Tài liệu Tình hình chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài ở Việt Nam: ... Ebook Tình hình chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
56 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1582 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Tình hình chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Chuyển giao công nghệ là một khái niệm mới xuất hiện trong mấy thập niên gần đây, nhưng đã nhanh chóng trở thành vấn đề thời sự, được nhiều người quan tâm, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế toàn cầu, đặc biệt đối với những nước đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa như Việt Nam. Việc tiếp thu kinh nghiệm chuyển giao công nghệ tiên tiến của nước ngoài cũng như tìm ra giải pháp để ứng dụng nhanh các kết quả nghiên cứu trong nước vào cuộc sống là khâu then chốt đảm bảo phát triển nhanh và bền vững.
Thực tế cho thấy thành công trong lĩnh vực kinh tế những năm qua của Việt Nam thì hoạt động phát triển khoa học công nghệ và chuyển giao công nghệ đóng vai trò quyết định. Điều đó không những làm cho nền kinh tế VN tăng trưởng nhanh mà còn tăng khả năng cạnh tranh trên cả ba cấp độ: sản phẩm và dịch vụ, doanh nghiệp và quốc gia.
Hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam hiện nay bao gồm các hình thức chủ yếu là chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam, chuyển giao công nghệ trong nước và chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài, trong đó chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt nam thông qua các dự án FDI chiếm tỷ trọng lớn, đã và đang tạo hiệu ứng tích cực cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, cũng như tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ cho đất nước. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: “ Tình hình chuyển giao công nghệ qua các dự án nước ngoài ở Việt Nam” để nghiên cứu nhằm đánh giá một cách chung nhất những hiệu quả nó tạo ra cũng như những hạn chế còn tồn tại, từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án nước ngoài .
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
1.1. Công nghệ.
1.1.1. Khái niệm và nội dung công nghệ.
1.1.1.1 Khái niệm:
Có thể nói công nghệ xuất hiện đồng thời với sự hình thành xã hội loài người. Từ “công nghệ- technology” xuất phát từ chữ Hi Lạp là techne và logos, techne có nghĩa là phương pháp cần thiết để làm ra một vật nào đó, còn logos có nghĩa là sự hiểu biết về một vật nào đó. Như vậy technology được hiểu là sự hiểu biết(hay kiến thức) về một phương pháp cần thiết để làm ra một vật(sản phẩm). Cho đến nay , người ta vẫn chưa đi đến một khái niệm thống nhất về công nghệ. Đó là do số lượng các công nghệ hiện có nhiều đến mức không thể thống kê được, công nghệ lại hết sức đa dạng, khiến những người sử dụng một công nghệ cụ thể trong những điều kiện và hoàn cảnh không giống nhau sẽ dẫn đến sự khái quát của họ về công nghệ sẽ khác nhau. Các tổ chức quốc tế về khoa học – công nghệ đã có nhiều cố gắng trong việc đưa ra một định nghĩa công nghệ có thể dung hòa các quan điểm, đồng thời tạo thuận lợi cho việc phát triển và hòa nhập của các quốc gia trong từng khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Trong đó có bốn khía cạnh cần bao quát trong định nghĩa công nghệ: Đó là “công nghệ là máy biến đổi”; “ công nghệ là một công cụ”; “ công cụ là kiến thức”; “ công nghệ hàm chứa trong các dạng hiện thân của nó”.
- UNIDO (United Nations Industrial Development organization) định nghĩa công nghệ “ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và xử lý chúng một cách có hệ thống và phương pháp”.
- ESCAP: Ủy ban kinh tế - xã hội khu vực Châu Á Thái Bình Dương( Economic And Social Commision For Asia and the Pacific) : “ Công nghệ là một hệ thống kiến thức về qui trình và kĩ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin” và mở rộng ra “ nó bao gồm tất cả các kĩ năng , kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất chế tạo dịch vụ, quản lý, thông tin”
- Luật Chuyển giao công nghệ Việt Nam 2006: “ công nghệ là giải pháp, qui trình, bí quyết kĩ thuật có kèm hoặc không kèm công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm.”
Công nghệ là sản phẩm của những khả năng về kĩ thuật và tổ chức khi những yếu tố đó quyết định phương thức chuyển các nguồn lực vô hình và hữu hình thành các hàng hóa và dịch vụ trung gian hay cuối cùng. Theo nghĩa hẹp hơn thì công nghệ là đầu ra của các hoạt động nghiên cứu và phát triển và hàm kĩ thuật sản xuất của một doanh nghiệp. Dù được định nghĩa như thế nào thì công nghệ cũng giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng của các yếu tố sản xuất và đó là yếu tố quyết định sự tăng trưởng của các nền kinh tế.
1.1.1.2. Nội dung công nghệ.
Bất cứ một công nghệ nào, từ đơn giản đến phức tạp đều bao gồm bốn thành phần: trang thiết bị(Technoware – T), kĩ năng của con người(Humanware – H), thông tin(inforware – I), tổ chức(Organware – O) có mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau. Điều đó được thể hiện qua sơ đồ sau:
Tổ chức
Con người
Trang thiết bị
Thông tin
Các yếu tố cấu thành công nghệ:
*Phần cứng: Bao gồm máy móc, thiết bị, dụng cụ, kết cấu nhà xưởng... Phần cứng tăng năng lực cơ bắp và trí lực con người.
*Phần mềm: Bao gồm.
+ Phần con người: Là đội ngũ nhân lực có sức khoẻ, kĩ năng, kĩ xảo, kinh nghiệm sản xuất, khả năng lãnh đạo, tính gia truyền,tính sáng tạo, khả năng phối hợp… làm việc có trách nhiệm và năng suất cao. Phần này biểu thị năng lực của con người, tạo ra sự vận hành và duy trì hoạt động của mọi phương tiện. Một trang thiết bị hoàn hảo nhưng nếu thiếu con người có trình độ chuyên môn tốt và kỉ luật lao động cao sẽ trở nên vô tích sự.
+ Phần thông tin: Bao gồm các dữ liệu, chỉ dẫn kĩ thuật, mô tả sáng chế, thuyết minh, dự án, điều hành sản xuất, các bí quyết kĩ thuật(know-how).Đây là phần rất quan trọng quyết định sự thành công của chuyển giao công nghệ bới nó biểu thị những vấn đề đã được tư liệu hóa, tồn trữ các tri thức đã được tích lũy để rút ngắn thời gian hoạt động của con người.
+ Phần tổ chức: Bao gồm những liên hệ, bố trí, sắp xếp đào tạo đội ngũ cán bộ cho các hoạt động như phân chia nguồn lực, tạo mạng lưới, lập kế hoạch, kiểm tra, điều hành. ..Phần này biểu thị mọi khung tổ chức để cho việc hoạch định chiến lược, tổ chức thực hiện, động viên thúc đẩy, kiểm soát các hoạt động.
+ Phần thị trường đầu ra : nghiên cứu thị trường đầu ra là nhiệm vụ quan trọng và cũng nằm trong phần mềm của hoạt động chuyển giao công nghệ.
1.1.2. Phân loại công nghệ.
Theo tính chất.
Công nghệ sản xuất, công nghệ dịch vụ,công nghệ thông tin, công nghệ đào tạo- giáo dục.
Theo ISO 8004.2, Dịch vụ có bốn loại:
-Tài chính, ngân hàng , dịch vụ, tư vấn.
-Tam quan, du lịch, vận chuyển.
-Tư liệu thông tin.
-Huấn luyện, đào tạo.
Theo nghành nghề:
Có các loại công nghệ công nghiệp;nông nghiệp, công nghệ sản xuất hàng tiêu dùng, công nghệ vật liệu.
Theo sản phẩm: tuỳ thuộc loại sản phẩm có các loại công nghệ tương ứng như công nghệ thép công nghệ xi măng công nghệ ô tô...
Theo đặc tính công nghệ: công nghệ đơn chiếc, công nghệ hàng loạt, công nghệ liên tục,
Trong phạm vi quản lý công nghệ, một số loại công nghệ được đề cập như dưới đây:
Theo trình độ công nghệ (căn cứ mức độ phức tạp, hiện đại của các thành phần công nghệ ) có các công nghệ truyền thông, công nghệ tiên tiến , công nghệ trung gian.
Các công nghệ truyền thống thường là thủ công, có tính độc đáo, độ tinh sảo cao, song năng suất không cao và không đồng đều. các công nghệ truyền thống có ba đặc trưng cơ bản: tính cộng đồng, tính ổn định và tính lưu truyền.
Các công nghệ tiên tiến là thành quả khoa học hiện đại, nhưng công nghệ này có năng suất cao, chất lượng tốt và đồng đều, giá thành sản phẩm của chúng hạ.
Công nghệ trung gian nằm giữa công nghệ truyền thống và công nghệ tiên tiến xét về trình độ công nghệ
Theo mục tiêu phát triển công nghệ :có công nghệ phát triển, công nghệ dẫn dắt, công nghệ thúc đẩy.
Các công nghệ phát triển bao gồm các công nghệ bảo đảm. cung cấp các nhu cầu thiết yếu cho xã hội như ăn, ở, mặc, đi lại.
Các công nghệ thúc đẩy bao gồm các công nghệ tạo lên sự tăng trưởng kinh tế trong quốc gia.
Các công nghệ dẫn dắt là các công nghệ có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới
Theo góc độ môi trường có công nghệ ô nhiễm và công nghệ sạch
Công nghệ sạch là công nghệ mà quá trình sản xuât tuân theo điều kiện giảm ảnh hưởng đến môi trường, sử dụng các nguồn nguyên liệu thô và năng lượng hợp lý
Theo đặc thù của công nghệ có thể chia thành hai loại: công nghệ cúng và công nghệ mềm. cách phân loại này xuất phát từ quan niệm công nghệ gồm bốn thành phần trong đó kĩ thuật là phần cứng còn ba yếu tó còn lại là phần mềm. một công nghệ mà phần cứng của nó được đánh giá là vai trò chủ yếu thì công nghệ đó được coi là công nghệ phần cứng và ngược lại. cũng có quan niệm coi công nghệ cứng là công nghệ khó thay đổi;còn công nghệ mềm là công nghệ có chu trình sống ngắn phát triển nhanh
Theo đầu ra của công nghệ, có công nghệ sản phẩm và công nghệ quá trình:công nghệ sản phẩm liên quan thiết kế sản phẩm(thường bao gồm các phần mềm) và việc sử dụng, bảo dưỡng sản phẩm (thường bao gồm các phần mềm sử dụng sản phẩm); trong khi công nghệ quá trình để chế tạo ra sản phẩm đã được thiết kế (liên quan tới bốn thành phần công nghệ ).
1.1.3. Công nghệ thích hợp.
Trong giai đoạn những năm 50 đến 70 của thế kỉ XX, các nước CNH đã có những bước tăng trưởng kinh tế rất lớn và hàng loạt công nghệ mới ra đời. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1972- 1973 đã làm cho các nước này nhận ra rằng chính những ngành công nghiệp lớn của họ là nguy cơ đe dọa sự tồn tại của họ. Bên cạnh đó các nước đang phát triển cũng nhận thấy rằng không thể tiếp tục khai thác nguồn tài nguyên hạn chế của nước mình một cách tùy tiện được nữa. Điều đó cho thấy không phải bất cứ công nghệ mới nào cũng tốt và vấn đề lựa chọn công nghệ thích hợp được đặt ra đối với tất cả các quốc gia.
Công nghệ thích hợp là những công nghệ phù hợp với khả năng và trình độ phát triển của quốc gia trong một thời kì nhất định, tạo điều kiện khai thác tối đa những lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước và đưa lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao.
Như vậy, một công nghệ thích hợp phải thoả mãn 3 tiêu chuẩn sau:
- Có hiệu quả kinh tế
- Có hiệu quả xã hội
- Có tính thích dụng với trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong từng thời kì.
Đặc biệt, một công nghệ được coi là thích hợp đối với những nước đang phát triển phải đáp ứng được các điều kiện sau:
- Sản phẩm công nghệ phải đáp ứng nhu cầu thiết yếu của một số đông dân cư , đặc biệt là dân nông thôn.
- Thu hút nhiều lao động , trong đó có lao động nữ.
- Có chi phí sản xuất thấp và kĩ thuật không quá cao.
- Sử dụng tiết kiệm năng lượng và các nguồn tài nguyên không phục hồi được.
- Sử dụng nhiều nguyên vật liệu và dịch vụ trong nước .
- Cung cấp các phương tiện phù hợp với sản xuất vừa và nhỏ .
- Bảo tồn và duy trì các ngành nghề truyền thống và tạo thêm ngành mới.
- Có thể thực hiện lan tỏa rộng rãi và làm giảm sự chênh lệch mức độ phát triển giữa các vùng lãnh thổ .
- Phù hợp với nền văn hóa , chính trị xã hội, không gây xáo trộn đối với văn hóa xã hội.
-Tạo một sự tăng trưởng kinh tế cho một số đông dân cư.
- Tạo điều kiện tiền đề để tăng cướng xuất khẩu, phân công hợp tác quốc tế, nâng cao tiềm lực công nghệ của quốc gia mình.
Trong hoạt động chuyển giao công nghệ, đòi hỏi bên tiếp nhận công nghệ phải nắm vững các thông tin để lựa chọn được công nghệ thích hợp theo những tiêu chuẩn nêu trên. Đó là các thông tin liên quan đến bên cung cấp và bên nhận công nghệ (lịch sử và kinh nghiệm ; địa vị hiện tại; chiến lược và kế hoạch của doanh nghiệp ); các thông tin về mức độ tiên tiến của công nghệ cũng như về tình hình công nghệ thế giới. Việc lựa chọn công nghệ phải trên cơ sở chủ động tích cực và xuất phát từ đòi hỏi của bản thân doanh nghiệp.
Việc tìm hiều kinh nghiệm của nhiều nước, chúng ta không dập khuôn bất kì mô hình nào đó mà tiếp thu những ưu điểm, loại trừ các khuyết tật của mô hình chuyển giao công nghệ, từ đó hình thành mô hình của riêng mình , phù hợp với thực tiến đất nước, truyền thống dân tộc và xu thế thời đại.
1.2. Chuyển giao công nghệ.
1.2.1.Khái niệm và đối tượng chuyển giao công nghệ.
1.2.1.1.. Khái niệm
- Tổng quát: Chuyển giao công nghệ là việc đưa kiến thức kĩ thuật ra khỏi ranh giới nơi sản sinh ra nó.
- Theo quan điểm quản lí công nghệ: chuyển giao công nghệ là tập hợp các hoạt động thương mại và pháp lí nhằm làm cho bên nhận công nghệ có được năng lực công nghệ như bên giao công nghệ , trong khi sử dụng công nghệ đó vào một mục đích đã định.
- Nghị định 45/1998/NĐ- CP: chuyển giao công nghệ là hình thức mua và bán công nghệ trên cơ sở hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được thỏa thuận phù hợp với các qui định của pháp luật. Bên bán có nghĩa vụ chuyển giao các kiến thức tổng hợp của công nghệ hoặc cung cấp các máy móc thiết bị, dịch vụ, đào tạo…kèm theo các kiến thức công nghệ cho bên mua và bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán để tiếp thu, sử dụng các kiến thức công nghệ đó theo các điều kiện đã thỏa thuận và ghi nhận trong hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Nhà nghiên cứu Nhật Bản Prayyoon Shiowattana đưa ra định nghĩa mới: “ chuyển giao công nghệ là một quá trình học tập trong đó tri thức về công nghệ được tích luỹ một cách liên tục và nguồn tài nguyên con người đang được thu hút vào các hoạt động sản xuất; một sự chuyển giao công nghệ thành công cuối cùng sẽ đưa tới sự tích luỹ tri thức sâu hơn và rộng hơn”. Cách nhìn nhận mới về chuyển giao công nghệ đứng trên góc độ của một quốc gia đã và đang có những hoạt động chuyển giao công nghệ tích cực vào các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cho ta thấy sự đánh giá của họ về hiệu quả chuyển giao công nghệ, đặc biệt là nhân tố con người.
1.2.1.2. Đối tượng chuyển giao công nghệ.
- Các đối tượng sở hữu công nghiệp có hoặc không kèm theo máy móc, thiết bị mà pháp luật cho phép chuyển giao.
Sở hữu công nghiệp: sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa và các đối tượng khác do luật định.
- Bí quyết , kiến thức kĩ thuật về công nghệ dưới dạng phương án công nghệ, các giải pháp kĩ thuật, qui trình công nghệ, phần mềm máy tính, tài liệu thiết kế, công thức, thông số kĩ thuật, bản vẽ, sơ đồ kĩ thuật có hoặc không kèm theo máy móc thiết bị.
- Các giải pháp hợp lí hóa sản xuất , đổi mới công nghệ.
- Các hình thức dịch vụ kỹ thuật hỗ trợ chuyển giao công nghệ như:
Hỗ trợ lựa chọn công nghệ, hướng dẫn lắp đặt thiết bị, vận hành thử dây chuyền..
Tư vấn quản lý công nghệ, quản lý kinh doanh, hướng dẫn thực hiện qui trình công nghệ được chuyển giao;
Đào tạo, huấn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn và quản lý của công nhân, cán bộ kĩ thuật và cán bộ quản lí để nắm vững công nghệ được chuyển giao
1.2.2. Các hình thức chuyển giao công nghệ.
a. Phân theo luồng
Theo cách phân loại này, có hai luồng chuyển giao công nghệ là chuyển giao dọc và chuyển giao ngang.
- Chuyển giao dọc: là sự chuyển giao các công nghệ hoàn toàn mới mẻ, đòi hỏi các bước đi khá đồng bộ từ nghiên cứu, thử nghiệm, triển khai sản xuất thử đến sản xuất hàng loạt để đảm bảo độ tin cậy về kinh tế và kĩ thuật.
- Chuyển giao ngang: là sự chuyển giao công nghệ đã hoàn thiện từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác, từ nước này đến nước khác. So với chuyển giao dọc, kiểu chuyển giao này ít rủi ro hơn song thường phải tiếp nhận một công nghệ dưới tầm người khác, không hoàn toàn mới mẻ.
b. Phân theo quyền lợi và trách nhiệm của người mua và người bán.
Phân loại theo kiểu này áp dụng trong trường hợp đánh giá mức độ tiên tiến và giá cả của công nghệ; gồm các hình thức sau:
Chuyển giao giản đơn: là hình thức người chủ công nghệ trao cho người mua quyền sử dụng công nghệ trong một thời gian và phạm vi hạn chế.
Chuyển giao đặc quyền: người bán trao quyền sử dụng công nghệ cho người mua giới hạn trong một phạm vi lãnh thổ.
Chuyển giao độc quyền: là hình thức người bán trao toàn bộ quyền sở hữu công nghệ cho người mua trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng.
c. Phân theo kiểu chuyển giao hay chiều sâu của chuyển giao công nghệ.
Trao kiến thức: việc chuyển giao chỉ dừng lại ở mức truyền đạt kiến thức bằng cách đưa công thức, hướng dẫn, tư vấn về kĩ thuật.
Chuyển giao công nghệ dưới dạng chìa khoá giao tay: người bán phải thực hiện các công việc như lắp đặt máy móc, hướng dẫn quy trình, hoàn tất toàn bộ quá trình sản xuất.
Trao sản phẩm: người bán không những có trách nhiệm hoàn tất toàn bộ dây chuyền sản xuất mà còn giúp người mua sản xuất thành công sản phẩm sử dụng kĩ thuật chuyển giao.
Trao thị trường: ngoài trách nhiệm như ở mức độ “trao sản phẩm” người bán còn phải bàn giao một phần thị trường đã xâm nhập thành công cho bên mua công nghệ.
Hiện nay, ở Việt Nam tồn tại các kiểu chuyển giao công nghệ chính như sau:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài kiểu cổ điển(phía nước ngoài kiểm soát, điều hành)
- Liên doanh
- Bán li xăng
- Các hợp đồng quản lí dịch vụ kĩ thuật
- Tiếp thị
- Hợp đồng chìa khóa trao tay.
- Các hợp đồng phụ
1.2.3. Cơ sở của hoạt động chuyển giao công nghệ.
Ngày nay, sự phân công lao động diễn ra mạnh mẽ, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, áp lực cạnh tranh gia tăng cùng với sự phát triển không đồng đều giữa các nền kinh tế đã tạo điều kiện cho hoạt động chuyển giao công nghệ trên phạm vi toàn cầu.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ với qui mô lớn và toàn diện đối với các lực lượng sản xuất đã tạo ra sự chuyển biến sâu sắc về cơ cấu nền kinh tế thế giới, về quan hệ kinh tế quốc tê và thay đổi bản chất cơ cấu phân công lao động quốc tế. Trước 1970, thị trường công nghệ diễn ra chủ yếu giữa các nước tư bản phát triển, giữa tam giác: Mỹ- Nhật- Tây Âu, còn công nghệ chuyển giao sang các nước đang phát triển chủ yếu là mặt hàng tiêu dùng. Sau 1970, thị trường công nghệ diễn ra ở khắp các nước: tư bản phát triển, NICs, các nước đang phát triển.
Để hình thành, tồn tại, phát triển của công nghệ thì công tác nghiên cứu phát minh, nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, sản xuất thử, đòi hỏi phải có sự đầu tư thích đáng về chi phí, thời gian và mang tính rủi ro, vì vậy thế mạnh nghiêng hẳn về các nước phát triển có tiềm năng về kinh tế. Các nước đang phát triển cũng có nhu cầu về áp dụng công nghệ mới song do hạn chế về khả năng tài chính nên không thể tự tạo ra được công nghệ. Chỉ khi nào công nghệ đã hoàn thiện và đưa vào sản xuất hàng loạt thì chi phí cho công nghệ mới giảm đi và các nước đang phát triển mới có điều kiện mua lại công nghệ. Hơn nữa, các nước phát triển sau khi đã khai thác triệt để công nghệ thì lại có nhu cầu tạo ra công nghệ mới và bán lại công nghệ cũ. Để thu được nhiều lợi nhuận, các nhà nghiên cứu, nhà kinh doanh, các hãng đều muốn kéo dài vòng đời công nghệ. Cùng với quá trình phát triển khoa học – công nghệ trên thế giới, các công nghệ cũng phải luôn được cải tiến được đổi mới. Hơn nữa, tranh thủ sự đầu tư nước ngoài, các quốc gia tận dụng chuyển giao công nghệ như một giải pháp hữu hiệu để cải tiến nền sản xuất trong nước. Xuất hiện yếu tố cung cầu công nghệ đã tạo ra sự hình thành thị trường công nghệ.
1.2.4. Vai trò của chuyển giao công nghệ trong hoạt động đầu tư nước ngoài.
1.2.4.1. Đối với bên chuyển giao công nghệ.
Bằng việc di chuyển nguồn lực công nghệ sang một quốc gia khác để thực hiện hoạt động đầu tư thì nhà đầu tư nước ngoài có thể có được những lợi ích sau:
- Cải tiến để đáp ứng với điều kiện áp dụng công nghệ của nước nhận công nghệ.
Mỗi công nghệ sinh ra trong một môi trường nhất định và phải phụ thuộc ít nhiều vào môi trường đó. Nếu áp dụng công nghệ này trong một môi trường khác có diều kiện khắc nghiệt hơn thì bên cung cấp công nghệ buộc phải tiến hành thử nghiệm, thí nghiệm để cải tiến công nghệ cho phù hợp.
- Sử dụng lao động rẻ.
- Sử dụng tài nguyên địa phương, tiết kiệm thời gian và chi phí vận chuyển. Ben cung cấp công nghệ cho rằng việc bán li xăng sử dụng công nghệ cho các nước giàu tài nguyên và sức lao động là hình thức chuyển giao tốt nhất.
- Xâm nhập lẫn nhau về công nghệ có thể thực hiện được trong CGCN giữa các nước phát triển.
- Tạo ra những ràng buộc khác đối với bên tiếp nhận công nghệ. Đó là song song với CGCN bên cung cấp công nghệ đồng thời bán nguyên vật liệu, thiết bị và các phần cứng khác cũng như những dịch vụ liên quan.
- Khi CGCN cho những nước đang phát triển thì bên cung cấp công nghệ của nước phát triển sẽ không gặp nhiều khó khăn trong quá trình đàm phán hợp đồng bởi năng lực công nghệ của bên tiếp nhận thông thường yếu hơn bên cung cấp. Chính điều này đã khiến cho giá công nghệ cao hơn giá trị thực của nó.
- Những lợi ích không thể định trước: trong quá trình sản xuất ở nước sở tại có thể có những phương án đa dạng hóa sản phẩm mà ngay bản thân bên cung cấp công nghệ cũng chưa nghĩ đến và điều đó tạo cho họ cơ hội để thực hiện đầu tư ở nước này.
1.2.4.2. Đối với bên nhận công nghệ.
- Không mất chi phí cho nghiên cứu và phát triển R&D.
- Có được những tiến bộ về khoa học và thương mại, thông qua việc đào tạo và cung cấp tài liệu của bên bán công nghệ, trình độ và kiến thức của bên tiếp nhận sẽ ngày càng một nâng cao, làm tăng khả năng sản xuất hoặc áp dụng quy trình sản xuất một cách cớ hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, việc hỗ trợ về tài chính, tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm còn mở ra một khả năng thương mại cho bên tiếp nhận.
- Có điều kiện tiếp xúc với những nguồn thông tin cần thiết, ngoài khả năng có những tiến bộ trực tiếp về công nghệ và thương mại thì sự hợp tác chặt chẽ thường xuyên với bên cung cấp công nghệ là điều kiện để bên nhận có được những thông tin về cải tiến và các sáng kiến khác trong lĩnh vực hoạt động của mình cũng như xu hướng phát triển.
Tuy nhiên một số hạn chế có thể xuất hiện đối với bên nhận công nghệ.
- Lệ thuộc vào công nghệ nhập cho đến khi hoàn toàn làm chủ công nghệ.
- Nếu năng lực công nghệ thấp và thiếu các điều kiện tiếp nhận công nghệ thì sẽ không phát huy được ưu điểm của các công nghệ này dẫn tới thất bại.
1.2.4.3. Đối với chính phủ các bên liên quan.
+ Đối với chính phủ bên cung cấp công nghệ.
Nhiều nước phát triển cung cấp thiết bị cho các nước đang phát triển khẳng định rõ ràng lợi ích của họ trong việc thực hiện CGCN. Thông qua CGCN kinh tế của các nước đang phát triển dần dần cũng tăng trưởng kéo theo sự gia tăng sức tiêu thụ các mặt hàng công nghiệp và tiêu dùng từ nước cung cấp. Ước tính cứ 3% sự gia tăng kinh tế ở các nước đang phát triển dẫn đến 1% gia tăng ở các nước phát triển. Như vậy sự phụ thuộc lẫn nhau trong việc phát triển kinh tế giữa các nước phát triển và đang phát triển là rất rõ ràng. Mặt khác, các nước phát triển thừa nhận rằng rốt cuộc họ không thể duy trì được sự giàu có của mình nếu như đại bộ phận dân số trên thế giới sống trong cảnh nghèo khổ bởi những vấn đề kinh tế và xã hội sẽ là nguyên nhân gây ra những vấn đề về chính trị và mất ổn định quốc tế.
+ Đối với chính phủ nước nhận công nghệ.
Những nước nhận công nghệ, đặc biệt những nước đang phát triển đều nhận thấy lợi ích của hoạt động CGCN đi kèm với FDI mang lại.
- Chi phí để chế tạo ra công nghệ đòi hỏi vốn lớn, do vậy CGCN trong một số lĩnh vực sẽ giúp cho chính phủ nước tiếp nhận công nghệ dành ngân sách cho những lĩnh vực cần thiết, cấp bách hơn.
- Tạo thêm nhiều việc làm trong các doanh nghiệp FDI.
- Tăng thu ngoại tệ trong trường hợp sản phẩm của công nghệ được xuất khẩu.
- Tiết kiệm ngoại tệ do sản phẩm có thể thay thế nhập khẩu.
- Khai thác và sử dụng nguyên liệu trong nước một cách hiệu quả. Tận dụng nguồn lực sẵn có mà chưa khai thác được vì thiếu công nghệ cần thiết.
1.3. Kinh nghiệm chuyển giao công nghệ ở một số nước.
1.3.1.Những thuận lợi và khó khăn trong CGCN ở các nước đang phát triển.
1.3.1.1. Thuận lợi.
Trong hai thập kỉ vừa qua, quá trình chuyển giao công nghệ trên thị trường công nghệ thế giới diễn ra sâu rộng và mạnh mẽ. Những yếu tố tạo thuận lợi cho các hoạt động là:
- Xu thế mở rộng hợp tác và khuyến khích ngoại thương của thế giới.
- Tiến bộ khoa học- công nghệ tạo ra những công cụ tiên tiến giúp CGCN dễ dàng.
- Các nước (cả bên giao và nhận) đã tích luãy được nhiều kinh nghiệm CGCN trên phạm vi toàn cầu.
- CGCN là một hoạt động mang lợi ích cho cả hai bên tham gia.
Sự thành công của một số nước thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ càng làm tăng tính hấp dẫn của CGCN quốc tế. Điển hình là Nhật Bản, sau đó là 4 con rồng Châu Á: Hàn quốc, Đài loan, Hồng kông, Singapore.
1.3.1.2. Khó khăn.
Về khách quan:
- Bản thân công nghệ phức tạp, các công nghệ được coi là CGCN thường có trình độ cao hơn trình độ của bên nhận.
- Công nghệ là kiến thức, do đó chuyển giao công nghệ mang tính chất ẩn, mang tính bất định. Công nghệ không chỉ nằm trong máy móc, thiết bị, tài liệu kĩ thuật, người có công nghệ khó truyền đạt tất cả những gì học có trong một thời gian ngắn.
- Những sự khác biệt về ngôn ngữ nền văn hóa và khoảng cách về trình độ dẫn tới những khó khăn trong giao tiếp, truyền đạt, hòa hợp.
Về phía bên giao:
- Động cơ của bên giao thường khó xác định, mục tiêu cao nhất của học thường là thu lợi nhuận nhiều hơn ở chính quốc. Để có lợi nhuận cao họ thường giảm chi phí đào tạo, làm cho bên nhận gặp khó khăn trong việc có đủ nhân lực làm chủ công nghệ.
- Do lo lắng trong việc bản quyền công nghệ, lo ngại khả năng thu hồi vốn đầu tư, do thị trường bên nhận nhỏ hẹp, lo ngại về việc bên nhận trở thành đối thủ cạnh tranh( đã từng xảy ra) do đó bên giao thường cố ý trì hoãn hoặc chỉ giao thông tin để đủ vận hành.
Về phía bên nhận:
- Cơ sở hạ tầng yếu kém, làm cho quá trình chuyển giao thực hiện, sử dụng công nghệ không đủ điều kiện đòi hỏi.
- Cấu trúc hạ tâng công nghệ yếu kém(nhân lực, chính trị, văn hóa đặc biệt năng lực nghiên cứu – triển khai nội bộ) dẫn tới không có khả năng đồng hóa, tiến tới làm chủ công nghệ nhập.
- Phải đốt cháy giai đoạn trong phát triển công nghệ do thúc ép của việc phải nhanh chóng CNH, HĐH.
Thực tế cho thấy, sau hơn 20 năm tăng cường chuyển giao công nghệ, các nước đang phát triển thậm chí còn nghèo hơn trước( số liệu WB).
1.3.2. Kinh nghiệm CGCN của một số nước.
Để bắt đầu quá trình tìm hiểu kinh nghiệm chuyển giao công nghệ của một số quốc gia tiêu biểu, chúng ta hãy cùng xem xét biểu đồ sau:
1860 1950 1980
năm
Biểu đồ: những mô hình đuổi kịp về công nghệ của Nhật Bản và các nước đang phát triển ở Châu á, so sánh với các nước phát triển.
Nguồn: Institute Of Developing Economies, Study on Technology And Trade Friction Between Japan And Developing Nations(Tokyo: IDE, 195).
Từ một đống tro tàn sau thế chiến II , bằng con đường thực hiện chuyển giao công nghệ, nghiên cứu ứng dụng và phát triển theo cách riêng của mình, Nhật Bản đã trở thành một cường quốc trên thế giới, đắc biệt là ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, điều kiện chính trị xã hội nghiêm ngặt đã bắt rễ sâu trong thời đại phong kiến và đặc biệt là những thiệt hại lớn lao do chiến tranh gây ra, người Nhật Bản đã rút ra bài học quý giá trong quá trình chuyển giao công nghệ của mình là: “Tinh thần Nhật Bản cộng kỹ thuật phương tây”. Người Nhật Bản đánh giá cao bốn năng lực trong các giai đoạn chuyển giao công nghệ: năng lực lĩnh hội; năng lực thao tác; năng lực thích ứng và năng lực đổi mới. Họ đặc biệt coi trọng nguồn tài nguyên con người với tư cách là nhân tố tích luỹ tri thức công nghệ. Từ những kinh nghiệm về chuyển giao công nghệ, các nhà nghiên cứu Nhật Bản cho rằng: các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng có thể trước tiên phải làm chủ công nghệ ở phần ngoại vi của kĩ thuật, là phần mà hầu hết đầu tư nước ngoài có thể đem vào, và dần dần họ phải mở rộng việc học tập để bao trùm lên phần cốt lõi của kĩ thuật.
Đối với các nước NIE Châu Á nhận thức được rằng chuyển giao công nghệ có vai trò to lớn trong giai đoạn công nghiệp hoá đất nước, khi mà cuộc cách mạng công nghệ phát triển như vũ bão, khoảng cách giữa các nước phát triển và đang phát triển ngày càng cách xa nhau, lợi dụng kĩ thuật tiên tiến của nước ngoài là việc làm cần thiết để thúc đẩy kinh tế phát triển. Chuyển giao công nghệ đã giúp các NIE Châu á trở thành “ những con rồng” với tốc độ tăng trưởng cao, FDI tăng liên tục, hoà nhập vào thị trường thế giới và đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể... Trong thời gian qua, các NIE Châu Á rất chú trọng việc nghiên cứu, phân loại, xác định tính chất, đặc điểm các kênh chuyển giao công nghệ trên thế giới. Đối với kênh chuyển giao công nghệ giữa các nước công nghiệp phát triển, các NIE thông qua các công ty xuyên quốc gia(TNCs), cụ thể là thông qua các chi nhánh đặt tại nhiều nước để tiếp cận với công nghệ hiện đại. Đối với kênh chuyển giao công nghệ giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển, các NIE tập trung ưu đãi về tài chính, tạo điều kiện thuận lợi để nhập và sử dụng công nghệ cho phù hợp điều kiện cụ thể. Đối với kênh chuyển giao công nghệ giữa các nước đang phát triển, họ luôn ý thức được ưu thế của mình, tiến hành đầu tư và chuyển giao công nghệ sang nhiều nước, đặc biệt là sang các nước ASEAN. Các NIE Châu Á cũng thường sử dụng các hình thức tiếp thu chuyển giao công nghệ như: qua liên doanh, tiếp nhận chuyển giao trọn gói, qua mua bản quyền sở hữu công nghệ, thuê chuyên gia hướng dẫn, trao đổi thông tin và đào tạo cán bộ kĩ thuật. Thông qua các hình thức tiếp thu công nghệ như trên cùng với khả năng ứng dụng và đổi mới công nghệ, các NIE châu Á đã đạt được những thành công rực rỡ, đặc biệt là trong phát triển công nghiệp.
Mặt khác, các NIE châu Á đã thực hiện phương châm “ đón đầu, đi tắt trong công nghệ”. Thời kỳ đầu, với trình độ kỹ thuật còn thấp, họ chỉ tiến hành chuyển giao dây chuyền công nghệ của nước ngoài để lắp ráp hoặc qua gia công sản phẩm cho các công ty nước ngoài. Sau khi đã đổi mới cơ cấu ngành, tăng sản xuất những thành phẩm có hàm lượng công nghệ cao, không chỉ nhà nước quan tâm mà cả các công ty tư nhân cũng quan tâm thực hiện đuổi bắt tiếp thu và làm chủ công nghệ như chính nước xuất khẩu công nghệ. Các NIE cũng đưa ra những chính sách ưu đãi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc trực tiếp mua máy móc trên thị trường.Trên thực tế, tuỳ theo đặc điểm kinh tế xã hội của riêng mình, mỗi NIE châu á đều có những chính sách chuyển giao công nghệ hết sức thận trọng để mang lại hiệu quả cao cho nền kinh tế.
-Trung Quốc có được sự thành công lớn, phát triển kinh tế theo kiểu đặc sắc Trung quốc là nhờ một phần lớn từ hoạt động chuyển giao công nghệ .
Đạt được những thành công như hiện nay , Trung Quốc đã phải ban hành tổng thế kế hoạch khoa học và công nghệ. Cuối những năm 80, trung quốc bắt đầu một thời kì mới , dựa vào khoa học công nghệ để thúc đẩy phát triển kinh tế và tăng tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trung quốc đã tiền hành các chương trình nhìn trước về công nghệ nhằm đưa ra các quyết định cho chính sách phát triển kh._.oa học và công nghệ cấp quốc gia: Chương trình nghiên cứu chính sách công nghệ quốc gia, đề cương phát triển khoa học và công nghê quốc gia trung và dài hạn, lựa chọn dự án công nghệ quốc gia then chốt quốc gia; trong đó ưu tiên cho các ngành công nghệ mũi nhọn như: công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ, công nghệ thông tin, công nghệ tự động hóa, công nghệ năng lượng , công nghẹ vật liệu mới
-Tiếp nhận chuyển giao công nghệ ở Thái lan:
Thái lan có lợi thế tương đối về các mặt như đất đai, nhân công , hạ tầng cơ sở .. để nắm bắt và tiếp thu xu thế tái triển khai cơ cấu công nghiệp của các nước công nghiệp phát triển hơn. Nhật bản và NICs Châu Á , cũng như Mỹ và Tây Âu đều coi Thái lan là nơi có thể tiến hành phân bố lại những cơ sở công nghiệp đã mất ưu thế cạnh tranh ở trong nước họ. Trong khi đó để phục vụ cho mục đích hướng ra xuất khẩu, khoảng cách về công nghệ hiện đại trong sản phẩm của Thái lan là quá lớn so với thị trường thế giới, nhu cầu về sản phẩm mới , chất lượng tốt trên thị trường trong và ngoài nước ngày càng cao trong khi Thái lan bị bỏ xa so với công nghệ của các nước tiên tiến, thậm chí so với cả NICs….Đấy là lí do buộc Thái lan phải nhập khẩu một lượng lớn công nghệ từ nước ngoài.Trong đó kênh FDI là nguồn chuyển giao công nghệ quan trọng nhất , với chính sách đa dạng hóa nguồn đầu tư thực hiện trong suốt giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế. Mạng lưới công nghiệp hướng về xuất khẩu của Thái lan phải nhập nguyên vật liệu và máy móc thiết bị bên ngoài lên đến 70% . Chính sác khuyến khích thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài của Thái Lan đã tạo điều kiện cho các nguồn vốn vào Thái lan ngày càng tăng lên nhanh chóng Có thể nói trong giai đoạn 1960-1990 Thái Lan là nước tiếp nhận đầu tư nước ngoài lớn nhất rong các nước ASEAN. Đầu tư nước ngoài vào các ngành chế tạo, mỏ, xây dựng, ngân hàng của Thái Lan rất đa dạng. Trong lĩnh vựa chế tạo đầu tư nước ngoài vào các ngành dệt, điện, điện tử, hóa chất, chế tọa máy và thiết bị vận chuyển , Mỹ , EU và Nhật Bản vẫn là các nhà đầu tư lớn nhất.
Có được những thành công lớn đó là nhờ vào một số nguyên nhân chủ yếu sau: Chính sách thuế phù hợp, coi trọng công tác marketing vận động đầu tư , tập trung đầu tư xây dựng và mở rộng kết cấu hạ tầng, đầu tư nguồn nhân lực….
Nghiên cứu kinh nghiệm tiếp nhận chuyển giao công nghệ của các quốc gia nói trên cho ta những bài học kinh nghiệm hết sức quý báu: cải thiện môi trường đầu tư để thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có hiệu quả, gắn đầu tư trực tiếp nước ngoài với chuyển giao công nghệ thích hợp; các hợp đồng chuyển giao công nghệ phải được chú trọng, được tính toán cẩn thận cả trong hiện tại và tương lai; chú trọng phát triển công nghệ truyền thống công nghệ truyền thống trong nước tạo cơ sở để tiếp nhận một cách hợp lý có chọn lọc, thích hợp với công nghệ mới ; xây dựng và thúc đẩy sự phát triển của khu công nghệ cao là nơi thu hút các hoạt động chuyển giao công nghệ, đóng vai trò động lực, đầu tàu trong việc đẩy mạnh phát triển công nghệ quốc gia; chuyển giao công nghệ không được tách rời việc nâng cao đời sống của nhân dân - đây cũng là mục tiêu “ xã hội công bằng văn minh ”của Đảng và Nhà nước ta đã đề ra; ở đây nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo, điều tiết giúp cho hoạt động chuyển giao công nghệ có hiệu quả.
Trong quá trình học tập kinh nghiệm của các nước khác, không có một mô hình nào là thước đo vạn năng, phổ biến rộng khắp, cần chú trọng điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể sẽ giúp chúng ta có được những bước đi thích hợp cho hoạt động chuyển giao công nghệ, góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt, con người là nhân tố quyết định đối với mọi thành quả kinh tế – xã hội. Tri thức được tích luỹ bởi tài nguyên con người là bài học kinh nghiệm không bao giờ cũ cho chúng ta.
Chương 2:THỰC TRẠNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ QUA CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM.
2.1. Tình hình tổng quát kinh tế- xã hội Việt Nam và trình độ công nghệ tại Việt Nam.
2.1.1.Tình hình kinh tế- xã hội tổng quát.
Kể từ sau khi đổi mới, tình hình kinh tế- chính trị xã hội của ta đã có nhiều biến chuyển tích cực. Đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định, tăng cường cơ sở vật chất tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới. Tổng sản phẩm trong nước giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 7,5%/ năm, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra , trong đó nông nghiệp tăng 3,8%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%. Qui mô tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế liên tục tăng. GDP bình quân đầu người đạt….
- Đất nước đã tạo dựng được những tiền đề phát triển kinh tế xã hội trong quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Cân đối tích lũy tiêu dùng được cải thiện theo hướng giảm dần tỷ lệ tiêu dùng trong cơ cấu tích lũy tiêu dùng, tăng khả năng tích lũy để đầu tư phát triển, đảm bảo mục tiêu vừa cải thiện mức sống của dân cư vừa tăng khả năng tích lũy để công nghiệp hóa. Tổng tích lũy tăng bình quân thời kì 2001-2005 là 11,4% năm
- Tài chính quốc gia có nhiều cải thiện, tốc độ tăng thu ngân sách nhà nước hàng năm cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng giá cộng lại. Tỷ lệ đầu tư phát triển trong GDP tăng nhanh. Mức huy động trong các năm gần đây đạt 30%…
- Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, điện, viễn thông, thủy lợi, ngày càng được nâng cấp và hoàn thiện .Trong đó hệ thống giao thông vận tải được tập trung phát triển. Nâng cấp, mở rộng và làm mới các tuyến giao thông huyết mạch và trọng yếu, đảm bảo thông suốt cả nước.
- Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ phát triển khá. Giáo dục đào tạo có những biến chuyển tích cực, mặt bằng dân trí đã được nâng lên, hoàn thiện việc xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước và phổ cập giáo dục trung học cơ sở ở 31 tỉnh thành phố. Cơ sở vật chất cho giáo dục , đào tạo được tăng cường. qui mô giáo dục tiếp tục phát triển, nội dung các chương trình giảng day có nhiều đổi mới, phù hợp với dự thay đổi của thời đại. Hoạt động khoa học công nghệ đã đóng góp không nhỏ không chỉ việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất , đời sống xã hội mà cả trên phương diện nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ
- Các thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN từng bước được hình thành, xuất hiện các thị trường mới như thị trường khoa học công nghệ, thị trường lao động, thị trường thông tin…Khuôn khổ pháp lí, các cơ chế chính sách , các chế tài quản lý cũng đã và đang được đổi mới phù hợp, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Công tác cải cách nên hành chính nhà nước được đẩy mạnh.Bộ máy tổ chức trong hệ thống hành chính nhà nước từ Chính phủ các Bộ, ngành trung ương tới chính quyền địa phương đã được đổi mới, hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn.
Hoạt động kinh tế đối ngoại đã có bước phát triển mạnh mẽ, đưa nước ta nhanh chóng hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đa phương hóa và đa dạng hóa các mối quan hệ với các nước , các tổ chức tài chính quốc tế, Việt Nam dã tham gia vào các diễn đàn, tổ chức liên kết như ASEAN,APEC, ASEM, AFTA, WTO.. Quan hệ hợp tác phát triển của nước ta với cộng đồng tài trợ quốc tế ngày càng được thắt chặt. Nguồn vốn tài trợ của các nước cho ta đều tăng đáng kể, tốc độ dải ngân vốn cũng như hiệu quả sử dụng vốn tài trợ cũng được đẩy nhanh.
Chính trị- xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được củng cố, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội. Hiệu lực hiệu quả quản lí nhà nước được tăng cường một bước. Cải cách hành chính có những tiến bộ nhất định. Dân chủ xã hội tiếp tục được phát huy. Nhiều vụ tiêu cực, tệ nạn xã hội, tội tham nhũng bị phát hiện và xử lý nghiêm.
2.1.2. Trình độ khoa học công nghệ tại các doanh nghiệp Việt Nam.
Nhiều cuộc khảo sát cho thấy trình độ công nghệ của một số ngành sản xuất và của các doanh nghiệp còn lạc hậu. Theo kết quả điều tra về thực trạng DN Việt Nam, hầu hết ở quy mô vừa và nhỏ, thậm chí siêu nhỏ, do đó khả năng trang bị máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến là rất hạn chế. trình độ công nghệ của các doanh nghiệp (DN) sản xuất trong nước tụt hậu hai thế hệ so với thế giới. Theo đó, hơn 70% máy móc thiết bị (MMTB) được sản xuất từ những năm 1970; 75% MMTB đã hết thời gian khấu hao; 50% MMTB mới tân trang.
Nhìn chung, có đến 52% MMTB được đánh giá là lạc hậu và rất lạc hậu. Về trình độ công nghệ, không có DN nào đạt trình độ công nghệ tốt; trong khi đó có 35% và 44% DN có trình độ công nghệ trung bình, lạc hậu và rất lạc hậu; trình độ công nghệ khá cũng chỉ khiêm tốn ở mức 21%.
Mức đầu tư cho khoa học và công nghệ (KH&CN) tuy đã tăng, nhưng chưa đáp ứng nhu cầu phát triển và vẫn dựa chủ yếu từ nguồn ngân sách nhà nước, chưa huy động được các nguồn đầu tư xã hội, nhất là từ các doanh nghiệp. Cơ chế, chính sách đầu tư cho khoa học và công nghệ chưa được tháo gỡ để tạo nguồn lực và động lực cho các tổ chức và các nhà khoa học phát huy tối đa năng lực sáng tạo và đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào ứng dụng trong thực tế sản xuất kinh doanh. Công tác hội nhập quốc tế về KH&CN cũng chưa được quan tâm đẩy mạnh để tìm kiếm, tiếp thu, làm chủ, tiến tới cải tiến công nghệ nhập từ nước ngoài phục vụ đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong xu thế hội nhập. Ngoài ra, sự gắn kết giữa đào tạo - nghiên cứu- sản xuất, kinh doanh; quan hệ hợp tác giữa các tổ chức KH&CN; chất lượng các đề tài nghiên cứu khoa học đã nghiệm thu và việc đưa kết quả nghiên cứu vào cuộc sống vẫn còn nhiều hạn chế.
Trong số 117 nước được Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) điều tra năm 2005, chỉ số ứng dụng công nghệ của Việt Nam nằm trong nhóm nước lạc hậu (đứng thứ 92); chỉ số đổi mới có cao hơn, song vẫn thua Thái Lan 42 bậc. Công nghệ và nhân lực KH&CN doanh nghiệp, cũng như nghiên cứu ứng dụng và đổi mới công nghệ ở nước ta còn nhiều bất cập.
Nguồn nhân lực KH&CN doanh nghiệp chiếm 7,24% lực lượng lao động. Trong số này, 71,9% có trình độ đại học; 26,9% cao đẳng; 0,9% là thạc sỹ; trình độ tiến sỹ và tiến sỹ khoa học 0,14%. Lực lượng KH&CN phân bổ không đều; trung bình 1 doanh nghiệp nhà nước có 64 lao động KH&CN, gấp 2,6 lần bình quân chung. Phân tích thực trạng lao động KH&CN cho thấy: Bình quân 1 doanh nghiệp có 1 người làm việc trong lĩnh vực KH&CN; bằng 0,3% tổng số lao động. Việc phân bổ lao động hoạt động KH&CN không đều, còn bất hợp lý trong các loại hình doanh nghiệp và giữa các nhóm ngành. Đầu tư đổi mới công nghệ là vấn đề được đặc biệt quan tâm. Trong tổng số vốn nghiên cứu và phát triển công nghệ, 87,2% dược dùng vào đổi mới. Hoạt động đổi mới công nghệ diễn ra mạnh mẽ trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với 90,6% tổng nguồn vốn thực hiện; DN nhà nướckhoảng 8,7% và DN ngoài nhà nước chỉ chiếm 0,67%.
Thực trạng đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp trong nước đang là cản trở nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh xuất khẩu của nhiều ngành hàng. Đây có thể là nguyên nhân vì sao trên 80% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tham gia xuất khẩu, trong khi chỉ có 31,7% doanh nghiệp ngoài nhà nước và 31,3% số doanh nghiệp nhà nước có hoạt động này. Vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu để có cơ chế hỗ trợ thiết thực đối với các doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ, đặc biệt là DN vừa và nhỏ.
Công tác hội nhập quốc tế về KH-CN cũng chưa được quan tâm đẩy mạnh để tìm kiếm, tiếp thu, làm chủ, tiến tới cải tiến công nghệ nhập từ nước ngoài phục vụ đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong xu thế hội nhập. Ngoài ra, sự gắn kết giữa đào tạo - nghiên cứu - sản xuất, kinh doanh, quan hệ hợp tác giữa các tổ chức KH-CN, chất lượng các đề tài nghiên cứu khoa học đã nghiệm thu và việc đưa kết quả nghiên cứu vào cuộc sống vẫn còn nhiều hạn chế.
Doanh nghiệp thờ ơ với việc nâng cao trình độ công nghệ: Các doanh nghiệp nhà nước lớn cũng ít quan tâm đến đổi mới công nghệ vì thường có vị thế độc quyền, không chịu sức ép cạnh tranh và có tâm lý dựa dẫm vào sự bảo hộ của Nhà nước. Ngay cả các DN ngành công nghiệp, được coi là chủ lực cũng tương tự. Theo Bộ Công nghiệp, phần lớn giá trị máy móc thiết bị sản xuất chỉ còn 30% so với giá trị ban đầu và đã lạc hậu hơn 30 năm, như dệt may có đến 45% cần phải đầu tư nâng cấp và 30 - 40% cần thay thế; mũi nhọn công nghiệp là cơ khí thì đã lạc hậu hơn 40 năm so với khu vực và 50 năm so với các nước phát triển về công nghệ. Đầu tàu kinh tế của cả nước là TP.HCM cũng chỉ có 25% DN có công nghệ sản xuất tiên tiến, 32% ở mức trung bình, còn lại là dưới trung bình và lạc hậu, trong đó DN có công nghệ lạc hậu chiếm 20%.
Bên cạnh đó, cơ chế bảo hộ cho các đối tượng sở hữu công nghệ còn yếu, chưa có chiến lược chuyển giao công nghệ hữu hiệu Thể chế bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp chưa tạo đủ lòng tin cho các nhà đầu tư thành lập và phát triển các doanh nghiệp khoa học công nghệ. Điều này liên quan đến hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ. Hệ thống luật pháp liên quan đến lĩnh vực này đang trong quá trình hoàn thiện cho nên khó có thể nói đến tính chuẩn mực của các qui định pháp luật theo hướng tương thích với các nước trong khu vực và phù hợp với thông lệ quốc tế.
2.1.3. Quản lý nhà nước về hoạt động chuyển giao công nghệ.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII và Kết luận của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII đã khẳng định: lấy ứng dụng, chuyển giao công nghệ, làm chủ công nghệ nhập, đi thẳng vào công nghệ tiên tiến ở những ngành, những lĩnh vực có tác động chi phối nền kinh tế quốc dân, những ngành có giá trị gia tăng cao, ngành công nghiệp mới, ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu chủ lực; cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật về chuyển giao công nghệ để đảm bảo cho hoạt động đổi mới, chuyển giao công nghệ có hiệu quả; xây dựng cơ chế, chính sách mới để hỗ trợ và thúc đẩy doanh nghiệp thường xuyên đổi mới công nghệ; hoàn thiện cơ sở pháp lý về nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật về chuyển giao công nghệ; phát triển mạnh mẽ các tổ chức dịch vụ tư vấn, đánh giá, định giá, giám định, môi giới, xúc tiến chuyển giao công nghệ.
Từ năm 1988 trở lại đây, Nhà nước đã ban hành hơn 30 văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến chuyển giao công nghệ, trong đó, có hiệu lực pháp lý cao nhất là Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, các quy định pháp luật hiện hành về chuyển giao công nghệ chưa thống nhất và đồng bộ. Bộ luật dân sự năm 2005 chỉ quy định 4 điều mang tính nguyên tắc về chuyển giao công nghệ. Những quy định cụ thể chủ yếu nằm trong các văn bản hướng dẫn thi hành, hiệu lực pháp lý thấp, thiếu ổn định, ảnh hưởng tới niềm tin của các chủ thể nắm giữ công nghệ, đặc biệt là các đối tác nước ngoài khi tiến hành đầu tư, chuyển giao công nghệ tại Việt Nam.
Ngày 29-11-2006 quốc hội khóa XI kì họp thứ 10 đã ban hành luật CGCN mới qui định về các hoạt động chuyển giao công nghệ.Điều 6 luật CGCN qui định chức năng quản lí nhà nước về hoạt động CGCN: .
- Ban hành, tổ chức thực hiện và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về chuyển giao công nghệ.
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, kế hoạch, chương trình, biện pháp, cơ chế, chính sách thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ, đổi mới công nghệ.
- Quản lý thống nhất hoạt động chuyển giao công nghệ.
- Hợp tác quốc tế về hoạt động chuyển giao công nghệ.
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về chuyển giao công nghệ; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về chuyển giao công nghệ.
2.2. Thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại VN thời gian qua.
Hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam hiện nay bao gồm các hình thức chủ yếu là chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam, chuyển giao công nghệ trong nước và chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài. Mặt khác, một số đánh giá khác thì phân chia việc chuyển giao công nghệ chủ yếu theo hai luồng chính là: từ công ty mẹ chuyển giao cho các công ty con trong các công ty 100% vốn nước ngoài, hoặc trong các công ty liên doanh. Luồng thứ hai là các hoạt động chuyển giao công nghệ thương mại thuần túy. Thực tế diễn ra tại Việt Nam phần nhiều là các hoạt động chuyển giao công nghệ theo hình thức thứ nhất. Một số nghiên cứu trong nước cho kết quả: 90% hợp đồng chuyển giao công nghệ được ký kết với các doanh nghiệp (DN) có vốn đầu tư nước ngoài.
2.2.1. Đặc điểm chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Nhìn chung, công nghệ chuyển giao vào Việt Nam được chia thành bốn nhóm:
Nhóm 1: Bao gồm những thiết bị và công nghệ lạc hậu hơn mức trung bình của thế giới khoảng 1 – 2 thế hệ, đang phổ biến tại các ngành lắp ráp điện tử, ôtô, lắp máy xây dựng, thuỷ sản đông lạnh...
Nhóm 2: Bao gồm những thiết bị và công nghệ lạc hậu khoảng 2 – 3 thế hệ so với mức trung bình của thế giới; tồn tại trong các ngành điện, giấy, đường, chế biến thực phẩm...
Nhóm 3: Bao gồm các thiết bị và công nghệ lạc hậu từ 3 – 5 thế hệ so với mức trung bình của thế giới; chủ yếu trong các ngành đường sắt, đường bộ, cơ khí, đóng tàu, sản xuất vật liệu xây dựng...
Nhóm 4: Bao gồm các loại thiết bị và công nghệ có độ lạc hậu cao hơn.
- Công nghệ đưa vào Việt Nam chủ yếu thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Nhà đầu tư thường là người chuyển giao công nghệ.
- Công nghệ được sử dụng trong dự án đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài là bên chuyển giao hoặc giới thiệu.
- Công nghệ trong dự án đầu tư 100% vốn đầu tư nước ngoài không nhất thiết phải chuyển từ công ty ở chính quốc mà được chuyển giao từ một công ty khác.
Đây cũng chính là cơ sở để đánh giá chung về hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua.
2.2.2. Đánh giá chung.
Một số nghiên cứu trong nước cho kết quả, 90% hợp đồng chuyển giao công nghệ được kí kết với các doanh nghiệp (DN) có vốn đầu tư nước ngoài. Tại Bộ Khoa học và Công nghệ, đến nay mới chỉ có trên 200 hợp đồng chuyển giao công nghệ được phê duyệt, đăng ký, chiếm phần rất nhỏ trong số các dự án chuyển giao công nghệ thực thi tại Việt Nam. Theo báo cáo về sức cạnh tranh của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) cho thấy năm 2004 tính trên 104 nền kinh tế được nghiên cứu, Việt Nam xếp hạng 79 về mức độ sử dụng bằng sáng chế, hạng 99 về mức sử dụng bằng sáng chế công nghệ nước ngoài.
Bảng 1. Chỉ số xếp hạng về công nghệ của Việt Nam năm 2004
Chỉ số xếp hạng về công nghệ
92
Chỉ số về sáng tạo công nghệ
79
Chỉ số về công nghệ thông tin
86
Chỉ số về chuyển giao công nghệ
66
Nguồn: Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) (2004) “Báo cáo năng lực cạnh tranh”
Về chuyển giao công nghệ, Việt Nam đã bị Thái Lan bỏ xa tới 62 bậc. Theo đánh giá của nhiều tổ chức nước ngoài, tỷ lệ sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam thấp (khoảng 20%); vào thời điểm này, Philippin đã đạt được 29%, Malaysia là 51% và Singapore tới 73%. Tổ chức tình báo kinh tế EIU cho biết, chỉ số sẵn sàng điện tử Việt Nam xếp thứ 61 trong 65 nước phân tích, kém Malaysia 30 bậc và Singapore tới 54 bậc.
Trong những năm qua, hoạt động chuyển giao công nghệ đã và đang diễn ra trên hầu hết các ngành, các lĩnh vực nhưng với mức độ, trình độ khác nhau. Bước đầu chuyển giao công nghệ đã gắn với phương hướng kinh doanh và được định hướng theo thị trường. Đây là đòi hỏi tất yếu của quá trình cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh: hoàn thiện sản phẩm trên cơ sở đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Ngành dệt may, giày da là một trong những ngành thực hiện đổi mới công nghệ theo hướng này, gắn đơn đặt hàng lớn với việc khai thác thị trường tương đối ổn định. Trong cơ chế thị trường, mọi thành phần kinh tế được tự do kinh doanh trên cơ sở sự điều chỉnh của Nhà nước. Do vậy, bản thân các doanh nghiệp đã chủ động nâng cao hiệu quả đầu tư sản xuất thông qua chuyển giao công nghệ. Mặc dù còn nhiều hạn chế song chính họ là người quyết định hiệu quả của chuyển giao công nghệ thông qua quá trình tìm tòi, lựa chọn, đàm phán và kí kết các hợp đồng chuyển giao công nghệ. Đồng thời, chuyển giao công nghệ đã thực hiện một cách có trọng điểm gắn với đầu tư chiều sâu và nâng cao hiệu quả kinh tế. Qua khảo sát, các doanh nghiệp đều tiến hành lần lượt từng dây chuyền, từng sản phẩm hoặc một số giai đoạn trong toàn bộ dây chuyền, sau đó triển khai tiếp. Trong xu thế khu vực hoá, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới hiện nay, cùng với sự mở rộng các quan hệ kinh tế song phương và đa phương, chuyển giao công nghệ cũng được thực hiện chủ yếu qua con đường này. ở đây, phần chủ động thường thuộc về phía nước ngoài. Phía Việt Nam dễ phải chịu thua thiệt, đặc biệt là nếu người chịu trách nhiệm đàm phán lại thiếu kiến thức về công nghệ và chuyển giao công nghệ. Thực tế cho thấy, nhiều dự án gặp vướng mắc trong vấn đề chuyển giao công nghệ mà hai bên phải đàm phán, thảo luận đi lại nhiều lần, phải bổ sung, điều chỉnh lại các văn bản liên quan... khiến các bên tốn kém thời gian, tiền của mà hiệu quả rất hạn chế. Bên cạnh đó, chuyển giao công nghệ gắn với hàng loạt các vấn đề kinh tế – xã hội khác như: việc làm người lao động, mức sống, nền văn hoá dân tộc... Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp nói riêng và các cơ quan quản lý nói chung phải lưu tâm trong việc lựa chọn công nghệ thích hợp. Một vấn đề mà chúng ta đặc biệt quan tâm trong giai đoạn hiện nay là: chuyển giao công nghệ phần nhiều là yếu tố kĩ thuật( máy móc, thiết bị ) mà những bí quyết kĩ thuật, phương pháp quản lý... lại ít được chuyển giao. Phải chăng đây là một trong những vấn đề bức xúc và rất có thể dẫn tới tình trạng lệ thuộc vào nền công nghệ chính quốc tại các nước đang phát triển?
Đánh giá chung về chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài, người ta không thể không đánh giá chất lượng công nghệ được chuyển giao thông qua chính nhà đầu tư nước ngoài – người đóng vai trò quyết định trong việc đưa công nghệ nào vào nước sở tại. Đến nay, chưa có một số liệu thống kê chính xác cho biết cơ cấu đối tác chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài. Nhưng nhìn vào bảng số liệu sau, người ta cũng có thể nhận thấy được một phần điều băn khoăn trên:
BẢNG 2: CƠ CẤU ĐỐI TÁC NƯỚC NGOÀI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP VÀO VIỆT NAM.
®Çu tƯ trùc tiÕp nƯíc ngoµi theo níc 1988-2007
(tÝnh tíi ngµy 31/12/2007 - chØ tÝnh c¸c dù ¸n cßn hiÖu lùc)
STT
Níc, vïng l·nh thæ
Sè dù ¸n
Vèn ®Çu t
Vèn ®iÒu lÖ
§Çu t thùc hiÖn
1
Hµn Quèc
1857
14,398,138,655
5,168,461,054
2,738,114,393
2
Singapore
549
11,058,802,313
3,894,467,177
3,858,078,376
3
§µi Loan
1801
10,763,147,783
4,598,733,632
3,079,209,610
4
NhËt B¶n
934
9,179,715,704
3,963,292,649
4,987,063,346
5
BritishVirginIslands
342
7,794,876,348
2,612,088,725
1,375,722,679
6
Hång K«ng
457
5,933,188,334
2,166,936,512
2,161,176,270
7
Malaysia
245
2,823,171,518
1,797,165,234
1,083,158,348
8
Hoa Kú
376
2,788,623,488
1,449,742,606
746,009,069
9
Hµ Lan
86
2,598,537,747
1,482,216,843
2,031,314,551
10
Ph¸p
196
2,376,366,335
1,441,010,694
1,085,203,846
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài- Bộ Kế Hoạch & Đầu Tư.
Chúng ta đã biết mối quan hệ mật thiết giữa các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với hoạt động chuyển giao công nghệ. Đây không những là mong muốn được tiếp nhận những công nghệ mới, tiên tiến của các nước sở tại mà còn là mong muốn kéo dài vòng đời công nghệ, thải hồi những công nghệ lạc hậu ở các quốc gia phát triển của nhà đầu tư thông qua các dự án đầu tư trực tiếp. Bởi vậy nhìn vào bảng số liệu trên, người ta có thể thấy rằng công nghệ chuyển giao vào Việt Nam những năm qua chủ yếu là từ các nước trong khu vực ASEAN, mà đứng đầu là Singapore và Đài Loan. Ở phần “ đánh giá trình độ công nghệ của Việt Nam”, đề án cũng đưa ra một bảng điểm về trình độ công nghệ của 10 quốc gia trong khu vực ASEAN. Các nước này có trình độ công nghệ không phải là cao trên thế giới. Vậy thì khó có thể hy vọng công nghệ chuyển giao vào Việt Nam là hiện đại, tiên tiến nếu như không tăng cường các biện pháp chuyển giao công nghệ từ các nước có nền công nghệ phát triển như EU, Mỹ... Một cách khái quát, có thể nói rằng, chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thời gian qua đã đáp ứng được phần nào yêu cầu phát triển nền kinh tế song chưa thực sự hiệu quả và phát huy tác dụng.
2.3. Đánh giá hoạt động chuyển giao công nghệ thời gian vừa qua.
2.3.1. Những kết quả đạt được.
Kể từ năm 1986, nền kinh tế nước ta bắt đầu mở cửa, hội nhập với nền kinh tế khu vực nói riêng và nền kinh tế toàn cầu nói chung, hoạt động đầu tư nước ngoài cũng bắt đầu được đẩy mạnh. Hoạt động này đã thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Mặc dù còn nhiều thua kém so với các nước trong khu vực nhưng bước đầu, bức tranh về một nền công nghệ tồi tàn, lạc hậu đã được cải thiện. Đây là những cơ sở, những định hướng để chúng ta xây dựng một nền công nghệ hiện đại trong tương lai. Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Trừ các dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 83,1 tỷ USD.
a. Về trình độ công nghệ:
Chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài đã góp phần nâng cao rõ rệt trình độ công nghệ của sản xuất so với thời kì trước đây. Nhìn chung, trình độ công nghệ của khu vực ĐTNN cao hơn hoặc bằng các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu vực. Hầu hết các doanh nghiệp có vốn ĐTNN áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được kết nối và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của công ty mẹ. ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy... Nhất là sau khi Tập đoàn Intel đầu tư 1 tỷ đô la Mỹ vào Việt Nam trong dự án sản xuất linh kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao của các tập đoàn đa quốc gia (Canon, Panasonic, Ritech.v.v)
Trong hầu hết các ngành, công nghệ tiên tiến của nước ngoài đã được đưa vào dưới dạng đổi mới đồng bộ hay từng dây chuyền công nghệ. Thực tiễn “ chiến lược đón đầu công nghệ” – một ưu thế của kẻ đi sau, các ngành bưu chính viễn thông, thăm dò, khai thác dầu khí, một số dây chuyền sản xuất tự động đã được đưa vào trong nước như công nghệ CAD, CAM đưa vào trong thiết kế cơ khí chế tạo, dệt may, nhựa.Thông qua các dự án đầu tư nước ngoài, một số công nghệ mới đã được nhập vào nước ta như công nghệ sản xuất ống gang chịu áp lực bằng gang graphit cầu, sản xuất ống thép bằng phương pháp cuốn và hàn tự động theo đường xoắn ốc, sản xuất cáp quang, sản xuất đồ trang sức bằng kim loại quí với qui mô công nghiệp bằng phương pháp đúc khuôn mẫu chảy… đã tiếp nhận được những công nghệ tiên tiến so với khu vực và thế giới. Một số ngành khác cũng cải thiện được phần lớn dây chuyền sản xuất, phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh trong nước như: may mặc, giầy da, chế biến thuỷ sản... Ngoài ra còn phải kể đến sự vực dậy của Công ty gang thép Thái Nguyên thông qua một loạt các hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài của Trung Quốc, Đài Loan... Như vậy, sự nâng cao trình độ công nghệ tại một số ngành then chốt của nền kinh tế quốc dân cũng như tại các doanh nghiệp trung ương và địa phương đã góp phần nâng cao trình độ của nền công nghệ Việt Nam thời gian qua.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, mặc dù tỷ trọng vốn FDI chiếm tỷ lệ thấp , tuy nhiên nhiều dây chuyền công nghệ mới đã được chuyển giao vào Việt Nam như dây chuyền sản xuất các loại rau quả hộp, nước trái cây, một số liên doanh đã được thành lập ở Việt Nam để xuất khẩu một phần hoặc toàn bộ sản phẩm như liên doanh sản xuất thịt lợn ở Bình Dương, bột mì cao cấp ở Bà Rịa - Vũng Tàu, liên doanh chế biến chè, hồ tiêu... Một số giống cây mới đã được đưa vào Việt Nam cho năng suất cao như giống dứa Cayen, giống mía ấn Độ, Đài Loan, châu Mỹ La tinh. Nhiều loại thiết bị chế biến đã được đưa vào Việt Nam thuộc loại tiên tiến và hiện đại bậc nhất thế giới như dây chuyền xay xát gạo Satake của Nhật Bản, dây chuyền sản xuất bột mỳ của Xinhgapo, Inđônêxia, các dây chuyền chế biến rau quả của ý, Hà Lan, các dây chuyền chế biến thịt của úc, các dây chuyền chế biến thức ăn gia súc của Mỹ, Pháp, Hà Lan, các dây chuyền chế biến chè của Nhật, Bỉ, Đài Loan, các nhà máy đường của Anh, Pháp, ấn Độ, úc, Nhật, Đài Loan, liên doanh chế biến sữa và các sản phẩm sữa, liên doanh sản xuất bia, nước giải khát, liên doanh chế biến hải sản.... Các công nghệ mới này góp phần tạo ra một khối lượng hàng nông sản xuất khẩu lớn, chất lượng cao và giá thành hạ, có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
b. Về trang thiết bị.
Có thể nói công nghệ chuyển giao vào Việt Nam qua các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu là phần cứng của công nghệ dưới dạng các trang thiết bị phục vụ sản xuất. So với thế giới, các công nghệ này có độ lạc hậu ít nhất từ 1 – 2 thế hệ. Nhưng so với nền công nghệ Việt Nam, đây là những trang thiết bị tương đối đồng bộ và có trình độ cơ khí hoá cao hơn công nghệ trong nước. Phần lớn các thiết bị đó được trang bị các bộ gá chuyên dùng kèm theo các phương tiện nâng hạ vận chuyển phục vụ cho dây chuyền sản xuất chuyên môn hóa(các máy đột, ép, đập trên các dây chuyền sản xuất các kết cấu kim loại..). Các nhà đầu tư nước ngoài đã đưa vào Việt Nam các thiết bị riêng lẻ có trình độ tự động hoá cao, như các dây chuyền lắp ráp các bản mạch điện tử, tổng đài tự động kỹ thuật số, lắp ráp các mặt hàng điện tử...
Tổng kim ngạch nhập khẩu của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2007 lên 21,72 tỷ USD, tăng 31,6% so với năm trước và chiếm 34,3% tổng giá trị nhập khẩu của cả nước.Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng: kim ngạch nhập khẩu nhóm mặt hàng này năm 2007 đạt trên 11,12 tỷ USD, tăng 67,8% so với năm trước. Trong đó, nhập khẩu c._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24947.doc