đây là một tỷ lệ khá tốt. Trong số 13.59% thì có một lượng vốn lớn được giàn xếp cho các dự án ngoài ngành ( khác với trước đó chỉ dành cho các dự án trong ngành)
Trên thực tế việc thu xếp vốn cho các dự án trên mộ._.t quan điểm của bên tiếp nhận vốn thì có thể coi là PVFC là bên cung cấp nguồn vốn và số vốn mà PVFC có được coi là nguồn của PVFC đầu tư tuy nhiên nếu xét trên quan điểm của khách hàng và đối tác đặt vốn vào PVFC thì việc thu xếp vốn này PVFC chỉ đứng giữa thu một tỷ lệ phí nhất định quy định cho ngoài ngành và trong ngành còn lợi nhuận từ các dự án này thì PVFC không được hưởng. Chính vì vậy PVFC không được coi là nhà đầu tư trong trường hợp này mà chỉ được coi là trung gian đầu tư. Chính vì vậy các chỉ tiêu của PVFC về đầu tư không đưa vốn của các dự án này coi là dự án đầu tư của mình mằc dù nguồn vốn được thu xếp vì PVFC phải chịu trách nhiệm với nguồn vốn này nên vẫn được tính vào nguồn vốn của PVFC. Các hình thức thu xếp vốn hiện nay mà PVFC đang thực hiện là:
+ Đồng tài trợ
+ PVFC cấp tín dụng trực tiếp bằng nguồn vốn của mình hoặc vốn uỷ thác của Tổng Công ty, các tổ chức tài chính tín dụng khác. + PVFC nhận uỷ thác đàm phán, ký kết các hợp đồng tín dụng với các nhà tài trợ trong và ngoài nước cho các chủ đầu tư dự án.
+ Dàn xếp thuê mua tài chính
2.2.2. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phân theo lĩnh vực đầu tư
Hiện tại căn cứ và cách chia của PVFCChúng ta có thể phân chia lĩnh vực đầu tư của PVFC ra 3 lĩnh vực :
Đầu Tư Dự án
Đầu Tư cổ phần
Đầu tư chứng từ có giá
Bảng 6: Tình hình thực hiện vốn đầu tư phân theo lĩnh vực
Đơn vị: triệu đồng
Stt
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
2006
1
Đầu tư dự án
5.800
8.449,5
9.290
5.294
12.440
19.489
2
Đầu tư cổ phần
0
0
80
120
228,6
1.390.217,5
3
Đầu tư CTCG
3.200
5.560,5
6.630
10.706
123.585
270.000
Tổng
9.000
14.010
16.000
16.100
136.253,6
1.679.706,5
Nguồn: Báo cáo đầu tư 2001 – 2006
2.2.2.1. Đầu tư dự án:
Trong những năm đầu tiên với những khó khăn ban đầu về vốn cũng nhu khó khăn nhất định về kinh nghiệm trên thị trường đầu tư dự án. chính vì vậy các dự án trong thời kỳ này chủ yếu là các dự án quy mô nhỏ (2-30 tỷ Vnd) các dự án được thực hiện là :
Dự án cung cấp LPG cho hộ sản xuất gốm bát tràng
Dự án cung cấp nước ngọt
Dự án Nước khoáng Dung Quất
Dự án về đầu mối căn cứ khí tại miền trung.
Trong những năm đầu do khó khăn về vốn nhỏ PVFC không năm vai trò chủ đạo phụ thuộc vào đối tác chính vì vậy các dự án lớn triển khai chậm. chỉ có dự án cung cấp LPG triển khai nhanh nhất trong năm 2001 và giai ngân 2 tỷ đồng. Từ năm 2002 trở đi các dự án thực hiện ngày một nhiều hơn tuy nhiên cả 3 năm 2001 đến 2003 số vốn đầu chỉ dừng lại ở con số 35.7 tỷ đồng và dự án lớn nhất mà PVFC tham gia là dự án đóng tàu FPSO với số vốn đầu tư là 23.7 tỷ.
So với lĩnh vực đầu tư cổ phần hay chứng từ có giá khác thì lĩnh vực đầu tư dự án luôn được chú trọng. các dự án lớn ban đầu của doanh nghiệp thực hiện là dự án Tàu FPSO, dự án vỏ bình khí, dự án CTCP Sông Hồng gas. Năm 2004 chỉ đầu tư vào dự án Công ty cổ phần CAVICO và năm 2005 vốn đầu tư chủ yếu là từ giải ngân vào dự án công ty cổ phần thủy điện Sông Vàng (không có dự án đầu tư mới). Năm 2006 số vốn đầu tư vào các lĩnh dự án cũng được tăng lên theo mức tăng vốn của công ty. tuy vậy đánh giá sự thành công trong đầu tư dự án rất khó vì đầu tư dự án có độ trễ của thời gian nếu coi số vốn của việc đầu tư phát huy hết ngay trong năm thì ta có thể.
Với các lĩnh vực khác trong những giai đoạn đầu việc đầu tư cho các dự án rất được chú trọng biểu hiện là số vốn đầu tư danh cho dự án bao giờ cũng lớn hơn so với số vốn dành cho đầu tư cổ phần hay CTCG. Tuy vậy từ năm 2004 có xu hướng giảm và đến năm 2005,2006 thì nhỏ hơn cả 2 lĩnh vực đầu tư còn lại. Dựa vào biểu đồ càng cho ta thấy rõ là năm 2005 và 2006 số vốn dành cho đầu tư dự án có tăng lên song so với mức tăng của đầu tư cho cổ phân và đầu tư cho chứng từ có giá thì nó nhỏ một cách tương đối. Trong những năm đầu Công ty mới đi vào hoạt động, các dự án thực hiện đầu tư là dự án ngành dầu khí như: Dự án Tàu FPSO, dự án Vỏ bình khí, dự án CTCP Sông Hồng Gas..
Các dự án hợp tác đầu tư hoặc thu xếp vốn đầu tư trong những năm qua của PVFC đã tăng đáng kể các dự án trong ngành dầu khí cũng như các dự án trong các ngành về năng lượng, môi trường. Mức tăng vốn đầu tư cho dự án được phản ảnh qua biểu đồ sau:
Qua bảng trên thấy rất rõ riêng năm 2004 số vốn đầu tư dành cho đầu tư các dự án là giảm hẳn so với các năm khác. Còn các năm trước đó thì đều có mức tăng vốn rất đều do năm 2004 chưa có dịch vụ uỷ thác đầu tư của các cá nhân. Danh mục đầu tư trong năm 2004 giảm hẳn so với các năm. Năm 2005 số dự án được uỷ thác đầu tư tăng lên nhanh do đó có được mức tăng trở lại. Năm 2006 cùng với sự phát triển của nguồn vốn PVFC đã tìm kiếm tham gia được nhiều dự án lớn. Do vậy năm 2006 cũng là một năm được coi là thành công đối với PVFC với số vốn được đầu tư gần 19,5 tỷ
2.2.2.2. Đầu tư cổ phần.
Đầu tư cô phần:
Giai đoạn 2001-2004, đối với hoạt động đầu tư cổ phần của Phòng Đầu tư chủ yếu là tìm hiểu thông tin, nghiên cứu thị trường để chuẩn bị cho hoạt động đầu tư của các năm tiếp theo. Năm 2005 GTĐT cổ phần chỉ đạt khoảng gần 100 tỷ, đến năm 2006 GTĐT đã gấp 4 lần năm trước và đạt mức tăng trưởng 308.41%. Mức gia tăng GTĐT đã tương ứng với mức tăng của vốn ĐL.
Lĩnh vực dầu khí năng lượng chiếm tỷ trọng lớn trên 65%. Trong đó riêng đối với lĩnh vực đầu tư trong ngành dầu khí ( PTSC, Petrosetco, PVD) chiếm trên 70% so với Tổng GTĐT của lĩnh vực dầu khí, năng lượng.
Đối với lĩnh vực tài chính tín dụng- bảo hiểm chiếm tỷ trọng thấp, đến năm 2006 chỉ đạt mức 7.65%. Tuy nhiên cơ cấu danh mục đối với lĩnh vực này không đa dạng chỉ tập trung vào duy nhất vào ngân hàng An Bình.
Các lĩnh vực đầu tư khác của cổ phần chủ yếu tập trung vào lĩnh vực vận tải, xây dựng và thương mại (xây lắp điện 1, điện 3, Vietfrach, XM Bút Sơn).
Hoạt động Repo:
Trong giai đọan 2001 -2006, họat động này chỉ được tiến hành với quy mô nhỏ, mang tính chất thăm dò và chủ yếu áp dụng cho trái phiếu.
REPO Cổ phiếu:
Chín tháng đầu năm 2006, hoạt động REPO cổ phiếu được triển khai khá tốt với tổng giá trị giao dịch đạt gần 538 tỷ đồng, mang lại 25 tỷ doanh thu và 695 triệu lợi nhuận. Sau khi có thông báo rộng rãi trên mạng internet về nghiệp vụ REPO lượng khách hàng đến đăng ký thực hiện nghiệp vụ đã tăng lên đáng kể, đặc biệt là khách hàng UTĐT cổ phiếu qua PVFC.
Hiện tại, nghiệp vụ REPO đang được hoàn thiện theo hướng chuyên nghiệp hoá, nhằm giảm thiểu rủi ro và các thủ tục thực hiện, tạo sự thuận lợi cho khách hàng, nâng cao uy tín của PVFC thông qua các hoạt động:
+ Danh mục REPO được cập nhật hàng Quý.
+ Đã đưa ra quy định về hạn mức giao dịch đối với một khách hàng và một loại cổ phiếu….nhằm giảm thiểu rủi ro cho PVFC.
+ Quy định rõ ràng về lãi suất, kỳ hạn REPO, giá trị REPO, các thủ tục thực hiện, các biểu mẫu (đơn đề nghị REPO, Hợp đồng .. được đăng tải trên mạng Internet)…
+ Quy định về thời gian gặp gỡ khách hàng…
REPO Trái phiếu:
Luợng trái phiếu REPO (đã và sắp đáo hạn) tương đối lớn đang tiếp tục được giao dịch tiếp:
Trái phiếu EVN: 20 tỷ (Đáo hạn 19/05/2006)
Trái phiếu NHNNPTNT: 30 tỷ (Đáo hạn 13/06/2006)
Trái phiếu HCMA0204, TP1A0205, CP4A4000 : 45 tỷ (Đáo hạn 25/07/2006)
Trái phiếu PVFC mà các Công ty chứng khoán mua của PVFC
Một số Công ty Chứng khoán có nhu cầu REPO TP thì chào PVFC với lãi suất cao, xấp xỉ mức Phòng Dòng tiền sử dụng vốn (khó khăn trong việc thương lượng lãi suất); Bên cạnh đó, Các công ty chứng khoán thường muốn làm repo với kỳ hạn dài (06 tháng hoặc 01 năm) nhưng dòng tiền của công ty không đáp ứng được các nhu cầu kỳ hạn dài với lãi suất tương ứng.
Trong năm 2006, Phòng Đầu tư đã đẩy mạnh họat động này và mở rộng sang REPO cổ phiếu, tập trung vào nhóm cổ phiếu ngân hàng và các doanh nghiệp trong ngành dầu khí. Bộ phận kinh doanh luôn bám sát nhu cầu về vốn của PVFC cũng như chủ động liên hệ với các Công ty Chứng khoán để triển khai mua bán kỳ hạn trái phiếu và các loại chứng từ có giá khác. Tính đến hết Quý III năm 2006 đã hoàn thành khá tốt các chỉ tiêu kế hoạch đặt ra với kết quả doanh thu đạt 117,87% và lợi nhuận đạt 190,25% kế hoạch được giao. Tổng giá trị giao dịch mua bán kỳ hạn trái phiếu và các loại chứng từ có giá đạt gần 538 tỷ đồng , doanh thu đạt 25 tỷ đồng, lợi nhuận đạt 3,6 tỷ đồng.
Nguồn vốn dùng cho họat động này 100% là vốn tự có. Cơ cấu danh mục phân bổ như sau:
- Nguồn vốn sử dụng Repo các công ty trong ngành Tài chính ngân Hàng chiếm 77,81 %;
- Nguồn vốn sử dụng Repo các công ty trong Ngành Dầu khí chiếm 8,7% - Nguồn vốn sử dụng Repo các công ty trong các ngành khác chiếm 13,4%.
Hoạt động kinh doanh cổ phiếu niêm yết:
Cho đến tháng 09/2006, nguồn vốn dùng cho hoạt động này là 1.4 tỷ, hoàn toàn là vốn tự có. Số vốn này dùng hoàn toàn cho hoạt động kinh doanh cổ phiếu với danh mục kinh doanh rải đều cho hầu hết các loại cổ phiếu được niêm yết trên sàn căn cứ vào sự đánh giá khả năng tăng trưởng của từng loại trong từng thời kỳ.
Hoạt động kinh doanh chứng khoán niêm yết là hoạt động đã được tiến hành ngay từ rất sớm và đến nay đã khá ổn định. Tuy nhiên qui mô hoạt động quá nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng và tỷ trọng cần có trong hoạt động kinh doanh chứng khoán ( thông thường danh mục niêm yết chiếm khoảng 20 % trong tổng danh mục của các quỹ đầu tư). Trong các năm vừa qua, bộ phận kinh doanh niêm yết đã theo sát thị trường, linh động sáng tạo trong kinh doanh nhưng và đã tạo được kỹ năng kinh doanh. Tuy vậy, kết quả kinh doanh mới đạt ở mức trung bình so với thị trường cho thất hiệu quả hoạt động chưa cao. Quy mô kinh doanh chưa có sự tăng trưởng qua các năm để theo kịp sự tăng trưởng của thị trường niêm yết. Do vậy, đây là lĩnh vực cần phải mở rộng trong thời gian tới.
Hoạt động kinh doanh OTC:
Đây là một hoạt động kinh doanh khá mới, bắt đầu được triển khai thí điểm từ giữa năm 2005 và được triển khai mạnh từ tháng 05/2006.
Toàn bộ nguồn vốn dùng cho hạt động này là từ nguồn vốn tự có của Công ty và được sử dụng hoàn toàn cho hoạt động kinh doanh cổ phiếu
Danh mục kinh doanh OTC hiện có tập trung nhiều vào các loại cổ phiếu ngành năng lượng và dầu khí. Ngoài ra phân bổ ở một số lĩnh vực khác như xây dựng, vận tải…
Tình hình hoạt trong năm 2005 và 2006 cho kết quả rất tốt chính thức được triển khai vào giữa năm 2006 nhưng hoạt động kinh doanh OTC trở nên sôi nổi thu hút được sự quan tâm lớn và cũng là nguồn lợi thu không nhỏ của PVFC trong năm 2006. Góp phần vào thành công tài chính của năm 2006
Vốn đầu tư thực hiện để đầu tư vào dự án là không ổn định qua các năm.
Kể từ khi Công ty thành lập đến nay, lãi phân chia về đến tài khoản của PVFC chỉ có dự án Tàu FPSO. Dự án này có doanh thu đều đặn và ổn định, kể từ năm 2006 hiệu quả dự án này được nâng lên rõ rệt là nguồn thu chủ yếu từ hoạt động đầu tư dự án.
Các dự án còn lại mới trong giai đoạn giải ngân, xây lắp nên chưa có doanh thu. Dự án CTCP Cavico lãi cổ tức đến nay vẫn chưa nhận được.
Doanh thu từ dịch vụ thấp, không đáng kể. chính vì những lý do trên dẫn đến đầu tư vào dự án kém hấp dẫn hơn so với các lĩnh vực khác và đặc biệt là yêu cầu quay vòng nhanh đối với đồng vốn làm cho PVFC không danh một tỷ trọng cao vào đầu tư dự án trong những năm gần đây. Bảng biểu thể hiện chỉ số đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán được thể hiện trong bảng sau:
Dựa vào biểu đồ trên như cho ta thấy rằng hoạt động đầu tư cổ phần như chỉ có năm 2006 mới thực sự có. Trên thực tế các năm trước có nhưng là không đáng kể. Số vốn mà PVFC dành cho đầu tư cổ phần là rất nhỏ so với năm 2006 do cơn sốt trên thị trường chứng khoán và số vốn của PVFC dành cho đầu tư cổ phần cũng như số vốn mà khách hang uỷ thác đầu tư năm 2006 tăng vọt đã làm nên thành tích nhảy vọt trong lĩnh vực đầu tư cô phần không những năm 2006 vốn đầu tư cổ phần tăng vọt so với các năm mà so với các lĩnh vực đầu tư khác lĩnh vực này cũng tăng vọt lên một mức kỷ lục.
2.2.2.3. Đầu tư vào lĩnh vực chứng từ có giá (CTCG)
Khác với đầu tư vào kinh doanh cổ phần. Hoạt động đầu tư vào lĩnh vực chứng từ có giá là đầu tư vào các giấy tờ, chứng từ có giá và mục đích lâu dài hơn so với kinh doanh cổ phần. Nếu một loại cổ phiếu được mua với mục tiêu chiến lược lâu dài thì theo cách sắp xếp của PVFC sẽ cho nó vào đầu tư CTCG còn nếu một cổ phiếu được đầu tư mua bán ngay trên thị trường thì được coi là đầu tư kinh doanh cổ phần. Chính vì vậy đầu tư chứng từ có giá có tầm quan sát xa hơn và chiến lược hơn phù hợp với các chính sách của công ty những năm đầu hoạt động hoạt động đầu tư hầu hết là đầu tư CTCG khác còn tổng GTĐT cổ phần bằng không. Đến năm 2004 hoạt động đầu tư cổ phần đã có bước tiến triển và năm 2005, tổng GTĐT cổ phần đã chiếm 48% trên tổng GTĐT.
Trong năm đầu giá trị đầu tư của CTCG chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với tổng vốn đầu tư. Năm 2003, giá trị đầu tư gấp 23 lần so với năm 2002, đạt mức tăng trưởng 2251.95%. Hoạt động đầu tư khởi sắc nhất vào giai đoạn năm 2005-2006. Tuy nhiên mức tăng trưởng của giá trị đầu tư chưa tương xứng với mức tăng trưởng của Vốn ĐL.
Trong những năm đầu (2001-2002) danh mục CTCG do các NHTM phát hành chiếm hầu hết. Tỷ trọng GTĐT của loại CTCG do các NHTM cổ phần phát hành giảm dần qua các năm do mức lãi suất chưa thực sự cạnh tranh.
Trái phiếu đô thị địa phương chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong danh mục đầu tư qua các năm nguyên nhân là hình thức tham gia đầu tư loại này chủ yếu thông qua hình thức đấu thầu với mức lãi suất thấp không hiệu quả.
Giai đoạn 2005-2006, PVFC mới tham gia đầu tư Trái phiếu của các Doanh nghiệp. Tuy nhiên tỷ trọng của loại trái phiếu này chiếm tỷ trọng tương đối do loại CTCG này thường có lãi suất hấp dẫn nhất so với các loại CTCG khác.
Trái phiếu Chính phủ chiếm tỷ trọng từ 14-30% trong cơ cấu danh mục đầu tư. Tuy loại trái phiếu này có mức lãi suất không hấp dẫn nhưng độ rủi ro bằng không và có tính thanh khoản cao.
Mạc dù là lĩnh vực đầu tư vào các giấy tờ có giá mang tính chiến lược đầu tư lâu dài của công ty song đến năm 2005,2006 thì số vốn dành cho đầu tư vào các CTCG cũng tăng hơn so với các năm rất lớn một phần là do được tăng mức vốn đầu tư ( nhờ tăng vốn điều lệ) một phần là tăng vốn đầu tư của cả công ty nên số lượng vốn dành cho đầu tư CTCG tăng theo. Một lý do nữa cũng không kém phần quan trọng là cùng với sự sôi động của thị trường thì các loại CTCG cũng được chào bán nhiều hơn trong năm 2006 và cơ hội đầu tư là nhiều hơn trong năm 2006.
2.2.2.4. Đánh giá chung:
Hoạt động đầu tư của PVFC nhìn chung là có sự tăng trưởng về quy mô nguồn vốn qua các năm nếu như năm 2001 là 9 tỷ thì năm 2006 đã tăng lên hơn 1600 tỷ. Đi vào từng lĩnh vực ngoài lĩnh vực đầu tư dự án trong năm 2004 có sự giảm sút về lượng vốn thì các lĩnh vực qua các năm đều có sự tăng trưởng tuyệt đối về lượng vốn tuy vậy xét trên chỉ tiêu số tương đối thì các lĩnh vực có sự tăng trưởng khác nhau. Nếu như năm 2006 lĩnh vực đầu tư vào chứng từ có giá cũng có một lượng vốn lớn được đưa đi đầu tư (270 tỷ) thì so với lĩnh vực đầu tư vào cổ phần năm 2006 là hơn 1.390 tỷ tăng hơn 5,15 lần và nếu so với đầu tư dự án cùng thời điểm ( hơn 19 tỷ) thì tăng 73,16 lần đây là sự chênh lệnh rất lớn trong cơ cấu các lĩnh vực đầu tư mà điều đáng nói nữa là tỷ lệ này các năm trước đo không có nhiều sự chênh lệch.
Bảng 7: Tốc độ tăng của nguồn vốn phân theo lĩnh vực đầu tư
Đơn vị %
Stt
Chỉ tiêu
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
1
Tăngđịnh gốc
dự án
0
45,68
60,17
-8,72
114,48
236,02
cổ phần
-
-
0
50
185,75
1.737.672
CTCG
0
73,77
107,19
234,56
3762,19
8337,5
2
Tăng liên hoàn
dự án
100
45,68
9,95
-43,01
134,98
56,66
cổ phần
-
-
100
50
90,5
608044,1
CTCG
100
73,77
19,23
61,48
1054,4
118,46
Nhìn vào bảng trên cho ta thấy một nhận định chung đó là tốc độ tăng của nguồn vốn phân theo lĩnh vực đầu tư không đều trên cả ba lĩnh vực đầu tư, xét trên quan điểm tốc độ tăng định gốc thì chỉ có vốn dành cho CTCG là có sự tăng đều hơn trong giai đoạn 2001-2006 sỡ dĩ có điều đó là vốn đầu tư qua các năm tăng thì lượng vốn được dành cho đầu tư CTCG được tăng theo, Các sản phẩm đầu tư của Chứng từ có giá là các trái phiếu chính phủ và các công ty chính vì vậy tỷ lệ lãi suất hay cũng như sự biến động trên thị trường là gần như rất nhỏ PVFC đầu tư hoàn toàn có thể có những dự đoán chính xác và xác định mua những trái phiếu dựa vào lượng vốn của mình . Lĩnh vực mà có sự thay đổi nhất vẫn là đầu tư cho cổ phần lên đến một con số cực lớn tăng hơn 1.737.672% tức là hơn 17.377 lần so với đầu tư cho cổ phiếu ở thời điểm 2003 tất nhiên cũng phải nói rằng số vốn dành cho đầu tư cổ phiếu trong giai đoạn 2003 là rất bé chỉ khoảng 80 triệu ( đây là một con số rất nhỏ). Tuy vậy ta cũng thấy lĩnh vực đầu tư này có sự tăng trưởng nhảy vọt.
Nhìn vào tôc độ tăng liên hoàn cũng cho chúng ta thấy được số vốn dành cho dự án giảm dần cho đến năm 2004 và tăng lên mạnh mẽ vào các năm 2005, 2006 dĩ nhiên lúc số vốn của công ty lớn mạnh thì công ty sẽ có những nguồn vốn dồi dào cho đầu tư phát triển. Đầu tư trái phiếu vẫn có sự tăng trưởng của mình nhưng năm 2003 có sự giảm sút so với các năm còn lại còn riêng năm 2005 nó có sự tăng đột biến lên 1054% nhưng sang năm 2006 nó lại giảm xuống 118% điều này cũng dễ hiểu khi một lượng lớn đã dành để đầu tư cô phần và mặc dù về số tuyệt đối có sự tăng trưởng mạnh mẽ nhưng nhìn vào số tương đối có mức tăng giảm hơn 1 năm trước đó . Nhìn vào bảng trên cũng thể hiện rất rõ số vốn dành cho cổ phần ( trong đó phần lớn là số vốn dành cho cổ phiếu) tăng lên rất nhanh năm 2005 tăng 90,5% và năm sau đó tăng 608044% đó là những con số thay đổi rất lớn cục diện đầu tư cũng như nguồn vốn của cả công ty. Chúng ta có thể khẳng định số vốn dành cho đầu tư cổ phần là số vồn nhiều nhất mà PVFC đầu tư trong thời gian qua. Tuy nhiên trong phần vốn mà PVFC có được để đầu tư vào lĩnh vực cổ phần có một phần khá lớn là từ các nguồn ủy thác.
Bảng 8: Cơ cấu vốn đầu tư thực hiện phân lĩnh vực đầu tư qua các năm:
Đơn vị %
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
2006
1
Đầu tư cho dự án
64,44
60,31
58,06
32,84
9,13
1,16
2
Đầu tư cổ phần
0
0
0.5
0.74
0.17
82,77
3
Đầu tư trái phiếu
35,56
39,67
41,44
66,41
90,7
16,07
Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo đầu tư PVFC 2001-2006
Qua bảng trên cho ta nhận thấy cơ cấu vốn có sự chuyển dịch nhanh chóng qua các năm nếu như từ 2001-2004 thì tỷ trọng vốn dành cho đầu tư dự án luôn chiếm một tỷ trọng cao. Còn tỷ trọng dành cho đầu tư cổ phần là rât nhỏ không đáng kể. Đến 2004 và một năm sau đó 2005 tỷ trọng vốn cao nhất thuộc về đầu tư các chứng từ có giá có thể giải thích bằng việc trong năm 2005 rất nhiều loại trái phiếu được chào bán và là một đối tác mà PVFC có thể hoàn toàn tin tưởng để đầu tư vào các Trái phiếu này chính vì vậy năm 2005 tỷ trọng vốn dành cho đầu tư CTCG là rất lớn và cũng từ năm 2004 thì tỷ trọng vốn dành cho các dự án của PVFC nhỏ dần qua các năm (nhỏ một cách tương đối). Sang 2006 tỷ lệ vốn dành cho dự án còn rất nhỏ so với vốn dành cho đầu tư trái phiếu hay cô phiếu. Năm 2006 tỷ trọng vốn dành cho đầu tư cổ phiếu là 82,77% và đầu tư CTCG giảm xuống là 16,07%.
3. Đánh giá hoạt động đầu tư tại công ty Tài Chính Dầu Khí.
3.1. Những thế mạnh mà PVFC có được trong thời gian qua:
- Công ty PVFC luôn là một công ty Tài Chính có số vốn điều lệ được cấp phép hoạt động cao nhất tại Việt Nam
Sự quan tâm của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam cùng sự giúp đỡ nhiều mặt của Tổng công ty ngay từ thời gian đầu cũng như hiện nay không dừng lại ở mức đơn vị chủ quản PVFC cũng được sự quan tâm giúp đỡ của lãnh đạo ngành ngân hàng tài chính.
Công ty có đội ngũ nhân viên, chuyên viên, chuyên gia được đào tạo tại các trường đại học trong và ngoài nước. Có nhiều người là các chuyên gia cao cấp làm trong ngành tài chính ngân hàng. trong số nhân viên làm việc tại công ty có trên 90% trình độ từ đại học trở lên. trong đó có nhiều tiến sỹ đây là một vốn rât quý đối với các doanh nghiệp.
Là đơn vị thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam nên các công trình đề án lớn từ tìm kiếm, thăm dò, khai thác,chế biến, kinh doanh đều được giành ưu tiên cho PVFC đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho PVFC cung cấp dịch vụ. Với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam có rất nhiều đơn vị lớn trực thuộc nên dĩ nhiên các mối quan hệ của PVFC trong Tập đoàn cũng dễ dàng hơn rất nhiều
Trong những năm vừa qua PVFC đã là đơn vị mạnh và là địa chỉ đáng tin cậy cho các nhà đầu tư cũng như hoạt động đối tác tài chính của công ty
Thương hiệu của PVFC luôn gắn liền với Tập đoàn Dầu khí nên uy tín trên thị trường ngay từ đầu đã có
3.2. Những kết quả và hiệu quả đạt được.
Nếu xét trên quan điểm là một doanh nghiệp thì trước tiên chúng ta sẽ xem xét Kết quả kinh doanh kinh doanh của doanh nghiệp:
3.2.1.Kết quả kinh doanh
Giai đoạn 2001-2005 kết quả kinh doanh là rất khả quan. Giai đoạn này tổng tài sản, doanh thu, lợi nhuận trước thuế đều rất tốt.
Bảng 9: Kết quả kinh doanh giai đoạn 2001 - 2005
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
1
Tổng tài sản, Tỷ VNĐ
360
1.231
2.900
4.291
6.877
2
Doanh thu, Tỷ VNĐ
16,8
64
105
214
421
3
Lợi nhuận trước thuế, Tỷ VNĐ
2,02
5,1
6
8,3
29,4
4
Nộp ngân sách, Tỷ VNĐ
0,97
2,36
2,91
2,3
8,7
5
Nộp Tổng công ty, Triệu VNĐ
168
300
501
755
2.300
Nguồn: www.PVFC.com.vn
Dựa vào bảng kết quả kinh doanh trên ta thấy giai đoạn 2001 -2005 các chỉ tiêu kinh doanh đều rất tốt. Năm 2005 tổng tài sản lên tới 6.877 tỷ đồng, doanh thu năm 2005 là 421 tỷ đồng. Và đặc biệt 1016 tỷ là doanh thu đạt được năm 2006 một kết quả tuyệt vời cho một công ty tài chính mới như Tài Chính Dầu Khí các chỉ tiêu về lợi nhuận cũng như các chỉ tiêu về nộp ngân sách đều vượt so với kế hoạch. Giai đoạn 2001 - 2003 là giai đoạn bắt đầu bước vào thị trường kết hợp với thời điểm 2001 -2003 người dân không mặn mà lắm với các hoạt động tài chính trên thị trường phi ngân hàng. Các chỉ tiêu đầu tư hay tổng tài sản của công ty cũng không cao là những khó khăn nhất định cho việc co được môt doanh thu và lợi nhuận đáng kể. Tuy vậy với những cố gắng của mình giai đoạn đầu tiên PVFC cũng đã gặt hái được khá nhiều thành công nếu đưa ra so sánh với các công ty tài chính tại cùng thời điểm. Tốc độ tăng của các kết quả kinh doanh trong giai đoạn sẽ là những chỉ tiêu phản ảnh tốt nhất và cho ta nhìn nhận mọt cách dễ hiểu hơn về tốc độ tăng tương tương quan giưa là chỉ số trong kết quả kinh doanh.
Bảng 10: Tốc độ tăng của các kết quả kinh doanh giai đoạn 2001-2005
Đơn vị: %
TT
Chỉ tiêu
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
1
Tổng tài sản
Tăng định gốc
0
241,9
705,6
1091,9
1810,3
Tăng Liên Hoàn
100
241,94
135,58
47,97
60,27
2
Doanh thu
Tăng định gốc
0
280,95
525
1173,81
2405,95
Tăng liên Hoàn
100
280,95
64,06
103,81
96,73
3
Lợi nhuận
trước thuế
Tăng định gốc
0
152,48
197,03
310,89
1355,45
Tăng liên Hoàn
100
152,48
17,65
38,33
254,22
4
Nộp ngân sách
Tăng định gốc
0
143,30
200
137,11
796,91
Tăng liên hoàn
100
143,30
23,31
-20,96
278,26
5
Nộp Tổng công ty
Tăng định gốc
0
78,57
198,21
349,40
1269,05
Tăng liên hoàn
100
78,57
67
50,70
204,64
Nguồn: Tổng hợp
Từ Bảng kết quả kinh doanh tổng hợp từ năm 2001 đến năm 2005 cho ta thấy được sự tăng trưởng mạnh của công ty trong những năm qua từ Tổng tài sản, Doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, Thu nhập bình quân. sự tăng trưởng mạnh mẽ của công ty trong giai đoạn vừa qua cho thấy còn đường đúng đắn đã lựa chọn của công ty. Các chỉ tiêu tăng trưởng tốt từ thị trường và thương hiệu PVFC càng ngày càng tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường tài chính là một minh chứng cho thấy được sức mạnh của Tập đoàn Dầu Khí Việt Nam trong lĩnh vực tài chính được thể hiện qua PVFC. Từ năm2001 đến năm 2005 số vốn tổng tài sản của PVFC tăng lên 6.517 tỷ đồng tăng hơn 18,1 lần so với năm 2001. đặc biệt trong chỉ số tăng liên hoàn năm 2005 tăng hơn so với năm 2004 tăng 60,27%. So với tốc độ tăng liên hoàn của các năm trước thì đây không phải là một chỉ số cao nhưng nếu so sánh con số tài sản 4291 tỷ thì đó là một con số đáng kể cũng như so với năm 2004 con số này chỉ dừng lại ở con số 47,97%. Sự cải cách phù hợp với chiến lược thị trường, sự nhanh nhạy với thị trường tài chính của PVFC. Năm 2005 đánh dấu bằng việc các sản phẩm của PVFC trên thị trường tài chính được thị trường đánh giá cao và coi là một đối tác tin cậy cho các chương trình và dự án của các công ty.
Kết quả kinh doanh trong những năm vừa qua cho thấy một chỉ số tăng trưởng mạnh vào thời điểm 2005 và các chỉ số tăng đều của các năm trước đó doanh thu năm 2005 tăng 404 tỷ so với năm 2001 và tăng 207 tỷ năm 2004. Lợi nhuận trước thuế tăng trong giai đoạn này cũng rất lớn tăng 21.4 tỷ so với năm 2004.
Sẽ có rất nhiều nguyên nhân để giải thích cho việc các chỉ số năm 2005 đều tăng vọt so với năm 2004 và các năm trước đó nhưng một sản phẩm mà năm 2005 đã bắt đầu có sự nóng lên từ ngay năm 2005 là đầu tư cố phiếu. để sau đó các chỉ số của công ty còn tăng lên rất nhiều vào thời điểm năm 2006 ( thời điểm các cơn sốt trên thị trường chứng khoán thực sự diễn ra). Năm 2006 cũng đánh dấu một mốc mới của PVFC khi doanh thu năm 2006 vượt 1000 tỷ đồng .
Trên quan điểm là nhà đầu tư chúng ta sẽ xem xét kết quả của hoạt động đầu tư của PVFC xét trên 3 lĩnh vực:
3.2.2. Kết quả của hoạt động đầu tư dự án:
Trong giai đoạn 2001-2006 lợi nhuận của vốn dành cho đầu tư luôn luôn ở mức khả quan tuy nhiên phải nói rằng 3 năm đầu tư 2001 -2003 vốn đầu tư chỉ vỏn vẹn 27,152 tỷ đến năm 2004 thỉ số này cũng rất bé chỉ 3,6 tỷ tuy vậy lợi nhuận trong cả 3 năm 2001-2003 chỉ vào khoảng 0.8 tỷ trong lúc năm 2004 là 3,333 tỷ. tất nhiên chúng ta luôn có tính đến độ trễ thời gian của dự án. Năm 2005 mức lợi nhuận lại giảm nhưng đến năm 2006 lợi nhuận lại tăng thêm 4,688 tỷ. Trong lúc đó khâu hao thu về trong 3 năm 2004,2005,2006 gần 3,7 tỷ.
Bảng 11: Kết qủa của hoạt động đầu tư Dự án.
Đơn vị: Tỷ đồng
Stt
Chỉ tiêu
2001-2003
2004
2005
2006
1
Vốn đầu tư (đã giải ngân)
27,152
3,6
12,440
19,489
2
Doanh thu
21,993
18,826
18,931
22,499
3
Chi phí
19,554
15,492
16,532
17,914
4
Lợi nhuận
2,379
3,333
2,398
4,584
5
Khấu hao thu về
4,290
3,686
3,688
3,688
6
Lợi nhuận Tăng thêm/ Vốn đầu tư
0.087
0.265
-0.075
0.112
Nguồn: Báo cáo đầu tư
Như vậy kết quả đầu tư xét về mặt tài chính trong giai đoạn 2001-2006 là tương đối khả quan. Số vốn đầu tư được rải ngân là khá tốt với mức vốn đầu tư của công ty thì tỷ lệ số vốn đầu tư cho dự án ngày càng giảm (bảng 9) do cơ hội đồng vốn dành cho đầu tư dự án là thấp hơn so với các lĩnh vực đầu tư ở thời kỳ sau Tuy nhiên xét trên con số tuyệt đối thì luôn có sự tăng trưởng mạnh. Chỉ tiêu lợi nhuận tăng qua các năm, riêng 2005 có giảm sút tuy nhiên sang năm 2006 lại có một sự tăng tiến đáng kể tuy nhiên các kết quả trên chỉ phản ánh một cách tương đối vì hầu hết các kết quả đầu tư dự án lớn đều có độ trễ rất lớn nên khó có thể xem xét chính xác mức lợi nhuận năm nào cao nhất trên vốn đầu tư. Nếu ta giả sử vốn đầu tư phát huy hết tác dụng trong năm đó thì ta có đánh giá nhờ vào dòng kết quả cuối cùng của bảng trên. Ta thấy rằng hiệu suất đầu tư năm 2006 là cao nhất và hiệu suất thấp nhất thuộc về năm 2005
Đối với chính phủ và các công ty, tổng công ty khác PVFC là một trong những đối tác, kênh huy động vốn tốt thực hiện các đầu tư các dự án của mình. Các dự án mà PVFC đã tham gia dàn xếp vốn cũng là một thành công lớn của PVFC thời gian gần đây. Tuy nhiên ở đây PVFC đóng vai trò trung gian nên không coi là nhà đầu tư trong trường hợp này.
3.2.3. Kết quả của hoạt động đầu tư chứng từ có giá
Kết quả từ bảng sau giúp ta hiểu rõ hơn về doanh thu lợi nhuận của đầu tư vào lĩnh vực chứng từ có giá:
Bảng 12: Doanh thu và lợi nhuận của đầu tư CTCG qua các năm
Năm
Doanh thu
Lợi nhuận
Tổng GT
Tỷ lệ tăng
Tổng GT
Tỷ lệ tăng
2001
56,691,250
8,589,583
2002
272,267,188
380.26%
41,252,604
380.26%
2003
2,397,285,576
780.49%
158,409,795
284.00%
2004
8,019,931,000
234.54%
373,754,821
135.94%
2005
19,072,486,556
137.81%
647,264,607
73.18%
2006
24,532,430,132
28.63%
704,764,433
8.88%
Xét trên quan điểm kinh doanh lấy lợi nhuận hàng năm ra làm chuẩn thì những năm 2002 và 2003 là những năm có tỷ lệ tăng trưởng về lợi nhuận là cao nhất. và đến năm 2006 thì tỷ lệ tăng trưởng là rất thấp 8,88%. Tuy nhiên với một số vốn đầu tư cho dự án năm 2006 tăng hơn hẳn so với các năm trước mà kết quả của các đầu tư Chứng từ có giá cũng phải có một thời gian khá dài mới khẳng định được hiệu quả (Độ trễ về thời gian) do vậy doanh thu của năm 2006 là thấp tương đối so với mức chi cho đầu tư Chứng từ có giá năm 2006 chính vì vậy có một tỷ lệ tăng trưởng dưới một con số khác hẳn với các năm trước là 2 thậm chí là 3 con số.
Những đóng góp của PVFC trong việc tham gia vào mua các CTCG đã thúc đẩy thị trường này phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn và là một trong những đơn vị chiến lược trong việc thúc đẩy thị trường trái phiếu Việt Nam thêm sôi động góp phần tích cực vào việc giúp các đơn vị có đủ lượng vốn để thực hiện các công trình đầu tư của mình.
3. 2.4. Kết quả của hoạt động Đầu tư cổ phần:
Có 2 cách tham gia vào thị trường đầu tư cổ phần của PVFC
- Tham gia đầu tư kinh doanh cô phiếu niêm yết
- Tham gia hoạt động đầu tư OTC
Bảng 13: Kết quả hoạt động kinh doanh cổ phiếu niêm yết
Đơn vị tính: Triệu VND
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
03 quý 2006
Doanh thu
342.709
306.077
6.659.177
Tỷ suất LN
16.14 %
14 %
33.53%
Nguồn : Phòng đầu tư PVFC
Việc kinh doanh cô phiếu niêm yết chỉ được coi là chính thức tại thời điểm 2004 trước đó là không đáng kể. tuy vậy tỷ lệ lợi nhuận vẫn đạt rất cao hơn 16% và cùng với cơn sốt của thị trường chứng khoán 2006 tỷ suất lợi nhuận đã là 33,53%. Các năm 2004, 2005 tỷ lệ lợi nhuận cũng khá cao tuy vậy lĩnh vực kinh doanh cô phiếu rất ít được quan tâm một phần là do tâm lý lo ngại về thị trường cô phiếu ở Việt Nam và thói quen đầu tư của Các công ty Tài chính là vẫn dành nhiều cho đầu tư dự án. Một lý do nữa là nhân sự cho việc đầu tư cô phần cũng cần được đào tạo và trải nghiệm qua thị trường nên đến tận những năm sau hoạt động đầu tư này mới càng được chú trọng
Hoạt động đầu tư OTC cũng chỉ mới được bắt đầu vào năm 2005 nhưng cũng gặt hái được nhiều thà._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3035.doc