Tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần XNK (EximBank) Hà Nội - Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta trong thời gian qua đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tăng trưởng kinh tế – xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng chứng tỏ được tầm quan trọng của mình. Góp phần vaò thành công đó phải kể đến là sự tài trợ xuất nhập khẩu của tín dụng

doc57 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1408 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần XNK (EximBank) Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngân hàng. Tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng không chỉ mang lại lợi ích cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn mang lại lợi ích cho toàn xã hội và ngay cả bản thân ngân hàng, bởi vì tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng. Được thành lập và chính thức đi vào hoạt động ngày 27/11/1992, Eximbank Hà Nội đã từng bước khẳng định được vị thế của mình trên thị trường. Công tác tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng trong vài năm trở lại nay đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể, nhưng bên cạnh đó cũng còn chứa đựng nhiều điều kiện bất cập có ảnh hưởng xấu tới hoạt động của ngân hàng, đòi hỏi phải được xem xét một cách nghiêm túc để tìm ra giải pháp tháo gỡ khó khăn, làm lành mạnh hoạt động của ngân hàng, thúc đẩy sự tăng trưởng. Qua thời gian thực tập tại Eximbank Hà Nội, tôi thấy việc nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung và biện pháp nhằm tháo gỡ các vướng mắc và hoàn thiện các hoạt động của ngân hàng trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cho phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường trước ngưỡng cửa hội nhập và xu thế toàn cầu hoá của nền kinh tế. Chính vì vậy tôi đã chọn chuyên đề tốt nghiệp của mình là: “Tín dụng xuất nhập khẩu tại Eximbank Hà Nội - Thực trạng và giải pháp” Chương I LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NHTM NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN V Ề TÍN DỤNG NGÂN HÀNG Khái niệm Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng – một tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ, với một bên là tất cả các tổ chức cá nhân. Với vai trò trung gian tài chính, ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội bằng hình thức tiền gửi và tiền vay. Trên cơ sở đó, ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức, các nhân khi các tổ chức này thiếu vốn và cần được bổ sung trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Qua hoạt động này. Ngân hàng đã thực hiện chức năng phân phối lại tiền tệ để đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh của xã hội. Cơ sở khách quan để hình thành chức năng phân phối lại tiền tệ của tín dụng ngân hàng chính là do đặc điểm tuần hoàn vốn. Trong quá trình tái sản xuất, việc xuất hiện hiện tượng tạm thời thừa vốn ở các tổ chức cá nhân thường xuyên xảy ra, trong khi đó lại có các tổ chức cá nhân khác trong tình trạng thiếu vốn và có nhu cầu cần được bổ sung vốn. Hiện tượng thiếu vốn và thừa vốn phát sinh do có sự chên lệch về thời gian và số lượng giữa các khỏan thu nhập và chi tiêu ở tất cả các tổ chức, cá nhân trong khi quá trình tái sản xuất, kinh doanh đòi hỏi phải được tiến hành liên tục. Họat động tín dụng của hệ thống NHTM đã phát huy vai trò đối với lĩnh vực sản xuất lưu thông hàng hóa trong việc đáp ứng nhu cầu về vốn để duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tái sản xuất kinh doanh, đồng thời được sử dụng như một công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành kinh tế chung của đất nước. Phân loại tín dụng ngân hàng Có rất nhiều các tiêu chí khác nhau để phân loại tín dụng ngân hàng. Nhìn chung, ta có thể phân loại như sau: Căn cứ vào thời hạn tín dụng: + Tín dụng ngắn hạn: Là các khoản tín dụng có thời hạn tối đa là 2 tháng + Tín dụng trung và dài hạn: Là các khoản tín dụng có thời hạn thông thường lớn hơn 12 tháng. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng: + Tín dụng có đảm bảo: Là những khỏan tín dụng mà ngân hàng đòi hỏi người vay phải có cầm cố hoặc thế chấp hoặc bảo lãnh khi vay vốn tại ngân hàng. + Tín dụng không có đảm bảo: Là hình thức tín dụng mà ngân hàng chỉ cho vay dựa trên uy tín, năng lực cũng như phẩm chất của người vay. Ngòai ra, tín dụng ngân hàng còn được phân thành: tín dụng thấu chi, tín dụng tiêu dùng, hay tín dụng ứng trước, ... Các nguyên tắc trong cho vay của Ngân hàng Việc cho vay của các tín dụng Việt Nam phải tuân thủ theo quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng do HNNN Việt Nam ban hành. Theo quy chế này thì khi tiến hành cho vay, ngân hàng và khách hàng phải tuân thủ các nguyên tắc sau: Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi: Đây là nguyên tắc cơ bản đầu tiên trong cho vay của ngân hàng, bởi lẽ nguồn vốn mà ngân hàng cho khách hàng vay được huy động từ nền kinh tế. Do đó ngân hàng cũng phải trả lãi cho các nguồn vốn này và ngân hàng chỉ thực sự thực hiện được điều đó khi nhận được cả gốc và lãi từ phía khách hàng. Tiền vay phải được sử dụng đúng mục đích: Đây là nguyên tắc ngân hàng buộc khách hàng phải cam kết khi vay vốn, khi khách hàng thực hiện tốt cam kết này sẽ giúp cho ngân hàng thuận tiện trong việc giám sát khoản vay. Tiền được sử dụng đúng mục đích đúng với dự án đã được thẩm định sẽ mang lại tính khả thi cao và đem lại lợi nhuận không chỉ cho ngân hàng mà cho cả khách hàng. Phải có tài sản tương đương làm đảm bảo cho tiền vay: Để vay vốn tại ngân hàng thì khách hàng phải trình cho ngân hàng các chứng từ, hóa đơn về mua bán hàng hóa. Trên cơ sở đó ngân hàng sẽ xét duyệt và cho vay một lượng tiền tương đương với giá trị hàng hóa hoặc tài sản của khách hàng vay vốn. Đây là nguyên tắc đòi hỏi nghiệp vụ thẩm định của các cán bộ tín dụng khi cho khách hàng vay. Các nguyên tắc khác: Ngòai ra, trong hoạt động tín dụng ngân hàng, cũng cần quan tâm tới kế hoạch, mục tiêu, cũng như phương hướng hoạt động của ngân hàng. Trên cơ sở đó chủ động khai thác nguồn vốn trong nền kinh tế để đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng, đặc biệt là các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu 2. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XNK 2.1 Sự cần thiết phát triển hoạt động XNK và nhu cầu tài trợ cho XNK 2.1.1 Sự cần thiết phát triển hoạt động xuất nhập khẩu Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế không thể chỉ dựa vào nền sản xuất trong nước mà còn phải quan hệ với các nước bên ngoài. Do có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên như tài nguyên, khí hậu...mà mỗi quốc gia có thế mạnh trong việc sản xuất một số mặt hàng nhất định. Để đạt được hiệu quả kinh tế đồng thời đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng ở trong nước, các quốc gia đều mong muốn có được những sản phẩm chất lượng cao với giá rẻ hơn từ các nước khác đồng thời mở rộng được thị trường tiêu thụ đối với các sản phẩm thế mạnh của mình. Chính từ mong muốn đó đã làm nảy sinh hoạt động thương mại quốc tế. Hoạt động thương mại quốc tế thông qua mối quan hệ rộng rãi vượt ra ngoài biên giới quốc gia sẽ là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế bên ngoài, đồng thời tạo ra động lực thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế ở mỗi khu vực và trên toàn thế giới. Thương mại quốc tế được cấu thành bởi hai bộ phận cơ bản xuất khẩu và nhập khẩu. Do vậy, xác định được vai trò quan trọng cũng như có sự quan tâm thích đáng đến hoạt động xuất nhập khẩu là nhiệm vụ hàng đầu của hoạt động thương mại quốc tế. Đối với Việt Nam, ngoài những đặc điểm nêu trên chúng ta còn có những nét đặc thù riêng đó là nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng kĩ thuật lạc hậu, công nghệ thủ công... đang rất cần được đổi mới, bên cạnh đó tiềm lực xuất khẩu lại lớn nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Tất cả những điều này cho thấy hoạt động xuất nhập khẩu đối với nước ta càng quan trọng hơn. Vai trò của xuất nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện qua một số khía cạnh cơ bản sau: Xuất khẩu Xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho đất nước tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước sẽ khuyến khích các ngành, nghề phát triển bởi họ phần nào có được thị trường tiêu thụ ổn định và mở rộng hơn. Đồng thời, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế sẽ tạo cho các nhà sản xuất sự năng động và sáng tạo trong kinh doanh, sự quan tâm đúng đắn đến việc nâng cao hiệu quả quản lí, đổi mới công nghệ cũng như nâng cao chất lượng của sản phẩm. Xuất khẩu tạo điều kiện cho việc nhập khẩu có thể diễn ra thuận lợi hơn nhờ nguồn ngoại tệ thu được và mối quan hệ quốc tế mà nó tạo ra. Nhập khẩu Song song với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Cụ thể: Nhập khẩu tạo ra hàng hoá bổ sung cho hàng hoá thiếu hụt trong nước và thay thế những sản phẩm trong nước không sản xuất được hay sản xuất với chi phí cao hơn để đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng nội địa một cách tốt nhất, từ đó tạo sự ổn địnhvề cung-cầu trong nước và cao hơn là sự ổn định kinh tế vĩ mô. Nhập khẩu có tác động đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật, đổi mới công nghệ tạo tiền đề thuận lợi cho sản xuất. Ngoài ra, nhập khẩu còn có vai trò thúc đẩy xuất khẩu thông qua việc cung cấp các nguyên vật liệu, máy móc thiết bị đầu vào cho xuất khẩu cũng như góp phần định hướng sản phẩm, định hướng thị trường cho xuất khẩu. Cuối cùng, một vai trò hết sức quan trọng của cả xuất và nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế-xã hội đó là tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân và mở rộng hợp tác quốc tế. Nhu cầu tài trợ cho xuất nhập khẩu Như đã nói trên, trong nền kinh tế mở các doanh nghiệp luôn phải đối đầu với sự cạnh tranh gay gắt. Họ không chỉ phải cạnh tranh với các nhà sản xuất trong nước mà còn phải cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Để chiến thắng trong cạnh tranh, ngoài việc cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước như sự ưu đãi về thuế, sự điều chỉnh tỉ giá hối đoái phù hợp... các doanh nghiệp còn cần phải có một tiềm lực tài chính mạnh để thực hiện các hoạt động như đổi mới dây chuyền công nghệ, mua sắm máy móc hiện đại, mua sắm nguyên vật liệu, cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành... Song trên thực tế do khả năng tài chính có hạn nên hầu hết các doanh nghiệp đều cần có sự hỗ trợ từ bên ngoài. Nhu cầu tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu nảy sinh từ những đòi hỏi đó và nó gắn liền với các giai đoạn của hoạt động này. Do hoạt động thương mại quốc tế hiện nay là rất đa dạng và vì thế cũng hết sức phức tạp (nó bao gồm nhiều mối quan hệ như: thương mại giữa các nước phát triển, thương mại giữa các nước đang phát triển, thương mại giữa các nước phát triển và đang phát triển...) nên để phù hợp với điều kiện Việt Nam cũng như với đề tài nghiên cứu, ở đây tôi chỉ xin đề cập đến hoạt động thương mại quốc tế giữa các nước phát triển và đang phát triển. Xuất khẩu hàng hoá từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển chủ yếu là hàng hoá tư liệu sản xuất như máy móc thiết bị, kỹ thuật, công nghệ. Đây là những hàng hoá mà để hoàn thành hoạt động xuất khẩu cần phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau từ phân tích nhu cầu, kí kết hợp đồng, sản xuất cung ứng, lắp ráp chạy thử... đến thanh toán tiền hàng. Nhu cầu tài trợ thường để đáp ứng các chi phí cho quảng cáo, thiết kế mẫu mã, sản xuất và cung cấp công trình. Xuất khẩu hàng hoá từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển chủ yếu là các mặt như nông, lâm, thuỷ hải sản, hàng thô hay mới qua sơ chế... Và nhu cầu tài trợ thường là để thu mua chế biến xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu vốn tạm thời. Nhu cầu tài trợ cho xuất khẩu Việc thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng hoá máy móc thiết bị thường kéo dài từ nhiều tháng cho tới vài năm, do đó thông thường nhu cầu tài trợ thường nảy sinh ở nhiều giai đoạn khác nhau. Cụ thể: Giai đoạn phân tích nhu cầu, thiết kế, tìm kiếm khách hàng, đại diện tại các hội chợ, đàm phán sơ bộ, lập kế hoạch: Để hoàn thành tốt giai đoạn này các chuyên gia phải thực hiện các chuyến đi dài ngày và tiến hành nhiều cuộc đàm phán, phải làm ra hàng mẫu và mô hình để trưng bày, giới thiệu. Sau đó họ còn phải hoàn tất các tài liệu thiết kế và tính toán chính xác cho đàm phán hợp đồng. Chi phí cho những hoạt động này không phải nhỏ, đặc biệt với các cơ sở kinh doanh tiềm lực tài chính còn hạn hẹp. Giai đoạn ký kết hợp đồng: Trong trường hợp nhà xuất khẩu chưa có uy tín cao ở nước ngoài, đối tác có thể yêu cầu một bảo đảm giao hàng hoặc bảo đảm hoàn thành công trình. Đảm bảo này sẽ có hiệu lực nếu việc giao hàng hoặc hoàn thành công trình không đúng như thoả thuận. Trường hợp khác, nếu nhà xuất khẩu cần tiền đặt cọc mà nhà nhập khẩu là người nước ngoài đang gặp khó khăn về tài cính ,nhà xuất khẩu có thể đề nghị ngân hàng của mình cung cấp tín dụng tương đương với số tiền đật cọc và nhà nhập khẩu có ngiã vụ chi trả cho khoản tín dụng đó Giai đoạn chuẩn bị sản xuất: Sau khi đã kí hợp đồng, nhà xuất khẩu sẽ tiến hành chuẩn bị sản xuất. Nhất là việc xây dựng các công trình lớn như, nhà máy, xí nghiệp... việc này thường đi kèm với chi phí lớn vượt quá mức đặt cọc. Giai đoạn sản xuất: Mặc dù đã có những thoả thuận về việc thanh toán tiếp theo của người mua, trong thời gian này thường nảy sinh các nhu cầu tài chính cao về vật tư và chi phí liên quan khác vượt qua các khoản thanh toán giữa chừng. Giai đoạn cung ứng: Ngay cả trong giai đoạn cung ứng cũng có thể nảy sinh các chi phí cần được tài trợ như chi phí vận tải, bảo hiểm... tuỳ theo điều kiện cung ứng. Giai đoạn lắp ráp, chạy thử, bàn giao công trình: Sau khi hàng hoá được bàn giao tới địa điểm qui định, nhà xuất khẩu còn cần chi phí cho lắp ráp chạy thử cho tới khi được người mua thu nhận và chấp nhận thanh toán. Giai đoạn bảo hành: Trong giai đoạn này người mua có quyền yêu cầu được bảo hành ở ngân hàng của nhà xuất khẩu trước khi thanh toán. Giai đoạn thanh toán: Hiện nay, để việc cung cấp hàng hoá xuất khẩu được thuận lợi người xuất khẩu thường phải dành cho người mua một ưu đãi thanh toán trong nhiều năm mà người xuất khẩu và ngân hàng của họ có thể chấp nhận được .Trong thời gian chờ được thanh toán nhà xuất khẩu thường có nhu cầu được tài trợ để đảm bảo vốn cho quá trình tái sản xuất tiếp theo . Nhu cầu tài trợ nhập khẩu Với hoạt động nhập khẩu, nếu như nhà xuất khẩu có nhu cầu tài trợ để đẩy mạnh hoạt động bán hàng thì các nhà nhập khẩu cũng nảy sinh nhu cầu tài trợ để mua hàng khi khả năng tài chính không đáp ứng được. Vì vậy về phía nhà nhập khẩu cũng hình thành nhu cầu tài trợ trên nhiều mặt. Giai đoạn trước khi kí kết hợp đồng: Ở giai đoạn này các nhà nhập khẩu cần có những chi phí cho việc thuê các chuyên gia phân tích chính xác nhu cầu của mình để tiến hành đấu thầu một cách phù hợp. Giai đoạn sau khi kí kết hợp đồng: Sau khi kí kết được hợp đồng, các nhà nhập khẩu cần được tài trợ để đặt cọc hoặc tạm ứng cho nhà xuất khẩu.... Giai đoạn sản xuất và hoàn thành công trình: Trong giai đoạn này nhà nhập khẩu có thể phải thực hiện những khoản thanh toán giữa chừng cho nhà xuất khẩu hay tài trợ cho các công việc ở điạ phương để chuẩn bị cho đầu tư. Giai đoạn cung ứng và vận chuyển hàng hoá: Tuỳ theo điều kiện cung ứng hàng hoá có thể nảy sinh nhiều phí tổn về vận chuyển và bảo hiểm đối với các nhà nhập khẩu. Nhận hàng hoá: Nếu tiến hành thanh toán cung ứng hàng hoá khi xuất trình chứng từ (có thư tín dụng kèm theo hoặc theo điều kiện D/P) thì thường nhà nhập khẩu chỉ có thể nhận được hàng khi giá trị trên hoá đơn đã ghi rõ hoặc có thể tài trợ được. Xử lí tiếp, bán tiếp, tài trợ tiêu thụ: Đối với hàng hoá chủ định bán tiếp thì nhà nhập khẩu còn có nhu cầu tài trợ giữa chừng cho khoảng thời gian từ khi nhập hàng về tới khi hàng hoá được tiêu thụ. Nếu sản phẩm là những dây chuyền công nghệ để sản xuất thì nhà nhập khẩu sẽ có nhu cầu được tài trợ cho giai đoạn từ khi sản xuất sản phẩm mới tới khi tiêu thụ được các sản phẩm làm ra và thu được tiền hàng. Qua việc xem xét nhu cầu tài trợ cho vay xuất nhập khẩu ở trên ta có thể khẳng định rằng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có một nhu cầu tài trợ rất lớn. Vậy thì để đáp ứng cho nhu cầu đó có những nguồn tài trợ nào. Dưới đây là một số nguồn tài trợ thường dùng cho xuất nhập khẩu. Các nguồn tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hoạt động xuất nhập khẩu là một trong những hoạt động kinh tế cơ bản, do vậy nó cũng được tài trợ từ rất nhiều nguồn khác nhau. Trong đó, những nguồn tài trợ thường được sử dụng là: Tín dụng thương mại (hay tín dụng nhà cung cấp): là nguồn tài trợ được thực hiện thông qua hình thức mua bán chịu hàng hoá, dịch vụ với các công cụ chủ yêú là kỳ phiếu và hối phiếu. Đây là nguồn tài trợ ngắn hạn được ưa dùng vì dễ thực hiện, khả năng chuyển thành tiền mặt cao (thông qua chiết khấu tại các ngân hàng), linh hoạt về thời hạn. Tuy nhiên, các công cụ như hối phiếu thường được sử dụng trên cơ sở có ngân hàng đứng ra chấp nhận hay bảo đảm. Các khoản phải nộp phải trả: Bao gồm: thuế phải nộp nhưng chưa nộp, phải trả cán bộ công nhân viên và các khoản phải trả phải nộp khác. Đây là nguồn tài trợ mang tính thời điểm cao vì nó thường nhỏ và ít ổn định. Vốn tự có: Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp khác nhau mà vốn tự có có thể là vốn Ngân sách cấp, vốn cổ phần của các sáng lập viên công ty cổ phần hay vốn của chủ doanh nghiệp tư nhân. Vốn tự có chủ yếu bao gồm vốn khi thành lập doanh nghiệp như nói trên và phần lợi nhuận để lại. Sử dụng vốn tự có doanh nghiệp có thể giảm được hệ số nợ, tạo sự chủ động trong kinh doanh. Tuy vậy, nguồn tài trợ này có hạn chế là qui mô không lớn và nhiều khi chi phí cơ hội của việc giữ lại lợi nhuận cao. Phát hành trái phiếu công ty: Đây cũng là một hình thức tài trợ khá phổ biến trong nền kinh tế thị trường gần như cổ phiếu. Trái phiếu là một giấy chứng nhận nợ của doanh nghiệp. Sử dụng phát hành trái phiếu doanh nghiệp có thể huy động vốn cho hoạt động kinh doanh mà không dẫn đến phải chia quyền kiểm soát doanh nghiệp như khi sử dụng cổ phiếu thường. Tuy nhiên, với trái phiếu doanh nghiệp thường phải trả lợi tức cố định cho dù hoạt động kinh doanh có lãi hay không. Điều này dễ làm tăng khả năng phá sản đối với doanh nghiệp khi gặp khó khăn về tài chính. Ngoài ra, với thị trường tài chính chưa phát triển như đã nói trên thì hình thức này cũng khó phát huy tốt được ưu thế của nó. Tín dụng ngân hàng: Ngân hàng có thể tài trợ cho các doanh nghiệp thông qua nhiều hình thức và với những mục đích sử dụng khác nhau như: cho vay ngắn hạn theo hạn mức tín dụng, cho vay theo hợp đồng, cho vay có đảm bảo... để thu mua dự trữ, sản xuất, nhập khẩu nguyên vật liệu, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động. Hoặc cho vay dài hạn để đầu tư dự án, mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ... Tuỳ vào từng doanh nghiệp mà Ngân hàng có thể áp dụng những hình thức nhất định sao cho thuận lợi với cả hai bên. Một đặc điểm khá nổi bật của tín dụng ngân hàng là có khả năng linh hoạt về lãi suất cũng như thời hạn. Các nguồn tài trợ khác: Ngoài các nguồn tài trợ trên các doanh nghiệp xuất nhập khẩu còn có thể được tài trợ bằng các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ viện trợ của nước ngoài, hỗ trợ của Chính phủ...Hiện nay các nguồn này thường cũng được sử dụng thông qua các Ngân hàng. Như vậy, nguồn tài trợ cho xuất nhập khẩu rất đa dạng nhưng trong đó nguồn tín dụng ngân hàng nhờ có những ưu thế riêng nên vẫn nắm giữ một vị trí đặc biệt đối với sự phát triển của đất nước nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng Tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu Khái niệm, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu Khái niệm tín dụng ngân hàng Tín dụng nói chung là một phạm trù kinh tế được rất nhiều nhà kinh tế học đề cập đến và do đó cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về tín dụng.Tuy nhiên, theo cách hiểu chung nhất thì: tín dụng là một quan hệ xã hội giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối liên hệ với nhau thông qua sự vận động của giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật. Trên cơ sở đó ta có thể hiểu “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là các tổ chức, đơn vị kinh tế-xã hội, các cơ quan Nhà nước và các tầng lớp dân cư ”. Tín dụng ngân hàng ra đời và ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhờ có khả năng đáp ứng tốt mọi nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà nó đã không ngừng được mở rộng sang tất cả các ngành, lĩnh vực khác nhau trong đó có hoạt đọng xuất nhập khẩu, nó đã trở thành một nguồn tài trợ không thể thiếu đối với hoạt động xuất nhập khẩu của các quốc gia. Sự tham gia hỗ trợ của các ngân hàng cho hoạt động xuất nhập khẩu có tác động tích cực không chỉ về mặt tài chính mà còn về cả việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu được thể hiện qua các mặt sau: Thứ nhất, giống như các nguồn tài trợ khác tín dụng ngân hàng là một nguồn vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để thu mua dự trữ, sản xuất, tiêu thụ hàng hoá, mua sắm máy mócthiết bị...phục vụ cho quá trình sản xuất cũng như tái sản xuất của doanh nghiệp. Thứ hai, tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường . Kinh doanh có hiệu quả là yêu cầu của hạch toán kinh tế đồng thời cũng là một trong những điều kiện cung cấp tín dụng của ngân hàng. Do đó, tín dụng ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn đến hiệu quả kinh doanh, nâng cao mức doanh lợi. Bên cạnh đó, với khả năng linh hoạt về thời hạn và lãi suất của tín dụng ngân hàng sẽ khuyến khích sự chủ động và sáng tạo của các doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn sao cho phù hợp với nhu cầu về vốn trong mỗi thời kỳ khác nhau. Thứ ba, tín dụng ngân hàng thúc đẩy hoạt dộng xuất nhập khẩu diễn ra thuận lợi và nhanh chóng hơn. Thứ tư, xuất phát từ tính rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cao và do việc thiếu hiểu biết lẫn nhau giữa người mua và người bán sự có mặt của ngân hàng sẽ là một đảm bảo cho cả hai bên, nhà xuất khẩu sẽ hạn chế được những rủi ro không thanh toán khi ngân hàng đứng ra đảm bảo cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu và ngược lại nhờ nguồn tín dụng của ngân hàng nhà nhập khẩu thực hiện được những nhập khẩu quan trọng trong khi khả năng tài chính của họ chưa đáp ứng được. Thứ năm, ngân hàng là một đầu mối tiếp nhận các nguồn tài trợ của nước ngoài cho hoạt động xuất nhập khẩu. Bởi vì hiện nay phần lớn các nguồn tài trợ của các tổ chức tài chính- tiền tệ quốc tế cho một quốc gia nào đó được thực hiện qua các ngân hàng nước sở tại. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu càng có ý nghĩa hơn khi ngân hàng thực hiện các chính sách của Nhà nước, trong đó có chính sách hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Ngân hàng sẽ cung cấp cho các nhà xuất nhập khẩu những khoản tín dụng lớn với lãi suất ưu đãi mà nhờ đó họ có thể giải quyết vấn đề thiếu vốn trong hoạt động kinh doanh của mình. CÁC HÌNH THỨC VÀ QUY TRÌNH TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NHTM Tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại bao gồm nhiều hình thức khác nhau và tuỳ trình độ phát triển của ngân hàng và những qui định của pháp luật mà các ngân hàng lựa chọn áp dụng các hình thức cho phù hợp. Dưới đây ta sẽ xem xét một số hình thức tín dụng xuất khẩu và tín dụng nhập khẩu thông dụng. . Tín dụng xuất khẩu Ngân hàng thương mại cho các cơ sở xuất khẩu vay dưới các hình thức như cho vay thông thường, cho vay trên cơ sở hối phiếu, cho vay trên cơ sở phương thức thanh toán nhờ thu, cho vay trên cơ sở phương thức thanh toán tín dụng chứng từ ... Cho vay thông thường Cho vay thông thường là việc ngân hàng giao cho khách hàng một khoản tiền để họ sử dụng trong một thời gian nhất định. Khi hết hạn, người vay phải trả đầy đủ cả gốc và lãi. Đây là hình thức tín dụng truyền thống, về kỹ thuật và phương pháp cho vay giống như các dạng tín dụng nội địa tương ứng thông thường khác. Nó bao gồm các phương thức như cho vay một lần, cho vay theo hạn mức tín dụng và cho vay theo hợp đồng tín dụng tuần hoàn. Đối với các nhà xuất khẩu hình thức tín dụng này ngoài việc được sử dụng cho các mục đích thu mua sản xuất, chế biến xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động nó còn được sử dụng để trang trải các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất như: phí thuê tàu, thuế xuất khẩu... Tín dụng chiết khấu hối phiếu. Nhà xuất khẩu khi cần tiền có thể vay ngân hàng bằng cách đem chiết khấu các hối phiếu chưa đến hạn trả tiền . Cơ sở để xác định khối lượng tín dụng này là giá trị của hối phiếu sau khi đã trừ đi giá trị chiết khấu và lệ phí nhờ thu. Giá trị chiết khấu thường được xác định ở các ngân hàng theo công thức: Lck Tck = M x (1- x t ) - P 360 Trong đó: Tck: Giá trị chiết khấu M: Mệnh giá hối phiếu P: Lệ phí t: thời gian chiết khấu (ngày) Lck: lãi suất chiết khấu theo năm Trong các yếu tố trên thì lãi suất chiết khấu thường được quan tâm hơn cả. Tỷ lệ này phụ thuộc các yếu tố: Khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu,thời hạn thanh toán, giá trị hối phiếu... Qui trình tín dụng chiết khấu hối phiếu Nhà nhập khẩu Nhà xuất khẩu (1) (2) (3) (4) (7) (8) (10) Ngân hàng XK Ngân hàng nhà NK (10b) Ngân hàng Trung Ương ở nước nhà XK (5) (10a) (6) (9) (10) (1) Nhà xuất khẩu sau khi giao hàng, chuyển chứng từ vận chuyển và hối phiếu đòi nợ tới nhà nhập khẩu. (2) Nhà nhập khẩu chấp nhận hối phiếu và chuyển hối phiếu đã chấp nhận cho nhà xuất khẩu (3) Nhà xuất khẩu đề nghị ngân hàng của mình cấp tín dụng trên cơ sở hối phiếu đã được chấp nhận. (4) Ngân hàng xuất khẩu đồng ý cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu (ghi có vào tài khoản của nhà xuất khẩu sau khi đã trừ đi giá trị chiết khấu và lệ phí nhờ thu). (5) Ngân hàng nhà xuất khẩu đem hối phiếu đến ngân hàng trung ương (NHTW), để tái chiết khấu và thu hồi khoản tín dụng đã cấp cho nhà xuất khẩu. (6) Khi tới hạn thanh toán, NHTW chuyển hối phiếu cho ngân hàng nhà nhập khẩu và nhờ thu khoản nợ trên hối phiếu. (7) Ngân hàng nhà nhập khẩu chuyển hối phiếu cho nhà nhập khẩu và đề nghị thanh toán. (8) Nhà nhập khẩu chấp nhận thanh toán và cho phép ngân hàng ghi nợ vào tài khoản của mình. (9) Ngân hàng nhà nhập khẩu ghi có vào tài khoản của NHTW, giá trị hối phiếu sau khi đã trừ đi lệ phí nhờ thu và thông báo khoản thu đã được thực hiện. (10) Trường hợp nhà nhập khẩu không chấp nhận thanh toán, nhà nhập khẩu chuyển trả hối phiếu cho ngân hàng của mình. Từ đó hối phiếu được chuyển trả NHTW (10a) NHTW truy đòi ngân hàng nhà xuất khẩu (10b) NHTW cũng có thể truy đòi trực tiếp nhà xuất khẩu. Hình thức tín dụng này rất phổ biến ở các nước và vai trò của NHTW hết sức quan trọng. Việc tái chiết khấu của NHTW tạo điều kiện thu hồi vốn cho các tổ chức tín dụng đặc biệt vào thời điểm phải đảm bảo dự trữ bắt buộc Chiết khấu bộ chứng từ hàng hoá Đây là hình thức tín dụng của ngân hàng cấp cho nhà xuất khẩu trên cơ sở chiết khấu bộ chứng từ trước khi đến hạn thanh toán. Với hình thức này ngân hàng tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu có thể thu hồi được vốn nhanh tương tự như chiết khấu hối phiếu. Lãi xuất chiết khấu phụ thuộc vào phương thức chiết khấu: + Chiết khấu có truy đòi: là ngân hàng sau khi thực hiện chiết khấu bộ chứng từ, sẽ quay lại truy đòi nhà xuất khẩu nếu bên nước ngoài từ chối thanh toán, lãi xuất chiết khấu trong trường hợp này thường thấp. + Chiết khấu miễn truy đòi: là trường hợp ngân hàng mua đứt bộ chứng từ, nếu bên nước ngoài không thanh toán thì ngân hàng chiết khấu chịu rủi ro, không được truy đòi lại khách hàng. Lãi suất chiết khấu này thường cao. Tín dụng ứng trước cho người xuất khẩu Trong quá trình chuẩn bị và thực hiện hợp đồng xuất khẩu các doanh nghiệp cũng có thể đề nghị ngân hàng tạm ứng cho một nghiệp vụ xuất khẩu cho đến khi thu được lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu. Hình thức tín dụng này bao gồm hai hình thức cơ bản sau: + Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ : Sau khi lập song bộ chứng từ hàng hoá, vận chuyển, bảo hiểm và các chứng từ liên quan khác, nhà xuất khẩu sẽ nộp lên ngân hàng của mình nhờ thu hộ tiền. Ngân hàng của nhà xuất khẩu sẽ chuyển đến ngân hàng của nhà nhập khẩu (hoặc ngân hàng giao dịch) với chỉ thị chỉ giao chứng từ khi đã thanh toán (điều kiện D/P: documents against payment) hoặc chấp nhận một hối phiếu đòi nợ kèm theo (điều kiện D/A: documents against acceptance). Trong nghiệp vụ này ngân hàng tham gia chủ yếu với tư cách trung gian, thực hiện và thừa hành theo uỷ nhiệm để giảm bớt những rủi ro về tiêu thụ, thanh toán cũng như về cung ứng. Tuy nhiên, từ khi gửi các chứng từ tới ngân hàng xuất khẩu cho tới khi xuất trình với người thanh toán thường mất một khoảng thời gian nhất định (Đặc biệt khi thoả thuận ngày thanh toán muộn hơn). Điều này làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu có thể thiếu vốn tạm thời. Khi đó họ có thể yêu cầu ngân hàng ứng trước một phần trị giá với bộ chứng từ nhờ thu. Khoản tín dụng này có thể do ngân hàng xuất khẩu hay ngân hàng nhập khẩu ứng trước. Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu gần giống với chiết khấu bộ chứng từ nhờ thu nhưng có một số điểm phân biệt đó là: - Ngân hàng không muốn cho vay toàn bộ giá trị hàng như chiết khấu hối phiếu. - Nhà xuất khẩu không muốn trả lãi suất chiết khấu cho 100% giá trị hối phiếu như chiết khấu vì anh ta chỉ cần một phần trị giá hối phiếu. - Thường nhà xuất khẩu sử dụng hình thức này để tìm kiếm nguồn tài trợ ngắn hạn phục vụ nhu cầu tiền mặt tạm thời. Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu có thể xem như chiết khấu từng phần. + Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ : Tín dụng chứng từ phục vụ đặc biệt cho việc đảm bảo nhiệm vụ cung ứng và thanh toán trong trong quan hệ ngoại thương nhưng nó cũng bao hàm cả các nhân tố tín dụng. Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ được sử dụng với L/C điều khoản đỏ. Đây là loại thư tín dụng qui định một khoản tiền ứng trước của nhà nhập khẩu cho nhà xuất khẩu vào một thời điểm xác định, trước khi xuất trình bộ chứng từ hàng hoá. Các điều khoản ứng trước thường được qui định trong một điều kiện thuận lợi cho các bên thực hiện. Điều khoản này yêu cầu ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận cấp cho nhà xuất khẩu một khoản tín dụng trước khi giao hàng. Nhà xuất khẩu chịu chi phí liên quan còn ngân hàng mở L/C chịu trách nhiệm về khoản ứng trước này. Nhà nhập khẩu sẽ qui định rõ tổng giá trị tiền ứng trước , nó có thể là tỉ lệ phần trăm hoặc thậm chí toàn bộ giá trị L/C (tuỳ thuộc quan hệ với nhà xuất khẩu) và nhà nhập khẩu sẽ quyết định liệu nhà xuất khẩu sẽ phải xuất trình vật gì làm đảm bảo cho ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận khi nhận tiền ứng trước. Ngân hàng thông báo ._.hoặc ngân hàng xác nhận sẽ thu hồi số tiền ứng trước cộng với lãi sau khi ngân hàng mở L/C thanh toán (nếu có bộ chứng từ phù hợp). Nếu nhà xuất khẩu vì một lí do gì đó không xuất trình được chứng từ phù hợp với điều kiện của L/C, các ngân hàng cũng có quyền đòi số tiền này ở ngân hàng mở L/C Lời lẽ trong điều khoản đỏ có thể thay đổi tuỳ từng ngân hàng nhưng tựu trung có hai loại: - Điều khoản đỏ trơn:Theo điều khoản này tiền được ứng trước với điều kiện người xuất khẩu cam kết bằng văn bản tiền sẽ được sử dụng đúng mục đích quy định. - Điều khoản đỏ chứng từ: Tiền sẽ được ứng trước nếu nhà xuất khẩu cam kết cung cấp giấy nhập kho hoặc các chứng từ khác chứng minh quyền sở hữu hàng hoá và sau đó xuất trình các chứng từ thanh toán phù hợp với thư tín dụng. Tín dụng nhập khẩu Các ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu dưới các hình thức như cho vay mở thư tín dụng, chấp nhận hối phiếu, cho vay thấu chi... Cho vay mở L/C Thư tín dụng L/C là một văn bản pháp lí trong đó ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu nếu họ xuất trình được bộ chứng phù hợp với những nội dung của L/C. Thư tín dụng có tính chất quan trọng là nó được hình thành trên cơ sở của hợp đồng mua bán nhưng sau khi được thiết lập, nó lại độc lập hoàn toàn với hoạt động mua bán. Ngay việc mở L/C đã thể hiện việc cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu bởi vì mọi thư tín dụng đều do ngân hàng mở theo đề nghị của nhà nhập khẩu nhưng không phải lúc nào nhà nhập khẩu cũng có đủ số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng, trong khi đó L/C lại là một đảm bảo thanh toán của ngân hàng tức là ngân hàng mở L/C phải chịu mọi rủi ro khi nhà nhập khẩu không thanh toán hoặc không muốn thanh toán khi L/C đã đến hạn trả tiền. Trong thực tế khoảng thời gian từ khi mở L/C đến khi thanh toán L/C là khá dài. Vì vậy, nếu ngân hàng khống chế số dư trên tài khoản của nhà nhập khẩu để đảm bảo khả năng thanh toán của L/C thì sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của họ. Song mặt khác, nếu không làm như vậy sẽ dễ dẫn đến L/C không được thanh toán và ngân hàng sẽ bị mất lòng tin của bạn hàng. Ngoài ra, chúng ta cũng biết rằng nhà nhập khẩu có thể mở L/C bằng vốn tự có của mình hoặc vay ngân hàng. Nhưng nếu sử dụng vốn tự có để mở L/C, đến hạn thanh toán với bên nước ngoài mà nhà nhập khẩu không đủ khả năng thanh toán thì họ phải nhận nợ với ngân hàng và phải chịu lãi suất phạt cao hơn nhiều so với lãi suất cho vay (ở Việt Nam lãi suất này thường là 150%). Điều này sẽ đưa đến việc các nhà nhập khẩu yêu cầu các ngân hàng cho vay trên cơ sở hợp đồng đã kí. Như vậy thì việc sử dụng vay để mở L/C được sử dụng nhiều hơn. Để tránh rủi ro, trước khi cho vay các ngân hàng sẽ kiểm tra mục đích, đối tượng nhập khẩu cũng như khả năng của nhà nhập khẩu để làm căn cứ cho khoản tín dụng cung cấp. (4) Qui trình nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ: Nhà xuất khẩu Nhà nhập khẩu (2) (3) (5) (1) (8) NH phát hành L/C Ngân hàng thông báo (6) (7) Nhà nhập khẩu làm đơn xin mở L/C gửi đến ngân hàng của mình yêu cầu được mở một L/C cho nhà xuất khẩu hưởng Căn cứ vào đơn xin mở L/C ngân hàng mở L/C sẽ lập một L/C và thông qua ngân hàng đại lí của mình ở nước nhà nhập khẩu thông báo việc mở L/C và chuyển L/C đến nhà xuất khẩu. Khi nhận được thông báo trên ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho nhà xuất khẩu toàn bộ nội dung về việc mở L/C và khi nhận được bản gốc L/C thì chuyển ngay cho nhà xuất khẩu. Nhà xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng nếu không thì đề nghị ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung L/C cho phù hợp với hợp đồng. Sau khi giao hàng nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C và xuất trình thông qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở L/C xin thanh toán. Ngân hàng thông báo gửi chứng từ cho ngân hàng phát hành yêu cầu thanh toán cho nhà xuất khẩu Ngân hàng mở L/C kiểm tra bộ chứng từ nếu thấy phù hợp với L/C thì tiến hành trả tiền cho nhà xuất khẩu, nếu không thấy phù hợp thì từ chối thanh toán và gửi trả lại bộ chứng từ cho nhà xuất khẩu. Ngân hàng mở L/C đòi tiền nhà nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu sau khi nhận tiền hoặc chấp nhận thanh toán. Ngày nhận nợ được và tính lãi khoản cho vay mở L/C là ngày nhà nhập khẩu phải thanh toán cho nhà xuất khẩu (ngày đến hạn thanh toán L/C) Cho vay mở L/C cũng có rủi ro cho ngân hàng vì L/C chỉ được xử lí trên cơ sở chứng từ chứ không căn cứ trên hàng hoá, nếu hàng hoá kém giá trị hay hư hỏng thì ngân hàng dễ bị tổn thất. Tín dụng chấp nhận hối phiếu Tín dụng chấp nhận hối phiếu là hình thức tín dụng được thực hiện trên cơ sở ngân hàng kí hợp đồng tín dụng với nhà nhập khẩu. Trong đó, các ngân hàng cam kết chấp nhận các hối phiếu mà khách hàng của mình phải thanh toán. Hình thức tín dụng này đảm bảo cho nhà nhập khẩu thanh toán khi đến hạn. Tín dụng chấp nhận hối phiếu thường được dùng trong trường hợp người bán thiếu tin tưởng khả năng thanh toán của người mua và họ đề nghị bên mua có một ngân hàng đứng ra chấp nhận trả tiền hối phiếu do họ kí phát. Nếu ngân hàng đồng ý cũng có nghĩa là ngân hàng đã chấp nhận cấp một khoản tín dụng cho bên mua. Đối với ngân hàng kể từ khi kí chấp nhận hối phiếu cũng chính là thời điểm bắt đầu gánh chịu rủi ro, nếu người mua không có tiền thanh toán cho bên bán khi hối phiếu đến hạn thanh toán. Tuy nhiên, nếu đến thời hạn thanh toán người mua có đủ tiền thì ngân hàng có thể không phải ứng tiền ra. Như vậy, khoản tín dụng chỉ là hình thức, một sự đảm bảo tài chính. Lúc này ngân hàng nhận được một khoản phí chấp nhận, nó là khoản tiền bù đắp cho chi phí gánh chịu rủi ro của ngân hàng. Tín dụng chấp nhận hối phiếu đem lại sự thuận lợi cho không chỉ người xuất khẩu mà cả với người nhập khẩu: + Với sự chấp nhận của ngân hàng, nhà xuất khẩu có được một sự đảm bảo vững chắc về khả năng chi trả của hối phiếu và họ có thể đem hối phiếu đi chiết khấu tại bất kì ngân hàng nào. Khả năng thương mại của hối phiếu này rất lớn. + Đối với nhà nhập khẩu, hình thức tín dụng này có vai trò quan trọng trong nghệ thuật thương mại, nó tạo cho họ có được uy tín với nhà xuất khẩu và khả năng thanh toán cần thiết khi đến hạn thanh toán cho nhà nhập khẩu. 3.2.3. Tín dụng ứng trước cho nhập khẩu Cũng như các nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu cũng rất cần được cho vay theo hình thức ứng trước của ngân hàng. Đó là khi họ cần phải thanh toán tiền mặt cho nhà xuất khẩu. Ngoài ra, nhà nhập khẩu cũng có thể phát sinh nhu cầu tài trợ để thanh toán cho bộ chứng từ khi hàng hoá chưa về đến cảng và doanh nghiệp chưa tiêu thụ được hàng hoá để thu hồi vốn. Ngân hàng tài trợ trong trường hợp này có thể sử dụng các chứng từ hàng hoá làm vật đảm bảo. Đây cũng chỉ là việc tài trợ cho các mục tiêu thanh toán ngắn hạn của ngân hàng dành cho các nhà nhập khẩu. 3.2.4. Tín dụng theo phương thức chi trả trực tiếp Theo hình thức này sau khi nhà nhập khẩu kí hợp đồng mua bán hàng với nhà xuất khẩu nước ngoài nếu họ không có đủ tiền họ có thể xin vay ngân hàng theo phương thức đề nghị ngân hàng gửi chuyển trả tiền cho người xuất khẩu thông qua ngân hàng đại lý ở nước ngoài. Nhiều khi nhà nhập khẩu có đủ tiền họ cũng sử dụng hình thức chuyển tiền. Nhưng trường hợp này ngân hàng không phải cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu mà chỉ thực hiện hình thức dịch vụ thông thường và thu phí dịch vụ. (3) Qui trình tín dụng theo phương thức chi trả trực tiếp Ngân hàng XK Ngân hàng XK (5) (1) DN NK DN XK (2) (6) (4) (1) Giao dịch hàng hoá giữa nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu (2) Nhà nhập khẩu viết đơn yêu cầu chuyển tiền (3) Ngân hàng nhà nhập khẩu chuyển tiền ra nước ngoài qua ngân hàng đại lý (4) Ngân hàng đại lý chuyển tiền cho nhà xuất khẩu (5) Thông báo đã hoàn thành việc chuyển tiền (6) Ngân hàng Nhập khẩu báo nợ cho nhà nhập khẩu Hình thức tín dụng này, số tiền được chuyển dựa vào trị giá của hoá đơn thương mại hoặc kết quả của việc nhận hàng về số lượng và chất lượng để quy ra số tiền phải chuyển. Chuyển tiền bằng thư chậm hơn chuyển tiền bằng điện. Thường là sau khi nhận hàng hoá mới chuyển tiền để tránh bị nhà xuất khẩu chiếm dụng vốn. RỦI RO VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG CHO VAY XNK . Các loại rủi ro trong cho vay XNK Bất cứ loại hình kinh doanh nào cũng chứa đựng rủi ro nhất định, và đặc biệt trong kinh doanh ngoại thương thì yếu tố rủi ro là không thể tránh khỏi. Như chúng ta đã biết, giao thương quốc tế thường là quan hệ từ hai nước trở lên nhằm thực hiện tòan bộ các giao dịch hàng hóa và dịch vụ. Trong giao dịch này có những sự khác biệt như: về ngôn ngữ, luật pháp, đồng tiền, phong tục tập quán trong kinh doanh và khỏang cách địa lý tương đối lớn. Những sự khác biệt này tạo ra những khó khăn và trở ngại, đồng thời cũng gây ra những rủi ro cho các bên tham gia vào giao dịch.. Chính các rủi ro trong xuất nhập khẩu là nguyên nhân quan trọng gây ra rủi ro cho NHTM trong quá trình cho vay xuất nhập khẩu. Chính vì vậy mà trước khi cấp tín dụng cho các nhà xuất nhập khẩu, ngân hàng thường phải lường trước mọi rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động giao thương có ảnh hưởng đến việc hoàn trả các khoản tín dụng cho mình. Việc nghiên cứu các rủi ro ở đây cũng chỉ mang tính chất tương đối, bởi các rủi ro này thường có mối quan hệ hữu cơ với nhau, một rủi ro này xảy ra thường kéo theo các rủi ro khác, chẳng hạn như: Do có rủi ro về tình hình đất nước ở nước nhập khẩu mà nhà xuất khẩu không thu hồi được vốn, vốn này nhà xuất khẩu lại vay từ ngân hàng, trong trường hợp này thường kéo theo rủi ro khách hàng mất khả năng thanh tóan, từ đó mà gây rủi ro cho ngân hàng. Rủi ro về tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đóai là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này được biểu hiện bằng một số đơn vị tiền tệ của nước khác. Nói cách khác, tỷ giá hối đóai là quan hệ so sánh giữa các loại tiền tệ của hai nước với nhau. Vì vây, đứng về mặt thương mại, có thể hiểu tỷ giá hối đoái là thước đo về sức mua của đồng tiền nước này so với sức mua của đồng tiền nước khác tại một thị trường và tại một thời điểm nhất định. Tỷ giá hối đóai luôn biến động, sự biến động này có thể diễn ra hàng ngày. Từ đó kéo theo ảnh hưởng đến nền kinh tế trong nước và hầu hết các hoạt động thuộc lĩnh vực kinh tế đối ngoại, nhất là hoạt động xuất nhập khẩu. Chúng ta đều biết rằng khi tỷ giá hối đóai tăng tức là số lượng tiền nội địa đổi lấy một đơn vị ngoại tệ tăng (tiền nội địa mất giá) sẽ có tác động kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Ngược lại, khi tỷ giá hối đóai giảm sẽ kích thích nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu. Qua đó, cho thấy sự tác động của tỷ giá tới hoạt động xuất nhập khẩu là sự tác động trực tiếp và rất mạnh mẽ. Từ đó sẽ có tác động mạnh tới họat động cho vay của ngân hàng. Bởi lẽ khi có rủi ro về hối đóai xảy ra nó sẽ tác động tới những doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu và qua đó sẽ có tác động tới ngân hàng, sự tác động này lớn hay nhỏ tùy thuộc vào vốn mà khách hàng vay của ngân hàng. Ví dụ sau minh họa rõ nét cho trường hợp này: Một doanh nghiệp vay một khoản vốn ngân hàng trị giá vay là 160.000.000 VND, có nghĩa là tại thời điểm đó trị giá khoản vay là 10.000 USD. Nhưng khi doanh nghiệp xuất hàng thu được 10.000 USD về với tỷ giá lại là 1 USD = 15000 VND, tức là lúc này doanh nghiệp chịu rủi ro hối đóai với khoản thu về là 150.000.000 VND và chịu lỗ một khoản tiền là 10.000.000 VND, với số tiền thu được đó doanh nghiệp sẽ không đủ để trả cho ngân hàng. Từ đó, rủi ro cho doanh nghiệp sẽ gây ra rủi do cho ngân hàng, ngân hàng sẽ rất khó thu hồi đầy đủ khoản vốn mà mình đã cho vay. Rủi ro do khách hàng không hoàn trả Rủi do do khách hàng không hoàn trả là khi ngân hàng sử dụng mội biện pháp để truy đòi mà vẫn không thu hồi được nợ hoặc thu không được là bao so với khoản vốn mà mình đã bỏ ra. Loại rủi ro này được đánh giá trên hai giác độ: Rủi do do khách hàng mất khả năng thanh tóan Đây là hiện tượng xảy ra khi khách hàng của ngân hàng gặp rủi ro trong kinh doanh. Với nhà xuất khẩu, các rủi ro thường gặp như: thiên tai, bị mất cắp, … khi hàng hóa đang trên đường vận chuyển hoặc trong khi nhà xuất khẩu đang vay tiền ngân hàng để sản xuất hàng hóa xuất khẩu thì nhà nhập khẩu đột nhiên lại từ bỏ hợp đồng mà quá trình mua hàng nhà nhập khẩu đã hoàn tất. Với các nhà nhập khẩu, các rủi ro gặp phải khi không tiêu thụ được hàng hóa, hàng giảm giá dẫn đến không thu hồi được vốn trả ngân hàng. Các rủi ro trong kinh doanh mà nhà nhập khẩu và xuất khẩu gặp phải đã gián tiếp gây lên rủi do cho ngân hàng vì khách hàng không thể hoàn trả lại khoản tín dụng. Rủi do do khách hàng không thanh tóan Đây là loại rủi ro xảy ra khi người vay thực hiện không tốt những điều khoản trong hợp đồng. Bản thân khách hàng vẫn có khả năng chi trả nhưng họ không chịu hoàn trả. Đây là một vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra sau khi diễn ra cuộc giao dịch. Rủi ro đã làm giảm bớt xác suất hoàn vốn nên ngân hàng có thể quyết định không cho vay. Song để có được quyết định này, ngân hàng phải có được những thông tin chính xác và đầy đủ về doanh nghiệp xin vay vốn. Khi một doanh nghiệp trình chứng từ xin vay vốn ngân hàng, ngân hàng cần tìm hiểu kĩ các thông tin về doanh nghiệp. Việc tiếp xúc với doanh nghiệp để tìm hiểu khả năng tài chính cũng như ý thức sử dụng vốn vay của doanh nghiệp là một đòi hỏi cần thiết đối với cán bộ tín dụng. Rủi ro do ảnh hưởng của nền kinh tế và chính trị đất nước Sự phát triển của nền kinh tế và chính trị của đất nước ảnh hưởng rất lớn đến khả năng và sự sẵn lòng đáp ứng các cam kết đã thỏa thuận của người vay. Suy thóai kinh tế cũng như một biến động về chính trị xảy ra dù với hình thức và mức độ nào đó đều ảnh hưởng bất lợi đến sự vận động tự do thương mại và lợi tức đối với cá nhân và các doanh nghiệp. Nợ nước ngòai là một vấn đề nghiêm trọng và ảnh hưởng của nó có thể rộng khắp. Các quốc gia có các vấn đề nợ nước ngoài thường hướng đến các chính sách làm đảo lộn các mối quan hệ thương mại quốc tế và tài chính quốc tế. Họ thường sử dụng các chính sách như phá giá tiền tệ, quản chế ngoại hối,… Khi áp dụng các chính sách này, các định chế ngân hàng bị ảnh hưởng bất lợi. Thanh khoản và lợi tức ngân hàng bị ảnh hưởng về vật chất và các thiệt hại từ nhứng khoản cho vay có chiều hướng diễn ra. Tóm lại, trong kinh doanh thì yếu tố rủi ro là không thể tránh khỏi, trong khi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gặp rủi ro thì tất yếu dẫn đến rủi ro cho ngân hàng cấp tín dụng cho doanh nghiệp. Vì vậy, trong hoạt động xuất nhập khẩu, việc xem xét các yếu tố, nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng và đưa ra các biện pháp phòng ngừa là đìêu cần thiết bảo đảm khả năng an tòan của các khoản vốn cho vay. Chương II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU Ở EXIMBANK HÀ NỘI KHÁI QUÁT VỀ EXIMBANK HÀ NỘI Giới thiệu chung về Eximbank Hà Nội Eximbank được thành lập vào ngày 24/05/1989 theo quyết định số 140/CT của Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng với tên gọi đầu tiên là Ngân Hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Vietnam Export Import Bank), là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam. Ngân hàng đã chính thức đi vào hoạt động ngày 17/01/1990. Ngày 06/04/1992, Thống Đốc Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam ký giấy phép số 11/NH-GP cho phép Ngân hàng hoạt động trong thời hạn 50 năm với số vốn điều lệ đăng ký là 50 tỷ đồng VN tương đương 12,5 triệu USD với tên mới là Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Vietnam Export Import Commercial Joint-Stock Bank), gọi tắt là Vietnam Eximbank. Đến tháng 06 năm 2006 vốn điều lệ của Eximbank là 815 tỷ đồng VN tương đương 815.000 cổ phần. Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam có địa bàn hoạt động rộng khắp cả nước với Trụ Sở Chính đặt tại TP. Hồ Chí Minh và 15 Chi nhánh và 03 phòng giao dịch được đặt tại Hà Nội, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, và TP.HCM. Đã thiết lập quan hệ đại lý với hơn 640 ngân hàng ở trên 65 quốc gia trên thế giới. Chi nhánh Eximbank Hà Nội được thành lập theo giấy chấp thuận số 0002 ngày 22/9/1992 của NHNN và theo giấy phép đặt văn phòng số 00503/ GP-UB của UBND thành phố Hà Nội. Eximbank Hà Nội ra đời trong hoàn cảnh nền kinh tế đất nước đang đổi mới cùng sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế quốc dân, bao gồm các trao đổi mậu dịch, các chuyển dịch tài chính, đầu tư phát triển trên địa bàn, các vùng. Nhiệm vụ chủ yếu của Eximbank Hà Nội là mở rộng phạm vi hoạt động và phục vụ chương trình kinh tế xã hội, đẩy mạnh công cuộc đầu tư phục vụ sản xuất. Trong 12 năm hoạt động từ 1993 đến 2005 dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Hội đồng quản trị, sự lãnh đạo sát sao và hỗ trợ to lớn về mọi mặt của Hội sở trung ương, cũng như sự tín nhiệm của cổ đông và các đơn vị khách hàng, tập thể lãnh đạo, cán bộ công nhân của chi nhánh Eximbank Hà Nội đã tích cực công tác đưa chi nhánh Eximbank ngày càng lớn mạnh. Tuy hoạt động độc lập nhưng Eximbank Hà Nội vẫn thực hiện một số trách nhiệm và nghĩa vụ đối với hội sở. Thực hiện nghiêm túc và đầy đủ điều lệ của ngân hàng, các qui định và chỉ thị của Hội đồng quản trị, Ban giám đốc Eximbank. Chấp hành đầy đủ các qui tắc về mặt nghiệp vụ kinh doanh: tín dụng, kế toán, thanh toán quốc tế… và chế độ hạch toán báo cáo Trên cơ sở nguồn vốn ban đầu, tiến hành kinh doanh theo đúng chiến lược và kế hoạch, bảo toàn và phát triển nguồn vốn mang lại lợi nhuận cho các cổ đông Về kết quả kinh doanh, sau khi thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thuế đối với nhà nước (trừ chi phí và phần lợi nhuận để lại) đều chuyển tất cả lợi nhuận về Hội sở. Chi nhánh Eximbank Hà Nội là một NHTM cổ phần tiến hành hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng nhằm phục vụ các chương trình kinh tế xã hội và đẩy mạnh công cuộc đầu tư phục vụ sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu ở các tỉnh phía bắc. Trong những năm qua, Chi nhánh đã cung cấp cho khách hàng của mình tất cả những sản phẩm ngân hàng như bất kỳ một NHTM nào khác trên địa bàn thành phố Hà Nội. Cơ cấu tổ chức của Eximbank Hà Nội HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ ĐẠI HỘI CỔ ĐÔNG BAN ĐIỀU HÀNH P. Tổ chức cán bộ P. Kinh doanh tiền tệ P. Thanh tóan nhập khẩu P. Kinh doanh vàng P. Kế tóan tổng hợp P. Kế tóan giao dịch P. Thanh tóan xuất khẩu P. Pháp chế và thu hồi nợ P. Nghiên cứu và Phát triển Ban dự án P. Xử lý thông tin Ban đào tạo Ban hiện đại hóa Trung tâm dịch vụ địa ốc P. Quan hệ quốc tế P. Ngân quỹ P. Tín dụng cá nhân P. Hành chính P. Tín dụng doanh nghiệp P. Quản lý tín dụng P. Thẻ tín dụng CHI NHÁNH PHÒNG GIAO DỊCH Ban kiểm sóat P. Kiểm tra nội bộ Điểm qua tình hình huy động vốn của Eximbank Hà Nội trong thời gian qua Để mở rộng hoạt động kinh doanh, trước hết phải tạo được nguồn vốn lớn đủ cung ứng cho mọi nhu cầu cần thiết của nền kinh tế. Nhận thức sâu sắc, vai trò, vị trí của công tác huy động vốn phục vụ đầu tư phát triển, vốn là khâu mở đầu quyết định quy mô, tầm cỡ hoạt động của ngân hàng. Vốn cũng là tiền đề tạo thế mạnh cho Ngân hàng cạnh tranh trên thị trường. Măt khác, làm tốt công tác huy động vốn không chỉ đáp ứng nhu cầu cho vay của chính ngân hàng mà còn góp phần điều chuyển về trung tâm để tăng cường cho những ngân hàng còn thiếu vốn. Đồng thời, khi chuyển vốn về trung tâm nó sẽ mang lại hiệu quả về mặt tài chính cho ngân hàng do được hưởng tỷ lệ chênh lệch lãi phí điều chuyển. Do đó, ban lãnh đạo Eximbank Hà Nội đã tập trung chỉ đạo công tác huy động vốn, với nhiều hình thức huy động như: tiền gửi có kỳ hạn, sử dụng công cụ lãi suất linh hoạt và phù hợp giúp ngân hàng đạt được lợi ích kinh tế ở từng thời kỳ khác nhau. Đặc biệt với phong cách giao dịch lịch sự, tận tình, chu đáo với khách hàng, linh hoạt trong điều hành phí dịch vụ, chú trọng công tác tiếp thị quảng cáo, chủ động tìm kiếm và thu hút khách hàng có tiềm năng tiền gửi lớn, chú trọng hơn nữa đến việc huy động nguồn vốn trung và dài hạn như: huy động kỳ phiếu dài hạn, trái phiếu, tạo nguồn vốn thông qua tài trợ xuất nhập khẩu, các hình thức bảo lãnh...Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp trên tạo cho nguồn vốn của ngân hàng tăng trưởng nhanh và ổn định, với tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu về vốn phục vụ cho vay đầu tư phát triển. Tình hình huy động vốn: Cùng với việc huy động vốn từ khu vực tổ chức kinh tế và dân cư, thị trường liên ngân hàng cũng là một kênh huy động vốn lớn được Eximbank khai thác khá mạnh, với số vốn bình quân huy động qua thị trường này chiếm tỷ trọng 7,7% trên tổng nguồn vốn, bổ sung vốn cho hoạt động đầu tư qua kênh liên ngân hàng. Có thể thấy tình hình huy động vốn trong vòng 3 năm gần đây được thể hiện qua biểu đồ sau: (Đơn vị: triệu đồng) (Nguồn: Báo cáo thường niên 2005) Điểm qua hoạt động tín dụng của Eximbank Hà Nội trong thời gian qua Với thế mạnh về thương hiệu bên cạnh thái độ phục vụ khách hàng nhiệt tình cùng khả năng đáp xử lý hồ sơ nhanh, thủ tục giao dịch đơn giản, lãi suất và phí dịch vụ canh tranh, Eximbank đã khẳng định được vị trí vững chắc của mình trên thị trường tín dụng. Các hình thức cho vay hiện nay được chi nhánh áp dụng là: Cho vay ngắn hạn Cho vay trung dài hạn Cho vay cá nhân cầm cố sổ tiết kiệm Cho vay du học Cho vay trả góp Có thể quan sát số liệu cho vay của chi nhánh qua biểu đồ sau: (Đơn vị: triệu đồng) (Nguồn: Báo cáo thường niên 2005) THỰC TRẠNG CHO VAY XNK Ở EXIMBANK HÀ NỘI . Chính sách tín dụng XNK của Eximbank Hà Nội Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa đối với sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, thúc đầy kinh tế phát triển. Eximbank đã không ngừng hoàn thiện các mặt công tác nhằm đảm bảo những yêu cầu đặt ra cho một ngân hàng chuyên doanh trong lĩnh vực tài trợ xuất nhập khẩu. Định hướng của ngân hàng trong những năm tới là tạo điều kiện cho các đơn vị nhập khẩu các thiết bị vật tư hàng hóa để trang bị cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại chất lượng cao và hàng hóa xuất khẩu đạt tiêu chuẩn quốc tế. Cũng giống như các NHTM, Eximbank luôn coi tín dụng là một hoạt động quan trọng mang lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng. Nhưng đây cũng là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro nhất, quyết định sự thành bại của ngân hàng. Chính vì vậy việc quản lý tín dụng là nhiệm vụ trung tâm, được đặt lên hàng đầu, là vấn đề luôn làm trăn trở suy nghĩ của cán bộ, nhân viên ngân hàng. Phân loại cho vay XNK tại Eximbank Hà Nội Ở bất cứ một ngân hàng hay một tổ chức tài chính nào, các khoản cho vay cũng được phân loại bằng nhiều cách khác nhau: theo đối tượng khách hàng vay vốn, hình thức bảo đảm tiền vay, kỳ hạn hay phương thức hoàn trả,… Việc phân loại này chỉ mang tính tương đối song nó lại giữ một vai trò quan trọng đối với việc quản lý tài sản của bất cứ một NHTM nào, đặc biệt là đối với Eximbank vì rủi ro tín dụng đối ngân hàng là rất lớn. Nếu như các NHTM khác có thị phần hoạt động chủ yếu là trong nước, thì Eximbank còn có thêm thị phần rộng lớn trong kinh doanh đối ngoại. Trong lĩnh vực kinh doanh này, ngoài những rủi ro phải gánh chịu như các NHTM khác, ngân hàng còn phải chịu các rủi ro kinh doanh do môi trường quốc tế đem lại. Phân loại cho vay cũng là một trong những căn cứ để đánh giá hiệu quả tín dụng của ngân hàng và tại Exibank Hà Nội, việc cho vay XNK cũng được thực hiện theo các căn cứ trên. Phân loại theo đối tượng khách hàng Theo cách phân loại này, Eximbank phân chia khách hàng ra thành hai đối tượng chính: + Khách hàng là các DNNN + Khách hàng là các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh Trên cơ sở phân chia này ngân hàng có thể nắm bắt một cách tốt nhất xu hướng phát triển của từng loại hình doanh nghiệp. Loại hình doanh nghiệp nào đang được nhà nước chú ý khuyến khích phát triển, loại hình nào thì không. Hay như tư cách pháp lý của khách hàng (là pháp nhân hay thể nhân). Là đơn vị kinh doanh có vốn nhà nước cấp (các DNNN) hay phải tự huy động vốn (như công ty cổ phần, công ty TNHH,…). Để từ đó ngân hàng có thể đưa ra chiến lược khách hàng áp dụng cho từng loại đối tượng một cách hợp lý nhất, áp dụng các hình thức cho vay linh hoạt nhất, các loại bảo đảm một cách tối ưu nhất. Phân loại theo đối tượng khách hàng còn có thể giúp ngân hàng thực thi các chính sách phát triển kinh tế của nhà nước, tập trung cho các hình thức kinh doanh mũi nhọn, cân đối giữa nhập và xuẩt. Phân loại theo thời gian vay Các khoản cho vay của ngân hàng Eximbank được phân loại theo kỳ hạn trong hợp đồng cho vay: ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn. Cho vay ngắn hạn là các khoản cho vay có thời hạn tối đa đến 12 tháng. Vay trung hạn là những khoản vay có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng. Và cho vay dài hạn là những khoản cho vay có thời hạn trên 60 tháng. Việc phân loại theo thời gian là nhằm mục đích bảo đảm an toàn và khả năng thanh toán của ngân hàng. Do đối tượng phục vụ của ngân hàng là các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực XNK nên các khoản tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng rất lớn. Phân loại theo phương pháp hoàn trả Các khoản cho vay của Eximbank có thể được hoàn trả một lần vào ngày đáo hạn hoặc trả làm nhiều lần trong suốt phân kỳ cho vay. Các khoản vay được hoàn trả một lần tại Eximbank Hà Nội thường là các khoản vay của các đơn vị nhập khẩu đã có hợp đồng bán hàng giao ngay khi hàng về đến cảng và đối với các đơn vị xuất khẩu giao hàng theo từng hợp đồng. Các khoản trả dần thường là những đơn vị nhập khẩu do nhu cầu dự trữ hàng chờ bán, vốn tồn đọng nên khi bán hàng đến đâu mới có khả năng trả ngân hàng đến đó hoặc là các đơn vị xuất khẩu hàng hóa. Theo mùa vụ hay theo hợp đồng thành nhiều lô hàng thì khi nào nhận được thanh tóan tiền hàng từ nước ngoài mới trả nợ ngân hàng được. Phân loại theo phương pháp hoàn trả giúp cán bộ tín dụng dễ dàng hơn trong việc theo dõi, kiểm tra tình hình trả nợ của khách hàng, tránh nợ dây dưa, tăng hiệu quả sử dụng vốn. Khi đơn vị sản xuất nào đó không trả được nợ đúng hạn thì ngân hàng có thể áp dụng các biện pháp thu hồi và bảo toàn nguồn vốn của mình, đồng thời cũng tạo điều kiện cho các khách hàng có thể lựa chọn các phương thức hoàn trả khác nhau phù hợp với hoạt động kinh doanh của mình. Các quy định chung trong cho vay XNK của Eximbank Hà Nội Đối với các đối tượng khách hàng vay vốn tại Eximbank Hà Nội Là một ngân hàng chuyên doanh trong lĩnh vực tài trợ xuất nhập khẩu nên khách hàng của ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, hoạt động buôn bán trên phạm vi quốc tế, chứa đựng rất nhiều rủi ro. Các rủi ro này không chỉ là những rủi ro trong nội địa mà còn liên quan đến các rủi ro quốc tế như tình hình kinh tế chính trị thế giới, các nước, tỷ giá hối đoái,… Vì vậy mà các yêu cầu đặt ra ngày càng chặt chẽ, yêu cầu khách hàng đáp ứng và thực hiện đầy đủ sẽ giúp ngân hàng ngăn ngừa những rủi ro một cách hữu hiệu nhất. Khi khách hàng đến vay vốn tại ngân hàng phải tuân thủ các yêu cầu của ngân hàng về: Hồ sơ vay vốn, điều kiện pháp lý, điều kiện tài chính và kết quả kinh doanh và yêu cầu về người đại diện trong hồ sơ vay vốn Về thời hạn tín dụng Thời hạn tín dụng được tính từ ngày ngân hàng cho phép đơn vị vay vốn rút vốn trực tiếp từ ngân hàng hoặc chuyển vốn vào tài khoản đi vay, tài khoản giao dịch của đơn vị đến ngày trả cả vốn và lãi cho ngân hàng Các khoản cho vay của ngân hàng được chia theo các nhóm như sau: Cho vay ngắn hạn: Áp dụng trong việc cho vay thanh tóan các đối tượng là giá trị vật tư hàng hóa và các chi phí để thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống và có thời hạn dưới 12 tháng. Đây là bộ phận tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay của Eximbank. Tính đến ngày 31/12/2005, bộ phận tín dụng này chiếm 84.8% dư nợ tín dụng của ngân hàng. Cho vay trung và dài hạn: Đây là những khoản cho vay có thời hạn trên 12 tháng. Được áp dụng trong trường hợp cho vay cho vay thanh tóan các đối tượng là giá trị vật tư hàng hóa, máy móc thiết bị, và các chi phí để thực hiện dự án đầu tư đã giải trình với Eximbank. Việc áp dụng linh hoạt các thời hạn tín dụng có một ý nghĩa hết sức quan trọng: Thứ nhất, giúp ngân hàng có thể quản lý tài sản của mình một cách hữu hiệu đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng. Thứ hai, giúp doanh nghiệp có thể chủ động được nguồn vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Về lãi suất tín dụng Trong cơ chế thị trường, lãi suất tín dụng một mặt là thu nhập của NHTM, mặt khác là bộ phận cấu thành chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy mà lãi suất trở thành một yếu tố nhạy cảm, điều chỉnh việc hấp thụ nguồn vốn từ bên ngòai và ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng canh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Đối với NHTM, lãi suất tín dụng là công cụ thực hiện mục tiêu của chính sách tín dụng, là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng trưởng hay thu hẹp mức dư nợ tín dụng của các NHTM. Theo quy định của Eximbank, mức lãi suất cho vay là do Eximbank và khách hàng thỏa thuận phù hợp với quy định của NHNN về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng và Eximbank sẽ công bố công khai các mức lãi suất cho vay cho khách hàng biết. Đối với cho vay trung và dài hạn, tùy theo thỏa thuận giữa Eximbank và khách hàng mà có thể áp dụng mức lãi suất cố định ngay khi ký kết hợp đồng tín dụng trong suốt thời hạn cho vay, hoặc lãi suất sẽ được thay đổi theo biểu lãi suất của Eximbank công bố từng thời kỳ. Thỏa thuận này phải được ghi rõ trong hợp đồng tín dụng. Trường hợp khoản vay bị chuyển sang nợ quá hạn, phải áp dụng mức lãi suất quá hạn theo quy định trong hợp đồng tín dụng, trừ những trường hợp cụ thể được miễn giảm lãi suất theo quy chế miễn giảm lãi của Eximbank. Về vấn đề đảm bảo tiền vay Đối với các ngân hàng, việc hạn chế các rủi ro về vốn bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và việc bảo đảm tiền vay tại Eximbank cũng nhằm thực hiện mục tiêu trên. Bảo đảm tiền vay được thực hiện thông qua hình thức cơ bản là cầm cố, thế chấp tài sản và tín chấp. Thế chấp, cầm cố tài sản là việc bên vay dùng tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình làm vật bảo đảm để vay vốn ngân hàng. Đến hạn trả nợ nếu bên vay trả nợ xong thì ngân hàng sẽ trả lại giấy tờ sở hữu tài sản đã nhận làm thế chấp cầm cố cho bên vay. Ngược lại, nếu bên vay không trả được nợ hoặc không trả hết nợ thì ngân hàng có quyền bán tài sản cầm cố, thế chấp này để thu hồi khoản vốn mà mình đã bỏ ra. Bảo đảm tiền vay bằng thế chấp, cầm cố tài sản là một hình thức ngân._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29450.doc
Tài liệu liên quan