Tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế VN trong thời kỳ CNH-HĐH và xu hướng phát triển trong tương lai

Lời nói đầu Các hình thức tín dụng trên thế giới đã có một lịch sử phát triển lâu dài và nay đang ở một mức độ rất cao. Trong quá trình phát triển của mình, tín dụng đã góp phần mạnh mẽ vào sự phát triển nền kinh tế không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà trên toàn thế giới. Hoạt động tín dụng ở Việt Nam hiện nay đang ở giai đoạn đầu trong lịch sử phát triển của tín dụng. Do đó cần phải nghiên cứu nó, một mặt để thấy được tác dụng của tín dụng đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam, đồng thời

doc32 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế VN trong thời kỳ CNH-HĐH và xu hướng phát triển trong tương lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thấy được những hạn chế, vướng mắc nhằm đề ra những phương hướng cho sự phát triển của tín dụng trong tương lai theo kịp với sự phát triển của Thế giới, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế. Đối với Việt Nam, hoạt động tín dụng phổ biến và mạnh mẽ nhất là Tín dụng ngân hàng. Nên bài viết này chỉ tập trung vào loại hình tín dụng này, xem xét tác động của Tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế Việt Nam trong thời kì CNH-HĐH và xu hướng phát triển của nó trong tương lai. Chắc chắn bài viết còn nhiều thiếu sót, em mong được sự giúp đỡ sửa chữa của thầy cô giáo. Chương I. Lịch sử hình thành tín dụng và vai trò của nó đối với nền kinh tế I. Khái quát lịch sử ngân hàng và tín dụng ngân hàng. Nghề ngân hàng là một nghề cổ xưa, đã xuất hiện trên thế giới khoảng 2000 năm trước Công nguyên tại thành cổ Babylone với các nghiệp vụ đổi tiền, cho vay và các nghiệp vụ khác. Các hoạt động nói trên của ngân hàng nói trên được tiếp tục qua nhiều thế kỉ tại ven biển Địa Trung Hải, tại Hy Lạp, La mã, Trung Đông và các đô thị lớn giải rác trên các con đường tơ lụa, nối liền Trung Đông và Trung Hoa. Trước thế kỉ 15, người ta không thấy một cơ cấu hay một cơ quan được xem như là một ngân hàng thực sự như theo quan niệm ngày nay.Phải mãi đến đầu thế kỉ 15 (1401) mới có một cơ quan trên thế giới được coi là Ngân hàng thực sự đó là Ngân hàng Barcelone ở Tây Ban Nha. Từ thế kỉ 17 đến nay,hệ thống ngân hàng đã phát triển mạnh trên toàn thế giới song song với cuộc Cách mạng Khoa học công nghệ, phát triển kinh tế và thương mại. II. Vai trò của tín dụng ngân hàng. 1. Khái niệm và đặc điểm tín dụng ngân hàng: 1.1. Khái niệm “Là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các chủ thể khác trong nền kinh tế, ở đó ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay.” 1.2. Đặc điểm Từ khái niệm và thực tiễn ta thấy ngân hàng có một số đặc điểm sau: - Các chủ thể quan hệ với ngân hàng là Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân, các tổ chức tín dụng. - Đối tượng của ngân hàng là tiền tệ. Sự vân động của tiền tệ qua ngân hàng là T-T’ - Đáp ứng mọi nhu cầu về vốn cho nền kinh tế - Khả năng thích nghi về vốn là rất cao - Tín dung ngân hàng góp phần vào việc kiểm soát hoạt động kinh tế quốc dân - Rủi ro tín dung rất cao xuất phát từ đối tượng của nó là “Tiền” vốn rất nhậy cảm với sự biến động của kinh tế 2. Vai trò của tín dụng ngân hàng 2.1. Tín dụng ngân hàng bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra một cách liên tục. Như ta đã biết, một trong những hoạt động quan trọng của ngân hàng là hoạt động nhận gửi và cho vay. Ngân hàng huy động “vốn” ở những nơi “thừa” vốn để cho vay đối với những nơi thiếu vốn. Trong quá trình sản xuất kinh doanh có những doanh nghiệp vừa bán được hàng nhưng chưa đến thời hạn phải trả lương cho công nhân, chưa phải nộp thuế cho nhà nước, chưa phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác, chưa cần dùng đến tiền để tiến hành đầu tư mua sắm thiết bị, nguyên vật liệu cho chu kì sản xuất kinh doanh mới... nên tạm thời thừa vốn. Nhưng cùng lúc đó có những doanh nghiệp lại “thiếu” vốn do đã đến lúc phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính, hay đang có một cơ hội làm ăn hấp dẫn cần đầu tư gấp... mà họ lại chưa có vốn do chưa bán được hàng, chưa thu được nợ. Đối với cả hai doanh nghiệp, sự thừa hay thiếu vốn đêu gây ra những thiệt hại. Doanh nghiệp thừa vốn, vốn nhiều không sử dụng hết đó là một sự lãng phí. Còn ở doanh nghiệp thiếu vốn thì thiệt hại còn rõ nét hơn nhiều. Nếu không trả được lương cho công nhân công nhân có thể đình công gây đình đốn cho việc sản xuất của doanh nghiệp; Không trả được nợ cho các chủ nợ doanh nghiệp có thể lâm vào vòng kiện tụng, tài sản bị niêm phong; ở mức thiệt hại nhẹ nhất là doanh nghiệp ít nhất phải chờ đến khi thu hồi được vốn mới tiếp tục sản xuất kinh doanh được. Trong thực tế mâu thuẫn này được giải quyết bởi sự xuất hiện của ngân hàng làm trung gian tài chính cho cả 2 doanh nghiệp. Doanh nghiệp thừa vốn có thể gửi số vốn tạm thời nhàn rỗi của mình vào ngân hàng để thu lợi tức. Còn doanh nghiệp thiếu vốn có thể đến ngân hàng vay vốn cho hoạt động của mình. Như vậy số vốn nhàn rỗi được sử dụng một cách hiệu quả, các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh liên tục qua các chu kì kinh doanh khác nhau.Tổng hợp các doanh nghiệp (đại diện cho các thành phần kinh tế) tạo ra nền kinh tế, doanh nghiệp hoạt động thuận lợi nghĩa là nền kinh tế ổn định. 2.2. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng luôn có quan hệ tín dụng với Nhà nước, doanh nghiệp và dân cư. Những đối tượng này vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Qua các giai đoạn phát triển kinh tế đất nước, Nhà nước luôn có những chương trình, kế hoạch phát triển Kinh tế – Xã hội, giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng cần thực hiện và Ngân hàng với khả năng cung cấp vốn lớn của mình tiến hành cho vay đối với nhà nước nhằm hỗ trợ nhà nước về kinh phí trong việc thực hiện các kế hoạch đó. Các doanh nghiệp để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế cần không ngừng đổi mới đặc biệt là về vấn đề công nghệ. Muốn thực hiện những đổi mới đó doanh nghiệp cần có vốn và ngân hàng cung cấp vốn cho doanh nghiệp. Có vốn doanh nghiệp có thể thực hiện hoạt động chuyển giao công nghệ bao gồm: Nhập các thiết bị dây truyền sản xuất hiện đại, đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao tay nghề cho công nhân, mua các bản thiết kế, bản quyền sản xuất. Với những hoạt động đó nhằm mục tiêu hạ giá thành sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm đứng nhu cầu thị trường, cạnh tranh thắng lợi đối với các doanh nghiệp khác vươn ra chiếm lĩnh thị trường không chỉ trong mà còn ngoài nước. Ngoài hai đối tượng khách hàng lớn là Nhà nước và doanh nghiệp, Ngân hàng còn phục vụ đến cả dân cư. Ngân hàng cho vay đối với các hộ sản xuất kinh doanh nhỏ để phát triển kinh tế gia đình, cung cấp các dịch vụ, buôn bán nhỏ...Ngân hàng cho vay đối với các cá nhân để đầu tư vào chứng khoán, nhận tiền gửi tiết kiệm của nhiều đối tượng trong đó bao gồm cả những người ngoài độ tuổi lao động, những người không còn khả năng lao động, trả lãi đảm bảo cuộc sống cho những người này góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Hoạt động của Ngân hàng ngày nay không còn chỉ là nhận gửi và cho vay. Nghiên cứu tài sản nợ của Ngân hàng thương mại ta thấy hoạt động của nó vô cùng đa dạng. Ngân hàng có thể huy động những nguồn vốn dài hạn đến cực ngắn hạn đấp ứng mọi nhu cầu sử dụng vốn khác nhau của nền kinh tế. Ngân hàng nhận tiền gửi có kì hạn, không kì hạn, phát hành ra các công cụ tài chính như trái phiếu, chứng thư tiền gửi loại lớn, phát hành Rps (Repurchase Agreements), vay ngắn hạn bằng giấy nợ phụ...để vay vốn đông thời có thể sử dung các loại giấy tờ có giá này trong thanh toán làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, Ngân hàng có thể kiểm soát chặt chẽ và dễ dàng hơn đối với dòng lưu thông tiền tệ qua đố Ngân hàng nắm bắt được những sự biến đổi của nền kinh tế kịp thời thông tin cho nhà nước để áp dụng các chính sách kinh tế vĩ mô để ổn định nền kinh tế. Tóm lại, tín dung ngân hàng giải quyết vấn đề về vốn cho nền kinh tế, phát triển kinh tế gia đình, doanh nghiệp và đất nước, tạo ra những công cụ tài chính góp phần đẩy nhanh dòng lưu thông vốn trong nền kinh tế. 2.3. Tín dụng ngân hàng tạo cơ sở cho lãi xuất ngân hàng xuất hiện, thúc đẩy Tín dụng thương mại phát triển. 2.3.1. Tín dụng Thương mại và giấy bạc ngân hàng. Tiền tệ ra đời làm trung gian trong việc trao đổi hàng hoá, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nhờ có tiền làm phương tiện thanh toán mà đã tạo điều kiện cho hoạt động mua bán chịu giữa người sản suất và những người làm chức năng lưu thông hàng hoá. Người mua đã sẵn sàng mua, người bán đã sẵn sàng bán nhưng chỉ thiếu tiền do đó xuất hiện quan hệ tín dung Thương mại. Tham gia quan hệ tín dụng thì người mua không phải trả tiền ngay mà sau một thời gian nhất định mới trả tiền và đương nhiên họ phải trả cao hơn giá hiện tại, khoản chênh lệch giá đó là chi phí thêm mà người mua phải trả thêm cho việc mua chịu hàng của người bán. Khi mua bán chịu với nhau, thời kì đầu người mua phải viết giấy nợ và cam kết sẽ trả cho người bán số tiền nợ mua hàng sau một thời gian nhất định, giấy nợ đó gọi là kì phiếu thương mại. Ngày nay, kì phiếu thương mại được gọi là hối phiếu, hay còn gọi chung cho cả hai loại là Thương phiếu. Về bản chất kì phiếu thương mại và hối phiếu không có gì khác nhau, chỉ khác là hối phiếu (Bill for exchance) do người bán chịu phát hành. Khi người bán nhận thương phiếu thì vấn đề đặt ra là trong khoảng thời gian trước khi thương phiếu được thanh toán, người giữ thương phiếu lại cần tiền mặt ngay do cần đầu tư gấp hoặc vì một lý do nào đó, như vậy họ phải từ bỏ ý định của mình do không có cách nào đổi thương phiếu ra thành tiền mặt.Nhưng nhờ có tín dụng ngân hàng mà vấn đề khó khăn đó được giải quyết. Khi có tín dụng Ngân hàng, những người chủ của Thương phiếu có thể đem nó đến Ngân hàng để chiết khấu đổi lấy tiền mặt hoặc thế chấp để vay tiền. Khi đó họ phải chuyển quyền sở hữu Thương phiếu cho Ngân hàng và ngân hàng trở thành chủ nợ mới của những người mua chịu hàng. Đến hạn thanh toán Thương phiếu, Ngân hàng có quyền đòi những người mua chịu hàng phải trả nợ. Tín dụng thương mại xuất hiện do yêu cầu thực tế của hoạt động mua bán hàng hoá trên thị trường. Nó giải quyết sự khó khăn tạm thời về tiền mặt cho người mua hàng. Với sự góp mặt của tín dụng Ngân hàng mà tiền (vốn) không còn bị giữ chặt trong thương phiếu mà trái lại thương phiếu có độ thanh khoản rất cao do có thể dễ dàng triết khấu tại Ngân hàng. Cùng với quá trình triết khấu đó Ngân hàng đã sáng tạo ra một công cụ tài chính mới đó là Giấy bạc Ngân hàng. Giấy bạc Ngân hàng cũng chỉ là những kì phiếu nhưng do Ngân hàng phát hành. Giấy bạc Ngân hàng được bảo đảm giá trị bằng vàng, khác với thương phiếu được bảo đảm giá trị bằng hàng hoá. Giấy bạc Ngân hàng lúc đầu do nhiều ngân hàng phát hành sau đó khi chế độ bản vị vàng sụp đổ chỉ còn một ngân hàng phát hành, ngày nay Ngân hàng đó được gọi là Ngân hàng Trung Ương. Khi Ngân hàng dùng giấy bạc của mình để triết khấu thương phiếu thực chất ngân hàng đã dùng ngân phiếu để thay thế cho thương phiếu của các nhà công thương nghiệp. Việc thay thế đó đã hoàn toàn đổi những công cụ lưu thông vận động có kì hạn bằng những công cụ lưu thông nhanh hơn và không kì hạn. Lưu thông giấy bạc Ngân hàng đã thay thế cho lưu thông thương phiếu đáp ứng yêu cầu sản xuất và lưu thông hàng hoá. Từ sự phân tích trên cho thấy lưu thông thương phiếu là cơ sở cho việc lưu thông giấy bạc Ngân hàng. Và sự ra đời của giấy bạc Ngân hàng, một loại tiền mới thay thế cho tiền vàng, có sự góp phần không nhỏ của tín dung Ngân hàng, tín dụng Ngân hàng là cầu nối cho sự chuyển đổi đó. 2.3.2. Sự hình thành lãi suất ngân hàng. Do sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá đã đẫn đến sự ra đời của tiền tệ. Tiên tệ ra đời đã đáp ứng được nhu cầu của sự mở rộng quan hệ kinh tế, rở rộng thị trường, làm cho kinh tế hàng hoá phát triển lên một mức cao hơn.Nhất là đến thời đại Phục hưng thế kỉ XV, XVI cả Châu Âu bừng tỉnh hoạt động kinh tế vươn ra khỏi “ hàng rào” cát cứ phong kiến của các lãnh chúa để hình thành thị trường dân tộc thống nhất, vươn ra khỏi biên giới một quốc gia, tiến hành buôn bán hàng hoá, giao lưu kinh tế giữa các nước với nhau. Khi đó để đảm bảo cho việc thanh toán và dự trữ tiền vàng được an toàn những người buôn bán gửi tiền vào những xưởng vàng_ tạm gọi là các Ngân hàng và Ngân hàng phát hành ra ngân phiếu dựa trên lượng tiền mà khác hàng đã gửi vào. Do ngân phiếu thanh toán thuận tiện và an toàn hơn tiền vàng nên nó nhanh chóng được sử dụng phổ biến và đồng thời tiền vàng cũng ít được rút ra, trừ trường hợp phải thanh toán ở những nơi ngân phiếu không được chấp nhận. Do đó tiền vàng chủ yếu được cất giữ tại các ngân hàng và các chủ Ngân hàng nhanh chóng phát hiện ra điều đó, họ mang số tiền vàng cất giữ đó cho vay để lấy lãi. Tiền lãi được tính theo một tỷ lệ nhất định so với số tiền cho vay, tỷ lệ đó gọi là lãi suất cho vay. Do nhu cầu vay vốn ngày càng lớn và do ham muốn lợi nhuận, các Ngân hàng không chỉ cho vay trên phạm vi số các khoản tiền gửi tại Ngân hàng mà còn phải mở rộng hơn nữa lượng vố cho vay này, bằng cách vay để cho vay. Sức cho vay của Ngân hàng phụ thuộc vào số lượng tiền mà Ngân hàng đã tập trung thu hút được. Cho nên đã xuất hiện cuộc cạnh tranh giũa các Ngân hàng nhằm thu hút nhiều hơn các khoản tiền trong dân chúng và cuộc cạnh tranh đó đã buộc Ngân hàng không chỉ miễn phí tiền gửi cho khách hàng mà còn chịu trả lợi tức cho người gửi, hình thành nên lãi suất tiền gửi. Như vậy sự xuất hiện của Ngân hàng và tín dụng Ngân hàng đã tạo cơ sở hình thành lãi suất ngân hàng.Cùng với sự phát triển nhanh chóng và đa dạng của tín dụng Ngân hàng đã hình thành nhiều loại lãi suất khác nhau, không chỉ vậy lãi suất Ngân hàng đã trở thành một công cụ quản lý vĩ mô có hiệu quả của Nhà nước. 2.4. Tín dụng Ngân hàng, công cụ quản lý vi mô, vĩ mô nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động tín dụng nói chung diễn ra thường xuyên trong đó bao gồm cả hoạt động tín dụng Ngân hàng. Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh hàng hoá đặc biệt đó là tiền. Một loại hàng hoá rất nhạy cảm với sự biến động của thị trường và nó cũng có sức mạnh tác động đến tình cảm của con người nên kinh doanh trong lĩnh vực Tài chính - Tiên tệ có mức độ rủi ro rất cao. Mục đích của Ngân hàng là đi vay để cho vay thu lợi nhuận từ sự chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Ngân hàng luôn muốn tăng số vốn và thu được lợi nhuận do đó việc cho vay như thế nào để đảm bảo duy trì được lượng vốn cho vay và có lãi là một câu hỏi lớn mà các Ngân hàng phải trả lời nếu muốn tồn tại. Ngân hàng huy động vốn nhưng nhanh chóng cho vay cho các dự án của Chính phủ, cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các cá nhân...nhưng tất nhiên không phải Ngân hàng cho vay đối với mọi đối tượng. Khi tiến hành cho vay, Ngân hàng luôn phải đảm bảo số vốn của mình gặp ít rủi ro nhất vì vậy mà Ngân hàng luôn thực hiện các biện pháp để xác định mức độ rủi ro nhằm giảm thiểu sự rủi ro đó. Để cho vay đối với một khách hàng, Ngân hàng thực hiện các cuộc điều tra về khách hàng của mình, xem xét tình hình hoạt động (tình hình tài chính, doanh thu hàng năm, tỷ suất lợi nhuận trên vốn, vị trí của doanh nghiệp trên thị trường...), mục đích của việc vay vốn, tính khả thi của dự án cần vay vốn, tài sản thế chấp,...Khi khách hàng đã đáp ứng được các yêu cầu của Ngân hàng thì mới có thể được vay vốn. Đến đây không phải là Ngân hàng để tuỳ ý cho khách hàng sử dụng số vốn mà không cần phải kiểm soát mà trái lại, Ngân hàng vẫn tiếp tục giám sát việc sử dụng vốn vay của khách hàng có đúng theo cam kết khi vay vốn hay không nếu có dấu hiệu bất ổn với số vốn đó lập tức Ngân hàng sẽ rút vốn về để đảm bảo an toàn cho lượng vốn đó. Qua hoạt động tín dụng mà Ngân hàng có thể có thể xâm nhập sâu vào bên trong các doanh nghiệp hay các khách hàng để có thể nắm bắt được những thông tin bí mật từ đó mà có thể kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp _ khách hàng, hướng hoạt động của doanh nghiệp theo những mục tiêu nhất định, thông tin cho nhà nước về nhưng bất ổn về những chính sách của nhà nước đối với doanh nghiệp, dự liệu những vấn đề phát sinh giúp nhà nước hoạch định những chính sách hợp lý cho sự phát triển kinh tế nói chung. Ngân hàng kiểm soát lượng vốn cho vay nhằm bảo đảm an toàn cho số vốn đó nhưng đứng về phía Ngân hàng không có gì bảo đảm rằng Ngân hàng không vì lợi nhuận mà toàn bộ hoặc phần lớn lượng vốn huy động được và sự mất khả năng thanh toán có thể xảy ra bất kì lúc nào và khi Ngân hàng lâm vào tình trạng đó thì sẽ đẫn đến một cuộc khủng hoảng lớn trong hệ thống ngân hàng và toàn nên kinh tế. Để ngăn chặn nguy cơ đó, Nhà nước quy định một tỷ lệ dự trữ trên cơ sở lượng vốn mà Ngân hàng đã huy động được, gọi là tỷ lệ dữ trữ bắt buộc, nhằm bảo đảm khả năng thanh toán cho Ngân hàng trong mọi tình huống. Xuất phát từ quan hệ tín dụng Ngân hàng đã hình thành nên phạm trù “tỷ lệ dự trữ bắt buộc”. Tiếp đó tín dụng Ngân hàng đã tạo cho hệ thống các Ngân hàng thương mại môt khả năng vô cùng quan trọng đó là khả năng tạo tiền. Giả sử Ngân hàng thứ nhất nhận một lượng tiền gửi là 10000 USD, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%. Ngân hàng này sẽ dự trữ là 10% * 10000 = 1000 USD và cho vay ra 10000 – 1000 = 9000 USD. 9000USD này lại được gửi vào Ngân hàng thứ hai, Ngân hàng này sẽ dự trữ là 9000 * 10% = 900 USD và cho vay là 9000 – 900 = 8100 USD. Và quá trình này lại được tiếp tục qua các Ngân hàng tiếp theo. Tổng số tiền gửi vào hệ thống Ngân hàng là: 10000 + (10000 * 90%) + (10000* 90%)*90% +...+ 0 =10000*[1/(1-90%)]= 10000/10% =100000 USD Tổng số tiền dự trữ: 1000 +1000*90% +(1000*90%)*90% +...+ 0 =1000*[1/(1-90%)]= 1000/10% =10000 USD Tổng số tiền cho vay: 9000 +9000*90% +(9000*90%)*90% +...+ 0 =9000*[1/(1-90%)] =9000/10% = 90000 USD Như vậy từ 10.000 USD tiền mặt qua hệ thống Ngân hàng thương mại đã tăng lên thành 100.000 USD, cho vay được 90.000 USD, dự trữ 10.000 USD.Với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là rr(%) thì 1 đồng tiền mặt qua hệ thống Ngân hàng thương mại sẽ tăng lên thành 1*(1/rr) >1, lượng tiền mặt cho lưu thông đã tăng lên (trong đó 1/rr được gọi là số nhân tiền tệ) Nhà nước dựa vào khả năng đó của hệ thống Ngân hàng thương mại mà tiến hành quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế thông qua công cụ “tỷ lệ dự trữ bắt buộc”. Tuỳ thuộc vào tình hình phát triển kinh tế mà Nhà nước áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt hay nới lỏng. Giả sử khi nền kinh tế quá nóng, nguy cơ lạm phát cao hoặc đang lạm phát Nhà nước có thể giảm lượng tiền mặt trong lưu thông thì một trong những cách mà nhà nước có thể thực hiện đó là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc rr làm giảm số nhân tiền từ đó mà làm giảm lượng tiền tạo ra qua hệ thống Ngân hàng thương mại và tất nhiên Nhà nước hoàn toàn có thể làm ngược lại khi muốn tăng lượng cung tiền cho nền kinh tế. Ngoài công cụ là tỷ lệ dự trữ bắt buộc Nhà nước cũng có thể sử dụng công cụ lãi suất tín dụng trong quản lý kinh tế. Khi muốn khuyến khích các nhà đầu tư vào một ngành, lĩnh vực nào đó Nhà nước thông qua Ngân hàng hạ lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vưc đó, ngược lại để hạn chế những ngành khác Nhà nước tăng lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp đâù tư vào ngành đó. Nhờ đó Nhà nước có thể cân đối nền kinh tế, thực hiện những mục tiêu kế hoạch đã đề ra. Với công cụ lãi suất chiết khấu là lãi suất cho vay của Ngân hàng TW đối với Ngân hàng thương maị Nhà nước cũng có thể tăng giảm lượng tiền trong lưu thông. Khi lãi suất chiết khấu tăng thì lãi suất cho vay của Ngân hàng thương mại cũng tăng sẽ làm giảm lượng tiền vay của công chúng làm giảm lượng tiền trong lưu thông. Như vậy thông qua hoạt động tín dụng mà các Ngân hàng có thể thực hiện chức năng kiển soát nền kinh tế mặt khác tín dụng Ngân hàng đã tạo ra các công cụ của chính sách Tái chính-Tiền tệ cho Nhà nước, góp phần ổn định nền kinh tế,thưc hiện các mục tiêu kinh tế xã hội Chương II: TíN DụNG NGÂN HàNG TRONG ThờI Kỳ CNH-HĐH ở VIệT NAM I. Lịch sử ngành Ngân hàng Việt Nam và những đóng góp của Ngân hàng và tín dụng ngân hàng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngân hàng ở Việt Nam ra đời gắn liền với quá trình sâm lược và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp (1858). Để thực hiện chính sách khai thác và bóc lột của mình, thực dân Pháp đã xây dưng nhiều xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ nhằm bóc lột nhân dân lao động. Các hoạt động kinh tế của thực dân Pháp ở Đông Dương được rở rộng đòi hỏi phải có Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ tín dụng hỗ trợ vốn cho các hoạt động đó và Ngân hàng Đông Dương ra đời. Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, phần lớn các Ngân hàng ở Việt Nam đếu là Ngân hàng nước ngoài. Mãi đến năm 1927 mới có một Ngân hàng đầu tiên của người Việt Nam có tên là An Nam Ngân hàng hỗ trợ cho những hoạt động trong nông nghiệp là chủ yếu. Sau Cách mạng tháng 8, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam vào ngày 6/5/1951(nay là Ngân hàng nhà nước Việt Nam) có các nhiệm vụ chủ yếu sau: “quản lý việc phát hành giấy bạc và lưu thông tiền tệ; quản lý kho bạc nhà nước; huy động vốn và cho vay phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá; quản lý hoạt động kim dung bằng biện pháp hành chính; quản lý ngoại hối và các khoản giao dịch bằng ngoại tệ.” Giấy bạc Ngân hàng ra đời chủ yếu nhằm tác động tích cực đến sản xuất và lưu thông hàng hoá trên cơ sở từng bước mở rộng tín dụng Ngân hàng trong mối quan hệ giữa Ngân hàng –tài chính –Mậu dịch quốc doanh. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam phát hành đồng tiền ngân hàng và đồng thời thu hồi tiền tài chính vơí tỷ lệ 1/10. Nói chung giấy bạc Tài chính TW đều được thu hồi nhưng do đặc điểm tình hình khác nhau ở các khu vực mà các bước phát hành tiền ngân hàng ở mỗi khu vực cũng khác nhau nhằm hạn chế sự phá hoại của kẻ thù. Bằng những biện pháp trên kết quả Ngân hàng đã thu hồi được 80% tổng số tiền tài chính ở Bắc Bộ. Và ở những vùng giải phóng, ta chiếm lĩnh thị trường tiền tệ trên cơ sở quét sạch tiền địch với phương châm “ đuổi là chính, đổi là phụ”. Trên mặt trân nông nghiệp,ngân hàng cho vay nhằm hỗ trợ nông dân nghèo mua sắm tư liệu sản xuất chính như: trâu bò, nông cụ, phân, giống,...để tăng sản xuất lương thực, và ở những vùng có điều kiện thì giúp đỡ phục hồi phát triển cây công nghiệp để cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và cung cấp vật tư cho mậu dịch quốc doanh. Sau hội nghị cán bộ Ngân hàng toàn quốc lần 1 (2/1952) Ngân hàng đã chuyển hướng tín dụng, từ cho vay trực tiêp nông nghiệp sang tập trung vốn phần lớn cho mậu dịch quốc doanh và mở rộng cho vay vận tiêu nông, lâm, thổ sản mở luồng lưu thông, thúc đẩy sản xuất phát triển. Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc bước vào thời kì đi lên Chủ nghĩa xã hội, Tiền tệ -Tín dụng –Ngân hàng được sử dụng làm công cụ khôi phục kinh tế, tổ chức sản xuất và lưu thông hàng hoá, cải thiện đời sống của nhân dân. - Trong hai năm đầu (1955-1957), thực hiện Nghị quyết của Bộ chính trị “ hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, trước hết là phục hồi và phát triển nông nghiệp”, Ngân hàng nhà nước đã kịp thời chuyển hướng cho vay từ vận tiêu nông, lâm, thổ sản trước đó thành trực tiếp cho vay nông nghiệp, giúp đỡ nông dân ở những nơi đã cải cách ruộng đất, mua xắm trâu bò cày và ở vùng giải phóng đã khai phá gần 15 vạn ha ruộng hoang hoá. Đồng thời với cho vay nông nghiệp, ngân hàng nhà nước đã tập trung 90% vốn tín dụng cho ngành thương nghiệp, đẩy mạnh giao lưu hàng hoá giữa thành thị và nông thôn, củng cố và tăng cường lực lượng quốc doanh, hợp tác xã mua bán, tạo điều kiện điều chỉnh công thương nghiệp tư bản tư doanh và bước đầu cải tạo họ theo đường lối kinh tế xã hội chủ nghĩa. - Tiếp đến là thời kì cải tạo và phát triển kinh tế (1958-1960), ngân hàng tập trung vốn phục vụ phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, ưu tiên lãi suất với các tổ vần công, đổi công và hợp tác xã, đồng thời nhanh chóng mở rộng hợp tác xã tín dụng nông thôn, đi trước một bước phát triển hợp tác xã nông nghiệp. - Bước vào thời kì kế hoach 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc do Đại hội Đảng lần III vạch ra, Ngân hàng nhà nước hết sức quan tâm đến công tác nguồn vốn, kết hợp chặt chẽ việc động viên và tập trung mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế với việc áp dụng chế độ tín dụng đúng đắn và phát hành tiến mặt một cách có kế hoạch nhằm thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước. Đối với kinh tế quốc doanh, tín dụng ngân hàng đã tham gia khoảng 70% vốn lưu động hàng hoá của các xí nghiệp thương nghiệp và 40% vốn lưu động sản xuất của các xí nghiệp công nghiệp. Để đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (bắt đầu vào ngày 5/8/1964), Ngân hàng nhà nước đã chuyển hướng mọi mặt hoạt động nghiệp vụ, tập trung phục vụ bảo vệ và duy trì sản xuất, tích cực giúp đỡ các xí nhiệp và các tổ chức kinh tế sơ tán,... Đồng thời trong thời gian này, mạng lưới hợp tác xã tín dụng đã được sử dụng chiệt để, đảm nhận phần quan trọng về nghiệp vụ tiền tệ, tín dụng ở nông thôn, nhất là công tác huy động vốn gửi tiết kịêm, kể cả cho vay ngắn hạn với hợp tác xã nông nghiệp. Tóm lại từ sau Cách mạng tháng 8 vấn đề luôn luôn khó khăn với chính quyền cách mạng là Tài chính-Tiền tệ-Tín dụng-Ngân hàng. Nhưng Đảng và nhân dân ta đã vượt qua những khó khăn đó xây dựng được hệ thống tiền tệ thống nhất, thành lập được Ngân hàng quốc gia riêng, xác định được một chính sách tiền tệ hợp lý, biết quản lý tập trung thống nhất và có kỷ luật. Tiếp đó hệ thống Tiền tệ –Tín dụng –Ngân hàng Xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và củng cố trong giai đoạn 1955-1975 góp phần lớn vsò công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà. II. Thực trạng hoạt động tín dụng Ngân hàng ở Việt Nam hiện nay. 1. Những kết quả tích cực trong hoạt động tín dung Ngân hàng. 1.1. Những ưu thế của tín dụng Ngân hàng. Có thể nói từ đại hội VI (1986) đến nay, thị trường vốn chủ yếu của Việt Nam là tín dụng qua Ngân hàng nếu không kể đến lượng trái phiếu Chính phủ phát hành trực tiếp ra công chúng và thị trường bảo hiểm còn nhỏ bé. Sở dĩ thị trường tín dụng Ngân hàng chiếm ưu thế trong thời gian qua là do một số nguyên nhân sau: Thứ nhất, Ngân hàng là nơi tập trung vốn có ưu thế nhất từ những lượng tiền tiết kiệm trong dân cư và từ Ngân sách nhà nước.Công chúng Việt Nam luôn tin tưởng vào Nhà nước, tin tưởng vào sự bảo đảm an toàn của nhà nước đối với số tiền gửi.Cho đến nay các kênh tiết kiệm và huy động vốn hầu như không có, nếu có thì rất yếu kém nên tiền tiết kiệm tập trung vào Ngân hàng là đương nhiên. Thứ hai, quan hệ mua bán chịu hàng hoá giữa các doanh thương đã có những bước phát triển nhưng ở Việt Nam lại chưa có thị trường thương phiếu, không có cơ sở pháp lý hoàn chỉnh để điều chỉnh các quan hệ trong hoạt động mua bán chịu. Do đó dễ nẩy sinh nhiều tiêu cực không được giải quyết chính vì vậy mà các doanh nghiệp càng dựa hơn vào Ngân hàng. Thứ ba, chỉ có Ngân hàng mới đủ khả năng tích độ đủ quy mô về vốn trong dân cư và doanh nghiệp với khả năng tích luỹ thấp như hiện nay để tài trợ cho các dự án. Các định chế tài chính trung gian ngoài ngân hàng như Công ty bảo hiểm, Công ty tài chính còn kém phát triển như ở nước ta hiện nay. Thứ tư, trong thời gian qua và hiện tại, các doanh nghiểp trong nước, nhất là doanh nghiệp nhà nước còn dựa vào số lượng vốn vay từ Ngân sách nhà nước qua Ngân hàng thương mại quốc doanh. Đây là nguồn vốn khá ưu đãi nên các hình thức vay vốn trực tiếp khác khó có thể cạnh tranh được 1.2. Tín dụng Ngân hàng với các ngành kinh tế. 1.2.1. Vai trò của tín dụng Ngân hàng với toàn bộ nền kinh tế. Vốn đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một vấn đế cực kỳ quan trọng và cấp bách trong cuộc sống hiện nay và nhiều năm tới của nước ta. Trong chiến lược kinh tế xã hội đến năm 2010, Đảng ta chỉ rõ: Chinh sách tài chính quốc gia hướng vào việc tạo vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩn xã hội, và thu nhập quốc dân... Tạo vốn và sử dụng vốn là những vấn đề đang được Nhà nước và ngành Ngân hàng đặc biệt quan tâm. Có huy động những nguồn vốn bên ngoài và phát triển nhanh nguồn vốn trong nước mới có thể đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nhìn lại giai đoạn 1991-2000 để thấy được vai trò của vốn Ngân hàng trong những năm qua. Theo báo cáo về sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong giai đoạn 1996-2000 nền kinh tế Việt Nam cần khoảng 50 tỷ USD, trong đó nguồn vốn trong nước đáp ứng được khoàng 45% nhu cầu, phần còn lại phải nhờ vào đầu tư từ bên ngoài. Từ đó có thể thấy yêu cầu về vốn đầu tư trong những năm cuối của thập kỷ 90 khá nặng, mỗi năm cần khoảng 8-9 tỷ USD và trong tương lai, theo yêu cầu phát triển của đất nước đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp thì sự nan giải về tạo vốn cho công nghiệp hoá hiện đại hoá còn lớn hơn rất nhiều rất nhiều. Có thể nói nguồn vốn cho nền kinh tế do Ngân hàng đảm nhiệm cung ứng là rất to lớn, ngoài ra còn có nhiều kênh đầu tư từ Ngân sách, nguồn FDI, ODA, từ doanh nghiệp và tư nhân tự đầu tư. Lâu nay, Ngân hàng đã có nhiều cố gắng trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong các doanh nghiệp và dân cư nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển.Công cuộc đổi mới toàn diện trên đất nước ta mở đầu từ Đại họi VI của Đảng, trải qua 15 năm trong hoàn cảnh đầy khó khăn và thử thách, đã thu được những thành tựu to lớn: nền kinh tế tăng trưởng và ổn định, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng: Kinh tế quốc doanh vẫn giữ một vị trí quan trọng trong những khâu then chốt...Trong những thành tựu ấy có sự đống góp quan trọng của ngành Ngân hàng. Cơ cấu tín dụng Ngân hàng đã tăng dần cho lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh, trong khi bảo đảm có chọn lọc những doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có hiệu quả. Tỷ trọng cho vay các xí nghiệp quốc doanh năm 1991 là 90% và doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 10% thì đến năm 1995 thì tỷ trọng đó là 58,5 % và 41,5%. Lâu nay Ngân hàng vẫn hoạt động ngắn hạn là chủ yếu. Để phục vụ tốt quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá Ngân hàng đã chú ý mở rộng tín dụng trung và dài hạn. Tỷ trọng vốn vay ngắn hạn từ 85% và trung hạn là 15% (năm 1991) thì đến năm 1994 đã thay đổi là 67% và 33%, so năm 1995 với năm 1994 dư nợ cho vay ngắn hạn tăng 36,7%, dư nợ cho vay trung và dài hạn tăng 26,6%. Sau đây là cơ cấu tín dụng Ngân hàng qua các năm. (Đơn vị: %) Năm Quốc doanh Ngoài quốc doanh Dư nợ vay ngắn hạn Dư nợ vay trung-dài hạn 1991 90 10 85 15 1992 80 18 84 16 1993 72 28 77 23 1994 65 35 67 33 1995 58 41 75 25 Sự tăng trưởng tín dụng vào những định hướng của nền kinh tế quốc dân đã tạo nên cơ cấu tín dụng ngày càng hợp lý, thúc đẩy từng bước sự thay đổi cơ cấu kinh tế. Cùng với việc mở rộng tín dung đến tất cả các thành phần kinh tế, hệ thống Ngân hàng dặc biệt quan tâm đến lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, quan tâm đến cho vay xuất khẩu, tăng cường đầu tư một số ngành công nghiệp mũi nhọn như điện tử, cơ khí, năng lượng... Hầu hết các chương trình ứn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35144.doc
Tài liệu liên quan