Tín dụng Ngân hàng đối với việc phát triển của các Doanh nghiệp ở Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm

Mục lục Lời mở đầu Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới cho sự phát triển kinh tế Việt nam theo hướng phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó chúng ta đã khuyến khích mạnh mẽ sự phát triển của các thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình cùng với việc củng cố đổi mới hoạt động của khu vực kinh tế quốc doanh để đảm bảo cho khu vực kinh tế này thực hiện tốt vai trò chủ đạo

doc61 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1473 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tín dụng Ngân hàng đối với việc phát triển của các Doanh nghiệp ở Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của mình. Tuy nhiên cho đến nay cơ sở vật chất trang bị máy móc của các doanh nghiệp quốc doanh còn có lạc hậu, thiếu thốn, công nghệ sản xuất quá cũ. Nhu cầu vốn cho quá trình đổi mới, nâng cấp phương tiện hoạt động sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp là rất lớn. Trong lúc đó ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp, vốn tự có của các doanh nghiệp còn thấp và các doanh nghiệp quốc doanh đang rất cần sự tài trợ vốn của hệ thống ngân hàng thương mại. Trên thực tế, trong thời gian gần đây hoạt động đầu tư tín dụng đối với các doanh nghiệp quốc doanh chưa được hệ thống ngân hàng thương mại quan tâm thích đáng cả về mặt số lượng cả về chất lượng. Hơn nữa vốn tín dụng của các ngân hàng cho vay trong khu vực kinh tế quốc doanh chưa được sử dụng hợp lý, hiệu quả chưa cao và thậm chí còn có nhiều rủi ro. Vì vậy mở rộng qui mô cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp quốc doanh đang là vấn đề cần được quan tâm trong giai đoạn hiện nay. Giải quyết vấn đề này không những tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả trong hoạt động, giúp khu vực kinh tế quốc doanh giữ vững vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế mà còn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Qua kiến thức học được ở trường, qua quá trình thực tập ở ngân hàng công thương Hoàn kiếm tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: “Tín dụng ngân hàng đối với việc phát triển của các doanh nghiệp ở ngân hàng công thương Hoàn kiếm ”. Ngoài phần mở đầu mở đầu và kết luận bài luận văn của tôi được viết thành 3 chương chính: Chương I: Vai trò của tín dụng đối với nền kinh tế và đối với các doanh nghiệp quốc doanh. Chương II: Thực trạng đầu tư tín dụng đối với các doanh nghiệp quốc doanh ở ngân hàng công thương Hoàn kiếm. Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư tín dụng đối với doanh nghiệp quốc doanh ở ngân hàng công thương Hoàn kiếm. Chương I Vai trò của tín dụng đối với nền kinh tế và đối với doanh nghiệp nhà nước I. Vai trò của tín dụng đối với nền kinh tế 1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng a. Định nghĩa về tín dụng. Vốn đầu tư sản xuất là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Trong nền kinh tế, vốn được huy động dưới nhiều hình thức khác nhau như: góp vốn, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vốn vay ngân hàng... trong đó vốn vay ngân hàng là nguồn vốn linh động và tiện lợi nhất. Đối với ngân hàng thương mại huy động và cho vay là nghiệp vụ chủ chốt, nghiệp vụ này được gọi là nghiệp vụ tín dụng. Tín dụng được định nghĩa là một phạm trù kinh tế phản ánh các quan hệ kinh tế trong đó cá nhân hay tổ chức nhường quyền sử dụng một giá trị thể hiện bằng tiền hay hiện vật cho một cá nhân hay tổ chức khác với những điều kiện ràng buộc nhất định về thời hạn hoàn trả (cả gốc và lãi), lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng với cá nhân, tổ chức kinh tế khác. b. Phân loại tín dụng. Tín dụng có thể được phân thành nhiều loại khác nhau theo các tiêu thức khác nhau. — Theo thời hạn sử dụng tín dụng được phân thành ba loại: + Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn không quá một năm. Tín dụng này được sử dụng để tài trợ cho sự thiếu hụt vốn tạm thời như để dữ trữ hàng hoá, tài trợ cho các chi phí sản xuất kinh doanh phát sinh và bằng tiền mặt: Tiền lương công nhân viên, tiền điện nước v.v... Để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn, nhiều khi còn được doanh nghiệp tài trợ tạm thời cho vốn đầu tư dài hạn khi có nguồn bảo đảm chi trả trong ngắn hạn. Đối với mỗi hộ gia đình, tín dụng ngắn hạn được sử dụng để mua sắm đồ dùng phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân. + Tín dụng trung hạn có thời hạn từ một năm đến 10 năm, các khoản tín dụng này được sử dụng để mua sắm trang thiết bị là tài sản cố định có thời gian sử dụng lâu dài, để đầu tư xây dựng các công trình có thời hạn thu hồi vốn dưới 10 năm. + Tín dụng dài hạn, có thời hạn trên 10 năm, thường được sử dụng để tài trợ cho quá trình đầu tư xây dựng các công trình lớn, có thời gian thu hồi vốn dài. — Theo ngành kinh tế, tín dụng được phân thành tín dụng cấp cho ngành công nghiệp, tín dụng cấp cho ngành thương nghiệp dịch vụ, ngành nông nghiệp... — Theo thành phần kinh tế tín dụng được phân thành tín dụng cấp cho khu vực kinh tế quốc doanh, và tín dụng cấp cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. — Theo kỹ thuật cung cấp, tín dụng được phân thành: + Tín dụng chiết khấu. Tín dụng chiết khấu là hình thức tín dụng qua đó người vay vốn đem các loại trái phiếu, thương phiếu, giấy nhận nợ, hoá đơn chưa thanh toán... đến ngân hàng để làm vật cầm cố cho một khoản vay. Khoản vốn vay này bằng mệnh giá của giấy nợ trừ đi phần lãi chiết khấu và hoa hồng chiết khấu. Ngân hàng sau khi đã cung cấp vốn cho khách hàng có quyền giữ các loại giấy nợ đó và có quyền thu hồi nợ khi đến hạn nếu khách hàng vẫn chưa hoàn trả tiền vay. Hình thức tín dụng này rất phù hợp với nền kinh tế hiện đại khi thanh toán chậm trả, thanh toán không dùng tiền mặt phát triển mạnh. + Thấu chi. Thấu chi là một hình thức tín dụng trong đó khách hàng là chủ tài khoản ở ngân hàng được phép chi vượt trội số dư có của tài khoản mình ở một mức nhất định, hay nói cách khác tài khoản khách hàng được phép dư nợ. Loại tín dụng này rất thích hợp cho các khách hàng thường có các khoản chi bất thường. + Tín dụng thời vụ: là tín dụng cấp cho khách hàng khi nhu cầu vốn của họ lớn do đến thời vụ sản xuất. Thời vụ sản xuất ở doanh nghiệp có thể là thời vụ đầu vào hoặc thời vụ đầu ra. Các công ty sản xuất đường, cà phê, các công ty thu mua sản phẩm nông nghiệp...thường phải vay vốn theo thời vụ để mua mía, cà phê, sản nông nghiệp để dữ trữ cho quá trình sản xuất kinh doanh trong năm. + Tín dụng thuê mua: tín dụng thuê mua là hình thức tín dụng, khi cấp cho khách hàng, kèm theo các điều kiện thuê hoặc mua một loại tài sản nào đó. ở các ngân hàng thường hay có các tài sản thế chấp thu hồi từ những khách hàng mất khả năng thanh toán. Khi bán tài sản này, ngân hàng có thể cung cấp tín dụng thuê mua cho khách hàng. Đây như là một hình thức bán chịu sau khách hàng phải trả lãi suất cho ngân hàng và khi khách hàng mất khả năng thanh toán, ngân hàng có quyền thu hồi tài sản này. +Tín dụng uỷ nhiệm thu. Tín dụng uỷ nhiệm thu là hình thức tín dụng mà ngân hàng dành lấy quyền đòi các khoản nợ của khách hàng khi cho khách hàng vay vốn. Theo hợp đồng, nếu sau này các con nợ không có khả năng thanh toán, ngân hàng có quyền quay lại đòi nợ khách hàng hay không có quyền đòi nợ khách hàng. Hình thức tín dụng này có chi phí lớn, là tổng của chi phí hoa hồng cho vay uỷ nhiệm thu và tiền lãi tính trên vốn cung cấp cho khách hàng. Song khi sử dụng tín dụng này, khách hàng đã tiết kiệm được chi phí theo dõi, thu hồi nợ khê đọng, còn ngân hàng thì chịu mức rủi ro cao hơn. +Tín dụng tiêu dùng. Tín dụng tiêu dùng là tín dụng cung cấp cho cá nhân, hộ gia đình để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân như mua nhà, mua xe hay các vật dụng khác. Loại tín dụng này thường là tín dụng ngắn hạn gắn liền với việc mua sắm tiêu dùng của khách hàng. Và nếu là tín dụng trung, dài hạn thì hình thức trả nợ là trả theo chuỗi niên khoản. +Tín dụng bảo lãnh. Có thể nói đây là một dịch vụ của ngân hàng vì ngân hàng không trực tiếp xuất quỹ cho khách hàng sử dụng mà chỉ đưa ra các cam kết bảo lãnh cho các khoản nợ của khách hàng, tạo điều kiện cho các khách hàng vay vốn ở đối tác thứ ba. Ngân hàng cam kết sẽ trả thay các khoản nợ cho khách hàng nếu khách hàng mất khả năng thanh toán. —Theo phương thức thanh toán tín dụng có thể được chia thành tín dụng hoàn trả một lần, tín dụng trả góp, cho vay luân chuyển...Trong đó cho vay luân chuyển rất thích hợp với các doanh nghiệp có các khoản chi phí và thu nhập không ổn định. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tín dụng ngân hàng xuất hiện ngày càng nhiều loại khác nhau phù hợp với các hình thức thanh toán trong nền kinh tế hiện đại, ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế. c. Sự tồn tại khách quan của tín dụng. Trong nền kinh tế luôn luôn tồn tại nhu cầu đi vay và cho vay vốn. Các doanh nghiệp, cá nhân có những khoản tiền nhàn rỗi luôn có mong muốn cho vay để hưởng lãi các doanh nghiệp, cá nhân có cơ hội đầu tư hay nhu cầu tiêu dùng mà không có tiền sẽ cố gắng tìm vay những khoản tiền của người có cho vay. Đối với người đi vay, họ luôn sẵn sàng chi trả một khoản chi phí để có được quyền sử dụng vốn để đầu tư vào mục đích của họ với hi vọng khoản lợi thu được sẽ lớn hơn phần chi phí phải bỏ ra. Hai nhu cầu vay và cho vay này gặp nhau sẽ phát sinh quan hệ tín dụng. Tuy nhiên người có tiền và người có nhu cầu vay tiền sẽ không thể tìm gặp nhau trên thị trường. Sự gặp nhau giữa hai nhu cầu này phải thông qua người thứ ba với tư cách là người trung gian, đó là ngân hàng và tổ chức tín dụng. Ngân hàng và các tổ chức tín dụng đứng ra nhận các khoản tiền gửi dưới nhiều hình thức khác nhau, chi trả các khoản lãi cho khách hàng và tìm cơ hội đầu tư, cho vay. Ngân hàng cũng là người thu được lợi do lãi thu từ các khoản cho vay lớn hơn chi phí huy động vốn và chi phí phát sinh khác. Như vậy qua nghiệp vụ này, có ít nhất ba người có lợi: người cho vay, ngưòi đi vay và ngân hàng. Như vậy, tín dụng tồn tại một cách khách quan trong nền kinh tế do nhu cầu cho mượn và vay mượn tiền luôn luôn tồn tại trong nền kinh tế. Tín dụng không những mang lợi lại cho các bên tham gia mà còn có lợi cho toàn bộ xã hội nói chung khi nó tạo điều kiện cho quá trình lưu thông vốn giữa các cá nhân, các ngành, nó đáp ứng được nhu cầu đầu tư, nhu cầu tiêu dùng, khuyến khích nhu cầu tiêu dùng sản phẩm xã hội và đem lại sự tăng trưởng cho nền kinh tế. 2. Tín dụng đối với nền kinh tế thị trường. Tín dụng ngân hàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho toàn bộ nền kinh tế, nó tạo ra khả năng tài trợ cho các ngành công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp... nó tạo ra khả năng tiêu dùng cho dân cư, khuyến khích nhu cầu tiêu dùng sản phẩm từ đó tạo nên sự tăng trưởng mạnh mẽ cho nền kinh tế. Trong các ngành sản xuất kinh doanh, từ khâu sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng đều có sự tham gia của tín dụng: Trong sản xuất, tín dụng tài trợ cho qua trình đầu tư xây dựng các nhà máy công xưởng, mua sắm máy móc trang thiết bị cho sản xuất, tín dụng tài trợ cho các chi phí sản xuất kinh doanh như dự trữ nguyên vật liệu cho sản xuất, tiền lương, tiền công... là những đầu vào không thể thiếu cho quá trình sản xuất. Tín dụng không những duy trì khả năng sản xuất cho các doanh nghiệp mà còn thúc đẩy quá trình sản xuất nhanh chóng nhờ sự tài trợ cho đầu tư xây dựng, mua sắm trang thiết bị mới, đổi mới công nghệ. Trong lưu thông hàng hoá, tín dụng tài trợ cho việc xây dựng kho tàng bến bãi mua sắm phương tiện lưu thông tài trợ cho lượng dự trữ hàng hoá và các khoản chí phí khác phát sinh trong quá trình kinh doanh. Trong tiêu dùng nhờ các khoản tín dụng mà mong muốn mua sắm của người tiêu dùng trở thành nhu cầu thực sự, tín dụng tạo ra khả năng chi trả cho người tiêu dùng. Nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhu cầu vốn cho sản xuất, tiêu dùng ngày càng cao do vậy vai trò của tín dụng ngân hàng cho sự phát triển kinh tế xã hội rất to lớn. Đối với nền kinh tế nước ta trong thời kỳ bao cấp, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là các doanh nghiệp nhà nước và các hợp tác xã được nhà nước bao cấp toàn bộ vốn cho sản xuất kinh doanh, nhà nước chỉ định nguồn mua nguyên vật liệu, bao tiêu sản phẩm và bù lỗ khi làm ăn không hiệu quả do đó quan hệ tín dụng đã mất đi tính thực chất của nó. Bước sang nền kinh tế thị trường, nhà nước xoá bỏ bao cấp, các doanh nghiệp tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tất cả các hoạt động sản xuất của mình. Với các khoản vốn ban đầu do nhà nước cấp, doanh nghiệp, phải tự tìm kiếm các nguồn vốn để tài trợ cho chi phí. Điều này buộc họ phải tự tìm đến ngân hàng để vay vốn. Không chỉ đối với các doanh nghiệp nhà nước mà tất cả các thành phần kinh tế khác, vốn tự có không thể tài trợ đầy đủ cho chí phí sản xuất. Họ luôn luôn ở trong tình trạng thừa hoặc thiếu vốn, hay nói cách khác luôn có nhu cầu đi vay và cho vay. Tuy nhiên, các doanh nghiệp, công ty có thể có thể huy động nhiều vốn từ nhiều nguồn khác nhau thông qua thị trường vốn. Nhưng chỉ các doanh nghiệp, công ty lớn làm ăn hiệu quả, có uy tín trên thị trường mới có thể huy động được vốn thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu. ở nước ta các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng lớn, hơn nữa thị trường tài chính chưa phát triển, thị trường cổ phiếu chưa hoạt động thực sự cho nên sẽ rất khó khăn trong việc huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu và chi phí huy động vốn sẽ rất cao nên nguồn vốn vay ngân hàng đang là nguồn vốn duy nhất ngoài vốn tự có tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng không những tài trợ cho hoạt động của các doanh nghiệp mà là còn tài trợ cho quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng, là cơ sở vật chất tạo ra động lực cho sự tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Đối với nước ta hiện nay cơ sở hạ tầng còn rất lạc hậu thiếu thốn, nhu cầu vốn cho đầu tư xây lắp sửa chữa rất lớn. Ngoài ra trong nền kinh tế thị trường luôn xuất hiện sự phân cách giữa người giàu và người nghèo, tín dụng ngân hàng có thể tạo nên sự công bằng cho xã hội thông qua việc cho vay đối với những hộ gia đình có khó khăn trong kinh tế với mức lãi suất hợp lý, giúp họ có được khả năng sản xuất, tạo ra thu nhập. II. Tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp nhà nước. 1. Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Thực tiễn trên thế giới, nền kinh tế hàng hoá của bất kì một nước nào cũng đều cần có sự quản lý của nhà nước, dù đó là nước phát triển, đang phát triển hay kém phát triển, dù đó là nước xã hội chủ nghĩa hay nước tư bản chủ nghĩa, vấn đề khác nhau chỉ là ở chỗ mức độ và hình thức can thiệp. Vai trò diều tiết , đem lại sự cân bằng cho nền kinh tế của nhà nước là không thể thiếu. Nhà nước có thể can thiệp vào nền kinh tế bằng nhiều công cụ vĩ mô khác nhau, trong đó phải kể đến công cụ vật chất của khu vực kinh tế nhà nước bao gồm nhiều công ty độc quyền nhà nước, chiếm giữ các ngành kinh tế then chốt, mũi nhọn mà nhà nước đầu tư 100% vốn hay chiếm giữ một tỷ lệ vốn chi phối thông qua chế độ tham dự. a. Định nghĩa doanh nghiệp nhà nước Doanh nghiệp nhà nước là một tổ chức kinh doanh, do nhà nước thành lập đầu tư vốn và quản lý với tư cách là chủ sở hữu, đồng thời là một pháp nhân kinh tế hoạt động theo pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Ngoài doanh nghiệp 100% vốn đầu tư của nhà nước còn có các doanh nghiệp cổ phần, trong đó nhà nước chiếm nột tỷ lệ vốn cao, đủ để chi phối hoạt động của nó khi cần thiết. b. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước, ngoài vai trò tạo ra sản phẩm xã hội, nguồn thu của ngân sách,còn là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước gắn liền với vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước. —Thứ nhất doanh nghiệp nhà nước là đơn vị tạo ra sản phẩm xã hội. Cung cấp sản phẩm dịch vụ ,đáp ứng nhu cầu xã hội là vai trò của bất kỳ một doạnh nghiệp nào.Với cơ sở vật chất, nguồn nhân lực của mình, doanh nghiệp nhà nước cũng tiến hành sản xuất kinh doanh như các doanh nghiệp khác. Không những vậy, do nắm giữ các nghành kinh tế then chốt, quy mô lớn, nguồn nhân lực dồi dào nên lượng hàng hoá tạo ra bởi các doanh nghiệp nhà nước chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm xã hội. — Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước là công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế của nhà nước. Vai trò này là rất quan trọng, được biểu hiện ở những vấn đề sau: + Doanh nghiệp nhà nước giữ các vị trí then chốt của nền kinh tế và tạo ra lượng hàng hoá dự trữ lớn cho nhà nước sử dụng để điều hoà cung cầu, khống chế giá cả thị trường, khắc phục các cơn sốt giá (cả sốt giá nóng và sốt giá lạnh) thường xảy ra trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Vấn đề có tính nguyên tắc của nền kinh tế thị trường hiện đại là nhà nước có vai trò điều tiết, uốn nắn những lệch lạc của sự phát triển do cơ chế thị trường chi phối, chứ không thay thế thị trường. Do vậy, sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế cơ bản và chủ yếu là bằng các biện pháp kinh tế chứ không phải bằng mệnh lệnh hành chính. Thông qua đó nhà nước tác động có hướng đến lợi ích của các chủ thể kinh tế tham gia thị trường, thúc đẩy hay bắt buộc các doanh nghiệp hoạt động theo định hướng của nhà nước. Để thực hiện tốt vai trò đó nhà nước phải nắm giữ các vị trí then chốt của nền kinh tế, phải có lực lượng giự trữ hàng hoá lớn, phải lập quỹ lưu thông để điều hoà cung cầu. Khu vực kinh tê quốc doanh sẽ đảm nhận vai trò này chứ không phải toàn bộ nền kinh tế. Khi có sự biến động của nền kinh tế, nhà nướcc chủ động can thiêp vì đã có sự chuẩn bị đầy đủ, chu đáo từ trước, sớm làm dịu các cơn sốt, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. Vấn đề khó khăn đặt ra là làm sao để các doanh nghiệp nhà nước vừa là công cụ quản ký vĩ mô của nhà nước lại vừa là doanh nghiệp làm ăn có lãi, đòi hỏi nhà nước phải có một cơ chế quản lý thích hợp cho từng loại hình doanh nghiệp nhằm giúp chúng đứng vững trong cạnh tranh, hoàn thành được nhiệm vụ ổn định thị trường. + Một hệ thống doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả là tác nhân quan trọng để nhà nước làm đối trọng với các thành phần kinh tế khác trong việc kiềm chế sự phát triển mất cân đối của nền kinh tế do thành phần kinh tế tư nhân gây nên khi họ chạy theo lợi nhuận đơn thuần. Kiềm chế sự lũng đoan của các thành phần kinh tế khác cũng như tác nhân từ bên ngoài trong từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế. Nhờ đó, nhà nước có thể hưóng nền kinh tế phát triển theo chiến lược đã chọn. + Khu vực kinh tế quốc doanh có vai trò là người mở đường hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Hệ thống doanh nghiệp quốc doanh hoạt động có hiệu quả là lực lượng vật chấ để liên kết lôi kéo các thành phần kinh tế khác phát triển theo đúng định hướng phát triển kinh tế xã hội, hướng các thành phần kinh tế khác vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm thực hiện thành công các chiến lược kinh tế, với vai trò này, doanh nghiệp nhà nước là yếu tố đảm bảo, là tác nhân kích thích đối với các thành phần kinh tế khác, cụ thể, doanh nghiệp nhà nước tạo ra cơ sở hạ tầng, tạo môi trường thuận lợi để các thành phần kinh tế khác phát triển. Hơn nữa, doanh nghiệp nhà nước tạo ra sự an toàn, hiệu quả cho sản xuất kinh doanh, cho sự phát triển kinh tế xã hội. — Ngoài vai trò trên, doanh nghiệp nhà nước còn là đơn vị thực hiện các mục tiêu xã hội, đó là tạo sự công bằng, hỗ trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển, ít sinh lãi, làm tăng công ăn việc làm cho nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước còn là người đầu tư cho quá trình nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật mới, công nghệ sản xuất hiện đại, doanh nghiệp nhà nước còn tham gia vào quá trình đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, là nền tảng cho sự phát triển. ở nước ta, đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới nền kinh tế theo hướng phát triển của một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, chúng ta đã khuyến khích mạnh mẽ phát triển của các thành phần kinh tế khác cùng với việc củng cố, đổi mới hoạt động của khu vực kinh tế quốc doanh, tạp thể, bảo đảm cho khu vực kinh tế quốc doanh thực hiện tốt vai trò chỉ đạo của mình. Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế hàng hoá đa thành phần, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn nhận thức rõ cần thiết có một khu vực kinh tế quốc doanh hùng mạnh, hoạt động có hiệu quả để giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, tạo chỗ dựa vật chất cho Nhà nước trong quá trình điều tiết vĩ mô nền kinh tế . Đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, kinh tế nước ta cần có sự lớn mạnh thực sự của khu vực kinh tế Nhà nước, đủ sức mạnh để làm đối trọng với các thành phần kinh tế khác. Mà sức mạnh đó phải là sức mạnh thực sự về thực lực kinh tế chứ không phải là dựa vào quyền lực của Nhà nưóc. Khu vực kinh tế nhà nước phải tự mình vươn lên dành quyền chi phối các nghành kinh tế bằng chính sức mạnh kinh tế tài chính của mình. Trong thời gian qua, doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã không ngừng lớn mạnh, luôn đứng vững trên thị trường vốn có nhiều biến động của một nền kinh tế đang phát triển. Tuy số lượng doanh nghiệp nhà nước có giảm, nhưng tỷ trọng không hề suy giảm do quy mô cũng như sự hoạt động hiệu quả của nó. Kể từ năm 1995 đến nay, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của hệ thống doanh nghiệp nhà nước là 11.2%, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế - khoảng 8.7%. Chúng ta có thể thấy sự lớn mạnh của doanh nghiệp nhà nước qua một số chỉ tiêu sau: + Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng cao về các ngành xuất nhập khẩu, tốc độ tăng ngạch xuất nhập khẩu bình quân hàng năm đạt 20%. Hệ thống doanh nghiệp nhà nước cũng chiếm trên 90% số dự án liên doanh với nước ngoài. + Doanh nghiệp nhà nước chiếm vị trí quan trọng trongcác nguồn thu cảu ngân sách Nhà nước, tốc độ thu ngân sách từ các doanh nghiệp nhà nước tăng bình quân hàng năm là 50%, trong khi các khoản tài trợ trực tiếp hay gián tiếp từ ngân sách giảm đi một cách đáng kể. + Hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp nhà nước được cải thiện một cách rõ rệt. Nếu năm 1996 mỗi đồng vốn tạo ra được 2,41 đồng doanh thu, 0,07 đồng lợi nhuận thì năm 1999, mỗi đồng vốn đã tạo ra được 3,46 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận. Hiêụ quả sự dụng vốn của các doanh nghiệp nhà nước qua các năm (Tính trên 1000 đồng vốn. Đơn vị: đồng) Chỉ tiêu 1994 1998 2000 2001 Doanh thu Lợi nhuận Nộp ngân sách LN/DT(%) 2850 142 450 4.98 3458 193 322 5,58 2805 112 320 4,0 3234 97 317 3,0 + Cơ cấu của khu vực kinh tế quốc doanh nói riêng, của nền kinh tế nói chung đang tiếp tục chuyển biến có lợi cho sự phát triển các ngành công nghiệp,dịch vụ. + Tỷ trọng sản phẩm sản xuất của khu vực kinh tế quốc doanh so với tổng sản phẩm sản xuất trong nước đã tăng từ 45% năm 1995 lên 51.4% năm 1999. Mặc dù có sự phát triển tương đối mạnh mẽ của khu vực kinh tế quốc doanh trong nhiều năm qua, nhưng hệ thống doanh nghiệp nhà nước vẫn còn có nhiều điểm yếu, những tồn tại cần phải khắc phục: — Tuy có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm 1995-1999 nhưng đến năm 2000, 2001 tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp nhà nước có chững lại. Năm 2001 mặc dù doanh thu tăng, nhưng tổng lợi nhuân thu về chỉ bằng năm 2000 do đó, tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu tiếp tục giảm, đồng thời tỷ lệ lợi nhuận trên vốn nhà nước cũng giảm đáng kể trong những năm gần đây. Khi chuyển sang giai đoạn phát triển mới, và đứng trước sự cạnh tranh gay gắt khi hội nhập quốc tế, đã xuất hiện một số dấu hiệu đáng lo ngại: các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế, về tỷ suất lợi nhuận, khả năng nộp ngân sách nhà nước , khả năng cạnh tranh trên thị trường ... của các doanh nghiệp nhà nước không còn giữ được tốc độ như trước đó và có dấu hiệu giảm sút ở một số ngành, một số địa phương: Theo báo cáo thống kê, năm 2001, sản xuất của ngành công nghiệp tăng 13.7% so với năm 2000 thì khu vực công nghiệp trung ương chỉ tăng 10.4%, sản xuất của các doanh nghiệp thuộc bộ công nghiệp chỉ tăng 8.4%. Riêng địa phương Hà nội, công nghiệp chỉ tăng 3.4% trong đó khu vực kinh tế quốc doanh giảm 4%, công nghiệp địa phương Đà nẵng tăng 2.4% trong đó công nghiệp quốc doanh giảm 4%. Các chỉ tiêu lợi nhuận, nộp ngân sách cũng có chiều hướng tương tự. — Hiện nay, số lượng doanh nghiệp nhà nước vẫn còn nhiều và quá nhỏ về quy mô, vẫn có sự dàn trải không cần thiết, vượt khả năng hiện có của Nhà nước. Năm 2001 vẫn có trên 30% doanh nghiệp nhà nước có số vốn dưới một tỷ đồng, trong đó có đến 50% doanh nghiệp có vốn dưới 500 triệu đồng. Tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp nhà nước là khá phổ biến và nghiêm trọng vốn lưu động của Nhà nước chưa đến 10% tổng vốn hoạt động. Do đó doanh nghiệp phải trực tiếp vay nợ từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Lợi nhuận của doanh nghiệp giảm do phải trả lãi cho ngân hàng. Quan trọng hơn là cơ sở vật chất trang thiết bị của một số doanh nghiệp đã quá cũ kỹ lạc hậu, trong khi đó doanh nghiệp không có đủ vốn để đổi mới, hiện đại hoá công nghệ, dẫn tới sự mất cạnh tranh trên thị trường. — Một số doanh nghiệp vẫn còn thua lỗ lớn. Tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước thua lỗ còn rất cao chiếm trên mức 20% tổng số doanh nghiệp nhà nước. Hiệu quả kinh tế thấp, mức sinh lời của đồng vốn thấp, đặc biệt là các doanh nghiệp do địa phương quản lý. Nguyên nhân chính của tình trạng này là trình độ quản lý của cán bộ còn non yếu, thiếu vốn, thiếu máy móc trang thiết bị, cơ sở vật chất nói chung quá cũ, phần lớn được đầu tư mua sắm từ những năm 80. — Tình trạng thua lỗ nặng, mất khả năng thanh toán vẫn xảy ra ở một số doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, nhưng không tuyên bố phá sản do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có vấn đề giải quyết chính sách, chế độ cho người lao động. Tình hình hiện nay của doanh nghiệp nhà nước là kết quả của nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan.. Thứ nhất, tiềm năng khai thác của thời kỳ bao cấp đã phát huy gần hết trong khi đó năng lực mới được đầu tư chưa có nhiều và chưa kịp phát huy tác dụng. Động lực phát huy quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước sau một thời gian có tác dụng tích cực nhưng đến nay đã có những hạn chế mới. Thứ hai, sự cạnh tranh gay gắt của hàng nhập khẩu, hàng nhập lậu và sản phẩm của các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài đã gây ra những khó khăn nhất định cho các doanh nghiệp nhà nước. Nhiều doanh nghiệp nhà nước có vốn đầu tư nước ngoài đã không thực hiện đúng cam kết là tài sản sản xuất chủ yếu để xuất khẩu. Hàng hoá sản phẩm do doanh nghiệp nhà nước làm ra khó cạnh tranh bình đẳng với chất lượng, mẫu mã, giá cả và khả năng tiếp thị. Thứ ba, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ còn có hạn, đội ngũ công nhân lành nghề, kỹ sư giỏi chưa nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế thị trường, không đủ sức đưa doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Bên cạnh những nhà quản lý làm việc quên mình vì doanh nghiệp thì đã và đang xuất hiện những cán bộ chỉ lo thu lợi cá nhân, bán rẻ quyền lợi của nhà nước, của người lao động. Mặt khác mức lương trong doanh nghiệp nhà nước còn rất thấp so với các khu vực kinh tế khác nên chưa khuyến khích được cán bộ, kỹ sư giỏi, công nhân lành nghề. Thứ tư, theo tôi là nguyên nhân quan trọng nhất, đó là tình trạng thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh. Đại đa phần doanh nghiệp nhà nước hiện đang phải sử dụng trang thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu, dẫn tới năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Trong khi đó vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh còn chưa đủ thì nói gì đến đầu tư xây dựng mới, mua sắm trang thiết bị mới. Mặt khác, trong một thời gian dài, doanh nghiệp nhà nước phải nộp khấu hao cơ bản và tỷ lệ trích quỹ phát triển sản xuất quá thấp đã hạn chế khả năng đầu tư. Hơn nữa ngân sách nhà nước chủ yếu được dùng để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, doanh nghiệp nhà nước ít được bổ trợ vốn từ ngân sách. Tình hình này đã làm cho doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc đầu tư chiều sâu và mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh. 2. Tín dụng đối với doanh nghiệp nhà nước . a. Nhu cầu vốn trong các doanh nghiệp nhà nước Như tình trạng hiện nay của các doanh nghiệp nhà nước, trang bị máy móc cũ, công nghệ thấp, doanh nghiệp có quyền tự chủ cần chủ động vay vốn ngân hàng, đặc biệt là vốn trung dài hạn để đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao hiêụ quả trong hoạt động để thực sự trở thành khu vực kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế. b. Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhà nước . Tín dụng ngân hàng là một hoạt đông của nền kinh tế. Tuỳ theo tính chất đặc điểm của nền kinh tế xã hội mà vai trò của tín dụng được thể hiện ở những mức độ khác nhau. Trong điều kiện hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay, tín dung ngân hàng có những vai trò sau: — Vai trò của tín dụng trong việc huy động và tập trung vốn. Ngân hàng đã huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng trong các doanh nghiệp, dân cư để cho vay đối với các doanh nghiệp, cá nhân, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Quá trình kinh doanh tín dụng ngân hàng bắt đầu từ việc huy động vốn và trên cơ sở có nguồn vốn đó đáp ứng nhu cầu vay vốn ngày càng cao của nền kinh tế. Cũng như các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp nhà nước trong quá trình hoạt động luôn ở trong tình trạng tồn tại những nguồn vốn tạm thời chưa sử dụng, có nhu cầu gửi vào ngân hàng để hưởng lãi hoặc ở trong tình trạng thiếu vốn, có nhu cầu vay vốn từ ngân hàng để trang trải các chi phí trong hoạt động. Ngân hàng là người đứng ra tiếp nhận những khoản vốn nhàn rỗi, tập trung các khoản này thành những khoản vốn lớn, đáp ứng nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp khi doanh nghiệp đòi hỏi. Trong nền kinh tế thị trườnghoạt động kinh doanh luôn gắn liền với lợi nhuận cao. Do vậy ngân hàng luôn nỗ lực huy động tối đa nguồn vốn từ nền kinh tế nói chung và từ các doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Qua đó, cùng với chính sách tiền tệ của nhà nước, cùng với hoạt động của thị trường tài chính, thị trường tiền tệ, tín dụng ngân hàng đã góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của vốn. — Vai trò của tín dụng trong việc cung cấp vốn. Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp nhằm duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh, đồng thời góp phần đầu tư vào nền kinh tế tạo nên sự tăng trưởng phát triển. Vốn là yếu tố không thể thiếu cho quá trình sản xuất kinh doanh, tuy vậy hiện tượng thừa, thiếu vốn luôn xảy ra giữa các doanh nghiệp, giữa các ngành. bằng nguồn vốn huy động được, ngân hàng đã thực hiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư, tài trợ cho sự thiếu hụt vốn của một bộ phận kinh tế. Ngân hàng đáp ứng nhu càu vốn cho các doanh nghiệp đã giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục, thúc đẩy sự ._.tăng trưởng của các doanh nghiệp. Mặt khác, tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, là đông lực thúc đẩy dân cư tăng các khoản tiết kiệm, tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư. Để thấy rõ vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc huy động và cho vay, ta thử hình dung một nền kinh tế thị trường không có các ngân hàng và các tổ chức tín dụng, vốn nhàn rỗi sẽ mãi ứ đọng trong các doanh nghiệp, cá nhân thừa vốn tạm thời, trong lúc đó những cá nhân khác sẽ bỏ lỡ những cơ hội đầu tư mang lại lợi nhuận cao, bỏ lỡ những hợp đồng kinh tế có giá trị, bỏ lỡ các cơ hội tiêu dùng chỉ vì thiếu vốn tạm thời. — Tín dụng ngân hàng tài trợ cho ngành kinh tế chủ lực, ngành kinh tế mũi nhọn, ngành kinh tế kém phát triển Đối với nước ta, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, đầu tư phát triển cho các ngành kinh tế chủ lực, cho các ngành kinh tế mũi nhọn vừa là yêu cầu cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài mới có thể đuổi kịp các nước trong khu vực, các nước trên thế giới. Tín dụng ngân hàng đã góp phần phát triển các ngành kinh tế này thông qua việc cho vay dưới các hình thức khác nhau, qua đó góp phần vào qua trình tăng trưởng của nền kinh tế . Trong nền kinh tế thị trường, vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước rất quan trọng đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế sao cho sử dụng toàn bộ tài nguyên và sức lao động hiệu quả nhất. Do vậy, nhà nước phải ưu tiên phát triển một số ngành kinh tế ít sinh lợi, một số ngành kinh tế kém phát triển. Trong việc làm này Nhà nước cũng cần sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng. — Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát triển quan hệ đối ngoại. Trong thời đại ngày nay, sự phát triển kinh tế của một nước luôn gắn liền với sự phát triển của kinh tế thế giới. Sự hợp tác bình đẳng, đôi bên cùng có lợi giữa các nước trên thế giới và khu vực đang được phát triển đa dạng cả về nội dung và hình thức, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đó là nhân tố hết sức quan trọng tạo điều kiện cho sự hoà nhập vào nền kinh tế thế giới và cho sự phát triển kinh tế của mỗi nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong đó có nước ta. Tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong các phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau qua việc đầu tư vốn ra nước ngoài và tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ. Để thực hiện được quá trình đầu tư ra nước ngoài hay các hoạt động thương mại giữa các nước, yếu tố đầu tiên có ý nghĩa quyết định là vốn bằng tiền. Lượng vốn cần cho các hoạt động này là rất lớn và doanh nghiệp thường không thể có đủ. Do vậy tín dụng là nguồn vốn tài trợ đắc lực cho các doanh nghiệp thực hiện quá trình đầu tư, xuất nhập khẩu hàng hoá. ở nước ta trong thời gian qua tín dụng ngân hàng đã góp phần đáng kể vào quá trình hợp tác kinh tế với các nước mà chủ yếu là tài trợ cho hoạt động ngoại thương, hoạt động đầu tư theo các hiệp định giữa chính phủ nước ta với chính phủ các nước khác, đồng thời nhờ nguồn vốn tín dụng từ bên ngoài để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. c. Tín dụng ngân hàng cấp cho doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong thời gian qua Ngân hàng thương mại cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước vừa đáp ứng được các nhu cầu vốn của doanh nghiệp, vừa đáp ứng được mục tiêu chung của nền kinh tế. Trong thời gian qua ngân hàng đã rất coi trọng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp nhà nước đặc biệt là doanh nghiệp chủ lực nhà nước, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các ngành, các doanh nghiệp để khai thác mọi tiềm năng kinh tế trên cơ sở xác định rõ các mục tiêu và định hướng đầu tư. Kể từ khi sắp xếp lại, tính đến nay cả nước ta có 74 doanh nghiệp chủ lực của nhà nước trong đó có 56 doanh nghiệp là các tổng công ty thành lập theo quy định 91/ TTg của thủ tướng chính phủ với trên 400 đơn vị thành viên. Các doanh nghiệp này đã được các ngân hàng thương mại thường xuyên đầu tư vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. Ước tính đến 31 tháng 12 năm 2001 tổng dư nợ của các ngân hàng thương mại quốc doanh đối với các doanh nghiệp nhà nước nói trên là 14600 tỷ đồng chiếm trên 25% tổng dư nợ của toàn ngành ngân hàng đối với nền kinh tế, trong đó dư nợ ngắn hạn là 8153 tỷ đồng, trung dài hạn là 5447 tỷ đồng. Chỉ riêng doanh số cho vay quý I năm 98 ước tính 20900 tỷ đồng đặc biệt là các ngân hàng thương mại đã tập trung cho vay đối với các ngành kinh tế mũi nhọn như: sản xuất, kinh doanh lương thực, thực phẩm, kinh doanh xuất nhập khẩu, sản xuất xi măng, cà phê... Thời gian qua, ngân hàng thương mại đã tăng tỷ trọng vốn cho vay trung và dài hạn để đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng cơ bản, đổi mới thiết bị sản xuất, đáp ứng các nhu cầu bức thiết của nền kinh tế. Ngoài các khoản vốn huy động để cho vay trong nước, hệ thống ngân hàng thương mại đã thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay các khoản vốn từ bên ngoài. Số vốn bảo lãnh ước tính trong năm 2001 là 460 triệu USD, chủ yếu là để nhập khẩu những mặt hàng cần thiết và đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ sản xuất, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đứng vững và phát triển mạnh mẽ trên thị trường. Cùng với việc đầu tư tín dụng vào các doanh nghiệp nhà nước chủ lực, hệ thống ngân hàng thương mại còn đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước địa phương cũng như các doanh nghiệp khác thuộc các bộ các ngành trong nước với số vốn hàng nghìn tỷ đồng, giúp cho các doanh nghiệp này phát triển, đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Với tình hình kinh tế không ổn định, môi trường pháp lý chưa đầy đủ, chưa thống nhất của một nền kinh tế đang phát triển, việc đầu tư tín dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước cũng gặp phải một số khó khăn trở ngại nhất định: Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước có số vốn lưu động được cấp quá nhỏ, với quy chế hiện hành doanh nghiệp không thể vay vốn ngân hàng gấp nhiều lần vốn tự có. Do đó, trong nhiều trường hợp đã cố gắng hết khả năng, doanh nghiệp vẫn không có đủ vốn hoạt động và đó cũng là vấn đề khó khăn cho các ngân hàng thương mại trong việc cung cấp tín dụng, nó đã hạn chế lượng tín dụng cấp cho mỗi doanh nghiệp. Tuy vậy, thực tế hiện nay đã có nhiều doanh nghiệp nợ ngân hàng những khoản lớn gấp ba bốn lần so với vốn tự có. Thứ hai, sự yếu kém về quản lý, về tình hình tài chính và sự lạc hậu của công nghệ sản xuất đã đẫn đến sự thua lỗ ở một số doanh nghiệp làm cho ngân hàng không giám tiếp tục cho các doanh nghiệp này vay vốn. Điều này không những trực tiếp tác động tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn gây khó khăn cho ngân hàng trong hoạt động tín dụng. Thứ ba, các vấn đề về tài sản thế chấp, lãi suất cho vay, về nợ quá hạn, nợ khó đòi trong ngân hàng đã làm suy giảm mức độ tin cậy lẫn nhau và quan hệ tín dụng giữa ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp nhà nước. Măc dù đứng trước những khó khăn đó, nhưng ngành ngân hàng vẫn xác định tiếp tục tập trung đầu tư vốn cho các doanh nghiệp chủ lực của nhà nước cũng như các doanh nghiệp nhà nước địa phương, đặc biệt là vốn trung dài hạn để các doanh nghiệp này thực hiện tốt mục tiêu kinh tế được nhà nước giao cho. Đồng thời ngân hàng sẽ nỗ lực khai thác thêm nguồn vốn từ bên ngoài qua việc thực hiện các dịch vụ bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn để đầu tư vào các dự án kinh tế trọng yếu của nhà nước hoặc tạo điều kiện cho các ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh đầu tư vốn chấp nhận bảo lãnh, ngân hàng thương mại sẽ cùng với doanh nghiệp xây dựng những dự án kinh tế để bảo đảm việc đầu tư có hiệu quả, thu hồi vốn đúng kế hoạch và trả nợ đúng thời hạn. Chương II thực trạng đầu tư tín dụng đối với doanh nghiệp quốc doanh ở ngân hàng công thương hoàn kiếm I. Sơ lược về ngân hàng công thương hoàn kiếm 1. Hoàn cảnh ra đời và sự phát triển. Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm ra đời từ ngân hàng Nhà nước quận Hoàn Kiếm, trực thuộc ngân hàng Nhà nước thành phố Hà nội- ngân hàng Nhà nước Việt Nam, được thành lập ngày 1 tháng 5 năm 1951 theo sắc lệnh của chủ tịch nước Hồ Chí Minh.Trước tháng 3 năm 1988, tức trước nghị định 53/HĐBT: “Đổi mới hoạt động ngân hàng”, nhiệm vụ của ngân hàng là phục vụ công tác tiền tệ, tín dụng, thanh toán trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, vừa thực hiện chức năng quản lý, vừa thực hiện chức năng ngân hàng hoạt động theo kế hoạch của Nhà nước và được Nhà nước bao cấp, do đó có sự đầu tư tín dụng tràn lan kém hiệu quả. Cùng với sự đổi mới nền kinh tế, hệ thống ngân hàng với vai trò là động lực cho sự phát triển, cũng được đổi mới bắt đầu từ Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của hội đồng bộ trưởng (nay là chính phủ), đặc biệt là sự ra đời của hai pháp lệnh ngân hàng năm 1994 (pháp lệnh ngân hàng nhà nước và pháp lệnh về ngân hàng công ty tài chính và tổ chức tín dụng). Hệ thống ngân hàng Việt nam đã có sự chuyển biến căn bản. Đó là việc chuyển đổi từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, trong đó: + Ngân hàng nhà nước Việt nam với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, cùng với hệ thống chi nhánh ở các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, thực hiện chức năng quản lý nhà nước thông qua các chính sách về tiền tệ, về tín dụng... + Các ngân hàng thương mại bao gồm ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các hợp tác xã tín dụng... chuyên doanh theo từng lĩnh vực và hoạt động theo phương thức hạch toán kinh doanh độc lập. Như vậy trong hệ thống ngân hàng hai cấp đã phân chia rõ vai trò, nhiệm vụ của các ngân hàng. Đó là nhiệm vụ quản lý hệ thống tài chính, tiền tệ của ngân hàng nhà nước và nhiệm vụ kinh doanh của ngân hàng thương mại, tránh được sự xen kẽ, chồng chéo vai trò nhiệm vụ của nhau. Với sự đổi mới này, ngân hàng Nhà nước quận Hoàn Kiếm, đóng ở số 10 Lê Lai chuyển thành một ngân hàng thương mại cấp quận, trực thuộc Ngân hàng Công thương Trung ương. Từ đó đến nay, với vai trò là một ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng công thương Hoàn Kiếm đã tổ chức thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán trên địa bàn quận, phục vụ cho nhu cầu kinh tế xã hội trong quận mình. Ngân hàng công thương Hoàn kiếm trước kia đóng ở Lê lai nay chuyển về 37 Hàng bồ, quận Hoàn kiếm, thành phố Hà nội và số 10 Lê lai trở thành một phòng giao dịch của nó. Hoàn kiếm là một trong những quận trung tâm của thành phố Hà nội, có địa bàn rộng và là một trung tâm kinh tế văn hoá xã hội, là nơi tập trung nhiều khu công nghiệp, thương nghiệp, nhiều doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã và nhiều hộ gia đình kinh doanh, đồng thời trên địa bàn quận còn có nhiều trung tâm thương mại đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của ngân hàng trong việc mở rộng quy mô kinh doanh tín dụng, thanh toán và các dịch vụ khác. Mặc dù có những điều kiện thuận lợi đó nhưng trong hoạt động kinh doanh, ngân hàng cũng gặp không ít những khó khăn do đặc điểm phức tạp, sự biến động của nền kinh tế của quận gây nên: Thứ nhất, phần lớn các doanh nghiệp là các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn tự có thấp, với các phương án sản xuất kinh doanh không hiệu quả, điều này không những hạn chế các khoản cho vay đối với các doanh nghiệp mà còn làm giảm đi nguồn vốn huy động của ngân hàng . Thứ hai, nguồn vốn tín dụng của ngân hàng chủ yếu là các khoản tiền gửi tiết kiệm của dân cư, các khoản tiền gửi tạm thời của các tổ chức kinh tế, thường là tiền gửi ngắn hạn nên đã hạn chế việc đầu tư vào các công trình dài hạn, cho vay trung, dài hạn. Thứ ba, sự biến động nền kinh tế quận trong thời gian gần đây đã làm cho một số doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân, cá nhân kinh doanh, hộ gia đình thua lỗ trong kinh doanh, mất khả năng thanh toán, không trả được nợ, gây ra sự mất mát cho ngân hàng. Tuy vậy trong thời gian gần đây, ngân hàng đã từng bước đi vào ổn định và hoạt động kinh doanh ngày càng có hiệu quả hơn. 2. Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ các phòng ban và hoạt động cơ bản của ngân hàng a. Cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ của các phòng ban Ngân hàng có đến 175 cán bộ công nhân viên, hầu hết cán bộ trong ngân hàng đều có trên 5 năm công tác, số cán bộ đạt trình độ đại học và trên đại học chiếm trên 80% tổng số cán bộ công nhân viên. Đội ngũ cán bộ ngân hàng nhìn chung trẻ tuổi, có trình độ nghiệp vụ khá, năng động và đoàn kết trong công tác, thường xuyên chú trọng đến việc đổi mới công tác tổ chức cán bộ, chú ý bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ của bản thân và tận tình trong việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ. Ngân hàng công thương Hoàn kiếm được tổ chức thành 8 phòng ban tại trụ sở chính và các phòng giao dịch và quỹ tiết kiệm nằm rải rác trên địa bàn quận. Hệ thống tổ chức của chi nhánh ngân hàng công thương Hoàn kiếm có thể được minh hoạ bằng sơ đồ sau: Ban giám đốc Phòng kế toán Phòng t.toán q.tế Phòng ngân quỹ Phòng nguồn vốn Phòng kiểm soát Phòng vi tính Phòng hành chính Phòng giao dịch Phòng kinh doanh Các quỹ TK Sơ đồ cơ cấu tổ chức của ngân hàng công thương Hoàn kiếm + Ban giám đốc: Ban giám đốc gồm một phó giám đốc và hai phó giám đốc. Trong hai phó giám đốc, một phó quản lý hoạt động kinh doanh của chi nhánh, một phó phụ trách công tác hành chính. Ban giám đốc trực tiếp đề ra các quết định, hướng dẫn thi hành, quản lý hoạt động của tất cả các phòng ban trong chi nhánh trong phạm vi quyền hạn của mình. Ban giám đốc là người thông qua các quyết định kinh doanh, ký các văn bản hợp đồng liên quan đến chi nhánh. + Phòng kinh doanh: Tất cả các nghiệp vụ tín dụng phát sinh trong quá trình hoạt động đều phải thông qua phòng kinh doanh (trừ nghiệp vụ mua bán ngoại tệ và chi trả kiều hối là thực hiện trực tiếp tại phòng thanh toán quốc tế). Cho vay là nghiệp vụ chủ yếu của phòng này, bất kỳ cho vay bằng Việt nam đồng hay ngoại tệ, cho vay ngắn hạn hay cho vay trung, dài hạn. Phòng được chia thành hai bộ phận: bộ phận cho vay và bộ phận thu nợ. Nhiệm vụ của phòng kinh doanh là thực hiện các công đoạn từ thẩm định dự án, tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, lập hồ sơ cho vay, theo dõi qua trình sử dụng vốn vay và thực hiện nghiệp vụ thu nợ, xử lý các món nợ quá hạn, nợ khó đòi. Bên cạnh đó phòng còn thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh L/C trả chậm, bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài... Phòng cũng thực hiện nghiệp vụ huy động vốn nhưng đây không phải là công việc thường xuyên của phòng. + Phòng kế toán: Phòng kế toán được chia thanh hai bộ phận: kế toán thanh toán và kế toán nội bộ. Các kế toán viên ở bộ phận kế toán thanh toán trực tiếp giao dịch với khách hàng, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán hộ khách hàng và thu phí dịch vụ và hạch toán các nghiệp vụ cho vay, nhận gửi... phát sinh trong ngày. Kế toán nội bộ hạch toán các khoản chi phí, thu nhập phát sinh trong quá trình hoạt động và hạch toán các khoản vốn điều chuyển. + Phòng thanh toán quốc tế: Phòng này còn có tên gọi là phòng kinh doanh đối ngoại vì nhiệm vụ của nó là xử lý tất cả các nghiệp vụ liên quan đến ngoại tệ. Các nghiệp vụ thanh toán quốc tế chủ yếu là mở thư tín dụng, nhờ thu, chuyển tiền, mở tài khoản séc, chi trả kiều hối, mua bán ngoại tệ, nhận gửi tiết kiệm ngoại tệ... Ngoài giao dịch với khách hàng phòng còn có nhiệm vụ hạch toán các nghiệp vụ phát sinh tại phòng như một phòng kế toán. Tất cả các nghiệp vụ phát sinh trong ngày được xử lý ngay. Cuối ngày tổng hợp cân đối chung toàn chi nhánh. + Phòng ngân quỹ: Phòng này thực hiện nhiệm vụ thu chi tiền mặt trực tiếp với khách hàng đến giao dịch với ngân hàng. Mọi nghiệp vụ phát sinh ở phòng phải được cân đối, lên sổ quỹ cuối ngày. + Phòng nguồn vốn: Nhiệm vụ của phòng nguồn vốn là huy động vốn và quản lý tất cả các nguồn vốn của ngân hàng, đó là các khoản tiền gửi, tiền vay, vốn điều chuyển... Công việc chủ yếu của phòng là quản lý các quỹ tiết kiệm (gồm 10 quỹ nằm rải rác khắp quận). + Phòng kiểm soát: phòng kiểm soát có thể thường xuyên hoặc định kỳ kiểm tra hoạt động của tất cả các phòng ban về tính hợp pháp, hợp lệ trong hoạt động, đồng thời phối hợp kiểm soát với đoàn kiểm soát trung ương khi cần thiết. + Phòng vi tính: phòng vi tính chịu trách nhiệm về mặt kỹ thuật máy tính của ngân hàng liên quan đến các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, thanh toán bù trừ, thanh toán liên ngân hàng..., đồng thời lập các báo cáo, lên cân đối định kỳ... + Phòng giao dịch: Chi nhánh có tới ba phòng giao dịch ở Đồng xuân, Hàng da và ở Hàng gai. Mỗi phòng giao dịch gần giống như một ngân hàng thu nhỏ, cũng có các nghiệp vụ cho vay, thu nợ, nhận tiền gửi... nhưng chỉ trong phạm vi quyền hạn cho phép (Trưởng phòng chỉ được phép ký khế ước cho vay trị giá dưới 10 triệu đồng) mọi phát sinh ở phòng được đưa về trung tâm vào cuối ngày. Trong hoạt động, giữa các phòng ban luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau để cùng thực hiện mục tiêu chung của ngân hàng. Các phòng kinh doanh, phòng nguồn vốn, phòng kế toán thường xuyên giao dịch trực tiếp với khách hàng, nắm bắt các thông tin, nhu cầu của khách hàng và tập hợp, gửi lên ban giám đốc để ban giám đốc đề ra những quyết định đúng đắn trong hoạt động. b.Hoạt động cơ bản của ngân hàng. Ngân hàng công thương chi nhánh Hoàn kiếm thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ của một ngân hàng thương mại: huy động, cho vay, trung gian thanh toán... Các khoản huy động là tiền tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân, các khoản tiền huy động từ phát hành kỳ phiếu, tiền vay các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại khác...Các khoản cho vay bao gồm cho vay ngắn hạn, cho vay trung dài hạn, cho vay đối với ngành công nghiệp, ngành nông nghiệp, thương nghiệp... Lãi cho vay là nguồn thu nhập chính của ngân hàng. Ngoài ra, ngân hàng còn có các nguồn thu nhập khác như thu nhập từ phí thanh toán hộ, thu nhập từ dịch vụ bảo lãnh... II. Tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và của ngân hàng công thương Hoàn kiếm nói riêng trong thời gian qua. 1. Tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại. Cùng với sự đổi mới của nền kinh tế hệ thống ngân hàng thương mại đã có những chuyển mình mạnh mẽ trong thời gian qua, từ mặt cơ sở vật chất, trình độ nghiệp vụ quản lý cũng như về mặt hoạt động. Về mặt cơ sở vật chất, từ một hệ thống ngân hàng với cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu khi chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp đến nay, hầu hết các ngân hàng đã được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất hiện đại, đó là máy tính, máy rút tiền tự động, trang thiết bị khác phục vụ cho quá trình hoạt động. Tuy nhiên, so với các nước trên thế giới và trong khu vực thì cơ sở vật chất của hệ thống ngân hàng nước ta còn rất lạc hậu, cần phải đầu tư xây dựng mới, nâng cấp thêm nữa để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế. Về mặt trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên trong ngân hàng đã từng bước được nâng cao. Nền kinh tế thị trường đã tạo ra cho cán bộ ngân hàng cách nhìn nhận mới về hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đồng thời sự cạnh tranh trên thị trường đã tạo cho họ sự năng động trong kinh doanh, loại bỏ dần những cán bộ có trình độ yếu kém. Cho đến nay có trên 80% cán bộ, nhân viên trong ngân hàng có trình độ đại học và trên đại học. Về mặt hoạt động, nguồn vốn huy động từ nền kinh tế của ngân hàng thương mại đã không ngừng tăng qua các năm. Có thể nói sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế đã tạo ra tiềm năng về vốn cho các hoạt động của ngân hàng thương mại. Ngược lại với hàng ngàn tỷ đồng vốn đầu tư, cho vay, ngân hàng thương mại đã tạo ra khả năng phát triển mới cho nền kinh tế. Chúng ta có thể thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng thương mại qua sự hoạt động của chi nhánh ngân hàng công thương Hoàn kiếm trong thời gian qua. 2. Hoạt động của ngân hàng công thương Hoàn kiếm Quá trình đổi mới và phát triển của ngân hàng công thương Hoàn Kiếm gắn liền với sự đổi mới của hệ thống ngân hàng Việt nam, là hệ quả của quá trình đổi mới và phát triển kinh tế đất nước do Đảng và Nhà nước ta khởi xướng và tổ chức thực hiện. Chuyển từ một chi nhánh ngân hàng nhà nước sang một chi nhánh ngân hàng thương mại, ngân hàng công thương Hoàn kiếm đã hoà nhập kịp thời với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Tập thể lãnh đạo và cán bộ công nhân viên chi nhánh ngân hàng công thương Hoàn kiếm đã phấn đấu thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao với mục tiêu kinh tế then chốt “phát triển an toàn vốn, tôn trọng pháp luật trong hoạt động và có lợi nhuận cao”. Với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận ngân hàng luôn chú trọng đổi mới trong mọi lĩnh vực hoạt động của mình nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Trong hoạt động, ngân hàng đã từng bước thoát khỏi từ những nghiệp vụ tiền tệ tín dụng cổ truyền, phát huy mở rộng các nghiệp vụ mới như kinh doanh mua bán vàng bạc, ngoại tệ thực hiện nghiệp vụ tín dụng thuê mua, chiết khấu chứng từ, nghiệp vụ bảo lãnh mua bán hàng hoá, dịch vụ chuyển tiền nhanh trong nước, nghiệp vụ thanh toán quốc tế... Ngân hàng ý thức được rằng một nền kinh tế thị trường đang phát triển hàm chứa một sự canh tranh khốc liệt. Với thị trường Hà nội, bao gồm nhều thành phần kinh tế hoạt động, từ các ngân hàng quốc doanh, ngân hàng cổ phần đến các chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài thì chỉ có ngân hàng nào có cơ sở vật chất hiện đại, cung cấp các dịch vụ đa dạng, tiện lợi thì mới có thể đứng vững và phát triển được trên thị trường, do vậy, ngân hàng công thương Hoàn kiếm đã và đang hiện đại hoá, đa dạng hoá các nghiệp vụ của mình bằng công nghệ hiện đại, không chỉ ở trung tâm mà đến từng quầy giao dịch, quỹ tiết kiệm. Dù qua bao thăng trầm của nền kinh tế cũng như của hoạt động trong hệ thống ngân hàng thương mại, đến nay ngân hàng đã khẳng định được vị trí của mình trên thương trường, đứng vững và phát triển trong cơ chế mới của nền kinh tế thị trường. Ngân hàng đã chủ động mở rộng mạng lưới giao dịch, đa dạng hóa các loại hình kinh doanh dịch vụ tiền tệ, ngân hàng đã liên tục tăng cả về nguồn vốn, cả về sử dụng vốn, thay đổi cơ cấu đầu tư, phục vụ sự phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta có xu hướng chững lại, hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Các tổ chức kinh tế trong nước, kể cả các doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hầu hết rơi vào tình trạng kinh doanh thua lỗ. Tình trạng thiếu vốn đầu tư mua sắm thiết bị, máy móc nên vẫn dùng công nghệ cũ, lạc hậu, kém hiệu quả dẫn đến sản phẩm sản xuất có chất lượng kém, không đủ sức cạnh tranh với hàng nhập và sản phẩm của các công ty liên doanh kể cả về mặt chất lượng, cả về mặt mẫu mã và giá thành. Hiện nay trong hầu hết các doanh nghiệp, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ còn non yếu, khả năng điều hành không theo kịp với nhịp độ phát triển của nền kinh tế trong cơ chế mới. Tình trạng này cộng với sự biến động của nền kinh tế trong thời gian qua: sự tăng đột ngột của tỷ giá hối đoái, sự tác động của khủng hoảng tiền tệ của các nước trong khu vực đã gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp trong ngành xuất nhập khẩu. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ mất khả năng thanh toán các khoản nợ cho ngân hàng, và chiếm đa số là các doanh nghiệp tư nhân, cá nhân kinh doanh và hộ gia đình vay vốn. Trước sự biến động và sự phát triển mất cân đối của nền kinh tế, hoạt động kinh doanh của ngân hàng lại càng khó khăn hơn, nhất là trong bối cảnh của ngân hàng công thương Hoàn kiếm với sự thua lỗ nặng trong năm 2000, sự thay đổi cơ bản về mặt nhân sự và thay đổi trong định hướng hoạt động, chiến lược kinh doanh. Mặc dù vậy, ngân hàng công thương Hoàn kiếm đã từng bước khắc phục hậu quả, nỗ lực trong hoạt động, dần dần cải thiện được tình hình kinh doanh, đạt được những thành tựu lớn trong nhiều lĩnh vực trong năm qua. a. Công tác huy động vốn. Nguồn vốn huy động là điều kiện tiên quyết, là tiền đề của mọi hoạt động kinh doanh tiền tệ trong ngân hàng. Ngân hàng thực hiện phương châm đi vay để cho vay, ngân hàng chỉ có thể cho vay khi đã có nguồn vốn dồi dào. Trong năm qua ngân hàng công thương Hoàn kiếm đã nỗ lực trong việc huy động vốn bằng việc mở rộng mạng lưới giao dịch đến các cơ sở, đến các trung tâm thương mại qua các quầy giao dịch, quỹ tiết kiệm bố trí rải rác khắp quận. Đồng thời kết hợp với đổi mới phong cách lề lối làm việc, đa dạng hoá phương thức huy động vốn, tạo điều kiện cho khách hàng gửi tiền, mua kì phiếu... Qua quá trình hoạt động , ngân hàng đã củng cố đựơc lòng tin của khách hàng trong quận, khách hàng đến giao dịch với ngân hàng ngày càng đông, điều đó được thể hiện ở sự tăng lên không ngừng của nguồn vốn huy động trong thời gian qua. Bảng 1: Nguồn vốn huy động của ngân hàng công thương Hoàn kiếm (Đơn vị: 1.000.000 đồng) Chỉ tiêu 2000 Tỷ trọng 96 2001 Tỷ trọng 97 Tỷ lệ 97/96 I. TGKH 46947 13,89 207579 38,68 442,00 1. TGKH=VND 46511 13,76 100896 18,80 216,90 - không kỳ hạn 45415 13,44 69663 12,98 153,40 - có kỳ hạn 993 0,29 31196 5,81 314,20 - tiền gửi khác 103 0.03 37 0,01 2. TGKH=ngoại tệ 436 0,13 106683 19,88 - không kỳ hạn 436 0,13 22581 4,20 - có kỳ hạn 84102 15,68 II. TGTK 290879 86,10 329116 61,32 113,15 1. TGTK=VNĐ 290504 86,00 304694 56,77 104,88 - không kỳ hạn 25952 76,82 10746 20,02 41,40 - có kỳ hạn 264552 9,18 293948 36,75 111,00 2. TGTK=ngoại tệ 375 0,11 24422 4,55 Tổng 337826 536695 158,90 Vốn ở ngân hàng công thương Hoàn kiếm được huy động từ nhiều nguồn khác nhau: + Tiền gửi của khách hàng, bao gồm cả tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn, tiền gửi bằng Việt nam đồng, bằng ngoại tệ. Nguồn vốn này chiếm khoảng 20% tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng. Riêng năm 2001 nguồn này chiếm đến 38,7% tổng nguồn vốn, tăng từ 46.947 năm 2000 lên 207.579 triệu đồng năm 2001. Đây là một bước tăng mà nguyên nhân chính của nó là sang năm 2001, ngân hàng đã lấy lại được lòng tin của khách hàng và hoạt động của dịch vụ thanh toán trong ngân hàng tăng lên mạnh mẽ. + Tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi tiết kiệm là nguồn vốn huy động chủ yếu của ngân hàng chiếm tới 86% tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng năm 1999, 80% năm 2000 và 61% năm 2001. Tuy gảm về tỷ trọng, nhưng so với năm 2000, nguồn vốn này tăng 38.237 triệu đồng hay tăng 13%. Ngoài hai nguồn vốn chủ yếu trên, ngân hàng còn huy động bằng nhiều nguồn vốn khác nhau như: bán kỳ phiếu, vay các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại khác... và một nguồn vốn tương đối lớn , đáp ứng cho nhu cầu vốn cấp bách của ngân hàng là vốn điều chuyển từ ngân hàng công thương trung ương hay từ các ngân hàng thương mại khác. Đây là nguồn vốn phụ bổ trợ cho nguồn vốn của ngân hàng khi cần thiết nên không xuất hiện thường xuyên trong các khoản mục vốn. Năm 2000, với sự biến động trong nọi bộ ngân hàng, cùng với sự biến động của nền kinh tế , nguồn vốn ngân hàng huy động được giảm đi so với năm 1999, chỉ đạt được 337.826 triệu đồng, hay đạt mức 81% so với năm 1999. Sang năm 2001, ngân hàng đã lấy lại được sự thăng bằng, ổn định. Nguồn vốn tăng lên nhanh chóng, từ 337,826 triệu đồng năm 2000 lên 536.695 triệu đồng năm 2001, tăng 55,9% so với năm 2000, và tăng 28,5% so với năm 1999. So với năm 1999, 2000, nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ của ngân hàng đã tăng lên một cách mạnh mẽ. Năm 1999, nguồn ngoại tệ huy động chỉ đạt 106 triệu đồng hay 0,025% tổng nguồn vốn huy động, năm 2000, nguồn ngoại tệ đã tăng lên 811 triệu đồng, đạt 0,24% nguồn vốn, đến năm 2001, nguồn ngoại tệ huy động được đạt 24,4% tổng vốn huy động hay 131.105 triệu đồng. Năm 2001 nguồn vốn băng ngoại tệ của ngân hàng rất dồi dào, đây là điều kiên hết sức thuận lợi cho ngân hàng trong hoạt động tài trợ cho ngoại thương. Nói chung nguồn vốn huy động ở ngân hàng công thương Hoàn kiếm thường cao hơn các ngân hàng khác và cao hơn so với nhu cầu cho vay. Hàng năm, ngân hàng thường không sử dụng hết vốn huy động và phải điều chuyển về ngân hàng công thương trung ương hay điều chuyển đến các chi nhánh khác chứ không rơi vào tình trạng khó khăn thiếu vốn như ở một số ngân hàng khác. b. Công tác sử dụng vốn. Chất lượng và hiệu quả là vấn đề quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại. Gần đây, sự phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường trên địa bàn Hà nội đã tạo cho hoạt động tín dụng những thời cơ mới, trong khi đó, địa bàn quận Hoàn kiếm rộng lớn, là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp, nhiều xí nghiệp, nhiều trung tâm thương mại, lại là một trong những quận trung tâm của thành phố, rất thuận lợi cho ngân hàng công thương Hoàn kiếm trong các hoạt động của mình. Với những thuận lợi đó, trong những năm qua, ngân hàng công thương Hoàn kiếm đã không ngừng mở rộng quy mô của tín dụng, cũng như không ngừng nâng cao chất lượng của chúng. Với nguồn vốn huy động lớn, thường lớn hơn nhu cầu đầu tư, ngân hàng công thương Hoàn kiếm đã không ngừng tìm kiếm cơ hội đầu tư cho vay, khối lượng tín dụng cung cấp cho nền kinh tế ở ngân hàng đã không ngừng tăng qua các năm. Bảng 2: Tình hình sử dụng vốn ở ngân hàng công thương Hoàn kiếm (Đơn vị: 1.000.000 đồng) Chỉ tiêu 1999 2000 2001 I. Doanh số cho vay 177478 409976 639095 - Cho vay ngắn hạn 151059 400444 601308 - Cho vay trung dài hạn 264119 9632 37787 II. Doanh số thu nợ 204809 447020 459729 - Thu nợ ngắn hạn 165175 428309 431413 - Thu nợ trung dài hạn 39634 18711 28316 III. Dư nợ 209272 172228 351594 - Dư nợ ngắn hạn 144780 139667 333069 - Dư nợ dài hạn 64492 35313 42472 Bảng 2 và bảng 3 phản ánh đầy đủ về sự tăng trưởng doanh số cho vay, doanh số thu nợ cũng như dư nợ của ngân hàng công thương Hoàn kiếm qua các năm 1999-2001. Doanh số cho vay năm 2001 là 639.095 triệu đồng, lớn gấp 1,5 lần doanh số cho vay năm 2000 và bằng 3,6 lần doanh số cho vay năm 1999. Doanh số nợ năm 2001 là 459.729 triệu đồng , bằng 103% doanh số thu nợ năm 2000, lớn gấp 2,25 lần doanh số thu nợ năm 1999. Bảng 3: Dư nợ cho vay qua các năm 2000, 2001 Chỉ tiêu 2000 2001 Tăng tuyệt đối % tăng, giảm Tổng 172228 351594 179366 104,0 I. CV ngắn hạn=VND 134586 268564 133987 99,5 - cho vay 79604 199942 119978 150,6 - nợ quá hạn 54982 69022 14040 25,5 II. CV dài hạn=VND 21718 26615 4897 25.6 - cho vay 17491 23127 5636 32,0 -nợ quá hạn 4226 3488 -738 -17._.ệ, đối phó để đủ hồ sơ cho vay nhằm hạn chế tiêu cực cũng như nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Hiện nay, ở Ngân hàng Công thương Hoàn kiếm, tỷ lệ tín dụng trung dài hạn cho nền kinh tế còn rất thấp. Tồn tại đó là do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính là vốn trung dài hạn chiếm tỷ trọng không cao trong tổng nguồn vốn huy động. Khắc phục tình trạng này, ngân hàng cần thực hiện những giải pháp như: — Kết hợp giữa việc quản lý tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng một cách khoa học, chặt chẽ, tăng cường huy động vốn trung dài hạn để mạnh dạn cho vay, trú trọng tìm các cơ hội cho vay bằng cách nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu thị trường thông qua phương tiện thông tin đại chúng, thông qua việc cử cán bộ xuống cơ sở để tìm hiểu, xem xét thu thập thông tin. — Ngân hàng cần giảm lãi suất cho vay trung dài hạn để tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường vốn, khuyến khích nhu cầu đầu tư xây dựng mới, đổi mới thiết bị của doanh nghiệp. Tất nhiên lãi suất chỉ giảm tới một mức nhất định sao cho ngân hàng không bị thua thiệt trong hoạt động. Biện pháp này tuy làm giảm lợi nhuận của ngân hàng cho từng khoản đầu tư nhưng mở rộng được quy mô của tín dụng trung, dài hạn. — Có thể nói, tỷ trọng cho vay trung dài hạn chưa cao do nguồn vốn trung dài hạn huy động được không lớn, nhưng với nguồn vốn ngắn hạn tương đối ổn định, ngân hàng có thẻ dự đoán nhu cầu rút vốn, nhu cầu gửi tiền của dân cư trong quận để hoạch định cho mình một tỷ lệ phần trăm vốn ngắn hạn có thể đầu tư trung dài hạn. 5. Biện pháp kiểm tra, xử lý thu hồi nợ quá hạn Trong hoạt động kinh doanh tín dụng, hiện tượng phát sinh nợ qúa hạn xảy ra là điều dễ thấy bởi nhiều nhân tố khách quan và chủ quan của các đơn vị vay vốn. Vấn đề đặt ra là ngân hàng cho vay như thế nào để hạn chế tối thiểu việc phát sinh nợ quá hạn và có những biện pháp xử lý như thế nào để đảm bảo thu hồi được nợ, vừa không gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của người vay đồng thời giữ được quan hệ tốt giữa khách hàng với ngân hàng. Đối với ngân hàng công thương Hoàn kiếm, để hạn chế nợ quá hạn có thể sử dụng những biện pháp như: — Chỉ cho vay khi đã có khá đầy đủ về thông tin, khi đã phân tích kỹ tính khả thi, tính hiệu quả của dự án, báo cáo tài chính, khả năng tài chính khả năng quản lý và đặc biệt là các tiêu chuẩn về đạo đức của người vay. Không nên quá nhấn mạnh lợi nhuận và phát triển của ngân hàng khi cho vay. Phải gắn liền lợi ích của ngân hàng với lợi ích của doanh nghiệp và sự phát triển của doanh nghiệp. — Chú trọng giám sát hoạt động của doanh nghiệp trước, trong và sau khi doanh nghiệp vay vốn, hướng dẫn doanh nghiệp sử dụng vốn vay đúng mục đích và kinh doanh có hiệu quả, phát hiện những khoản cho vay có vấn đề để kịp thời xử lý. — Nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng trong quá trình thẩm định, ký duyệt cho vay, tránh những tiêu cực trong quá trình cho vay. Tuy nhiên, dù có biện pháp gì đi chăng nữa thì vẫn không thể tránh khỏi sự xuất hiện của nợ quá hạn. ở ngân hàng công thương Hoàn kiếm hiện nay, nợ quá hạn đang là một gánh nặng cho ngân hàng, vì vậy ngân hàng cần có những biện pháp hữu hiệu để xử lý thu hồi bảo toàn vốn cho ngân hàng. Trước hết, ngân hàng phải phân loại lợ quá hạn theo các tiêu thức khác nhau để tìm ra các biện pháp hiệu quả để sử dụng khi thu các loại nợ. — Đối với các đơn vị hoạt động thua lỗ, chưa có khả năng trả nợ cho ngân hàng, trong trường hợp đơn vị thực sự cần thêm vốn và nếu có vốn thì có thể tiếp tục sản xuất kinh doanh, mang lại hiệu quả cao, khi doanh nghiệp trình bày rõ với ngân hàng về vốn cần vay thêm, kế hoạch sản xuất kinh doanh, lợi nhuận mang lại...ngân hàng cần xem xét một cách cụ thể, dĩ nhiên cán bộ ngân hàng phải có thẩm quyền, có trình độ, khả năng đánh giá dự án, kế hoạch thực hiện sản xuất kinh doanh của đơn vị vay vốn đồng thời cán bộ tín dụng phải trực tiếp xuống kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, từ đó xem xét khả năng đầu tư tiếp cho doanh nghiệp hay ngừng đầu tư và thực hiện thu nợ. — Đối với các khoản nợ quá hạn do nguyên nhân khách quan như thiên tai, bệnh tật, tai nạn..., doanh nghiệp không thể trả nợ hay thực hiện việc trả góp đối với tín dụng tiêu dùng thì dưới tình hình như vậy, tình huống có thể được xử lý tốt nhất bằng việc gia hạn nợ hoặc hợp đồng cho vay. — Đối với doanh nghiệp có hàng hoá ứ đọng, tồn kho chưa bán được thì ngân hàng có thể tìm, giới thiệu đơn vị mua hàng để giải quyết hàng tồn kho cho doanh nghiệp có tiền trả nợ. Trường hợp hàng tồn kho không có khả năng tiêu thụ do chất lượng kém, lạc hậu... thì đơn vị phải chịu bán thua lỗ để lấy tiền trả nợ cho ngân hàng. — Đối với các đơn vị sử dụng vốn sai mục đích, có ý lừa đảo trong quan hệ thì ngân hàng phải thu hồi nợ ngay hoặc chuyển sang nợ quá hạn để xử lý nếu không có tiền. — Trong công tác thu nợ, ngân hàng cần coi việc thu nợ là một trọng tâm trong hoạt động. Công tác này phải được thực hiện liên tục, cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra nắm vững tình hình tài chính, khả năng trả nợ, theo dõi việc thực hiện hợp đồng tín dụng của doanh nghiệp. Ngân hàng quyết định thời hạn trả nợ, mức trả nợ, kỳ hạn trả nợ cho đơn vị kinh doanh, phải tính toán sao cho phù hợp với năng lực sản xuất, tính ổn định sản xuất kinh doanh của các đơn vị. Trong giai đoạn đầu của thời hạn trả nợ, không nên ép doanh nghiệp trả quá khả năng của họ, ngân hàng phải xác định mức nợ phải trả phù hợp với thu nhập của doanh nghiệp trong thời hạn đó. — Ngân hàng cần lập tổ thu hồi nợ quá hạn, giao chỉ tiêu đến từng tổ, từng cán bộ tín dụng để họ nhiệt tình trong công tác thu hồi và có khuyến khích vật chất thích đáng cho các tổ, các cán bộ tín dụng có thành tích cao. Các cán bộ tín dụng dưới sự chỉ đạo của các trưởng phòng, phó phòng thường xuyên đôn đốc các đơn vị trả nợ đúng hạn, kiểm tra giám sát tình hình hoạt động kinh doanh của đơn vị để có phương pháp thu hồi nợ phù hợp. Nền kinh tế nước ta, một nền kinh tế thị trường đang phát triển, một nền kinh tế năng động, các doanh nghiệp cạnh tranh hàng ngày để tồn tại và phát triển, nhiều hiện tượng kinh tế mới xuất hiện, những công ty, doanh nghiệp mới được thành lập, đồng thời lại có những công ty làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ, phá sản, nạn đầu cơ buôn lậu, làm hàng giả diễn ra thường xuyên, trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn diễn biến phức tạp, hiện tượng chiếm dụng vốn lẫn nhau xảy ra phổ biến giữa các doanh nghiệp với ngân hàng. Trước tình hình đó, đòi hỏi hệ thống ngân hàng thương mại nói chung, ngân hàng công thương Hoàn kiếm nói riêng phải nghiên cứu thị trường, nghiên cứu nhu cầu tín dụng để có những giải pháp nhằm đảm bảo an toàn trong kinh doanh ngày càng nâng cao tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng và nâng cao hơn nữa hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh, để có sức mạnh cạnh tranh với các tác nhân khác trên thị trường vốn. B. Về phía doanh nghiệp nhà nước — Tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước theo hướng thực hiện cổ phần hóa theo luật công ty. Việc sắp xếp phải kết hợp với việc xử lý những tồn tại, tránh hiện tượng lợi dụng cơ chế thay đổi, các doanh nghiệp tẩu tán tài sản gây thất thoát cho tài sản Nhà nước, quá trình xử lý các đơn vị phá sản phải được chấp hành theo luật phá sản. — Đổi mới toàn diện máy móc thiết bị theo hướng công tác hạch toán kế toán, lưu trữ hồ sơ đều được quản lý vận hành qua máy tính, thực hiện nối mạng với ngân hàng. Muốn vậy phải có nhiều vốn, trước mắt cần tiếp tục xây dựng các dự án khả thi để thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, mặt khác phải đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân lành nghề, đội ngũ kỹ sư theo phương thức kết hợp đào tạo ngắn hạn và đào tạo dài hạn, gửi cán bộ đến các trường quốc gia để đào tạo và mở rộng trình độ theo hướng nâng cao nghiệp vụ tay nghề, kiến thức; thành thạo ngoại ngữ, vi tính, hiểu biết pháp luật, thông thạo kinh tế thị trường, đội ngũ cán bộ đào tạo thực sự hiểu biết đơn vị mình hơn ai hết, phải biết chăm lo đến cái chung, phải biết cần sản xuất cái gì mà thị trường cần. — Công tác kiểm tra, kiểm soát là cần thiết, song các đơn vị được giao nhiệm vụ thừa hành pháp luật cũng cần đổi mới công tác kiểm tra, kiểm soát theo hướng tuân thủ kỷ luật phép nước và phải thúc đẩy được quá trình sản xuất kinh doanh phát triển. Hiện nay Nhà nước đã và đang dần dần ban hành đầy đủ các bộ luật, mỗi doanh nghiệp, tổ chức, công dân cần phải hoạt động theo pháp luật, tuân thủ pháp luật, có như thế mới tránh được những hành vi tiêu cực và sự không đồng bộ, không nhất quán trong hoạt động, các doanh nghiệp mới có thể hoà nhập với cộng đồng quốc tế hay có uy tín để các tổ chức nước ngoài sẵn sàng liên doanh, liên kết. — Nhà nước cần sớm ra đời luật ngân sách để tránh tình trạng xơ cứng trong cơ chế tài chính. Khi đã giao khoán tài sản cho chủ doanh nghiệp thì chủ doanh nghiệp phải hoạt động theo pháp luật, có thu, có chi, có tích luỹ, mở mang thêm tài sản, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, bình đẳng trước pháp luật. — Cơ sở vật chất trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay quá lạc hậu, phần lớn được đầu tư xây lắp từ trước khi đổi mới kinh tế nên hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh kém. Do đó, doanh nghiệp cần chủ động thay đổi thiết bị, đổi mới công nghệ sản xuất áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình kinh doanh, nâng cao năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất, giảm giá thành và tăng chất lượng sản phẩm, tạo được sức mạnh cạnh tranh trên thị trường. — Rà soát lại đội ngũ cán bộ công nhân viên, trong đó chú trọng tới hai tiêu thức trình độ, năng lực quản lý và tư cách đạo đức. Hiện nay trong các doanh nghiệp nhà nước không ít các cán bộ có trình độ năng lực không đủ để điều hành kinh doanh nhưng vẫn tiếp tục giữ chức vụ và không ít những cán bộ có hành vi tiêu cực. Công tác rà soát lại nhằm củng cố vững chắc đội ngũ cán bộ trong doanh nghiệp nhà nước có trình độ quản lý cao để thiết ứng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế và thực sự trong sạch. — Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước phải tiến hành đồng thời với việc đổi mới đồng bộ từ cơ chế quản lý đến cơ chế tổ chức và cơ chế tài chính vì đây là những vấn đề mang tính chất lâu dài, tạo điều kiện cho kinh tế quốc doanh phát triển, đảm nhiệm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. — Tiếp tục thực hiện chiến lược cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay, tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước vẫn đang rất chậm và vẫn chưa thoát khỏi tình trạng làm thí điểm. Phải đặt chỉ tiêu giữ lại một số lượng không lớn các doanh nghiệp nhà nước, điều này không làm giảm vai trò của nó vì với số lượng doanh nghiệp nhà nước đã được lựa chọn không lớn, ngân sách có thể cung cấp nhiều vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh hơn, doanh nghiệp sẽ được đầu tư cả chiều rộng lẫn chiều sâu, hiệu quả kinh tế sẽ được nâng cao. — Tăng cường tính tự chủ trong kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời cũng quy định rõ trách nhiệm ứng với quyền hạn được giao, kể cả trách nhiệm vật chất trong các trường hợp bị thua lỗ mất vốn, nhằm tránh tình trạnh một số nhà quản lý điều hành doanh nghiệp vì lợi ích riêng mà sẵn sàng hy sinh lợi ích chung. C. Đối với sự chỉ đạo vĩ mô của Nhà nước Việc nâng cao hiệu quả đầu tư tín dụng vào các doanh nghiệp quốc doanh còn phụ thuộc rất lớn vào vai trò chỉ đạo vĩ mô của doanh nghiệp nhà nước, mà trước hết là hành lang pháp lý, trong đó qui định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của ngân hàng, của doanh nghiệp nhà nước cũng như các đối tác khác. Để phát triển tín dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước, trước hết phải có một khu vực kinh tế nhà nước hoạt động có hiệu quả, thực sự là khu vự kinh tế chủ đạo của nền kinh tế. Do vậy, nhà nước phải có những giải pháp để tăng thêm chiều sâu, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong mỗi doanh nghiệp nhà nước. Thứ nhất, Nhà nước cần chuyển dịch cơ cấu đầu tư để nâng cao hiệu quả kinh tế, không để cho nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, cũng như tránh hiện tượng dẫn đến nền kinh tế nóng như các nước trong khu vực trong thời gian qua. Đối với nước ta, tuy đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng vẫn đang là một nước nghèo, thì việc ưu tiên cho những dự án có tầm chiến lược, các ngành kinh tế mũi nhọn thì vẫn phải coi trọng phương châm lấy ngắn nuôi dài, đầu tư vào các ngành, lĩnh vực sớm thu hồi vốn và tạo công ăn việc làm. Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, chỉ duy trì những doanh nghiệp nhà nước thực sự cần thiết và hoạt động có hiệu quả. Thứ ba, cần quy hoạch tính toán chặt chẽ, hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong thời gian dài để có định hướng thu hút và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ bên ngoài. Nếu như nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nhà nước nói riêng có điều kiện để phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng, cả về chiều sâu, nhu cầu vốn cho hoạt động đầu tư sẽ ngày càng tăng và hoạt động ở các ngân hàng thương mại không ngừng tăng cả về mặt số lượng, cả về mặt hiện đại hoá là điều hiển nhiên. Đối với ngành ngân hàng, chuyển sang nền kinh tế thị trường, ngân hàng phải hạch toán kinh doanh sao cho có lãi suất thực dương. Do vậy mà đối với một số ngành, lĩnh vực kinh tế mà Nhà nước khuyến khích phát triển nhưng đầu tư vào lĩnh vực này bước đầu còn kém hiệu quả thì Nhà nước mà trước hết là ngân hàng cấp trên cần có biện pháp khuyến khích vật chất, giúp các khoản phải nộp cho cấp trên, thuế cho Nhà nước. II. Kiến nghị Hoạt động đầu tư tín dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước của ngân hàng công thương Hoàn kiếm trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Một mặt đã cung cấp đầy đủ nhu cầu vốn tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhà nước nói chung cho nền kinh tế của quận nói riêng phát triển mạnh với hiệu quả cao, mặt khác lợi nhuận thu được từ hoạt động của ngân hàng đã tăng lên rất đáng kể trong thời gian qua, ngân hàng đã không ngừng đổi mới trang thiết bị, mở rộng quy mô kinh doanh... Đó là nhờ vào sự nỗ lực tận tình trong hoạt động của cán bộ nhân viên trong ngân hàng sự định hướng kinh doanh đúng đắn của ngân hàng Công thương Trung ương. Tuy vậy, hoạt động đầu tư tín dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước của ngân hàng công thương Hoàn kiếm vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế và nếu khắc phục được những hạn chế này thì hiệu quả kinh doanh sẽ đạt được cao hơn. Đối với cá nhân tôi, qua quá trình thực tập, nghiên cứu ở ngân hàng công thương Hoàn kiếm , tôi có một vài kiến nghị sau: 1. Kiến nghị đối với sự quản lý vĩ mô của Nhà nước Kiến nghị 1: Nhà nước cần tạo được môi trương pháp lý đầy đủ, ổn định cho hoạt động đầu tư tín dụng của ngân hàng đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Môi trường pháp lý không ổn định, đầy đủ là trở ngại lớn đối với mọi hoạt động kinh tế nói chung và đối với các hoạt động kinh doanh trong ngân hàng nói riêng. ở nước ta, Luật ngân hàng vừa mới ra đời, đã có hiệu lực song vẫn còn nhiều mâu thuẫn giữa các quy định, các điều luật, đòi hỏi Nhà nước cần phải hệ thống lại tạo ra sự đồng bộ giữa chúng. Hoạt động của hệ thống ngân hàng liên quan đến hầu hết mọi lĩnh vực, mọi ngành kinh tế của nền kinh tế. Chính vì vậy, việc tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động ngân hàng không chỉ là việc ban hành sửa đổi các điểm luật, quy định trong hoạt động ngân hàng mà là toàn bộ hệ thống luật pháp về kinh tế nói chung. Vấn đề này đòi hỏi Nhà nước giải quyết thông qua việc ban hành sửa đổi các văn bản pháp luật, trước hết là luật kiểm toán, luật về thế chấp tài sản...và tiếp tục sửa đổi một số điều luật, quy định cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Sự đồng bộ, phù hợp của hệ thống luật pháp, một mặt tạo ra hành lang pháp lý cho các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp hoạt động, mặt khác bảo đảm tính an toàn hiệu quả cho hoạt động đầu tư tín dụng của ngân hàng. Kiến nghị 2: Nhà nước phải ổn định môi trường vĩ mô của nền kinh tế. Nhà nước phải xác định rõ chiến lược phát triển kinh tế, hướng đầu tư, có chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần một cách ổn định, lâu dài, đúng định hướng. ổn định thì trường, ổn định giá cả, duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên. Với nhiệm vụ này đòi hỏi Nhà nước phải có mức dự trữ hàng hóa lớn, dự trữ ngoại tệ lớn. Khi thực hiện nhiệm vụ này, Nhà nước ổn định được giá trị tiền tệ thì sẽ khuyến khích được tiết kiệm, đầu tư, khuyến khích sản xuất. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tăng nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước để tạo ra sự nhất quán trong hoạt động cũng như tính tự chủ, tự lập của nó, mà điều đó là động lực của sự phát triển. Kiến nghị 3: Nhà nước cần tiếp tục củng cố cơ cấu ngành trong nền kinh tế theo hướng ưu tiên các ngành công nghiệp mũi nhọn, các dự án tầm chiến lược nhưng vẫn phải coi trọng các ngành kinh tế có thời gian thu hồi vốn ngắn, dự án kinh tế thu hút nhiều công ăn việc làm, mở hướng đầu tư mới cho các doanh nghiệp nhà nước , giúp đỡ các doanh nghiệp đang lúng túng trong việc tìm hướng kinh doanh cho mình trong nền kinh tế. Kiến nghị 4: Hệ thống các quy định về thế chấp tài sản của doanh nghiệp nhà nước đang còn là một hoạt động vướng mắc trong hoạt động tín dụng. Một số quy định mâu thuẫn lẫn nhau nên ngân hàng rất lúng túng trong vấn đề thế chấp khi cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước. Đề nghị Nhà nước cần có hướng cụ thể để vấn đề này được thông suốt. Điều khó khăn hiện nay đối với các doanh nghiệp nhà nước khi đi vay vốn là phải có tài sản thế chấp và đó là điều bắt buộc đối với ngân hàng khi cung cấp tín dụng với mục đích an toàn cho ngân hàng. Tuy nhiên, tài sản thế chấp là bất động sản của doanh nghiệp nhà nước, vốn là sở hữu Nhà nước, nên trong thế chấp gặp phải một số rắc rối: — Là tài sản của Nhà nước thì khgông thể thế chấp để vay nợ được. Trong trường hợp ngân hàng cho vay và nhận tài sản cố định là tài sản thế chấp, nếu ngân hàng kinh doang thua lỗ, phá sản thì ngân hàng cũng không có quyền phát mại, thanh lý vì nó là tài sản của Nhà nước. — Giá trị tài sản cố định vẫn còn hạn chế, số tài sản thế chấp hoàn toàn hợp lý, hợp lệ, không nhiều, các giấy tờ sở hữu nhà đất của khu vực kinh tế quốc doanh chưa hoàn chỉnh. Đây là vấn đề khó khăn trong hoạt động cung cấp tín dụng của ngân hàng. — Ngân hàng phải tốn nhiều thời gian trong việc xét duyệt cung cấp tín dụng, đầu tư, bởi vì phải thông qua các khâu, các bước để xác định giá trị, quyền sở hữu, tính hợp lý, hợp lệ của tài sản thế chấp và giá trị thực của tài sản. — Một tài sản cố định, nhiều khi chủ sở hữu có thể vay vốn ở nhiều ngân hàng khác nhau do cơ chế quản lý chưa thực sự chặt chẽ. Hành vi lừa đảo của chủ sở hữu tài sản sẽ gây tổn thất cho ngân hàng khi họ không có khả năng thanh toán vì tài sản được thế chấp cho nhiều món vay. Vì vậy, Nhà nước cần phải chấn chỉnh lại hoạt động của hệ thống công ty công chứng, cơ quan quản lý nhà đất và phối hợp quản lý giữa sở nhà đất và hệ thống ngân hàng thương mại. Nhà nước cần quy định rõ, khi cho vay, chủ sở hữu phải đem tất cả giấy tờ chứng nhận sự hay biên bản về việc thế chấp này, chủ sở hữu giữ lấy giấy chứng nhận của ngân hàng và một bản phô tô có công chứng các giấy tờ xác định quyền sở hữu tài sản. Đồng thời, nếu chủ sở hữu đến Sở nhà đất xin giấy tờ sở hữu, Sở nhà đất cần thông báo để các ngân hàng biết thông qua các thông tin đại chúng để bán chuyển nhượng tài sản đang được thế chấp cho chủ nợ vay ở ngân hàng hay một tài sản được thế chấp cho nhiều món vay. Kiến nghị 5: Nhà nước cần tiếp tục đổi mới hệ thống khung lãi suất cho phù hợp với điều kiện kinh tế trong từng vùng và trong từng giai đoạn phát triển. Đối với các doanh nghiệp, lãi suất phải trả cho việc sử dụng vốn vay là chi phí sản xuất kinh doanh. Nếu lãi suất quá cao, chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng lên, lợi nhuận sẽ giảm đi do giá thành sản phẩm dịch vụ tăng. Lãi suất là mức giá của các khoản tiền vay, lãi suất cao sẽ hạn chế nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp. Do vậy, xác định khung lãi suất phù hợp là hết sức quan trọng. Khung lãi suất do Nhà nước xác định phải căn cứ vào tình hình thị trường, nhu cầu vay vốn của thị trường và phải được thay đổi linh hoạt cho phù hợp với sự biến động của nhu cầu, của sự sản xuất kinh doanh. 2. Kiến nghị với ngân hàng công thương Hoàn kiếm Kiến nghị 6: Ngân hàng cần có những biện pháp hữu hiệu, thu hút vốn trung dài hạn để tăng khối lượng tín dụng trung và dài hạn. Trong thời gian qua, nguồn vốn trung, dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động dẫn đến tình trạng lượng vốn cho vay dài hạn thấp. Ngân hàng cần kết hợp giữa huy động vốn trung dài hạn để cho vay trung dài hạn với phương châm: Cho vay trung dài hạn đối với doanh nghiệp là tạo tiềm năng về vốn trong tương lai cho ngân hàng. Hiện nay, lãi suất trung, dài hạn vẫn là lãi suất danh nghĩa, bao gồm lãi suất thực và tỷ lệ lạm phát. Lãi suất này chưa có sức thuyết phục doanh nghiệp và dân cư gửi tiền vào ngân hàng với thời hạn dài vì tâm lý lo sợ tỷ lệ lạm phát cao, vốn đã xảy ra nhiều năm trước đây, làm cho lãi suất thực âm. Theo tôi, ngân hàng công thương Hoàn kiếm nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại nói chung nên ápdụng lãi suất trung dài hạn theo công thức sau: IDN =I (1+r) + r Trong đó : IDN là lãi suất danh nghĩa hay lãi suất cho vay. I là một hằng số đại diện cho mức lãi suất thực. r là tỷ lệ lạm phát, do Ngân hàng Nhà nước công bố vào cuối năm. I (1+r) là lãi suất thực của tiền gửi. Khi đó, doanh nghiệp, dân cư gửi tiền vào ngân hàng, cho dù thời hạn bao lâu đi chăng nữa, tỷ lệ lạm phát cao thì vẫn không ảnh hưởng đến mức thu nhập từ tiền gửi của họ. Giả sử, nếu một doanh nghiệp gửi V đồng vào ngân hàng, sau một năm, cả gốc lẫn lãi mà doanh nghiệp thu được là: V+ V. IDN = V+ V.I (1+r) + V. R = (V+I)(1+r) Khi đó, với mức giảm giá chung của đồng tiền là 1+b thì giá trị thực của cả vốn và lãi mà doanh nghiệp thu về là V+I . Giá trị này không thay đổi theo tỷ lệ lạm phát r. Tuy nhiên điểm yếu của công thức tính lãi này là ở chỗ lãi cho vay chỉ được xác định chính xác vào cuối năm khi Ngân hàng Nhà nước đã công bố tỷ lệ lạm phát của năm qua, đồng thời khi dùng lãi suất này, ngân hàng phải chịu mức rủi ro lãi suất cao hơn. Khi dùng công thức tính lãi suất này, ngân hàng cũng nên áp dụng công thức tính lãi suất cho vay trung dài hạn tương tự thì sẽ giảm đưọc rủi ro. Trong hoạt động của ngân hàng, cho vay trung dài hạn, không nên chỉ dựa vào nguồn vốn trung dài hạn. Nguồn vốn ngắn hạn nếu có thể dự đoán được luồng vào, ra thì cũng có thể dùng để cho vay trung dài hạn theo một tỷ lệ nào đó. Do vậy, ngân hàng cần mạnh dạn cho vay trên cơ sở tính các chỉ tiêu một cách khoa học, kết hợp với điều kiện thực tế của ngân hàng và những kết quả dự đoán trong tương lai. Kiến nghị 7: Ngân hàng cần mở rộng khối lượng tín dụng thông qua đa dạng hoá hình thức cho vay, trong đó chú trọng kết hợp giữa cho vay theo món và cho vay luân chuyển. Hiện nay, ngân hàng chủ yếu cho vay ngắn hạn, đối với các doanh nghiệp là cho vay theo món, trả một lần. Phương thức cho vay này sử dụng tài khoản thông thường, được thực hiện trên cơ sở từng phương án sản xuất kinh doanh, từng hoá đơn mua hàng của doanh nghiệp và theo yêu cầu của doanh nghiệp vay. Phương thức cho vay này có nhược điểm là mỗi lần vay tổ chức kinh tế phải nộp đơn kiêm khế ước nhận nợ, trình các chứng từ, hợp đồng xin vay, phải qua nhiều khâu, nhiều bước kiểm duyệt. Trong khi đó, nhu cầu vốn hoạt động của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường đòi hỏi tính năng động, độ nhạy cảm cao, do đó, hiện tượng nguồn vốn tín dụng không đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của các doanh nghiệp, cản trở quá trình sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, có gía trị cho vay và thời hạn cho vay nhất định theo hợp đồng. Trong thời hạn này, nếu doanh nghiệp không sử dụng hết khoản vốn vay của mình ngay khi vay sẽ gây nên sự lãng phí về thời gian sử dụng vốn vay, làm chậm quá trình lưu thông vốn của các doanh nghiệp. Phương thức cho vay luân chuyển sử dụng tài khoản cho vay luân chuyển được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp vay vốn chỉ cần làm thủ tục xin vay một lần trình cho ngân hàng nên sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian cho cả doanh nghiệp, cho cả ngân hàng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ngân hàng tuỳ theo tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong cả kỳ sản xuất kinh doanh để cho vay thu nợ theo luồng tiền vào ra trên tài khoản của doanh nghiệp. Mặt khác, theo phương thức cho vay này, ngân hàng có thể theo dõi chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay cũng như quá trình sản xuất kinh doanh, sự thay đổi khả năng tài chính của doanh nghiệp thông qua số dư tài khoản của doanh nghiệp tại ngân hàng. Trong hai phương pháp cho vay trên, mỗi phương pháp đều có những ưu nhược điểm riêng, do đó, ngân hàng cần xem xét nghiên cứu kỹ để áp dụng phương pháp cho vay nào đối với từng doanh nghiệp cụ thể, cho phù hợp với quá trình luân chuyển vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp. Kiến nghị 8: Ngân hàng cần nỗ lực trong việc thu hồi và xử lý nợ quá hạn mà hiện nay nợ quá hạn đang chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ của ngân hàng. Khi cho vay nếu không thu hồi được nợ, ngân hàng sẽ mất vốn. Nợ quá hạn nợ khó đòi là những khoản phản ánh lên mức độ vốn của ngân hàng bị các doanh nghiệp, cá nhân... chiếm dụng. Vấn đề trước hết là ngân hàng cần có biện pháp để hạn chế nợ quá hạn, nợ khó đòi. Trong các giải pháp đó thì giải pháp nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng là quan trọng nhất. Sự hời hợt, qua loa trong thẩm định cho vay của cán bộ tín dụng là nguyên nhân chính gây nên nợ quá hạn hiện nay. Quy trách nhiệm về những khoản vốn cho vay không đòi được đối với cán bộ tín dụng nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ cũng như các hành vi tiêu cực là giải pháp mạnh mẽ mà ngân hàng nên thực hiện ngay. Tất nhiên, dù có giải pháp gì đi chăng nữa thì cũng không thể tránh khỏi sự xuất hiện nợ quá hạn. Vấn đề là ngân hàng tổ chức khai thác, thu nợ hay thanh lý các khoản nợ theo hợp đồng tín dụng như thế nào để thu hồi được vốn mà vẫn giữ được mối quan hệ với khách hàng. Theo tôi, ngân hàng trước hết phải phân loại nợ quá hạn mmột cách cụ thể theo các tiêu thức tiêu thức khác nhau, đặc biệt là tiêu chuẩn về đạo đức của người vay để có những biện pháp thu nợ phù hợp với từng khoản nợ. Nếu thuộc loại nợ qúa hạn thời gian dài, nguyên nhân do nguồn vốn vay sử dụng không đúng mục đích hay có hành vi không đúng đắn trong vay nợ, tư cách đạo đức, ý muốn trả nợ kém thì ngân hàng cần lập tức siết chặt các biện pháp thu nợ và có thể thu hồi, phát mại tài sản thế chấp. + Đối với các khoản nợ quá hạn mà nguyên nhân gây ra là khách quan, hiện tại doanh nghiệp chưa có khả năng trả nợ, tình hình tài chính doanh nghiệp không tốt và nếu có thêm vốn thì doanh nghiệp có thể lấy lại được nhịp độ sản xuất kinh doanh như cũ, ngân hàng có thể gia hạn nợ cho các doanh nghiệp này và nếu có thể, cho vay những khoản mới để doanh nghiệp tiếp tục sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả. Kiến nghị 9: Ngân hàng cần thực hiện chiến lước khách hàng. Hiện nay, chủ yếu ngân hàng chỉ phục vụ nhu cầu của những khách hàng đến với ngân hàng, chứ ngân hàng chưa có sự nghiên cứu tìm hiểu, điều tra nhu cầu thị trường để tìm cơ hội đầu tư. Hoạt động Marketing ngân hàng chưa được đề cao. Đó là vấn đề mà ngân hàng công thương Hoàn kiếm cần phải khắc phục. Trong nền kinh tế thị trường, ngành ngân hàng nói riêng và các ngành sản xuất kinh doanh nói chung phải sản xuất, cung ứng những gì thì trường cần chứ không phải là những gì mình có. Ngân hàng công thương Hoàn kiếm cũng phải cung ứng những gì mà khách hàng cần , đòi hỏi ngân hàng phải nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra nhu cầu của khách hàng thông qua việc mở thêm các quầy giao dịch, các quỹ tiết kiệm. Ngoài việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, thu hút vốn cho ngân hàng thì đây còn là nơi cung cấp thông tin cần thiết về nhu cầu mới. Hoạt động Marketing cần được đề cao ở mỗi phòng, mỗi nhân viên. Phải làm cho cán bộ nhân viên hiểu rằng Marketing ngân hàng là sự tận tình trong hoạt động, sự trang nhã trong phòng làm việc, nét ăn mặc, phong cách giao tiếp, lời ăn tiếng nói của nhân viên...Tất cả những thứ đó hợp lại tạo nên hình ảnh của ngân hàng trong mắt khách hàng. Khách hàng sẽ quan hệ với ngân hàng lâu dài hơn nếu họ có cảm tình với ngân hàng. Hoạt động Marketing này nếu được đề cao trong ngân hàng, chẵc chắn sẽ mang lại hiệu quả cao. Nền kinh tế ngày càng phát triển , nhu cầu luôn thay đổi theo từng ngày, ngân hàng công thương Hoàn kiếm nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại nói chung cần tìm những biện pháp hữu hiệu hơn nữa để đáp ứng được mọi nhu cầu trong nền kinh tế, góp phần vào quá trình lưu thông vốn, tăng trưởng kinh tế và tạo lợi nhuận cao cho ngân hàng, làm cho hoạt động ngân hàng ngày càng hiệu quả hơn, quy mô ngày càng mở rộng. Kết luận Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về hoạt động tín dụng ở ngân hàng công thương Hoàn kiếm, bài viết của tôi đã phản ánh được thực trạng hoạt động đầu tư tín dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước cũng như những khó khăn, thuận lợi mà ngân hàng đang hiện có, những thành tựu mà ngân hàng đã thu được, những tồn tại mà ngân hàng cần phải khắc phục. Bên cạnh đó, tôi đã đề ra một số giải pháp và những kiền nghị theo suy nghĩ của mình dựa trên thực tế hoạt động của ngân hàng, dựa trên cơ sở lý luận về lĩnh vực ngân hàng, nhằm mở rộng về mặt số lượng, nâng cao về mặt chất lượng của hoạt động đầu tư tín dụng đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Với thời gian hạn chế, khả năng nghiên cứu có hạn, bài viết của tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý phê bình của các thầy cô giáo, của các cán bộ ngân hàng để tôi có được kiến thức cao hơn cũng như bài viết được hoàn chỉnh hơn. tài liệu tham khảo 1. Frederic S. Mishkin; Tiền tệ, ngân hàng - tài chính và thị trường tài chính; 2. Báo cáo kết quả hoạt động năm 2001 của ngân hàng công thương Hoàn kiếm ; 3. Quyết định của thống đốc ngân hàng nhà nước Việt nam về việc ban hành thể lệ tín dụng đối với các tổ chức kinh tế ; 4. Các tạp chí xuất bản từ năm 1999 đến năm 2001. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0022.doc
Tài liệu liên quan