Mục lục
Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng, nền kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Song, cùng với quá trình phát triển đó, bên cạnh sự tăng thu nhập, nâng cao đời sống của số đông dân cư vẫn còn tồn tại một bộ phận không nhỏ dân cư, đặc biệt là dân cư ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa... đang chịu cảnh nghèo đói, không đảm bảo được những điều kiện tối thiểu của cuộc sống. Chính vì vậy, nghị quyết Đại hội VIII của
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tín dụng Ngân hàng đối với chương trình xoá đói giảm nghèo tỉnh Hoà Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đảng đã xác định mục tiêu xoá đói giảm nghèo (XĐGN) là một trong 11 chương trình phát triển kinh tế - xã hội và chương trình này đã được cụ thể hoá tới từng tỉnh, huyện, xã, thôn, bản trên khắp đất nước.
Hoà Bình là một tỉnh miền núi với phần lớn dân số là dân tộc ít người vừa được tách ra từ tỉnh Hà Sơn Bình cũ (năm1991), cơ sở vật chất còn nghèo nàn, đời sống kinh tế - xã hội có nhiều khó khăn và cũng đang trong tình trạng đói nghèo lớn. Hoà Bình có 60/214 xã thuộc diện nghèo đói, trong đó có 24 xã đặc biệt khó khăn, tỷ lệ đói nghèo gần 15%. Phần đông hộ nghèo là các dân tộc thiểu số tập trung ở vùng sâu, vùng cao, vùng lòng hồ sông Đà... Bộ phận dân chúng nghèo khổ này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau như cơ sở hạ tầng, thiên tai, vốn, trình độ.... Để giải quyết vấn đề đó, đòi hỏi hàng loạt vấn đề từ tầm vĩ mô đến vi mô được xem xét và thực thi trong chương trình XĐGN của tỉnh Hoà Bình theo một chính sách và cơ chế đồng bộ. Trong hàng loạt vấn đề đó, vốn sản xuất cho người nghèo đang nổi lên như một trở ngại lớn nhất trên con đường để duy trì sản xuất. Giải quyết thấu đáo vấn đề vốn cho bộ phận này, cần phải được xem xét kỹ trên tất cả các mặt về số lượng, thời gian, phương thức, mô hình, cơ chế vận hành ... sao cho phù hợp với đặc thù của một tỉnh miền núi.
Xuất phát từ lý do trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu của khóa luận là:
“Tín dụng Ngân hàng đối với chương trình xoá đói giảm nghèo tỉnh Hoà Bình”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu vấn đề cho vay hộ sản xuất, hộ nghèo thiếu vốn của NHNo&PTNT tỉnh Hoà Bình trong giai đoạn hiện nay.
- Vai trò của tín dụng NHNo&PTNT tỉnh Hoà Bình trong việc thực hiện mục tiêu chương trình XĐGN của tỉnh.
CHươNG I
TíN DụNG NGâN HàNG Và VAI TRò
CủA TíN DụNG NGâN HàNG TRONG VIệC
THựC HIệN CHươNG TRìNH XOá ĐóI GiảM NGHèO
I. NềN KINH Tế THI TRườNG. NHữNG ưu ĐIểM Và KHUYếT Tật CủA NềN KINH Tế THI TRườNG:
Kinh tế thị trường nói chung là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá giản đơn, do vậy, kinh tế thị trường không phải là hình thái đối lập của kinh tế hàng hoá. Trái lại, chúng giống nhau về thực chất. Kinh tế thị trường là một hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá, chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế vốn có của nó hay chịu sự chi phối của cơ chế thị trường tự điều chỉnh.
1. Những ưu điểm của nền kinh tế thị trường:
Trái với mô hình kinh tế chỉ huy, mọi hoạt động kinh tế ở mô hình kinh tế thị trường do thị trường tự điều tiết. Chủng loại, quy mô, chất lượng, hình thức của sản phẩm hàng hoá được quyết định bởi quan hệ cung - cầu của xã hội và được xác định thông qua sự vận động của các hình thái giá trị, lợi nhuận, lãi suất, giá cả ...
Những ưu điểm của nền kinh tế thị trường bao gồm:
Thứ nhất: Là nền kinh tế vận hành, điều chỉnh bởi hệ thống thị trường tổng hợp bao gồm thị trường hàng hoá, thị trường tài chính, thị trường lao động ... và những mối quan hệ phát sinh trên thị trường chứ không phải do Nhà nước chỉ huy bằng mệnh lệnh.
Thứ hai: Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được tồn tại và phát triển một cách bình đẳng. Nhà nước chỉ bao cấp cho một số ít đơn vị kinh tế tuy hiệu quả kinh tế thấp nhưng buộc phải tồn tại do nhu cầu tồn tại và phát triển của đất nước, các chế độ bao cấp không còn tồn tại.
Đối với các doanh nghiệp quốc doanh, Nhà nước giao chỉ tiêu nộp Ngân sách, các đơn vị kinh tế đều phải cố gắng để đạt mức lợi nhuận cao nhất .Do vậy , cạnh tranh chính là động lực phát triển của nền kinh tế thị trường.
Thứ ba: Khi nền kinh tế chỉ huy, Nhà nước quản lý điều hành nền kinh tế bằng mệnh lệnh, quan hệ hiện vật là chủ yếu, dẫn đến các quyết định đều duy ý chí thì nền kinh tể thị trường vận động trên cơ sở của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật lợi nhuận, quy luật cạnh tranh... Chính điều đó đã buộc các doanh nghiệp phải tôn trọng các mối quan hệ hàng hoá, thị trường, phải năng động, sáng tạo mới có hy vọng đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Chính vì vậy, Kinh tế thị trường là một mô hình tổ chức kinh tế phát huy cao nhất mọi tiềm năng của nền kinh tế, tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất.
2. Những khuyết tật của nền kinh tế thị trường:
Thứ nhất: Do chạy theo lợi nhuận, các doanh nghiệp đều cố gắng tìm mọi thủ đoạn để tăng thu nhập, giảm chi phí, bất chấp hậu quả đối với xã hội như: trốn lậu thuế, kinh doanh các mặt hàng quốc cấm. Cũng do mù quáng chạy theo lợi nhuận, họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội vi phạm các quy luật tự nhiên khi khai thác làm cho xã hội phải chịu những khoản phụ phí thêm do khai thác khó khăn hơn, gây ô nhiễm không khí, nguồn nước mà xã hội phải gánh chịu.
Thứ hai: Cạnh tranh tuy là động lực của phát triển kinh tế, nhưng mặt trái của nó là tạo nên những rối loạn trong nền kinh tế, gây ra sự bất bình đẳng trong xã hội, dẫn đến phân hoá giàu nghèo, cản trở việc thực hiện mục tiêu xã hội nếu quá trình kinh tế không kết hợp với quá trình xã hội và gắn với mục tiêu xã hội .
Rõ ràng , cơ chế thị trường là cơ chế vận hành tốt nhất điều tiết nền kinh tế một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, cơ chế thị trường đó không tránh khỏi một loạt các khuyết tật. Vì vậy, cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước trong nền kinh tể thị trường mới có thể có một nền kinh tế phát triển mạnh trên mọi phương diện.
II. Sự PHâN HOá GIàU NGHèO TRONG NềN KINH Tế THị TRườNG; Hệ qUAN ĐIểM Và CáC GIảI PHáP CủA ĐảNG Và NHà NướC TA :
1. Sự phân hoá giàu nghèo trong nền kinh tế thị trường :
Bất kỳ một chế độ, xã hội nào khi có sự chiếm hữu khác nhau về tư liệu sản xuất tất yếu sẽ xuất hiện sự phân hoá giàu nghèo. Sự phân hoá giàu nghèo trong nền kinh tế thị trường lại càng diễn ra nhanh chóng hơn, bởi kinh tế thị trường lấy lợi nhuận làm mục tiêu và cạnh tranh là phương thức hoạt động chủ yếu. Cạnh tranh trong cơ chế thị trường là phương tiện thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác, cạnh tranh cũng làm tăng nhanh sự phân hoá xã hội; Trong quá trình cạnh tranh, một số người có điều kiện thuận lợi, có kiến thức kinh doanh, biết đón nhận thời cơ thì trở thành ông chủ doanh nghiệp giàu lên nhanh chóng, một số người gặp hoàn cảnh khó khăn lâm vào cảnh đói nghèo và gia nhập đội quân đi làm thuê.
Có thể nói , nghèo đói là hiện tượng phổ biến của nền kinh tế thị trường và tồn tại khách quan. ở nước ta , quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường với xuất phát điểm thấp thì tình trạng đói nghèo càng không thể tránh khỏi, thậm chí trầm trọng và gay gắt. Tình trạng đói nghèo không còn là cá biệt mà đã trở thành hiện tượng phổ biến ở nông thôn và các vùng khó khăn, miền núi...
2. Chuẩn mực phân loại hộ nghèo ở nước ta hiện nay:
Tại quyết định số 1143/ 2000 - LĐTBXH ngày 1/11/2000 của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội điều chỉnh chuẩn hộ nghèo giai đoạn 2001 - 2005 theo mức thu nhập bình quân đầu người trong hộ cho từng vùng như sau :
- Vùng nông thôn miền núi hải đảo : 80.000đ/tháng (960.000đ/năm)
- Vùng nông thôn đồng bằng : 100.000đ/tháng (1.200.000đ/năm)
- Vùng thành thị : 150.000đ/tháng (1.800.000đ/năm).
3. Những quan điểm mục tiêu và giải pháp của Đảng và Nhà nước ta về xoá đói giảm nghèo:
3.1. Quan điểm và phương châm xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước ta:
Để thúc đẩy mặt tích cực đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường, tất yếu phải có vai trò của Nhà nước. Cho đến nay, tất cả các quốc gia đã phải coi việc giải quyết vấn đề nghèo đói như một chiến lược xây dựng kinh tế - xã hội toàn cầu. ở nước ta, vấn đề xoá đói giảm nghèo được Chính phủ và các cấp, các ngành quan tâm đặc biệt và có sự nhất trí cao về mục tiêu. Giải quyết vấn đề đói nghèo ở nước ta, không chỉ đòi hỏi về mặt xã hội mà còn đòi hỏi của vấn đề kinh tế. Bởi vì, nền kinh tế không thể tăng trưởng một cách bền vững mỗi khi trong xã hội vẫn tồn tại lớp người nghèo đói khá đông. Chúng ta hiện nay có trên 15% số hộ nghèo đói, trong đó 90% là ở nông thôn, còn 1,700 xã nghèo đói và là một trong 18 nước nghèo đói nhất thế giới.
Trước tình hình hiện tại, bước vào cơ chế mới, sự phân hoá giàu nghèo ở nước ta đang diễn ra rất nhanh, nếu không tích cực XĐGN và giải quyết các vấn đề xã hội khác thì khó có thể đạt được mục tiêu xây dựng một cuộc sống ấm no về vật chất, tốt đẹp về tinh thần, vừa phát huy truyền thống văn hoá cao đẹp của dân tộc vừa tiếp thu những yếu tố lành mạnh của thời đại. Chính vì vậy, Nghị quyết đại hội VIII của Đảng đã xác định mục tiêu XĐGN là một trong 11 chương trình phát triển kinh tế xã hội, Bộ Chính trị đã có chỉ thị 23/CT-TW về lãnh đạo công tác xoá đói giảm nghèo, đầu năm 1998 Chính phủ quyết định XĐGN là một trong 7 chương trình quốc gia.
Các quan điểm và phương châm xoá đói giảm nghèo bao gồm:
Một là: Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với XĐGN.
Hai là: Phải hỗ trợ để làng, xã và người nghèo tự vươn lên là chính: Làng , bản , xã là cấp chủ yếu tổ chức xây dựng và triển khai chương trình trực tiếp đến hộ, đến khu dân cư. Đây là vấn đề kinh tế - xã hội nên phải xã hội hoá công tác này.
Ba là: Nâng cao vai trò của Nhà nước về cơ chế chính sách và phát huy các nguồn lực cho XĐGN và cho xã nghèo, vệt nghèo ở vùng cao biên giới hải đảo.
Bốn là: XĐGN là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, các tổ chức đoàn thể, ngành Lao động - Thương binh xã hội là cơ quan tham mưu quản lý Nhà nước trong phạm vi trách nhiệm.
Năm là: Tập trung giúp hộ khó khăn trước, xã nghèo nhất trước, tập trung vào khu vực 4 của miền núi rồi mở rộng tiếp.
- Làm chắc từng hộ, từng xã, phát hiện và hỗ trợ kịp thời số hộ “tái nghèo” xây dựng và nhân mô hình thành đạt của hộ, xã về XĐGN.
- Có một chương trình độc lập về XĐGN, đồng thời lồng ghép các chương trình, dự án kinh tế - kỹ thuật về hỗ trợ nguồn lực cho XĐGN.
Phát huy hợp tác quốc tế và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài trợ trước hết là hỗ trợ các tỉnh khó khăn.
3.2. Mục tiêu xoá đói giảm nghèo giai đoạn 1998-2000 và những năm tiếp theo - Các giải pháp:
a. Mục tiêu :
- Giảm tỷ lệ đói nghèo trong tổng số hộ của cả nước xuống còn dưới 10% vào sau năm 2000; bình quân giảm 300 ngàn hộ/ năm. Giảm tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn xuống còn 20 - 25% vào năm 2005.
- Bảo đảm cung cấp cho đồng bào có đủ nước sinh hoạt; thu hút trên 70% trẻ em trong độ tuổi đến trường; đại bộ phận đồng bào được bồi dưỡng, tiếp thu kinh nghiệm sản xuất, kiến thức khoa học, văn hóa, xã hội, chủ động vận dụng vào sản xuất và đời sống; kiểm soát được phần lớn các dịch bệnh xã hội hiểm nghèo; có đường giao thông cho xe cơ giới và đường dân sinh kinh tế đến các trung tâm cụm xã; thúc đẩy phát triển thị trường nông thôn.
b. Các giải pháp:
Bao gồm 3 nhóm giải pháp chính:
* Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách: Cần nghiên cứu, hoàn thiện các cơ chế, chính sách liên quan đến nghèo đói, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến người nghèo, xã nghèo, nhằm tạo môi trường thực hiện chương trình XĐGN đạt hiệu quả.
* Nhóm giải pháp thông qua thực hiện các dự án chính của chương trình, bao gồm:
- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và sắp xếp lại dân cư.
- Hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề.
- Tín dụng cho người nghèo.
- Hỗ trợ người nghèo về y tế.
- Hỗ trợ người nghèo về giáo dục.
- Định canh định cư, di dân và kinh tế mới.
- Hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn.
- Hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo và khuyến nông-lâm-ngư.
- Nâng cao năng lực cán bộ làm công tác XĐGN và cán bộ ở các xã nghèo miền núi.
* Nhóm giải pháp về bộ máy, cán bộ: Đây là giải pháp rất quan trọng, quyết định đến thắng lợi trong tổ chức thực hiện chương trình.
- Về tổ chức bộ máy: Kiện toàn và thành lập Ban chỉ đạo XĐGN các cấp đủ mạnh để tổ chức thực hiện chương trình.
- Về cán bộ: Cần bố trí cán bộ chuyên trách XĐGN. Đội ngũ cán bộ này cần được tập huấn để có đủ kiến thức tổ chức thực hiện chương trình. Ngoài ra, cần tăng cường có thời hạn cán bộ tỉnh, huyện cho xã để hướng dẫn đào tạo cán bộ cho xã.
4. Những chương trình hỗ trơ vốn của Chính phủ cho chương trình xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam:
ở Việt Nam, đi lên từ một nền kinh tế tiểu nông nửa phong kiến và thuộc địa, nghèo nàn, lạc hậu, hơn 80% dân số sống ở nông thôn làm nông nghiệp, có tồn tại lớn là:
- Kinh tế hàng hoá chậm phát triển, nhiều vùng dân cư sống chủ yếu với nền sản xuất nông nghiệp, độc canh, tự cung, tự cấp.
- Còn khoảng 59% hộ nông dân nghèo, trong đó khoảng 22,5% số hộ sống dưới mức nghèo khó.
Thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo của Nhà nước, thực tế có nhiều nguồn kinh phí đầu tư cho chương trình (tính đến 3/ 11/ 1997). Bao gồm:
Nghị quyết 120/ HĐBT ngày 11/ 04/ 1992 về “Giải quyết việc làm” do Kho bạc Nhà nước thực hiện cho vay, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội chủ trì.
- Chương trình 327/ CP phủ xanh đất trống đồi trọc thực hiện thông qua Kho bạc Nhà nước.
- Chương trình 747 “ổn định và phát triển kinh tế - xã hội vùng chuyển dân lòng hồ Sông đà”.
- Tín dụng cho hộ sản xuất vay vốn do NHNo & PTNT Việt Nam tiến hành từ nguồn tự huy động để cho vay.
- NHNg cho vay người nghèo nhất theo chuẩn mực hiện nay do Bộ Lao động - Thương binh và xã hội công bố.
Quỹ tín dụng nhân dân hoạt động tại xã cho các hộ sản xuất, trong đó có hộ nghèo vay.
- Các quỹ tương trợ của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
- Quỹ hỗ trợ của Hội nông dân Việt Nam thành lập theo công văn số 4035/ KTKH ngày 26/ 7/ 1995.
Ngoài ra còn hơn 70 chi hội, hiệp hội phi Chính phủ hoạt động hỗ trợ nông nghiệp, nông thôn và hỗ trợ chương trình XĐGN, nhưng số vốn không lớn và thường trùng lắp về giai đoạn giải ngân do thực hiện chế độ uỷ thác cho nhau, chủ yếu là chuyển cho NHNo & PTNT Việt Nam ở huyện, tỉnh làm dịch vụ.
Qua tổng kết chương trình cho thấy, nguồn tài trợ cho chương trình chủ yếu là nguồn vốn từ NHNo & PTNT và NHNg. Điều đó nói lên NHNo & PTNT và NHNg giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình thực hiện chủ trương XĐGN của Nhà nước.
III. TíN DụNG NGâN HàNG Và VAI TRò CủA TíN DụNG NGâN HàNG TRONG quá TRìNH THựC HIệN MụC TIêU CHươNG TRìNH XOá ĐóI GIảM NGHèO :
1. Tín dụng Ngân hàng trong cơ chế thị trường:
Trong nền kinh tể hàng hoá, tín dụng Ngân hàng là nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng. Cụ thể hơn, tín dụng Ngân hàng là mối quan hệ vay mượn vốn tiền tệ theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi do Ngân hàng thực hiện. Ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Bằng các biện pháp nghiệp vụ, Ngân hàng thu hút các khoản tiền nhàn rỗi cho các doanh nghiệp và dân cư vay.
2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng trong quá trình thực hiện mục tiêu chương trình xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam:
Nước ta đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo hướng “mở”, lại nằm trong vòng cung Châu á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động nhất thế giới. Song cũng lại có nhiều thách đố đặt ra cần tháo gỡ, đó là: Một nền công nghiệp lạc hậu, hệ số cơ giới hoá thấp, cơ sở vật chất phục vụ xây dựng và phát triển kinh tế vừa thiếu vừa lạc hậu, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật nhìn chung còn bất cập về số lượng và trình độ, nền tài chính quốc gia còn quá eo hẹp, chưa đáp ứng ở mức cần thiết nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Khắc phục tình trạng trên và nhằm thực hiện đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì một trong những điều kiện tiền đề là phải có vốn.
Sẽ là không tưởng khi nói đến phát triển kinh tế mà không có vốn hoặc không có đủ vốn. Hay ở một khía cạnh khác, sẽ là thiếu chính xác, thiếu biện chứng khi chỉ đề cập từ phía vốn đối với phát triến kinh tế. Bởi lẽ, vốn được bắt nguồn từ nền kinh tế, nền kinh tế càng phát triển thì càng có điều kiện tích tụ nhiều vốn hơn.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã chỉ rõ “Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần huy động nhiều nguồn vốn sẵn có với sử dụng vốn có hiệu quả, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng”.
Khẳng định rằng, nếu ta có quan niệm đúng về vốn thì sẽ giúp ta phát hiện được những tiềm năng về vốn, cũng từ đó có biện pháp khai thác và sử dụng chúng đem lại hiệu quả. Với mục tiêu của ta là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì vốn nước ngoài sẽ tạo ra cú “huých” mạnh mẽ để nền kinh tế mau chóng cất cánh. Nếu xem xét vấn đề vốn nước ngoài trong quan hệ cung cầu thì cung về vốn cho các nước đang phát triển hơn nhiều so với cầu về vốn của nước đó. Điểm này cho thấy, chúng ta sẽ phải đối mặt với nhiều đối thủ rất mạnh trên lĩnh vực này. Nếu xem xét vấn đề vốn trong nước và nước ngoài thì qua thực tiễn những năm thực hiện công cuộc đổi mới vừa qua cho thấy mức độ “hấp thụ” vốn nước ngoài tuỳ thuộc chủ yếu nguồn vốn bên trong của nền kinh tế.
Sự thật trên cảnh báo rằng: Sẽ là sai lầm nếu kỳ vọng quá lớn vào nguồn vốn bên ngoài trong khi không tận lực khai thác nguồn lực sẵn có bên trong.
Tín dụng Ngân hàng đóng vai trò rất lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Chúng ta cũng đều biết rằng, muốn phát triển kinh tế thì trước hết phải có vốn, mà để có vốn bằng tiền thì phải có các tổ chức đủ thẩm quyền và chức năng để huy động và tập trung vốn đó trước khi đem sử dụng. ở bất kỳ một quốc gia nào thì công việc này do hai tổ chức thực hiện là: Tổ chức tài chính và các tổ chức tín dụng. Vậy là tín dụng Ngân hàng đóng vai trò quan trọng từ buổi sơ khai đến mô hình Ngân hàng hiện đại ngày nay. Với khái niệm ấy, đối với riêng trong lĩnh vực tín dụng đã là một vấn đề vô cùng quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Thực tiễn ở nước ta, đói nghèo bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân thiếu vốn sản xuất chiếm khoảng 60%. Một điều được khẳng định là: Mặc dù kinh tế đang tăng trưởng nhưng nếu không có chính sách và chương trình XĐGN thì các hộ nghèo không thể thoát khỏi đói nghèo được. Chính vì vậy, Đảng, Chính phủ ta đã đề ra những chính sách đặc biệt giúp người nghèo nhằm dần dần rút ngắn khoảng cách giữa người giàu và người nghèo. Tuy nói là hỗ trợ, giúp đỡ, song những chính sách đó không phải là bao cấp mà chủ yếu là tạo ra cơ hội cho người nghèo tự vươn lên, trong đó chính sách tín dụng được ví như chiếc chìa khoá để giải quyết đói nghèo.
- Tín dụng Ngân hàng góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thêm thu nhập cho người lao động, tạo điều kiện nâng cao khả năng sản xuất của người nghèo. Tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo có điều kiện vượt lên số phận.
- Tín dụng Ngân hàng mang lại hiệu quả kinh tế xã hội và chính trị sâu sắc.
+ Hoạt động tín dụng Ngân hàng góp phần tích cực trong việc thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước, đáp ứng nguyện vọng của dân chúng trong toàn quốc, gây ấn tượng tốt đẹp trong lòng dân.
+ Ngân hàng đã cung cấp vốn tín dụng cho đa số những người nghèo trên toàn quốc, làm hạn chế việc cho vay nặng lãi ở nông thôn. Vốn tín dụng giúp người nghèo mở rộng ngành nghề mới, tạo việc làm, thâm canh tăng năng suất, tăng thu nhập, cải thiện đời sống. Tăng cường khối đoàn kết, tương thân, tương ái của cộng đồng dân chúng, tạo điều kiện cho người nghèo có thể tham gia vào các hoạt động xã hội khác. Hỗ trợ lẫn nhau, cùng chia xẻ cách làm ăn.
- Vốn tín dụng Ngân hàng đảm bảo tốt nhất yêu cầu nâng cao hiệu quả kinh tế của việc sử dụng vốn.
Tín dụng Ngân hàng không cho vay đối với các tổ chức, các hộ làm ăn kém hiệu quả, các dự án thiếu tính khả thi, nên người vay phải tính toán, xem xét kỹ trước khi vay, phải năng động, sáng tạo, nâng cao chất lượng đi đôi với hạ giá thành sản phẩm để đáp ứng đòi hỏi của cơ chế thị trường, nghĩa là phải sử dụng vốn Ngân hàng sao cho có hiệu quả nhất.
Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy các trang trại mở rộng các hình thức hợp tác (hội VAC, Hội vườn rừng, Hội nuôi trồng thuỷ sản...), cùng nhau hợp tác và góp vốn chuyển giao kỹ thuật cũng như tiêu thụ sản phẩm.
Có thể nói, vốn là điều kiện, là tiền đề quan trọng để phát triển và mở rộng sản xuất, nâng cao đời sống cho số đông dân cư ở nông thôn, từng bước XĐGN. Vì vậy, một mặt phải huy động vốn tự có trong dân, mặt khác Nhà nước phải giúp đỡ nông dân cho họ vay vốn với nhiều hình thức phong phú và hiệu quả.
Có đến 90% số hộ đói nghèo của nước ta là tập trung ở nông thôn, mà nông nghiệp nông thôn nước ta chủ yếu dựa trên cơ sở của nền kinh tế tự cung, tự cấp, bình quân ruộng đất đầu người thấp, cơ sở vật chất nghèo nàn, chủ yếu dựa vào lao động thủ công nên năng suất lao động thấp. Do đó chính sách XĐGN của Nhà nước cũng tập trung chủ yếu vào khu vực nông nghiệp nông thôn.
Để phát triển kinh tế hàng hoá, vốn là yêu cầu và điều kiện không thể thiếu để đầu tư, thâm canh, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, từng bước hình thành những vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá lớn, tạo nguồn hàng lớn phục vụ yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Quá trình đó sẽ thúc đẩy cơ cấu kinh tế nông nghiệp, chuyển dịch theo hướng đa dạng hơn với nhiều nông sản hàng hoá có giá trị kinh tế cao và cải biến kinh tế nông thôn, thu hẹp tỷ lệ hộ thuần nông, mở rộng các ngành nghề thủ công truyền thống, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp tiên tiến, mở mang các hoạt động dịch vụ thương mại. Giải quyết công ăn, việc làm cho hàng ngàn lao động chưa có việc làm, giúp cho nhiều hộ nông dân thoát khỏi cảnh nghèo đói, nền kinh tế thêm khởi sắc.
Nhận thức đầy đủ vai trò của của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển, tại hội nghị lần thứ V khoá VII, Bộ Chính trị đã khẳng định: “Khai thác, phát triển các nguồn vốn tín dụng của Nhà nước và của nhân dân, tạo điều kiện để tăng tỷ lệ hộ nông dân được vay vốn sản xuất, ưu tiên cho hộ nghèo, vùng nghèo vay vốn phát triển sản xuất”.
CHươNG II
THựC TRạNG TíN DụNG CủA NHNo & PTNT TỉNH HOà BìNH TRONG VIệC THựC HIệN MụC TIêU CHươNG TRìNH XOá ĐóI GIảM NGHèO CủA TỉNH
I. ĐặC ĐIểM Tự NHIêN - KINH Tế - Xã HộI TỉNH HOà BìNH. NHữNG Lợi THế Và KHó KHăN TRONG quá TRìNH PHáT TRIển KINH Tế - Xã Hội:
1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Hoà Bình:
1.1. Đặc điểm tự nhiên:
Hoà Bình là một tỉnh miền núi mới được tái lập từ tháng 10 năm 1991 (tách ra từ tỉnh Hà Sơn Bình cũ), là tỉnh cửa ngõ phía Tây Bắc của Tổ quốc. Hoà Bình nằm gần Thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng sông Hồng, có đường giao thông bộ, thuỷ thuận lợi. Ngoài ra còn có đường liên tỉnh, liên vùng nối liền Hoà Bình với Phú Thọ và các tỉnh Bắc Trung bộ.
Hoà Bình có diện tích tự nhiên 4.749 Km2. Trong đó, đất sản xuất nông nghiệp 72.437 ha (nhưng diện tích lúa nước chỉ có 42.249 ha), đất lâm nghiệp 303.680 ha (nhưng đất trống đồi trọc có tới 3.245 ha). Dân số gần75 vạn người, mật độ dân số 158 người/ km2 (vùng cao 50 - 60 người/ km2, vùng thấp 200 người/ km2).
Địa hình của tỉnh rộng, phức tạp, trải dài trên 200 km, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nhưng có nhiều núi cao nên trong tỉnh có nhiều tiểu vùng khí hậu mang tính chất á nhiệt đới và có vùng ảnh hưởng của gió Lào từ tháng 3 đến tháng 5, có vùng sương muối, mưa đá, sương mù, gió lốc, lụt cục bộ... Nhưng nhìn chung, khí hậu của tỉnh Hoà Bình là ôn hoà, phù hợp với sự phát triển của cây công nghiệp, cây ăn quả, vật nuôi đại gia súc có giá trị kinh tế cao. Thiệt hại lớn nhất của tỉnh Hoà Bình là rừng bị tàn phá nặng nề, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng như: Hạn hán, bão, lũ, úng...
1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội:
Hoà Bình có Sông đà chảy qua với chiều dài 15 l km, có Thuỷ điện 1.920 MW, ngoài việc cung cấp điện cho cả nước, hồ sông Đà còn là công trình trị thuỷ, điều tiết nước giữa các mùa của vùng đồng bằng sông Hồng. Nhưng theo sau đó là những khó khăn mà tỉnh phải giải quyết: Số dân di chuyển khỏi vùng ngập lòng hồ sông Đà gần một vạn người, một lực lượng không nhỏ công nhân và các con em họ sau khi xây dựng xong công trình hiện không có việc làm, diện tích ruộng lúa nước bị ngập gần 300 ha, đồng bào dù đã di chuyển đến nơi ở mới, cuộc sống vẫn chưa ổn định, một bộ phận ở lại ven hồ nên cuộc sống còn hết sức khó khăn. Trong khi đó, tổng sản lượng lương thực của tỉnh chưa vượt qua ngưỡng cửa 25 vạn tấn/ năm. Do ruộng nước ít lại bị thu hẹp, mặt khác trình độ thâm canh còn thấp nên bình quân lương thực đầu người chỉ đạt 250 - 300 kg.
Tỉnh Hoà Bình có trên 750 ngàn nhân khẩu (điều tra cuối năm 1998), trong đó thành thị hơn 100 ngàn nhân khẩu, nông thôn hơn 650 ngàn nhân khẩu. Có 7 dân tộc anh em chung sống, trong đó dân tộc thiểu số chiếm 69% (dân tộc Mường 60%,Thái 3,9%, Tày 2,5%, Giao l,6%, H’Mông và các dân tộc khác l%), dân tộc Kinh chiếm 3 l%.
Nền kinh tế tự cấp, tự túc đến nay vẫn còn phổ biến ở nông thôn, việc sản xuất hàng hoá với cơ chế thị trường mới bắt đầu ở vùng thuận lợi. Trình độ dân trí thấp, 9% dân số mù chữ, dân cư thuộc các xã, bản vùng cao, sâu có nguy cơ tái mù chữ. Thực tế này đã hạn chế rất nhiều đến việc tiếp thu cái mới, nâng cao tay nghề, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh.
Do cuộc sống kham khổ, do thiếu biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nên các bệnh ở Hoà Bình vẫn còn rải rác tồn tại như sốt rét, bướu cổ... Từ thực trạng trên đây làm cho gần 1/ 3 dân số Hoà Bình vẫn sống trong cảnh đói nghèo. Do dân nghèo nên tỉnh nghèo, Ngân sách hàng năm vẫn do Trung ương trợ cấp tới 60% - 70%. Đó là điều mà các cấp Uỷ Đảng, Chính quyền địa phương ở Hoà Bình luôn quan tâm, trăn trở để tìm lối thoát ra khỏi đói nghèo trong những năm tới.
2. Những lợi thế và khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh:
2.1. Những thuận lợi:
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam. Thời gian qua, với sự giúp đỡ của Nhà nước, ủng hộ của đại bộ phận nhân dân trong tỉnh đang tiến hành những đổi mới kinh tế - xã hội sâu sắc và toàn diện. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bước đầu được hình thành, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện, dân chủ trong xã hội được phát huy, an ninh chính trị được giữ vững, lòng tin của nhân dân từng bước được cải thiện, trên 70% hộ gia đình có mức sống trung bình trở lên.
Có thể nói, tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội của Hoà Bình là rất lớn. Hoà Bình gần Thủ đô Hà Nội, rất thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ giao lưu kinh tế, là nơi cung cấp các sản phẩm nông, lâm nghiệp, đặc sản... cho Thủ đô. Là nơi đầu mối giao thông thuỷ bộ duy nhất thuận lợi, Hoà Bình sẽ trở thành một địa bàn, một cơ sở quan trọng trong công cuộc xây dựng, khai thác và phát triển khu vực Tây bắc. Mở rộng quan hệ kinh tế, văn hoá với nước bạn Lào, là cực tăng trưởng làm cầu nối cho sự tăng trưởng kinh tế vùng Tây bắc. Hoà Bình có nguồn nước dồi dào, là nơi có công trình thuỷ điện với nguồn điện năng lớn cung cấp cho cả nước, đó chính là điều kiện rất quan trọng cho việc điện khí hoá nông thôn và áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất. Hoà Bình có hệ động, thực vật phong phú với nhiều loại cây con quý hiếm, có độ che phủ rừng là 30%, hiện tỉnh còn một số khu rừng nguyên sinh. Do đất rừng tốt nên việc tái sinh rừng cũng nhanh, việc trồng cây công nghiệp và cây nông nghiệp cũng rất thích hợp. Hoà Bình có nhiều khoáng sản quý như quặng sắt, ăngtimon, bôxit, mỏ nước khoáng, đá vôi, đất sét với trữ lượng lớn và chất lượng cao, thích hợp với sản xuất xi măng và vật liệu xây dựng. Hoà Bình có cảnh quan môi trường và nền văn hoá dân tộc đặc sắc có điều kiện để phát triển các ngành dịch vụ, văn hoá, an dưỡng...
2.2. Những khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội:
Mặc dù có nhiều thuận lợi trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, song quá trình đi lên của tỉnh cũng không tránh khỏi một số khó khăn và hạn chế.
Điểm xuất phát của nền kinh tế thấp, GDP đầu người qua các năm thấp hơn mức trung bình của cả nước, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm chỉ đạt từ 4-5%. Cơ cấu kinh tế chuyển đổi chậm, một số ngành có khả năng thu hút lao động, giải quyết việc làm thì chưa được đầu tư phát triển. Tỷ trọng nông - lâm nghiệp trong GDP còn chiếm 52%, tỷ lệ huy động GDP vào đầu tư thấp (chiếm khoảng 3-4% ngân sách). Ngân sách thu không đủ chi, mới đảm bảo được từ 35 - 40% nhu cầu chi, còn lại nhờ vào ngân sách trung ương. Về xã hội, đời sống của một số bộ phận dân cư các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, số diện đói nghèo chiếm gần 20%, hàng năm trong tỉnh có gần một vạn lao động thất nghiệp và nửa thất nghiệp, tệ nạn xã hội ngày càng có phần gia tăng... Đây đang là vấn đề bức xúc về đời sống xã hội cần được giải quyết trong thời gian tới của tỉnh. Một điều không kém đáng lo ngại là trong tỉnh vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, nhân dân nặng tư tưởng bảo thủ, quen tập quán canh tác giản đơn, ngại làm những công việc phức tạp như ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến. Sản xuất còn mang nặng tính tự cung, tự cấp nhất là ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa... vẫn còn dáng dấp kinh tế tự nhiên. Cơ sở vật chất, kỹ thuật còn yếu kém, một số nơi còn tình trạng lười lao động, nghiện hút... Tình hình đó cũng là trở ngại lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
II. THựC TRạNG ĐóI NGHèO CủA TỉNH HOà BìNH - NGUYêN NHân - HậU qUả Và CáC CHươNG TRìNH Hỗ TRợ CủA TỉNH:
1. Thực trạng đói nghèo:
1.1. Sự phân hoá giàu nghèo ở tỉnh Hoà Bình:
Là một vùng đất rộng, có nhiều đồi rừng, sông, suối, nhiều tiểu vùng khí hậu và nhiều dân tộc thiểu số. Nhưng Hoà Bình có nhiều điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên cũng như con người.
Sau những năm đổi mới, kinh tế Hoà Bình có nhiều khởi sắc. Song, nhìn tổng thể đây vẫn là một vùng nghèo, điểm xuất phát thấp, tốc độ tăng trưởng chậm so với cả nước. Thu nhập của dân cư so với mức trung bình của cả nước chỉ bằng khoảng 70-80%, mức chi tiêu bằng 80%, tỷ lệ dùng điện 55%, tỷ lệ tích luỹ trong dân cư thấp. Tuy vậy, trong dân cư đã xuất hiện xu hướng phân hoá giàu nghèo.
Theo số liệu của tổng cục thống kê, mức thu nhập bình quân người/ tháng của Hoà Bình là 150 - 200 ngàn đồng, mức chênh lệch về thu nhập giữa hộ giàu và hộ nghèo từ 650 - 700 ngàn đồng. Như vậy, có thể nói mức độ phân hoá giàu nghèo trong dân cư ở Hoà Bình còn thấp so với các vùng khác. Tuy vậy, mức thu nhập ở thành thị của Hoà Bình cũng chỉ bằng 60% mức trung bình của các thành thị khác trong cả nước. Điều này chứng tỏ dân cư thành thị và nông thôn ở Hoà Bình có thu nhập thấp hơn mức trung bình của ca nước. Số hộ giàu ở Hoà Bình tập trung nhiều và chiếm tỷ trọng lớn là ở trung tâm thị xã Hoà Bình và ở một số thị trấn lớn. Đó là những hộ nghèo và trung bình trước đây mới giàu lên sau những năm đổi ._.mới, họ có vốn, có lao động, có kinh nghiệm sản xuất kinh doanh lại được cơ chế và các chính sách kinh tế mới của Đảng và Nhà nước khuyến khích làm giàu chính đáng, nên đã đầu tư phát triển ngành nghề, dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống. Những năm gần đây, Hoà Bình cũng đã xuất hiện nhiều gương mặt làm ăn kinh tế giỏi, song, tập trung chủ yếu ở các ngành nghề phi nông nghiệp, hộ giàu lên từ nông nghiệp rất ít cả về số hộ và mức độ giàu.
ở Hoà Bình, số hộ nghèo còn chiếm tỷ lệ cao so với cả nước. Số hộ nghèo tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc ít người. Điều này cũng dễ hiểu vì những vùng này đất đai sấu, chủ yếu là đồi núi trọc, núi đá vôi, đất sỏi đá... Mùa hè nắng nóng và thiếu nước nghiêm trọng, mùa mưa thì lũ lớn vì sông suối nhiều, độ dốc cao, rừng đầu nguồn bị chặt phá nên tốc độ bạc màu, xói đất rất lớn. Hơn nữa, Hoà Bình tập trung nhiều dân tộc ít người, quen sống du canh, du cư và theo những phong tục, tập quán riêng của từng dân tộc. Do vậy, muốn ổn định cuộc sống cho bộ phận này đòi hỏi phải có thời gian và phương pháp hợp lý, không thể nóng vội được.
Mặt khác, hộ nghèo ở Hoà Bình không những nghèo về vật chất mà còn nghèo cả về dân trí và đời sống tinh thần. Tỷ lệ hộ nông thôn có máy thu hình là 35%, máy thu thanh là 70%, hộ dùng điện 55%, đều thấp hơn mức trung bình của cả nước. Tỷ lệ mù chữ trong độ tuổi còn cao, một số vùng có nguy cơ tái mù chữ lớn, số lao động đã qua đào tạo rất ít, thấp xa so với các tỉnh khác. Trình độ hiểu biết, tiếp thu khoa học công nghệ còn rất hạn chế...
Nguyên nhân khiến cho nền kinh tế ở Hoà Bình còn chậm phát triển là: Do diều kiện tự nhiên không thuận lợi, cơ sở hạ tầng thấp kém. Mặt khác, còn do những hạn chế và yếu kém trong khâu tổ chức chỉ đạo và điều hành của các ngành, các cấp. Việc đổi mới hợp tác xã nông nghiệp ở đây còn chậm và lúng túng. Cán bộ còn thiếu và yếu nhất là ở cơ sở, còn nặng tư tưởng ỷ lại trông chờ vào Nhà nước... Do trình độ, năng lực còn yếu kém nên việc tiếp thu và triển khai nghị quyết Trung ương ở các cấp trên địa bàn tỉnh có nhiều khó khăn. Việc giao đất và cấp giấy chúng nhận quyền sử dụng ruộng đất còn chậm so với cả nước.
1.2. Thực trạng đói nghèo:
Từ sau tái lập tỉnh (tháng 10 năm 1991) và từ khi thành lập Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo năm 1994, đặc biệt sau 5 năm (1996 -2000) thực hiện nghị quyết số 02NQ/ TU của tỉnh uỷ Hoà Bình về phương hướng, mục tiêu, biện pháp xoá đói giảm nghèo. Tinh hình kinh tế xã hội tỉnh Hoà Bình đã có nhiều chuyển biến đáng kể, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện, nhiều xóm bản, nhiều hộ gia đình được Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ đã vươn lên xoá đói giảm nghèo, có kinh tế ổn định, thu nhập bình quân đầu người năm sau cao hơn năm trước. Nhưng thực tế, so với mặt bằng của toàn quốc, tỉnh Hoà Bình vẫn là một tỉnh nghèo, kinh tế chậm phát triển, sản xuất còn mang nặng tính tự cung, tự cấp. Hoà Bình có 60 xã đang còn trong tình trạng đói nghèo trong đó có 24 xã đặc biệt khó khăn .Tỷ lệ đói nghèo còn cao (gần 30%). Phần lớn hộ đói nghèo là những hộ ở nông thôn, sản xuất thuần nông, trình độ dân trí thấp. Những hộ nghèo đói chủ yếu là những hộ thiếu vốn và thiếu kiến thức, kinh nghiệm làm ăn. Vùng nghèo, hộ nghèo còn lớn chủ yếu tập trung ở những xã vùng xa, vùng cao và vùng bị thiên tai, mất mùa. Những nơi này cơ sở hạ tầng còn thiếu và yếu, đường giao thông đi lại khó khăn nhất là mùa mưa. Tỷ lệ đói nghèo bình quân ở những vùng này trên 30%, thậm chí có xã lên tới 40-50%. Vấn đề an toàn lương thực luôn là nỗi lo của nhân dân vùng này. Đại bộ phận hộ nghèo chưa có chí làm ăn lớn, một số cơ sở địa phương chưa có định hướng cụ thể về giúp đỡ những hộ đói nghèo như: Xác định nuôi trồng các loại cây, con có giá trị kinh tế chủ lực và lâu dài...
Có thể khái quát tình trạng đói, nghèo ở tỉnh Hoà Bình qua bảng số liệu sau (theo tiêu chí phân loại của Bộ lao động thương binh và xã hội):
Biểu số 01:
Thực trạng đói nghèo tại Tỉnh Hoà Bình
Số TT
Chỉ tiêu
ĐV tính
Năm 1999
Năm 2000
1
Số hộ nghèo đói
hộ
28.608
23.226
Trong đó:
- Hộ nghèo đói khu vực thành thị
hộ
392
243
- Hộ nghèo đói khu vực nông thôn
hộ
28.126
22.983
+ Hộ đói kinh niên
hộ
0
0
+ Hộ đồng bào dân tộc ĐBKK
hộ
1.971
1.971
2
Số người nghèo
người
145.900
145.900
3
Tỷ lệ hộ nghèo đói
%
17,86
14,5
4
Số hộ thoát nghèo
hộ
4.614
5.382
5
Số hộ tái nghèo
hộ
0
3
6
Tổng số xã, phường của tỉnh
xã, ph
215
214
Trong đó:
- Số xã ĐBKK
xã
24
24
- Số xã nghèo
xã
36
36
7
Tỷ lệ đói nghèo của các xã
- Số xã có từ 40% hộ nghèo trở lên
xã
17
17
- Số xã có từ 30-40% hộ nghèo
xã
53
51
- Số xã có từ 20-30% hộ nghèo
xã
78
72
- Số xã có từ 10-20% hộ nghèo
xã
41
79
- Số xã có dưới 10% hộ nghèo
xã
25
26
Thực trạng cơ sở hạ tầng xã nghèo
8
Số xã chưa có đường dân sinh đến TT xã
xã
6
5
- Xã ĐBKK
xã
6
5
9
Số xã thiếu trường học, phòng học
xã
0
0
10
Số xã chưa có trạm y tế
xã
0
0
11
Số xã thiếu hệ thống thủy lợi nhỏ
xã
128
120
- Xã ĐBKK
xã
24
24
12
Số xã có tỷ lệ hộ dùng nước sạch < 50%
xã
154
149
- Xã ĐBKK
xã
24
24
13
Số xã chưa có nguồn điện đến T.T xã
xã
70
52
- Xã ĐBKK
xã
7
7
14
Số xã chưa có chợ xã hoặc trung tâm xã
xã
112
110
- Xã ĐBKK
xã
24
18
Nguồn số liệu: Báo cáo tổng kết 2 năm thực hiện chương trình XĐGN của Sở Lao động - TB & XH Tỉnh Hoà Bình.
1.3. Nguyên nhân và hậu quả của đói nghèo:
* Nguyên nhân đói nghèo :
Theo điều tra cho thấy, các nguyên nhân của đói nghèo có rất nhiều, song có thể tổng hợp thành nhóm các nguyên nhân sau:
Nhóm 1: Nhóm nguyên nhân do môi trường tự nhiên: Khí hậu khắc nghiệt, địa hình phức tạp, xa xôi, thiên tai, dịch bệnh, tai nạn...
Nhóm 2: Nhóm do bản thân người nghèo như: thiếu vốn, thiếu kiến thức, đông con, neo đơn, không có việc làm, mắc tệ nạn xã hội...
Nhóm 3: Nhóm nguyên nhân do cơ chế chính sách: Thiếu các chính sách của Nhà nước để phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ, đào tạo...
Những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng đói nghèo có liên quan với nhau và hầu hết những người nghèo bị tác động bởi những nguyên nhân này, trong đó nguyên nhân do chính bản thân người nghèo chiếm tỷ lệ lớn hơn cả.
* Hậu quả của đói nghèo:
Thứ nhất - Về mặt kinh tế:
Chúng ta đều biết, gia đình là tế bào của Xã hội “Dân có giàu thì nước mới mạnh”, một bộ phận nghèo đói trước hết bản thân họ phải cam chịu khổ cực, thiếu ăn, thiếu mặc và không đóng góp được gì cho cộng đồng, cho xã hội để xây dựng cơ sở hạ tầng phúc lợi công cộng, nhà nước phải lo cứu tế, trợ giúp trong khi đang phải chắt chiu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện dại hoá và đầu tư cho Quốc phòng, an ninh. Vì lẽ đó phải bằng mọi giải pháp đồng bộ, đủ mạnh để sớm giải quyết một bộ phận đang trong cảnh đói nghèo, để cùng đồng tâm cộng lực xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, thực hiện: Dân giàu, nước mạnh - Xã hội công bằng, vân minh.
Thứ hai - Về mặt xã hội:
Bản thân người nghèo, đói là một nguồn gốc trực tiếp dẫn đến sức khoẻ kém, do thiếu các nguồn lực (thời gian và tiền) để được ăn uống đầy đủ, cũng như những hậu quả của gánh nặng công việc, nhất là đối với phụ nữ. Cảnh nghèo cũng có thể trì hoãn việc chẩn đoán bệnh tật và chữa trị sớm khiến cho bệnh nặng thêm, biến chứng hoặc thành mãn tính. Thêm vào đó, trình độ học vấn của người mẹ, người chăm sóc do nghèo đói mà thất học, dẫn đến thiếu năng lực tiếp cận, hiểu biết sử dụng thông tin y tế và phòng ngừa những bệnh thông thường.
Do nghèo đói, con em họ ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, dẫn đến suy dinh dưỡng, bệnh tật dễ thâm nhập, mất khả năng lao động dã khó khăn lại càng khó khăn hơn.
Do nghèo đói, không có điều kiện cho con em ăn học, dẫn đến thiếu kiến thức văn hoá, hạn chế việc tiếp cận khoa học, kỹ thuật. Vì vậy, không biết sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Kể cả trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng, đó là nạn cho vay nặng lãi, bán lúa non, cây quả non ở nông thôn, nạn cờ bạc, số đề, hụi họ, trộm cắp, nghiện hút và các tệ nạn xã hội khác, đó cũng là do đói nghèo mà ra.
Hiện nay, hàng loạt vấn đề xã hội đang được đặt ra, hoặc do hậu quả nặng nề của nhiều năm chiến tranh, của nền kinh tế kém phát triển hoặc mới nảy sinh trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. Bởi thế, không thể cùng một lúc giải quyết mọi vấn đề, trong lúc lao động xã hội còn thấp, tỉnh nghèo, nguồn thu ngân sách còn hạn hẹp, đồng thời lại còn phải tích lũy cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, cần phải đánh giá, phân tích kỹ lưỡng từng giải pháp thích hợp để thực hiện có hiệu quả mục tiêu chương trình XĐGN.
2. Các chương trình hỗ trợ vốn phục vụ chương trình xoá đói giảm nghèo của tỉnh:
Biểu số 02: Tình hình cung ứng vốn phục vụ chương trình XĐGN Tỉnh Hoà Bình giai đoạn 1999 - 2000
Đơn vị: Triệu đồng.
Số TT
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
A
Nguồn vốn từ ngân sách TW
14.016
30.147
1
Hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng xã nghèo
10.024
26.030
2
Định canh định cư, di dân kinh tế mới
3.450
2.880
3
Hỗ trợ đồng bào dân tộc ĐBKK
270
200
4
Hướng dẫn người nghèo cách làm ăn & KN.KL
122
390
5
Nâng cao năng lực CB XĐGN và CB xã
73
420
6
Hỗ trợ khám chữa bệnh cho người nghèo
77
227
B
Hỗ trợ từ nguồn vốn tín dụng
174.044
211.918
1
Tín dụng cho hộ sản xuất từ NHNo
99.241
116.251
2
Hỗ trợ từ tín dụng NHNg
60.918
79.249
3
Từ vốn các tổ chức đoàn thể
2.370
2.370
4
Từ QTD nhân dân
11.515
14.048
C
Hỗ trợ từ các dự án nước ngoài
5.856
4.881
1
Dự án hợp tác XĐGN Việt - Đức
5.369
4.394
2
Dự án chăn nuôi bò sinh sản của tổ chức ADRA
487
487
Tổng cộng
193.916
246.946
Nguồn số liệu: Báo cáo tổng kết 2 năm thực hiện chương trình XĐGN của Sở Lao động - TB & XH Tỉnh Hoà Bình.
* Bài học kinh nghiệm:
So với thời kỳ trước đây, khi mà nông dân nghèo không thể vay vốn ở bất kỳ tổ chức nào (ngoại trừ vay nặng lãi), thì hiện nay, trên địa bàn tỉnh đã có nhiều kênh dẫn vốn đến với người nghèo, giúp người nghèo sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập. Đó là: Vốn Ngân sách, vốn Ngân hàng thương mại, vốn NHNg, vốn các tổ chức tài chính không chính thức...
Thực tiễn cho thấy, các kênh tài trợ đều có kết quả nhất định trong việc tác động gián tiếp và trực tiếp hỗ trợ người nghèo tổ chức sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập. Song, do cơ cấu thị trường tài chính trên, với mục đích người thụ hưởng là hộ nghèo, nhưng có nhiều trường hợp vốn không đến trực tiếp hộ nghèo, thống kê sản phẩm cuối cùng bị trùng lặp, không chính xác... Hoặc trong cùng một địa bàn lại tồn tại nhiều hình thức tài trợ khác nhau với nhiều mức lãi suất khác nhau: Có khi là cấp phát, có khi là cho vay, có khi là lãi suất ưu đãi và có khi là không lãi suất... Trong khi lãi suất cho vay của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn là áp dụng theo lãi suất thị trường. Điều đó làm nảy sinh nhầm lẫn chính sách khác nhau của Nhà nước trong nhân dân, có khi làm nảy sinh tiêu cực, tỵ nạnh, ỉ lại hay người vay một lúc hai, ba nguồn, người không được vay lần nào, vay đó trả đây... Kẻ ít người nhiều dễ gây thắc mắc, khiếu nại, tham ô, lợi dụng vốn ưu dãi để làm ăn bất chính... Hơn thế nữa, các dự án thường trùng lắp nhau về thời gian giải ngân, các hộ nghèo không có kinh nghiệm làm ăn, không có định hướng để sản xuất, trình độ hiểu biết có hạn ... trong khi tỉnh lại chưa có một chính sách hợp lý, đồng bộ để giải quyết các hạn chế đó. Vì thế, cùng lúc có khi là quá nhiều nguồn, gây ứ đọng vốn, nhưng có khi lại không có nguồn nào khiến cho hộ vay có nhu cầu mà không có nguồn để vay hoặc có khi là có nguồn nhưng không biết vay để làm gì. Điều đó làm nảy sinh yêu cầu cần phải thống nhất nguồn tài trợ cho chương trình xoá đói giảm nghèo về thời gian, lãi suất, phương thức, tổ chức tài trợ và tập huấn, hướng dẫn cách làm ăn cho nông dân trước khi giải ngân.
III. THựC TRạNG TíN DụNG CủA NHNo& PTNT TỉNH HOà BìNH VớI CHươNG TRìNH XOá ĐóI GIảM NGHèO CủA TỉNH:
1. Tình hình huy động để cho vay hộ sản xuất thiếu vốn sản xuất kinh doanh:
1.1. Nguồn vốn:
Cuối năm 1991, cùng với việc tái lập tỉnh, NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình được thành lập trên cơ sở của Ngân hàng Công thương thị xã và 9 Ngân hàng nông nghiệp huyện. Với nguồn vốn ban đầu còn nhỏ bé và hoạt động trong cơ chế thị trường cùng phương châm “Đi vay để cho vay”, NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình đã thực hiện việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn trong nước. Các hình thức huy động không chỉ bó hẹp trong một vài hình thức huy động truyền thống, mà chủ động đưa ra nhiều hình thức gửi tiền và đầu tư khác nhau như tiết kiệm có kỳ hạn, không kỳ hạn, kỳ phiếu, trái phiếu, với nhiều kỳ hạn khác nhau: 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm..., các mức lãi suất khác nhau và các hình thức trả lãi cũng khác nhau... Nhờ đó mà NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình đã huy động được một khối lượng vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế để đáp ứng nhu cầu vốn cần thiết cho phần đông số dân cư đang khát vốn của tỉnh.
Biểu số 03 :
Nguồn vốn huy động trên địa bàn thời kỳ 1999 - 2000
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Tăng (+), giảm (-)
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
1. Tổng nguồn vốn huy động
240.010
100
354.533
100
+ 114.523
+ 47,7
a. Loại không kỳ hạn
105.494
44
232.803
65
+ 127.309
+120,7
b. Loại có kỳ hạn < 12 tháng
118.897
50
121.490
34
+ 2.593
+2,2
c. Loại có kỳ hạn > 12 tháng
15.619
6
240
1
- 15.379
-98
2. Lãi suất bình quân tháng (%)
0,59
0,57
-0,02
Nguồn số liệu : Báo cáo tổng kết thường niên của NHNo & PTNT Tỉnh Hoà Bình.
Từ năm 1991 đến nay, nguồn vốn huy động của NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình vẫn không ngừng tăng trưởng vững chắc với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 10-12%. Đặc biệt trong 2 năm 1999 - 2000 nguồn vốn huy động của NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình tăng mạnh: Từ 240.010 triệu đồng năm 1999 lên 354.533 triệu đồng năm 2000, với mức tăng là 114.523 triệu đồng và tốc độ tăng là 47,7%.
Trong đó :
- Nguồn vốn huy động không kỳ hạn năm 2000 là 232.803 triệu đồng, tăng so với năm 1999 là 127.309 triệu đồng, đạt tốc độ tăng 120,7%.
- Nguồn vốn có kỳ hạn dưới 12 tháng năm 2000 là 121.490 triệu đồng, tăng so với năm 1999 là 2.593.000 triệu đồng, đạt tốc độ tăng 2,2%.
- Nguồn vốn có kỳ hạn trên 12 tháng năm 2000 là 240 triệu đồng, giảm so với năm 1999 là 15.379 triệu đồng, giảm 98%.
Với nguồn vốn tăng trưởng như trên NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình đã có điều kiện để đẩy mạnh cho vay, đặc biệt là cho vay hộ sản xuất, từ đó góp phần tích cực vào chương trình xoá đói giảm nghèo của tỉnh.
Xét về cơ cấu nguồn vốn ta thấy rằng :
Qua 2 năm nguồn vốn huy động tăng trưởng chủ yếu tập trungvào nguồn vốn không kỳ hạn do đó mà nguồn vốn không kỳ hạn chiếm tỷ trọng chủ yếu từ 44% năm 1999 lên 65% tổng nguồn vốn huy động năm 2000.
Nguồn vốn có kỳ hạn dưới 12 tháng chiếm tỷ trọng từ 50% năm 1999 giảm xuống 34% tổng nguồn vốn huy động năm 2000.
Nguồn vốn có kỳ hạn trên 12 tháng chiếm tỷ trọng từ 6% năm 1999 xuống 1% tổng nguồn vốn huy động năm 2000.
Với cơ cấu nguồn vốn như trên, NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình có điều kiện để giảm thấp chi phí đầu vào nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu đầu tư giữa cho vay ngắn hạn và cho vay trung, dài hạn. Đặc biệt là cơ cấu đầu tư đối với cho vay hộ sản xuất.
l.2. Cho vay hộ sản xuất từ nguồn vốn huy động của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hoà Bình:
Thực hiện chủ trương cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và kinh tế nông thôn theo quyết định 67/ QĐ-TTg ngày 30/ 3/ 1999 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn mà các văn bản trước đó là nghị quyết 10 của BCT năm 1998, nghị định 14/ CT ngày 2/ 3/1993 về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông - lâm - ngư - diêm nghiệp và kinh tế nông thôn. Với nguồn vốn huy động được, NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình đã mở rộng cho vay các thành phần kinh tế trên địa bàn. Đối với kinh tế nông nghiệp, đã đầu tư vốn cho hộ sản xuất 100% số xã trong tỉnh, với số lượt hộ vay hàng năm trên 15 ngàn hộ. Vốn đầu tư chủ yếu phục vụ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cho vay hộ sản xuất mua cây, con giống, phân bón, thuốc phòng trừ sâu bệnh, tăng diện tích kết hợp thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật nuôi. Mở rộng diện tích cây trồng các loại như cam, quýt, mơ, mai, cây lấy củ... trồng rừng, đặc biệt là cho vay vốn để phát triển vùng nguyên liệu cho chế biến như mía đường, chè, vùng kinh tế hàng hoá như dưa chuột, dưa hấu. Phát triển chăn nuôi trâu bò đàn, lợn, gia cầm và nuôi cá lồng, cá ao... Cho vay mở mang ngành nghề, phát triển thủ công nghiệp nhỏ, phương tiện vận tải, dịch vụ thương mại trong khu vực nông thôn, thị trấn, thị xã, tạo công ăn việc làm, nhiều mô hình kinh tế VACR được hình thành và phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn của tỉnh đã được thay da đổi thịt, góp phần thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo ở nông thôn.
Biểu số 04 :
Tình hình cho vay hộ sản xuất thời kỳ 1999 - 2000
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Tăng (+), giảm (-)
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
1. Tổng dư nợ
205.666
100
224.238
100
+18.572
+9
Trong đó :
* Dự nợ cho vay hộ sản xuất
104.610
100
120.654
100
+ 16.044
+15,3
- Dư nợ cho vay giảm lãi theo CS
7.803
7,5
40.633
33,7
+ 32.830
+420
Quá hạn
2.877
2,75
1.437
1,2
- 1.440
-50
Phân theo loại cho vay :
- Dư nợ cho vay ngắn hạn
85.361
82
99.542
82,5
+ 14.181
+16,6
+ Dư nợ cho vay giảm lãi theo CS
6.233
7,3
39.196
39,0
+ 32.963
+528,8
- Dư nợ cho vay trung hạn
19.249
18
21.103
17,5
+ 1.854
+9,6
+ Dư nợ cho vay giảm lãi theo CS
1.570
8,2
4.238
20,0
+ 2.668
+169,9
2. Lãi suất dư nợ cho vay b.quân
1,09
0,9
Nguồn số liệu: Báo cáo thường niên của NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình.
Tổng dư nợ năm 2000 là 224.238 triệu đồng, tăng so với năm 1999 là 18.572 triệu đồng, đạt tốc độ tăng 9%, tăng chủ yếu vào cho vay hộ sản xuất. Cụ thể:
Dư nợ cho vay hộ sản xuất năm 2000 là 120.654 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 53,8% trong tổng dư nợ, tăng so với năm 1999 là 16.044 triệu đồng và đạt tốc độ tăng 15,3%. Đặc biệt dư nợ cho vay các xã thuộc khu vực II, III (theo phân loại của Uỷ ban Dân tộc và miền núi đó là những khu vực khó khăn và đặc biệt khó khăn - được giảm lãi theo chính sách) có tốc độ tăng trưởng nhanh. Dư nợ cho vay năm 2000 là 40.633 triệu đồng, tăng so với năm 1999 là 32.830 triệu đồng (bằng 420%), chiếm tỷ trọng trong tổng dư nợ từ 7,5% năm 1999 lên 33,7% năm 2000.
Từ cơ cấu nguồn vốn như đã phân tích ở trên đã ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu đầu tư của NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình, đặc biệt là cơ cấu đầu tư cho vay hộ sản xuất.
Nợ ngắn hạn cho vay hộ sản xuất năm 2000 là 99.542 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 82,5% trong tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất, tăng so với năm 1999 là 14.181 triệu đồng và bằng 16,6%, trong đó dư nợ cho vay giảm lãi theo chính sách là 39.196 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 39% tổng dư nợ ngắn hạn hộ sản xuất, tăng so với năm 1999 là 32.963 triệu đồng, bằng 528,8%.
Nợ trung hạn cho vay hộ sản xuất năm 2000 là 21.103 triệu đồng, chỉ chiếm tỷ trọng 17,5% tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất, tăng so với năm 1999 là 1.854 triệu đồng và bằng 9,6%, trong đó dư nợ cho vay giảm lãi theo chính sách là 4.238 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 20% trong tổng dư nợ trung hạn hộ sản xuất, tăng so với năm 1999 là 2.668 triệu đồng, bằng 169,9%.
Vốn Ngân hàng đã giúp các hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao mạnh dạn vay vốn, góp phần khắc phục khó khăn trong sản xuất nhằm thoát khỏi tình trạng sản xuất tự cung tự cấp, dần dần tiếp cận với cơ chế thị trường.
Cơ chế cho vay không ngừng được hoàn thiện phù hợp với điều kiện, trình độ của nông dân nói chung và nông dân nghèo nói riêng để họ dễ dàng tiếp cận với đồng vốn của Ngân hàng.
1.3. Những tồn tại và nguyên nhân trong công tác tín dụng đối với hộ sản xuất ở tỉnh Hoà Bình:
* Về nguồn vốn:
- Tuy nguồn vốn huy động tăng qua các năm, nhưng nguồn vốn thường tăng không ổn định và có chi phí bình quân đầu vào cao. Điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng đầu tư của Ngân hàng vì: Là Ngân hàng thương mại, NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình phải tính toán mức lãi suất cho vay (đầu ra) sao cho đủ bù đắp lãi suất đầu vào, chi phí nghiệp vụ Ngân hàng và đảm bảo có lãi. Vì vậy, lãi suất cho vay đối với hộ nông dân nói chung, hộ nông dân nghèo nói riêng là quá cao so với suất lợi nhuận mà người nông dân thu được. Ngược lại, nếu NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình cho vay với mức lãi suất vừa phải (hộ nông dân có thể chịu đựng được) thì chênh lệch đầu ra đầu vào thấp, không đủ bù đắp chi phí nghiệp vụ. Đây là điều trân trở lớn nhất không chỉ của riêng NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình và của hộ nông dân nghèo mà của cả các cấp bộ, ngành, của Chính phủ và đó cũng là một trong những nguyên nhân trực tiếp chưa mở rộng được tín dụng đối với hộ nông dân nghèo, nhất là ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao và vùng tập trung dân tộc ít người... gây ra tình trạng ứ đọng vốn ở NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình.
- Nguồn vốn cho vay hộ nông dân của NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình chủ yếu là nguồn vốn huy động ngắn hạn, từ đó hạn chế việc đầu tư trung, dài hạn cho hộ nông dân nghèo (dư nợ cho vay trung hạn hộ sản xuất tính đến 31/12/2000 là 21.103 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 17,5% tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất).
- Chưa khai thác hết tiềm năng vốn trong trong dân cũng như của các tổ chức kinh tế, chưa có các biện pháp hữu hiệu để khơi tăng nguồn vốn, các thể thức huy dộng còn nghèo nàn, đòn bẩy lãi suất chưa phát huy được hiệu quả, còn cứng nhắc trong khâu điều chỉnh lãi suất...
- Chưa có chiến lược huy động vốn lâu dài, mới chỉ tập trung vào nhu cầu trước mắt.
Nguyên nhân của những tồn tại đó là: Chưa xây dựng được chính sách huy động phù hợp với đặc điểm riêng có ở địa bàn nông thôn miền núi, chưa có biện pháp động viên, khuyến khích nhân dân tham gia gửi tiền tiết kiệm, mở tài khoản tại Ngân hàng, chậm đổi mới phương thức thanh toán qua Ngân hàng, cán bộ vẫn quen lề lối làm ăn thời bao cấp, cứng nhắc, bảo thủ... và quan trọng hơn là chưa nhận thức được tầm quan trọng của chiến lược huy động vốn ngày nay. Hơn nữa Nhà nước cũng chưa xây dựng được cơ chế huy động vốn từ các doanh nghiệp dể đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn thông qua hệ thống NHNo & PTNT.
* Về cho vay:
Có thể nói, cho vay trực tiếp hộ sản xuất không những là mốc quan trọng trong quá trình đổi mới Ngân hàng, mà còn được đánh giá như một cuộc cách mạng trong nông nghiệp, có ý nghĩa rất lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Tuy vậy, tín dụng đối với hộ sản xuất ở Hoà Bình còn một số hạn chế.
Một là - Không mở rộng được tín dụng:
Tồn tại lớn nhất và quan trọng nhất trong hoạt động cho vay của NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình là tốc độ tăng trưởng dư nợ chậm, gần như chững lại ở một vài năm gần đây trong khi nhu cầu vốn cho hộ sản xuất còn rất lớn. Nguyên nhân của tồn tại này là:
+ Chính quyền các cấp chưa xây dựng được chiến lược phát triển kinh tế cho địa phương mình, chưa phát huy và khai thác được những lợi thế của tỉnh, để từ đó có huớng đầu tư đúng đắn và hiệu quả, mặc dù ở nông thôn nông dân rất cần vốn để phát triển sản xuất, nâng cao mức sống, còn vốn Ngân hàng thì đang tồn đọng, không cho vay được. Giải quyết vấn đề này đòi hỏi chính quyền các cấp, các nhà quản lý cũng như ngành Ngân hàng phải chủ động tìm ra con đường đi cho dân, hướng đầu tư vào vào những loại cây con gì , ngành nghề gì để đem lại hiệu quả kinh tế cao và lâu bền nhất.
Thực tế cho thấy, nông dân được vay vốn của Ngân hàng và các nguồn khác của Nhà nước đã khó, nhưng khi đã vay được thì việc sử dụng vốn vay cũng không dễ dàng gì. Do đó, nhiều nông dân không dám vay vốn vì nếu được vay rồi không biết sử dụng vào sản xuất cái gì để có lãi. Tình trạng đó do nhiều nguyên nhân: Trình độ dân trí thấp, không đủ khả năng đối phó, năng động với sự thay đổi thường xuyên hoặc bất thường của cơ chế thị trường; Thiếu khả năng, kinh nghiệm tổ chức sản xuất, tính toán lỗ lãi, quản lý chi tiêu gia đình...; Vì sự chỉ đạo của cấp trên không sát với thực tế mang tính chủ quan duy y chí thiếu thực tiễn, thiếu khoa học. Và có lẽ quan trọng hơn cả là nguyên nhân do nông dân thiếu hiểu biết về khoa học kỹ thuật, thiếu kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp lại thiếu hướng dẫn, hỗ trợ của các ngành chức năng... nên nông dân đã gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn, sử dụng vốn, phát huy nội lực của tiền vốn và các tiềm năng.
+ Vấn đề tiêu thụ sản phẩm: Thực tế trong mấy năm qua nhờ chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, Hoà Bình cũng đã hình thành nên một số vùng chuyên canh như mía đường, chè, dưa hấu, mận, mơ, mai... Song, cùng với nó lại bắt đầu xuất hiện một khó khăn mới đó là vấn đề tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho dân. Đây là vấn đề bức bách đòi hỏi cần có sự quan tâm của các cấp lãnh đạo địa phương, vì không giải quyết trọn vẹn vấn đề này sẽ dẫn đến tình trạng buộc dân phải chuyển hướng cây trồng khác hoặc quay về với sản xuất tự cung tự cấp hoặc bỏ hoang ruộng đất đi làm nghề khác... Thực tế trong hai năm qua (1997-1998) nhiều hộ kinh tế ở một số địa phương trong tỉnh phất lên nhanh chóng nhờ chuyển đổi cơ cấu kinh tế nhưng cũng nhiều hộ lại lụi bại đi từ chuyển đổi. Nguyên nhân chủ yếu là các hộ không nắm được đầu ra của sản phẩm hàng hoá do mình sản suất (chủ yếu là sản phẩm hàng hoá nông nghiệp không chế biến được) như một số hộ trồng dưa hấu, mơ, mai... thiếu các phương thức thu mua và chế biến nông sản cho dân.
+ Thiếu biện pháp tổ chức thực hiện các chương trình kinh tế như việc xây dựng các mô hình kinh tế hộ phù hợp với cơ chế mới, khuyến khích kinh tế hộ phát triển theo mô hình kinh tế VACR, mô hình trang trại nông - lâm kết hợp, đổi mới hợp tác xã theo tinh thần nghị quyết Đại hội VIII của Đảng còn chậm. Điều này cũng ảnh hưởng đến khả năng và quy mô đầu tư của Ngân hàng.
+ Việc giao đất, giao rừng còn chậm khiến cho dân chưa dám mạnh dạn đầu tư vì sợ chế độ thay đổi.
+ Cơ sở hạ tầng nông thôn thấp kém, hiện tại còn 11 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xã, chợ nông thôn nhiều nơi chưa có, nhiều xã chưa có hệ thống điện. Vì thế, dân không có điều kiện dể trao đổi hàng hoá và sử dụng điện làm thuỷ lợi, dịch vụ, chế biến...
+ Sản xuất của hộ nông dân ở tỉnh Hoà Bình vẫn còn mang nặng tính tự cung tự cấp, trình độ và kỹ năng sản xuất lạc hậu, năng suất lao động thấp, hộ vay vốn không có tài sản thế chấp mà chủ yếu áp dụng hình thức tín chấp. Trong khi đó, Nhà nước chưa xác định được một hành lang pháp lý rõ ràng để ràng buộc người vay với Ngân hàng trong việc cung ứng tín dụng bằng biện pháp tín chấp, không có bảo đảm. Từ đó làm tăng độ rủi ro trong cho vay hộ không có tài sản thế chấp. Mặt khác, sản xuất nông nghiệp là một ngành sản xuất có mức rủi ro lớn, khả năng thu hồi vốn thấp, quá trình sản xuất phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Trong điều kiện thời tiết không thuận lợi, dịch bệnh phát sinh, giá cả không ổn định... thì khả năng trả nợ của hộ nông dân vay vốn không đảm bảo. Điều đó làm ảnh hưởng đến thu nhập của Ngân hàng, giảm vốn tích luỹ, vòng quay vốn chậm, hạn chế khả năng tái đầu tư.
+ Chi phí cho hộ nông dân vay lớn: Do món vay nhỏ, lẻ; địa bàn rộng lớn; điều kiện giao thông khó khăn trở ngại và như vậy không những làm tăng chi phí Ngân hàng mà còn hạn chế việc thẩm định và kiểm tra sử dụng vốn vay của cán bộ tín dụng, từ đó dễ dẫn đến rủi ro trong đầu tư.
+ Tồn tại cùng lúc nhiều phương thức đầu tư cho nông thôn với nhiều mức lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay hộ sản xuất của Ngân hàng nông nghiệp. Từ đó mà có sự so sánh về lãi suất.
+ Chưa đa dạng hóa được các hình thức chuyển tải vốn đến nông dân, chủ yếu là cho vay trực tiếp đến hộ, cán bộ tín dụng phải thực hiện một khối lượng công việc và quản lý một số lượng khách hàng lớn. Hiện nay, số cán bộ được bố trí làm công tác tín dụng của toàn tỉnh là 139 người, chiếm 41% tổng số cán bộ viên chức trong đơn vị (chưa đáp ứng được yêu cầu của NHNo Việt Nam). Bình quân một cán bộ tín dụng cho vay hộ sản xuất quản lý 680 hộ vay, với mức dư nợ xấp xỉ 2 tỷ đồng, đặc biệt có nhiều cán bộ phải quản lý từ 1.200 - 1.700 hộ vay, với mức dư nợ trên 2,5 tỷ đồng. Với lực lượng cán bộ tín dụng được bố trí như hiện nay gặp rất nhiều khó khăn trong việc mở rộng tín dụng.
Hai là - Chất lượng tín dụng chưa cao:
Nợ quá hạn tuy có giảm qua các năm, nhưng vẫn còn cao so với định hướng của NHNo Việt Nam. Trong đó nợ quá hạn không có khả năng thu hồi chiếm 57% tổng số nợ quá hạn, mặc dù Ngân hàng vẫn đang nắm trong tay tài sản thế chấp của họ nhưng khó có thể phát mại để thu hồi nợ. Nguyên nhân của tình trạng này là:
Thứ nhất: Việc chấp hành các điều luật và thể lệ tín dụng ngắn hạn, trung - dài hạn chưa nghiêm, còn vi phạm nguyên tắc, điều kiện, đối tượng cho vay... Cụ thể như cho vay trong trường hợp vốn tự có tham gia quá nhỏ, thực hiện thủ tục thế chấp tài sản sơ sài, cho vay không đúng đối tượng, chất lượng thẩm định dự án kém...
Thứ hai: Chưa phản ánh đúng thực chất của các khoản nợ do việc xác định thời hạn cho vay, gia hạn nợ, chuyển nợ quá hạn... Tình trạng cho vay mới trả nợ cũ còn diễn ra phổ biến ở nhiều Ngân hàng cơ sở.
Thứ ba: Việc chấp hành quy trì n tín dụng chưa tốt, chất lượng thẩm định các dự án còn thấp. Việc kiểm tra, kiểm soát các khoản tiền vay của khách hàng chủ yếu giao cho cán bộ tín dụng trực tiếp theo dõi, kiểm tra, thu hồi nợ, chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các bộ phận trong bản thân từng đơn vị để thẩm định, giám sát khách hàng vay. Mặt khác, trong điều kiện địa bàn hoạt động rộng, mỗi cán bộ tín dụng quản lý khối lượng khách hàng lớn nên việc thẩm định còn sơ sài và cũng không thể nắm sát sao tình hình biến động trong quá trình sử dụng tiền vay của khách hàng. Những điều đó cùng với sự bất cập về trình độ cán bộ đã làm tăng thêm khả năng rủi ro do không thu hồi được nợ.
Thứ tư: Vai trò chủ động kiểm tra, kiểm soát, tự phát hiện của các Ngân hàng cơ sở làm chưa thường xuyên, chưa sâu sát và chưa nghiêm túc kể cả mặt nội dung và phương pháp cũng như các biện pháp xử lý. Chất lượng kiểm tra nhất là phúc tra, sửa chữa sau thanh tra chưa cao, xử lý chưa kiên quyết và chưa dứt điểm.
Ngoài một số nguyên nhân cơ bản trên, còn m._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0225.doc