Tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương

Lời nói đầu Cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, hệ thống các ngân hàng thương mại (NHTM) ở Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, lớn mạnh về mọi mặt, kể cả số lượng, qui mô và chất lượng. Trong những năm qua, hoạt động ngân hàng nước ta đã góp phần tích cực huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư cho lĩnh vực sản xuất phát triển. Như vậy hệ thống ngân hàng thương mại thực sự là ngành tiên phong trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, đóng góp to lớn vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại h

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1196 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
óa nền kinh tế xã hội ở nước ta. Hiện nay ở nước ta thị trường chứng khoán chưa phải là kênh dẫn vốn hiệu quả và chủ yếu, vậy nên vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế vẫn phải dựa chủ yếu vào nguồn vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại với lợi thế về mạng lưới, đối tượng khách hàng của các ngân hàng thương mại không phải chỉ là các công ty, doanh nghiệp mà còn có thành phần tư nhân hộ gia đình. Một mặt họ là những người cho ngân hàng vay tiền, một mặt họ cũng chính là những người vay tiền của hệ thống NHTM. Do vậy hệ thống NHTM trở thành kênh cung ứng vốn hữu hiệu cho nền kinh tế trong gian đoạn hiện nay. Từ đó vấn đề nghiên cứu chất lượng hoạt động tín dụng thật sự trở thành vấn đề đang rất được quan tâm. Do phạm trù nghiên cứu chất lượng tín dụng của hệ thống ngân hàng rất rộng nên với thời gian và năng lực có hạn, em chỉ tập trung vào nghiên cứu vấn đề chất lượng tín dụng ngắn hạn. Qua đó tìm hiểu thực trạng, những kết quả đạt được và những hạn chế tồn tại. Từ đó để tìm ra những nguyên nhân của hạn chế đó cũng như tìm ra những biện pháp để khắc phục hạn chế đó. Sau một thời gian học tập và nghiên cứu cùng với việc được xem xét, tìm hiểu, quan sát tình hình thực tế tại Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương trong thời gian thực tập vừa qua. Đặc biệt với sự giúp đỡ, tạo điều kiện của ban lãnh đạo ngân hàng, các cô chú, anh chị ở các phòng ban đã giúp em hoàn thành bản chuyên đề tốt nghiệp với đề tài “Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương” Em xin gửi lời cám ơn tới các thầy cô giáo trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân - những người đã cung cấp cơ sở kiến thức về kinh tế và xã hội, Tới ThS. Phan Hữu Nghị, người đã trực tiếp hướng dẫn để em có thể hoàn thành bản đề án tốt nghiệp này. Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương: - Chương I: Tín dụng NHTM và chất lượng tín dụng ngắn hạn NHTM trong nền kinh tế thị trường. - Chương II: Thực trạng chất lượng hoạt động tính dụng ngắn hạn tại Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương. - Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương. Chương I Tín dụng Ngân hàng thương mại và chất lượng tín dụng ngắn hạn Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường 1.1. Tín dụng ngân hàng thương mại. 1.1.1. Lịch sử ra đời và quá trình phát triển tín dụng NHTM. Lịch sử ra đời và phát triển của tín dụng gắn liền với lịch sử phát triển của phương thức sản xuất hàng hóa. Hình thức sơ khai nhất của tín dụng là tín dụng nặng lãi. Người đi vay sẽ không những phải trả vốn mà còn phải trả phần lãi rất lớn cho người cho vay. Hình thức này chỉ tồn tại ở xã hội trước tư bản và mục đích của nó là để duy trì cuộc sống cho những người cần vay. Đến phương thức tư bản chủ nghĩa tín dụng nặng lãi không còn phù hợp. Sản xuất phát triển, đi vay không những để cho tiêu dùng mà còn để phát triển sản xuất. Lãi suất cho vay cũng phải thấp hơn do có nhiều người cho vay hơn và để cho nhà tư bản đi vay đảm bảo việc sản xuất có lợi nhuận. Vay mượn không chỉ đơn thuần là tiền mà còn là các máy móc thiết bị, tư liệu sản xuất... Từ đó lãi suất không còn do người cho vay đơn phương áp đặt nữa mà phải có sự thỏa thuận giữa người vay và người cho vay. Từ đó ta có thể hiểu tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả. Đó là quan hệ giữa hai bên trong đó một bên chu cấp tiền hay hàng hóa, dịch vụ cho bên kia và bên kia cam kết sẽ thanh toán lại trong tương lai gồm cả khoản nợ gốc và khoản lãi. Cùng với sự phát triển của sản xuất và hàng hóa, tín dụng ngày càng có những phát triển cả về nội dung và hình thức. Và hình thái phát triển cao nhất là tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng là một quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tác hoàn trả (cả vốn và lãi) sau một thời gian nhất định. Tín dụng ngân hàng đã thực sự mở rộng các mối quan hệ, thay thế quan hệ giữa các cá nhân với nhau bằng mối quan hệ giữa các cá nhân với tổ chức, giữa các tổ chức với nhau và cao nhất là quan hệ tín dụng quốc tế. Tuy tín dụng ngân hàng là hình thức phát triển cao của quan hệ tín dụng nhưng nó vẫn giữ nguyên được những bản chất ban đầu của quan hệ tín dụng. Vẫn là quan hệ vay mượn lẫn nhau theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi vào một thời gian nhất định trong tương lai nhưng trong đó một bên là ngân hàng thương mại và một bên là các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị xã hội hay là tổ chức tín dụng hoặc ngân hàng thương mại khác. 1.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngắn hạn ngân hàng thương mại. Tín dụng ngân hàng là một hình thức phát triển cao của tín dụng. Nó cơ bản giữ được những bản chất chung của tín dụng, ngoài ra còn có một số đặc điểm sau: Rủi ro tín dụng ngắn hạn thấp. Do khoản vay chỉ cung cấp trong thời gian ngắn vì vậy ít chịu ảnh hưởng của sự biến động không thể lường trước của nền kinh tế như các khoản tín dụng trung và dài hạn. Ngoài ra, các khoản vay được cung cấp cho các đơn vị sản xuất kinh doanh theo hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá, dựa trên tài sản bảo đảm, bảo lãnh chắc chắn sẽ có khoản thu bù đắp trong tương lai vì vậy rủi ro mang đến thường thấp. Lãi suất thấp: lãi suất cho vay được hiểu là khoản chi phí người đi vay trả cho nhu cầu sử dụng tiền tạm thời của người khác. Chính vì rủi ro mang lại của khoản vay thường không cao do đó lãi suất người đi vay phải trả thông thường nhỏ. Vốn tín dụng ngắn hạn mà ngân hàng cấp cho khách hàng thường được khách hàng dùng để mua nguyên vật liệu, trả lương, bổ xung vốn lưu động nên số vốn vay thường là nhỏ. Thời hạn thu hồi vốn nhanh, số vòng quay vốn tín dụng nhiều: Vốn tín dụng ngắn hạn thường được sử dụng để bù đắp những thiếu hụt trong ngắn hạn như đảm bảo cân bằng ngân quỹ, đối phó với chênh lệch thu chi trong ngắn hạn... Thông thường những thiếu hụt này chỉ mang tính tạm thời hay mang tính thời điểm, sau đó khoản thiếu hụt này sẽ sớm thu lại dưới hình thái tiền tệ vì vậy thời gian thu hồi vốn sẽ nhanh. Hình thức phong phú: Để đáp ứng nhu cầu hết sức đa dạng của khách hàng, phân tán rủi ro, đồng thời để tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường tín dụng, các ngân hàng thương mại không ngừng phát triển các hình thức tín dụng ngắn hạn của mình. Điều đó đã làm cho các hình thức tín dụng ngắn hạn rất phong phú như: nghiệp vụ ứng trước, nghiệp vụ thấu chi, nghiệp vụ chiết khấu.... 1.2. Chất lượng Tín dụng ngắn hạn Ngân hàng thương mại. Trong quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng, dù môi trường kinh doanh có thay đổi nhưng hoạt động tín dụng vẫn luôn là hoạt động cơ bản, chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ hoạt động của các ngân hàng thương mại và là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng thương mại. Cùng với quá trình phát triển của thị trường, hoạt động tín dụng ngày càng được mở rộng và phát triển đa dạng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Do đó quan hệ tín dụng cũng được mở rộng cả về đối tượng và quy mô làm cho hoạt động tín dụng của NHTM càng trở nên khó khăn. Để hệ thống ngân hàng thương mại thể tồn tại và đứng vững trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt cũng như để phục vụ tốt hơn cho nền kinh tế thì các NHTM phải nâng cao chất lượng các khoản tín dụng. 1.2.1. Khái niệm về chất lượng tín dụng ngắn hạn. ở phần trên ta đã có khái niệm chung về “Tín dụng ngân hàng thương mại”. Căn cứ vào thời hạn của khoản tín dụng- kể từ khi cấp tín dụng đến thời điểm hoàn trả ta có thể chia thành hai hình thức tín dụng. Đó là tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung, dài hạn. Do khả năng và thời gian có hạn nên trong bản Đề án tốt nghiệp này em chỉ đề cập đến vấn đề “Tín dụng ngắn hạn”. ở mỗi quốc gia, thời hạn để xác định khoản tín dụng ngắn hạn là khác nhau. ở Mĩ người ta quan niệm những khoản tín dụng ngắn hạn là những khoản cho vay có thời hạn dưới 3 năm. Nhưng ở Việt Nam, theo Quyết định số 324 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tín dụng ngắn hạn là hình thức mà tổ chức tín dụng cho khách hàng vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống. Thời hạn đối với tín dụng ngắn hạn được tổ chức tín dụng khách hàng thoả thuận tối đa là 12 tháng, được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng. Từ đó ta có thể hiểu chất lượng tín dụng ngắn hạn là sự đáp ứng yêu cầu trước mắt (thường là một năm) của khách hàng phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của NHTM. Để có được chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng ngắn hạn này phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở sự tin cậy và uy tín. Chất lượng tín dụng ngắn hạn được thể hiện: Đối với khách hàng: tín dụng ngắn hạn phải phù hợp với mục đích sử dụng trong ngắn hạn của khách hàng, với lãi suất và kì hạn hợp lý, thủ tục đơn giản, nhưng vẫn đảm bảo được các nguyên tắc tín dụng. Đối với các ngân hàng thương mại: phạm vi, mức độ, giới hạn của khoản tín dụng ngắn hạn phải phù hợp với thực lực của ngân hàng, đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường, cũng như đảm bảo được nguyên tắc hoàn trả đúng thời hạn và có lãi. Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa, góp phần giải quyết công ăn việc làm, thúc đẩy quá trình tập trung và tích tụ sản xuất, giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng với tăng trưởng kinh tế. Vậy ta phải hiểu thế nào là khoản tín dụng ngắn hạn có chất lượng cao ? Xét trên khía cạnh nền kinh tế, căn cứ vào sự thể hiện của chất lượng tín dụng ta có thể hiểu khoản tín dụng ngắn hạn có chất lượng cao là khi khoản vốn huy động được ngân hàng sử dụng đúng mục đích, tạo được số tiền lớn, ngân hàng thu được cả vốn và lãi. Còn doanh nghiệp vừa trả được nợ ngân hàng đúng hạn vừa bù đắp được chi phí và có lợi nhuận. Như vậy, ngân hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh tế, vừa đem lại hiệu quả xã hội. Và ngược lại một khoản tín dụng ngắn hạn không có chất lượng, hay chất lượng không cao là khi khách hàng không sử dụng khoản tín dụng đúng theo mục đích ban đầu, không tạo ra số tiền để trả lãi, gốc đúng thời hạn cho ngân hàng, không đem lại hiệu quả kinh tế xã hội nói chung. Hiểu đúng bản chất, phân tích, đánh giá, xác định chính xác các nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn hạn sẽ giúp ngân hàng tìm được các biện pháp quản lý thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường. 1.2.2. Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường thì hoạt động tín dụng là kênh dẫn vốn chủ yếu để thúc đẩy tiến trình phát triển của cả xã hội. Với đòi hỏi nền kinh tế xã hội phát triển ngày càng mạnh mẽ thì vấn đề chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng ngắn hạn nói riêng luôn và sẽ dành được sự quan tâm lớn. 1.2.2.1. Đối với nền kinh tế xã hội: Tín dụng ngắn hạn và nền kinh tế xã hội có mối quan hệ mật thiết hai chiều. Tín dụng ngắn hạn góp phần làm lành mạnh hóa nền kinh tế xã hội, tạo điều kiện cho kinh tế xã hội phát triển, ngược lại để hoạt động tín dụng ngắn hạn có chất lượng thì đỏi hỏi nền kinh tế xã hội phải ổn định, phải có cơ chế phù hợp, có sự phối hợp nhịp nhàng và hiệu quả giữa các cấp các ngành. - Chất lượng tín dụng ngắn hạn được bảo đảm và nâng cao là điều kiện cho Ngân hàng làm tốt vai trò trung gian tín dụng- cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư- trong nền kinh tế, Từ đó điều hoà nguồn vốn cho đầu tư ngắn hạn hợp lý, làm xã hội bớt được lãng phí ở những nơi thừa vốn, giảm được khó khăn cho những nơi thiếu vốn. - Chất lượng tín dụng ngắn hạn được nâng cao cũng sẽ tạo điều kiện để NHTM làm tốt vai trò trung tâm thanh toán của nền kinh tế thị trường. Vì khi chất lượng tăng lên nghĩa là các khoản tín dụng được thực hiện đúng theo thời hạn, do đó số vòng quay của vốn tín dụng tăng lên với một lượng tiền trong lưu thông là không đổi. Góp phần mở rộng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Qua đó tiết kiệm chi phí phát hành tiền. - Tín dụng là một trong những công cụ để Đảng và Nhà nước thực hiện các chủ trương chính sách về phát triển kinh tế xã hội theo ngành, lĩnh vực. Nhờ chất lượng tín dụng nâng cao nghĩa là sự phân tích, đánh giá khả năng phát triển của các đối tượng để ra các quyết định đầu tư đúng đắn để khai thác khả năng tiềm tàng của tài nguyên, lao động, đảm bảo cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển cân đối giữa các ngành nghề, các khu vực trong cả nước. - Nâng cao chất lượng tín dụng còn góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như ta đã biết về khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại. Đó là thông qua việc cho vay chuyển khoản, thanh toán không dùng tiền mặt, các ngân hàng thương mại có khả năng mở rộng số tiền ghi sổ lên rất nhiều lần so với số tiền thực tế mà Nhà nước bỏ vào lưu thông. Như vậy khi chất lượng tín dụng được nâng lên tạo khả năng giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, góp phần hạn chế lạm phát, ổn định tiền tệ. - Cuối cùng chất lượng tín dụng nâng cao góp phần làm lành mạnh hóa quan hệ tín dụng. Giảm thiểu rồi đi đến xóa bỏ tình trạng cho vay nặng lãi, tín dụng đen đang rất phổ biến hiện nay. Mà gắn liền với tình trạng tín dụng không lành mạnh này là những vấn đề xã hội phức tạp. 1.2.2.2. Đối với khách hàng: - Cung cấp kịp thời nhu cầu về vốn cho khách hàng: Chất lượng tín dụng cao sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng thị trường, cung cấp tín dụng kịp thời, đáp ứng yêu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của khách hàng. - Lành mạnh hoá tình hình tài chính của khách hàng: Để đảm bảo chất lượng tín dụng thì Ngân hàng tiến hành việc kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng vốn tín dụng của khách hàng qua đó cùng với khách hàng uốn nắn và chấn chỉnh kịp thời những thiếu sót trong hoạt động tài chính và kinh doanh của họ. Do vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng góp phần phát triển chất lượng sản xuất kinh doanh cũng như làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của khách hàng. 1.2.2.3. Đối với ngân hàng thương mại: Nâng cao Chất lượng tín dụng là sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của hệ thống Ngân hàng thương mại: - Nâng cao chất lượng tín dụng tức là tăng khả năng quay vòng vốn tín dụng, qua đó mở rộng được các hình thức dịch vụ cung cấp cho khách hàng cũng như mở rộng quy mô vốn tín dụng cho một khách hàng. Như vậy không những duy trì được mối quan hệ với nhũng khách hàng truyển thống mà còn mở rộng, thu hút thêm những khách hàng mới. Đó cũng là cách để các ngân hàng thương mại mở rộng thị trường, nâng cao được lợi nhuận. - Chất lượng tín dụng nâng cao sẽ giảm được chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý, và đặc biệt là giảm được những chi phí, thiệt hại rất lớn do không thu hồi được khoản tín dụng. Như vậy sẽ gia tăng khả năng sinh lời của các sản phẩm, dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng. Tăng được lợi nhuận cho hệ thống ngân hàng thương mại. Qua những phân tích trên ta thấy nâng cao chất lượng tín dụng có ý nghĩa thật to lớn. Đối với ngân hàng thì đó là vì sự tồn tại, phát triển. Với khách hàng thì đó là khả năng mở rộng sản xuất. Xét trên tầm vĩ mô thì nâng cao chất lượng tín dụng là để đảm bảo cho nền kinh tế xã hội luôn phát triển ổn đinh. Với sự phát triển và sản xuất lưu thông hàng hoá ngày càng tăng, hoạt động tín dụng cần phải được phát triển tới mức độ nào đó sao cho phù hợp, nhằm đáp ứng được những nhu cầu giao dịch cũng ngày càng tăng trong xã hội. Vì thế, việc nâng cao chất lượng tín dụng không những luôn được coi là chiến lược hàng đầu của các ngân hàng thương mại mà còn của các nhà chức trách về kinh tế xã hội. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn ngân hàng thương mại. Qua những vấn đề được phân tích ở trên, ta thấy rõ sự cần thiết của việc củng cố tăng cường nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn của các Ngân hàng Thương mại vì sự tồn tại cũng như sự phát triển lâu dài của hệ thống Ngân hàng Thương mại nói riêng và cho nền kinh tế xã hội nói chung. Để thực hiện tốt công việc này, việc đi sâu phân tích, đánh giá để thấy rõ được những nhân tố chủ yếu có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn là điều không thể thiếu và luôn luôn phải được cân nhắc để tìm ra những hướng khắc phục hiệu quả. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Ta có thể chia thành hai nhóm nhân tố là nhóm nhân tố bên ngoài và nhóm nhân tố bên trong. 1.3.1. Nhóm nhân tố bên ngoài: Gồm 3 nhóm nhân tố là kinh tế, xã hội và pháp lý. * Nhóm nhân tố kinh tế: - Hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng có hiệu quả cao thì nền kinh tế phải ổn định. Hoạt động tín dụng là hoạt động “Vay để cho vay”. Khi nền kinh tế phát triển ổn định thì các doanh nghiệp mới hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, khi đó nhu cầu về vốn tín dụng của doanh nghiệp mới thực sự là ổn định và an toàn. Mặt khác khi đó ngân hàng cũng có thể huy động được nhiều nguồn vốn mở rộng hoạt động cho vay, phục vụ cho việc phát triển kinh tế. - Ngoài ra một nền kinh tế ổn định tạo điều kiện cho giá cả luôn giữ ở mức ổn định, lành mạnh, tránh được tình trạng lạm phát hay giảm phát và tránh cho ngân hàng khỏi phải chịu những thiệt hại lớn do mất giá của đồng tiền, các doanh nghiệp không rơi vào khủng hoảng dẫn đến khó khăn không trả được nợ tín dụng. Từ đó cũng tránh được sự giảm thấp chất lượng tín dụng. Tuy nhiên có một thực tế là hầu hết các quốc gia đều áp dụng mô hình “ Mở rộng Ngân sách” , tức là các quốc gia này duy trì một mức lạm phát vừa phải để kích thích đầu tư. Do vậy đây là vấn đề có tính hai mặt. Một mặt là lạm phát sẽ làm phát sinh những rủi ro cho việc hoàn trả khoản nợ tín dụng. Nhưng mặt khác, lạm phát kích thích đầu tư sẽ khiến nhu cầu về vốn tín dụng tăng, tạo điều kiện kinh doanh tín dụng cho các ngân hàng thương mại, khi đó sẽ có cơ hội tăng được lợi nhuận. - Yếu tố Vốn nước ngoài cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn hạn: Hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia kém phát triển đều gặp khó khắn về vốn để đầu tư phát triển kinh tế. Do vậy thường phải sử dụng “Vốn nước ngoài” để bù đắp. Nhưng việc huy động quá mức vốn nước ngoài sẽ làm mất cân đối tổng cung và tổng cầu trong nền kinh tế, gây sức ép về lạm phát cho nền kinh tế, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn hạn. - Nhân tố Chu kỳ phát triển kinh tế cũng tác động lớn tới chất lượng tín dụng ngắn hạn. Trong thời kỳ kinh tế hưng thịnh, sản xuất kinh doanh sẽ được mở rộng, dẫn đến nhu cầu về vốn tăng, giảm bớt những rủi ro tín dụng, từ đó hiệu quả tín dụng ngắn hạn cũng tăng lên. Tuy nhiên điều gì sẽ xảy đến với chất lượng tín dụng ngắn hạn nếu các ngân hàng thương mại cạnh tranh mở rộng khách hàng. Khi đó để dành các khách hàng về phía mình các ngân hàng thường phải hạ thấp yêu cầu với khách hàng khi họ có nhu cầu cấp tín dụng, đây chính là nguyên nhân khiến cho các khoản tín dụng ngắn hạn gặp nhiều rủi ro hơn, chất lượng tín dụng ngắn hạn qua đó cũng giảm xuống. Khi nền kinh tế rơi vào khó khăn, khủng hoảng, nền sản xuất bị trì trệ khiến nhu cầu tín dụng giảm do các doanh nghiệp thấy sẽ thật là mạo hiểm nếu mở rộng sản xuất bởi nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm, sức mua kém và hàng hóa sẽ bị tồn kho, lợi nhuận giảm hoặc thậm chí doanh nghiệp có thể bị phá sản bởi không duy trì được sản xuất và không trả được nợ ngân hàng. Trong khi hoạt động tín dụng gặp nhiều khó khăn, các ngân hàng vẫn phải trả tiền lãi để huy động nguồn vốn trước đó. Qua đó ta thấy chất lượng tín dụng ở giai đoạn này thường là thấp. - Một trong những nhân tố kinh tế có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn hạn là sự phù hợp giữa lãi suất huy động ngắn hạn, lãi suất cho vay ngắn hạn và mức lợi nhuận bình quân của nền kinh tế. Khi mức lợi nhuận doanh nghiệp giảm xuống hay lãi suất huy động tăng lên sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả tín dụng ngắn hạn của hệ thông ngân hàng thương mại. * Nhóm nhân tố xã hội,chính trị: Đó là các nhân tố khách hàng và ngân hàng. Quan hệ tín dụng được thực hiện dựa trên có sở sự tín nhiệm, lòng tin, uy tín giữa khách hàng và ngân hàng thương mại. Vì vậy chất lượng tín dụng ngắn hạn tùy thuộc vào sự kết hợp giữa ba yếu tố: Nhu cầu tín dụng của khách hàng, khả năng của ngân hàng và sự tín nhiệm giữa hai bên. Uy tín của ngân hàng trên thị trường càng cao thì sẽ thu hút được càng nhiều khách hàng tin tưởng gửi tiền vào ngân hàng và thường có thể huy động vốn với mức lãi suất thấp hơn mặt bằng chung. Uy tín ngân hàng nâng cao cũng sẽ hấp dẫn được nhiều khách hàng đến xin vay ngân hàng thương mại. Đây chính là biện pháp chiếm lĩnh thị trương của các ngân hàng thương mại, tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt với các ngân hàng thương mại khác để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường. Khách hàng, với tư cách là người cung ứng vốn, Người gửi tiền có lòng tin đối với ngân hàng sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng huy động khoản tiền gửi một cách ổn định, qua đó đáp ứng ổn đinh nhu cầu vốn tín dụng ngắn hạn của người vay. Vì vậy chất lượng tín dụng ngắn hạn sẽ tăng lên. Với tư cách là người đi vay vốn, nếu nhu cầu vay ngắn hạn của khách hàng được thực hiện đơn giản, nhanh chóng thì Ngân hàng đã tạo được sự hấp dẫn đối với khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng ngắn hạn. Về phía Ngân hàng, chất lượng tín dụng ngắn hạn phụ thuộc vào quy mô, phạm vi hoạt động tín dụng, phụ thuộc vào nguồn vốn tự có của các ngân hàng, khả năng huy động nguồn tiền gửi cả về quy mô cũng như thời hạn tiền gửi. Khi xét đến các nhân tố xã hội ta không thể không nhắc đến yếu tố tác động đến chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng ngắn hạn nói riêng, đó là nhân tố “đạo đức xã hội”. Như ta đã biết quan hệ tín dụng phải dựa trên sự tín nhiễm giữa hai bên. Nếu một trong hai bên xuát phát từ sự lừa đảo thì đương nhiên chất lượng khoản tín dụng sẽ rất xấu. Ngoài ra ta cũng có thể xét đến một số nhân tố xã hội khác có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn hạn. Đó là trình độ dân trí, sự ổn định chính trị xã hội của quốc gia, tình hình biến động xã hội chính trị của quốc tế hay là các yếu tố về môi trường như tình hình thiên tai, dịch bệnh… * Nhóm nhân tố pháp lý: Môi trường pháp lý được hiểu là hệ thống luật và văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động của ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Đồng thời gắn liền với sự chấp hành pháp luật và trình độ dân trí. Hệ thống pháp luật sẽ tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến triển thuận lợi đạt hiệu quả cao. Như vậy để đảm bảo chất lượng tín dụng ngắn hạn cho các ngân hàng thương mại thì hệ thống pháp luật về tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng phải được ban hành đầy đủ và đồng bộ. Sự thay đổi trong các chủ trương, chính sách của nhà nước cũng gây ảnh hưởng đến các khoản tín dụng. Nhất là về cơ cấu kinh tế, các chính sách xuất nhập khẩu... bởi nếu có sự thay đổi đột ngột ấy thì sẽ gây xáo trộn trong sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, hoặc phương án kinh doanh sẽ không còn phù hợp... Nếu không kịp thời chuyển đổi, doanh nghiệp sẽ không sản xuất kinh doanh được và không thể thanh toán nợ dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi của ngân hàng tăng lên. 1.3.2. Nhóm nhân tố bên trong: Các nhân tố bên trong là những nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng liên quan đến hoạt động tín dụng ngắn hạn. Chúng gồm sáu nhân tố sau: Chính sách tín dụng ngắn hạn; Công tác tổ chức ngân hàng; Quy trình tín dụng; Thanh tra, kiểm tra, kiểm soát nội bộ; Thông tin tín dụng; Chất lượng cán bộ công nhân viên. 1.3.2.1. Chính sách tín dụng ngắn hạn: Không những chỉ có ngành ngân hàng mà tất cả các ngành, các lĩnh vực muốn hoạt động hiệu quả để tồn tại và phát triển đều cần phải có một chiến lược phù hợp với tình hinh thực tế. Do vậy ta có thể thấy chính sách tín dụng ngắn hạn có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn hạn ngân hàng. Chính sách tín dụng ngắn hạn là hệ thống những biện pháp được ban lãnh đạo Ngân hàng phổ biến tới từng cấp, từng bộ phận của ngân hàng liên quan đến việc khuyếch trương hoặc hạn chế những khoản tín dụng ngắn hạn để đạt được mục tiêu đã hoạch định của Ngân hàng Thương mại đó. Chất lượng hoạt động tín dụng ngắn hạn tốt hay xấu là tuy thuộc vào chính sách tín dụng ngắn hạn được ban lãnh đạo Ngân hàng xây dựng, ban hành có đúng đắn hay không. Nếu chính sách tín dụng ngắn hạn được hoạch định phù hợp với thực tế sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo được khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng, phân tán rủi ro, tuân theo chấp hành tốt luật pháp và đường lối chính sách của Nhà nước. Cũng vì lẽ đó nên khi hoạch định chính sách tín dụng ngắn hạn, ban lãnh đạo của các ngân hàng thương mại luôn coi trọng việc đảm bảo an toàn như là một mục tiêu mà chính sách đó phải đạt được. Ta rút ra kết luận là: Bất cứ ngân hàng thương mại nào nếu muốn nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn đều phải có chính sách tín dụng ngắn hạn rõ ràng, thích hợp. 1.3.2.2. Công tác tổ chức ngân hàng: Đây là hoạt động mà mọi NHTM đều phải quan tâm, luôn tiến hành công tác đổi mới, hiện đại hóa tổ chức ngân hàng. Công tác tổ chức ngân hàng được thức hiện tốt thể hiện là sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban trong từng ngân hàng, trong toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng như giữa ngân hàng với các tổ chức khác như tổ chức tài chính, tổ chức pháp lý... là sự thống nhất từ trên xuống dưới, từ ban lãnh đạo đến từng phòng ban, từng cán bộ công nhân viên. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban sẽ tạo điều kiện cho việc quản lý các khoản tín dụng ngắn hạn một cách kịp thời, sát sao. Đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh, hiệu quả hơn. 1.3.2.3. Quy trình tín dụng: Quy trình tín dụng là những quy định cần phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm bảo đảm an toàn cho vốn tín dung. Nó được bắt đầu kể từ khi chuẩn bị cho vay, giải ngân, kiểm tra quá trình cho vay và kết thúc là giai đoạn thu hồi khoản vay. Chất lượng tín dụng tốt hay không là phụ thuộc vào sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các bước trong quy trình tín dụng. Chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào công tác thẩm định tín dụng trong quy trình tín dụng. Nếu công tác thẩm định dự án đưa ra những kết luận sai lầm, đó là đồng ý cấp tín dụng cho những khách hàng không có khả năng hoàn trả lại hoặc có ý định lừa đảo ngân hàng, hay là những quyết định không đồng ý cấp tín dụng cho những khách hàng có phương án làm ăn hiệu quả. Như vậy chắc chắn các khoản tín dụng cấp cho khách hàng là không có hiệu quả. Sau quá trình giải ngân cho khách hàng, các ngân hàng thương mại đều liên tục kiểm tra, giám sát tình hình của số tiền đã cấp được sử dụng như thế nào. Nếu việc giám sát là sát sao thì ngân hàng có thể phát hiện kịp thời những rủi ro để từ đó đưa ra những điều chỉnh, can thiệp cần thiết. Như vậy sẽ nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Một ngân hàng muốn tồn tại thì ngoài việc thu được các khoản lãi thì điều quan trọng hơn là phải thu về đầy đủ khoản nợ gốc. Nếu ngân hàng có những biện pháp xử lý nợ chính xác, nhanh chóng sẽ giảm thiểu những rủi ro có thể xảy ra và hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại khi rủi ro tín dụng xảy đến, qua đó chất lượng tín dụng ngắn hạn sẽ nâng cao. 1.3.2.4. Thanh tra, kiểm tra, kiểm soát nội bộ: Kiểm soát nội bộ là một trong những nghiệp vụ giúp cho ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng. Thực hiện tốt công tác này sẽ giúp cho ban lãnh đạo ngân hàng có được nhanh chóng mọi thông tin về tình trạng kinh doanh. Như vậy ngân hành có thể kịp thời phát hiện ra những sai phạm, sai sót liên quan đến nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn để khắc phục, sửa chữa. 1.3.2.5. Thông tin tín dụng: Thực tế là hoạt động tín dụng ngắn hạn có chất lượng luôn đòi hỏi phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ nghiệp vụ tín dụng này đi kèm. Như vậy Thông tin tín dụng có vai trò rất quan trọng trong quản lý chất lượng tín dụng ngắn hạn. Việc nắm không vững và đầy đủ các thông tin có thể khiến các ngân hàng gặp phải sai lầm lựa chọn đối nghịch. Vì trên thực tế, không phải doanh nghiệp nào cũng sử dụng vốn vay có hiệu quả và đúng mục đích. Đó là chưa kể tới những hàng vi lừa đảo để vay tiền ngân hàng, gây tổn thất cho ngân hàng. Việc nắm được thông tin về khách hàng, cảnh báo khách hàng kịp thời sẽ khiến khách hàng suy nghĩ kỹ hơn khi sử dụng từng đồng vốn được ngân hàng cho vay, sẽ khó có thể sử dụng sai mục đích ban đầu, do đó hiệu quả kinh tế sẽ là cao hơn, lợi nhuận ngân hàng cũng vì thế mà được đảm bảo. Thông tin cũng khiến cho ngân hàng có những giúp đỡ kịp thời, có những gợi ý sáng suốt tháo gỡ những khó khăn cho khách hàng trước khi quá muộn, đảm bảo cho hiệu quả kinh tế của khoản tín dụng ngắn hạn. 1.3.2.6. Chất lượng cán bộ công nhân viên: Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Trong mọi hoạt động có tính quyết định đến chất lượng tín dụng ngắn hạn như thẩm định, phê duyệt các dự án tín dụng ngắn hạn… thì con người là nhân tố chủ chốt, không thể thiếu. Nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao, ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Vì có nâng cao chất lượng nhân sự thì mới có thể đối phó kịp thời và hiệu quả với những tình huống tín dụng mới, tránh được những rủi ro có thể xảy ra. Ngoài ra nâng cao chất lượng nhân sự thì mới có thể sử dụng những phương tiện hiện đại, phù hợp với sự phát triển nghiệp vụ ngân hàng trong cơ chế thị trường. Như vậy nâng cao chất lượng cán bộ công nhân viên là nhân tố bảo đảm cho chất lượng hoạt động tín dụng. Như vậy, nhờ việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn hạn ta thấy: tùy vào từng điều kiện cụ thể mà các nhân tố trên có những ảnh hưởng khác nhau tới chất lượng tín dụng ngắn hạn. Do đó việc nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng là phải giải quyết đồng bộ các nhân tố trên. Tuy nhiện, tùy vào tình hình mà ta có thể nhấn mạnh hơn vào nhân tố nào đó. 1.4. Quản lý chất lượng tín dụng ngắn hạn của các Ngân hàng Thương mại. 1.4.1. Mục đích, yêu cầu quản lý: Như ta đã biết, tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng là nghiệp vụ đem lại lợi nhuận chủ yếu cho hệ thống ngân._. hàng thương mại. Do vậy mục tiêu của việc nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn là khả năng mang lại lợi nhuận cao nhất của các khoản tín dụng ngắn hạn trong giới hạn rủi ro cho phép. Yêu cầu: Trong quản lý chất lượng tín dụng ngắn hạn của các ngân hàng thương mại ta có thể đưa ra ba yêu cầu chủ yếu sau. - Giảm thiểu rủi ro đối với các khoản cho vay: Để phòng ngừa rủi ro, các ngân hàng thương mại chỉ đồng ý cấp tín dụng ngắn hạn cho khách hàng trên nguyên tắc phân tán rủi ro, dự đoán được tình hình tài chính và ý chí trả nợ của khách hàng trong tương lai. - Đảm bảo tính lành mạnh của khoản tín dụng ngắn hạn: Điều này có nghĩa là không cấp tín dụng ngắn hạn giúp cho khách hàng làm giàu bất chính. Yêu cầu đảm bảo tính lành mạnh của khoản tín dụng ngắn hạn liên quan chặt chẽ tới quá trình thẩm định dự án của khách hàng và việc kiểm tra tình hình sử dụng vốn tín dụng của khách hàng sau khi cấp tín dụng. - Chiếm lĩnh được thị trường một cách hợp pháp: Thực hiện được yêu cầu này sẽ giúp ngân hàng tồn tại và phát triển. Suy cho cùng thì đây là mục đích cao nhất mà các ngân hàng đều hướng tới. 1.4.2. Các biện pháp quản lý chất lượng tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại. Việc quản lý chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng ngắn hạn nói riêng phải mang tính đồng bộ vì chất lượng tín dụng có được là nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa những con người trong ngân hàng, giữa những ngân hàng với những chủ thế kinh tế, chính tri, xã hội với nhau trên cơ sở nguồn lực hiện có. 1.4.2.1. Phân loại tín dụng ngắn hạn: Thực hiện tốt việc phân loại tín dụng ngắn hạn sẽ giúp cho ngân hàng nghiên cứu việc vận dụng vốn tín dụng trong từng loại hình cho vay và là cơ sở để đánh giá hiệu quả kinh tế của chúng. Từ đó có sự quản lý phù hợp nhất để nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn. Ta có một số cách phân loại chủ yếu sau: Căn cứ vào mục đích sử dụng: Tín dụng ngắn hạn bao gồm tín dụng tiêu dùng và tín dụng kinh doanh. - Tín dụng tiêu dùng: Việc cho vay của ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của các gia đình, cá nhân như chi tiêu thường xuyên, chi sửa chữa nhà cửa, mua sắm tài sản… - Tín dụng kinh doanh: Ngân hàng sẽ cho các doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh vay để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh ngắn hạn của họ. Lĩnh vực kinh doanh ngắn hạn của khách hàng bao gồm: + Cho vay công nghiệp và thương mại: Giúp khách hàng trang trải các khoản chi phí hoạt động như chi phí mua hàng, trả lương… + Cho vay xây dựng ngắn hạn: Tạm ứng vốn cho bên thi công trong giai đoạn thi công các công trình xây dựng. + Cho vay nông nghiệp: Nhằm hỗ trợ nông dân trong giai đoạn gieo trồng, bảo quản sản phẩm. + Cho vay các tổ chức tín dụng: + Cho vay khác: Bao gồm các hình thức như kinh doanh chứng khoán… Căn cứ vào đảm bảo tiền vay: Tín dụng ngắn hạn chia thành tín dụng có bảo đảm và tín dụng không có bảo đảm. - Tín dụng có bảo đảm: Lí do chủ yếu đòi hỏi một khoản tín dụng ngắn hạn được đảm bảo là nhằm tạo điều kiện cho ngân hàng giảm bớt rủi ro mất vốn.Tín dụng ngắn hạn có đảm bảo được chia thành các dạng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản của người thứ ba, đảm bảo bằng tài sản được hình thành từ vốn vay. - Tín dụng không có đảm bảo: Tín dụng ngắn hạn không có đảm bảo được dựa trên tính liêm khiết và tình hình tài chính của người vay, lợi tức có thể có trong tương lai và tình hình trả nợ trước đây. Tn dụng ngắn hạn không có đảm bảo được chia thành tín chấp, bảo lãnh bằng tín chấp của bên thứ ba. Căn cứ vào đồng tiền cho vay: Tín dụng ngắn hạn bao gồm cho vay bằng đồng nội tệ và cho vay bằng đồng ngoại tệ. Căn cứ vào phương pháp cho vay: Tín dụng ngắn hạn được chia thành tín dụng từng lần, tín dụng theo hạn mức. Căn cứ vào tính chất của việc cấp vốn: Cho vay ngắn hạn gồm cho vay thế vốn và cho vay ứng vốn. - Cho vay thế vốn: Việc cho vay làm thay đổi hình thái vốn của khách hàng sang tiền, như chiết khấu, bao thanh toán. - Cho vay ứng vốn: Việc cho vay mang tính chất cấp thêm vốn cho khách hàng như bổ sung vốn lưu động. Căn cứ vào đối tượng sử dụng vốn vay: Tín dụng ngắn hạn chia thành tín dụng trực tiếp và tín dụng gián tiếp. - Tín dụng trực tiếp: Tiền vay được phát trực tiếp cho người vay - Tín dụng gián tiếp: Tiền vay được phát đến một tổ chức trung gian, sau đó mới tới tay người vay. Căn cứ vào phương thức thanh toán: Người ta chia tín dụng ngắn hạn thành tín dụng ngắn hạn hoàn trả một lần, tín dụng ngắn hạn hoàn trả nhiều lần. 1.4.2.2. Tuân thủ 3 nguyên tắc tín dụng ngắn hạn: - Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả. - Vốn vay phải đảm bảo bằng giá trị vật tư hàng hoá tương đương. - Vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi khi đến hạn. 1.4.2.3. Xây dựng tiêu chuẩn quản lý tín dụng ngắn hạn: Đối với Ngân hàng, tiêu chuẩn quản lý tập trung vào sáu tiêu chuẩn sau: Tình hình chấp hành các điều luật và nguyên tắc tín dụng ngắn hạn đã quy định, Vòng quay vốn tín dụng, Khả năng sẵn sàng thanh toán, Mức độ phân tác rủi ro, Tình hình chấp hành hạn mức tín dụng đã quy định, Kết quả kinh doanh. Đối với khách hành, tiêu chuẩn quản lý tập trung vào năm tiêu chuẩn: Tư cách khách hàng, Khả năng sản xuất kinh doanh, Vốn tự có, Khả năng thế chấp, Lĩnh vực kinh doanh sản xuất. 1.4.2.4. Thực hiện quy trình quản lý tín dụng ngắn hạn. Quy trình quản lý tín dụng ngắn hạn là một quy trình tuần tự khép kín bắt đầu từ việc đề ra chính sách tín dụng, đến việc khái quát thành các quy định cụ thể về cho vay vốn, quy định cơ cấu tổ chức nghiệp vụ tín dụng. Giai đoạn cuối cùng của quy trình tín dụng là sử dụng thông tin về khách hàng để phân tích nhận định tình hình và ra quyết định tín dụng. Trong quy trình quản lý chất lượng tín dụng ngắn hạn thì giai đoạn phân tích nhận định tình hình của khách hàng là quan trọng nhất. Đây thực chất là việc phân tích tín dụng. Nhờ việc phân tích và sử dụng hệ thống chỉ tiêu tín dụng giúp ngân hàng đánh giá đúng khách hàng, hạn chế tới mức thấp nhất rủi ro tín dụng. Nếu ngân hàng có quy trình quản lý tín dụng ngắn hạn đúng đắn thì chắc chắn mục tiêu chất lượng tín dụng ngắn hạn sẽ được đảm bảo. Kết luận Việc sử dụng đồng bộ các biện pháp quản lý tín dụng ngắn hạn trên sẽ giúp cho ngân hàng giảm thiểu được rủi ro tín dụng, đảm bảo an toàn vốn. Do vậy chất lượng tín dụng ngắn hạn sẽ được bảo đảm. Đây chính là mục tiêu hàng đầu của các ngân hàng thương mại hiện nay. Chương II Thực trạng chất lượng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Chương Dương 2.1. Giới thiệu chi nhánh ngân hàng công thương khu vực Chương Dương. 2.1.1. Quá trình phát triển. Theo quyết định 53 Hội Đồng Bộ Trưởng về việc thành lập hệ thống Ngân hàng thương mại quốc doanh tháng 7 năm 1988. Hệ thống Ngân Hàng Công Thương (NHCT) Việt Nam được thành lập trên toàn quốc. Tháng 8 năm 1988 Ngân hàng Nhà Nước huyện Gia Lâm được tách thành NHCT Chương Dương và Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Châu Quỳ. Ngân hàng Công thương Chương Dương có trụ sở tại số 32 Ngõ 289 đường Ngọc Lâm Quận Long Biên, Hà Nội. Nằm trên địa bàn tập trung nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp, các hoạt động thương mại dịch vụ cũng khá phát triển, mức sống dân cư cao so với mặt bằng chung của cả nước. Là chi nhánh của NHCT Việt Nam nên chi nhánh NHCT Chương Dương là đơn vị hạch toán phụ thuộc. Theo điều 30 của điều lệ về tổ chức và hoạt động của NHCT Việt Nam thì chi nhánh NHCT Chương Dương là đại diện uỷ quyền của NHCT, có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của NHCT, chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi đối với NHCT. NHCT chịu trách nhiệm cuối cùng về nghĩa vụ phát sinh do sự cam kết của các đơn vị này. Được phép kí kết các hợp đồng kinh tế, được chủ động thực hiện các hoạt động kinh doanh, tổ chức và nhân sự theo sự phân cấp uỷ quyền của NHCT. Cho đến nay Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương đã trải qua 17 năm phát triển. Trong suốt 17 năm đó, Chi nhánh NHCT Chương Dương luôn khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế, đứng vững và phát triển trong cơ chế mới. 2.1.2. Mô hình tổ chức. Để đáp ứng nhu cầu mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động ngân hàng, và được sự cho phép của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam, bắt đầu từ 1/4/2005 Chi nhành NHCT khu vực Chương Dương sẽ họat động theo mô hình hiện đại mới gồm 11 phòng ban. Phòng kế toán giao dịch. Phòng Tài trợ thương mại. Phòng Khách hàng số 1. Phòng Khách hàng số 2. Phòng Khách hàng cá nhân. Phòng Thông tin điện toán. Phòng Tổ chức hành chính. Phòng tiền tệ - kho quỹ. Phòng Kiểm soát nội bộ. Phòng Tổng hợp tiếp thị Phòng Kế toán tài chính. Và 11 quỹ tiết kiệm Với tổng số 132 cán bộ công nhân viên. Trong đó: Thạc sĩ: 2 người Đại học: 83 người Cao đẳng: 14 người Trung cấp và chứng chỉ nghiệp vụ Ngân hàng: 22 người Sơ cấp, chưa đào tạo: 11 người. Sơ đồ tổ chức bộ máy Chi nhánh NHCT khu vực chương Dương Phòng tiền tệ - kho quỹ Phòng Kiểm soát nội bộ Ban giám đốc Phòng Thông tin điện toán Phòng Khách hàng cá nhân Phòng Khách hàng số 2 Phòng Khách hàng số 1 Phòng Tài trợ thương mại Phòng Kế toán giao dịch Phòng Kế toán tài chính Phòng tổng hợp tiếp thị Phòng Tổ chức hành chính 2.2. Thực trạng chất lượng hoạt động kinh doanh tín dụng ngắn hạn của chi nhánh ngân hàng công thương Chương Dương. 2.2.1. Những kết quả đạt được. Nhờ tích cực hoàn thiện kỹ thuật nghiệp vụ cùng với việc nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ tín dụng ở Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương, nên trong những năm gần đây Chi nhánh đã đạt được nhiều kết quả tốt trong hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng. 2.2.1.1. Tình hình huy động vốn ngắn hạn. Vốn là nguồn để đảm bảo hoạt động và luôn chiếm 1 vị trí quan trọng, đặc biệt trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, nó là tiền để cho các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng, cũng như việc mở rộng quy mô hoạt động. Việc thu hút được nguồn vốn đầu tư vào rẻ sẽ càng tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong các hoạt động sử dụng vốn tín dụng, tăng thêm lợi nhuận của ngân hàng trong các hoạt động sử dụng vốn tín dụng, tăng thêm lợi nhuận của ngân hàng trong các hoạt động sử dụng vốn tín điều đó đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng hoạt động tiêu dùng. Nhận thức được điều này, qua nhiều năm hoạt động chi nhánh ngân hàng công thương Chương Dương đã có nhiều biện pháp và phương thức hợp lý để huy động nguồn vốn từ các thành phần kinh tế, đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng như trong việc mở rộng các quỹ tiễn kiệm, phòng giao dịch trên địa bàn của mình cũng như trên địa bàn thủ đô để có thể huy động được vốn đồng thời đổi mới tác phong làm việc thái độ phục vụ của cán bộ thực hiện chính sách ưu đãi khách hàng cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh kinh tế mới. Các số liệu sau sẽ cho ta thấy được tình hình huy động vốn của ngân hàng công thương chi nhánh Chương Dương, ta hãy xem xét và phân tích vấn đề này qua bảng số liệu sau đây. Biểu 1 : Tình hình huy động vốn của Chi nhánh qua các năm Đơn vị: Tỷ đồng Năm TG dân cư TG doanh nghiệp Trái phiếu, kỳ phiếu Tổng Có Kì hạn Không kì hạn Có kì hạn Không Kì hạn 2002 804,20 17,60 962 583,40 109 2476 2003 416,72 6,67 1031,04 670,75 52,70 2177,9 2004 437,36 8,78 1246,24 694,14 58,47 2444,99 (Nguồn:Báo cáo tổng kết Chi nhánh NHCT Chương Dương năm 2002-2004) Qua biểu 1 ta thấy, Năm 2003 tổng vốn huy động đạt được 2177,9 tỷ đồng, giảm so với năm 2002 là 298,1tỷ đồng, tương ứng giảm 12,03%. Năm 2004 tổng vốn huy động đạt được 2444,99 tỷ đồng, tăng so với năm 2003 là 267,09 tỷ đồng, tương ứng tăng 12,04%. Nguồn vốn huy động từ nghiệp vụ phát hành trái phiếu, kì phiếu chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong số nguồn vốn huy động hàng năm của Chi nhánh. Năm 2002 huy động được 109 tỷ đồng chiếm 4,4% trong tổng nguồn vốn. Năm 2003 huy động được 52,7 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 2,42% trong tổng nguồn vốn. Năm 2004 chỉ huy động 58,47 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 2,39%. Nguồn vốn huy động từ nghiệp vụ phát hành trái phiếu, kì phiếu chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động hàng năm ở Chi nhánh là do nguồn vốn huy động từ các hình thức khác đã đủ phục vụ nhu cầu cấp tín dụng cho khách hàng. Nhìn vào bảng 1, ta cũng có thể thấy rằng tiền gửi dân cư biến động rất thất thường tăng lên rồi lại giảm xuống. Tuy nhiên, lượng tiền gửi doanh nghiệp tăng đều qua các năm tuy nhiên tốc độ tăng trưởng qua các năm lần lượt là 10,12% và 14,02%. Như vậy ta có thể thấy Chi nhánh đã hấp dẫn được ngày càng nhiều lượng tiền gửi doanh nghiệp. Lượng tiền gửi doanh nghiệp ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số tiền huy động hàng năm của Chi nhánh. Năm 2002, tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp chiếm 62,4%. Đến năm 2003 thì tỷ trọng đã là 78,13%, và đến năm 2004 thì chiếm tỷ trọng 79,36%. Như vậy ta có thể nhận xét rằng, Chi nhánh đã rất chú trọng thu hút nguồn tiền gửi doanh nghiệp, thể hiện là tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp tăng đều qua các năm. Nguồn tiền gửi dân cư ngày càng có xu hướng giảm dần tỷ trọng trong tổng vốn huy động hàng năm ở Chi nhánh. Chiếm tỷ trọng lần lượt là 33,19% năm 2002, đạt 19,44% năm 2003 và 18,24% năm 2004 của tổng vốn huy động. Nguồn tiền gửi ở khu vực dân cư có xu hướng giảm dần về tỷ trọng trong tổng số vốn huy động của Chi nhánh, tuy nhiên lại không giảm về số tuyệt đối, đó cũng chính là xu hướng chung của toàn ngành ngân hàng nước ta. Đó là tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp ngày càng tăng cao, tỷ trọng tiền gửi dân cư ngày càng giảm. Chi nhánh cung cấp miến phí cho khách hàng gửi tiền gửi thanh toán dịch vụ thanh toán miễn phí, đổi lại Chi nhánh chỉ phải trả lãi rất thấp cho khoản tiền gửi này. Vì vậy Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương cố gắng tìm mọi biện pháp để thu hút nguồn tiền gửi của doanh nghiệp như đưa ra các chính sách ưu đãi về lái suất hay giảm phí dịch vụ thanh toán. Kết quả là nguồn tiền gửi không kì hạn vào Chi nhánh ngày một tăng qua các năm. Năm 2002 tiền gửi không kỳ hạn đạt 601 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 24,27%, tiền gửi có kỳ hạn đạt 1766,2 tỷ động chiếm trọng 71,33% trong tổng nguồn vốn huy động. Năm 2003, Tiền gửi không kỳ hạn đạt 677,42 tỷ đồng tăng 12,72% so với năm 2002 và chiếm tỷ trọng 31,11% trong tổng số tiền huy động. Tiền gửi có kỳ hạn đạt 1447,76 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 66,48% tổng nguồn vốn huy động trong năm. Năm 2004, tiền gửi không kì hạn đạt 702,92 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 28,75%. Trong khi đó tiền gửi có kì hạn đạt 1683,6 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 68,86%. Như vậy nguồn tiền gửi không kì hạn đang có xu hướng tăng lên, chứng tỏ chính sách thu hút nguồn vốn này của Chi nhánh đã đạt được những thành công. Từ bảng thống kê 1 ta có nhận xét chung là nguồn huy động từ khu vực doanh nghiệp ngày một tăng cao, hơn nữa các khoản tiền gửi của các tổ chức này chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn với lãi suất huy động thấp. Từ đây có thể giúp Chi nhánh giảm bớt chi phí, tăng thêm lợi nhuận cũng như tăng thêm sức cạnh tranh trên thị trường ngân hàng. 2.2.1.2. Tình hình sử dụng vốn tín dụng. Hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của bất kì một ngân hàng thương mại nào ở Việt Nam. Nhờ cho vay mà ngân hàng thu được nguồn thu nhập lớn để bù đắp các chi phí kinh doanh và tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động cho vay lại mang rủi ro mất vốn rất lớn, vì vậy cần phải quản lý chặt chẽ các khoản vay của khác hàng. Biểu 2. Tình hình sử dụng vốn ngắn hạn phân theo thành phần kinh tế Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng I. Doanh số cho vay 2670,909 100 1388,335 100 1795,623 100 1. Quốc doanh 2523,491 94,5 1179,401 84,9 1454,433 81 2. Ngoài quốc doanh 147,418 5,5 208.934 15,1 341,190 19 II. Dư nợ 1247,865 100 640,705 100 769,598 100 1. Quốc doanh 1153,326 87,8 555,251 86,7 606,120 78,8 2. Ngoài quốc doanh 94,539 12,2 85,454 13,3 163,478 21,2 (Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương) Nhìn vào biểu 2 nói trên, ngay lập tức ta có thể nhận xét Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương chú trọng đặc biệt vào thành phần kinh tế quốc doanh, bên cạnh đó ngân hàng cũng ngày càng quan tâm đến các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh hơn. Năm 2002 tổng dư nợ ngắn hạn đạt 1247,865 tỷ đồng, trong đó dư nợ thành phần kinh tế quốc doanh là 1153,326 tỷ đồng chiếm 87,8% tổng dự nợ ngắn hạn, trong khi dự nợ thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là 94,539 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 12,2% tổng dư nợ ngắn hạn. Năm 2003 tổng dư nợ ngắn hạn thành phần kinh tế quốc doanh là 555,251 tỷ đồng, giảm số lượng tuyệt đối rất lớn so với năm 2002 là 598,075 tỷ đồng. Tuy nhiên dư nợ ngắn hạn thành phần kinh tế quốc doanh vẫn chiếm tỷ trọng 86,7% tổng dư nợ, giảm không đáng kể so với năm 2002. Dư nợ thành phần kinh tế ngoài quốc doanh 85,454 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 13,3% trên tổng dư nợ ngắn hạn. Trong năm 2004, dư nợ của thành phần kinh tế quốc doanh có tăng chút ít, đạt 606,120 tỷ đồng, tuy nhiên chỉ còn chiếm tỷ trọng 78,8% tổng dư nợ ngắn hạn. Dư nợ kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng 21,2%. Như vậy tỷ trọng dư nợ ngắn hạn của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tăng mạnh. Điều đó chứng tỏ Chi nhánh NHCT chi nhánh Chương Dương đang rất quan tâm đến thành phần kinh tế này. Theo biểu 2, ta thấy khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ ngắn hạn. Tuy nhiên qua các năm, tỷ trọng dư nợ của thành phần kinh tế quốc doanh trong tổng dư nợ ngắn hạn của Chi nhánh có xu hướng giảm dần, tỷ trọng dư nợ của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng dần. Điều này chứng tỏ Chi nhánh vẫn tập trung chủ yếu vào khu vực kinh tế nhà nước dù đã ngày càng quan tâm hơn đến thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Ta có thể giải thích vì sao Chi nhánh lại tập trung cho vay ngắn hạn quá nhiều đối với thành phần kinh tế nhà nước như sau: Từ khi hình thành mục đích chính của NHCT Việt Nam nói chung là tài trợ vốn tín dụng để phát triển khu vực công nghiệp và thương nghiệp của nền kinh tế bao cấp từ đó hình thành nhóm khách hàng truyền thống của ngân hàng là các doanh nghiệp nhà nước, mặt khác ngân hàng mở rộng cho vay đối với thành phần này vì đảm bảo an toàn hơn vì trong trường hợp làm ăn thua lỗ thì vẫn được nhà nước bù lỗ. Ngoài ra, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phần lớn làm ăn hiệu quả vẫn chưa cao, quy mô lại rất nhỏ. Trong khoảng 3 năm trở lại đây, chi nhánh Chi nhánh NHCT Chương Dương rất quan tâm phục vụ nhu cầu tín dụng ngắn hạn cho các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh. Thể hiện là tỷ trọng dư nợ cho vay ngắn hạn khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng dần qua các năm. Chiếm 12,2% năm 2002, lên 13,3% năm 2003 và đạt 21,2% năm 2004. Đây cũng là xu hướng chung của toàn ngành ngân hàng cũng như của hệ thống NHCT. Vì hiện nay các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh là thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ nhất, linh hoạt nhất, hiệu quả nhất, rủi ro ít nhất. Ta cũng có thể phân tích thực trạng tín dụng ngắn hạn ở Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương thông qua Biểu 3: Báo cáo dư nợ ngắn hạn phân theo ngành kinh tế. ( trang sau) Từ số liệu ở biểu 3, ta có thể thấy rằng hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHCT Chương Dương không còn chỉ tập trung cấp tín dụng ngắn hạn chủ yếu chủ yếu cho ngành xây dựng mà đã mở rộng sang lĩnh vực khác như công nghiệp, thương nghiệp, vận tải, thông tin liên lạc… Dư nợ tín dụng chủ yếu tập trung ở nghành xây dựng mặc dù đây vẫn được coi là ngành có thời gian thu hồi vốn dài. Tỷ trọng dư nợ ngắn hạn ở ngành xây dựng đều chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các ngành kinh tế qua các năm. Năm 2002 chiếm tỷ trọng 37,2% trong tổng dư nợ ngắn hạn, đến năm 2003 thì tỷ trọng này giảm xuống còn 31,8%. Tuy nhiên đến năm 2004 thì tỷ trọng này đã tăng lên thành 36,4%. Điều này cũng dễ hiểu vì hầu hết các khách hàng lớn của Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương là các doanh nghiệp thuộc khối xây dựng như Công ty điện lực Hà Nội, Công ty đầu tư xây dựng Cầu Đuống công ty Cầu 12, Công ty đầu tư xây dựng Cầu Đuống… Ngược lại với xu hướng tăng tỷ trọng dư nợ của ngành xây dựng thì các ngành thương nghiệp và khối kinh tế tư nhân có tỷ trọng dư nợ giảm đều qua các năm. Đây có lẽ là vấn đề mà Chi nhánh phải quan tâm vì khu vực kinh tế tư nhân, thương nghiệp đang là thành phần kinh tế năng động nhất hiện nay. Theo em, Chi nhánh cần phải đẩy mạnh hơn nữa chính sách khách hàng để thu hút nhiều hơn nữa các khách hàng thuốc khối kinh tế thương nghiệp và kinh tế tư nhân, hộ gia đình. Biểu 3. Báo cáo dư nợ ngắn hạn phân theo ngành kinh tế. Đơn vị: Tỷ đồng Dư nợ ngắn hạn Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Tổng 1247,865 100 640,705 100 769,598 100 1 Công nghiệp 271,296 21,7 16 5,247 25,8 168,082 21,9 2. Sxuất, PP Khí đốt 0 0 0 0 0 0 3. Xây dựng 464,127 37,2 203,883 31,8 280,036 36,4 4. Thương nghiệp 386,654 31 189,772 29,6 227,223 29,5 5. VTải,thông tin LL 110,696 9 77,421 12,1 89,235 11,6 6. Tư nhân, cá thể 15,092 1,1 4,382 0,7 5,022 0,6 (Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương) 2.2.2. Những mặt còn hạn chế tồn tại và nguyên nhân. 2.2.2.1. Những mặt còn hạn chế tồn tại. Bảng 4. Tình hình nợ ngắn hạn quá hạn Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 A. Phát sinh nợ quá hạn 48,42 33,63 7 I. Quốc doanh 0 32,93 0 II. Ngoài quốc doanh 48,42 0,7 7 B. Tổng số thu nợ quá hạn 69,59 154,84 29,11 I. Quốc doanh 22,42 39,95 29,11 1. Dưới 180 ngày 0 2,89 0 2. 181 đến 360 ngày 0 18,03 0 3. Trên 360 ngày 22,42 19,03 29,11 II. Ngoài quốc doanh 47,17 114,89 0 1. Dưới 180 ngày 7,7 0,1 0 2. 181 đến 360 ngày 0,6 0 0 3. Trên 360 ngày 38,87 114,79 0 C. Tổng dư nợ quá hạn 156,41 35,2 13,09 I. Quốc doanh 31,17 35,2 0 1. Dưới 180 ngày 0 0 0 2. 181 đến 360 ngày 0 18,2 5,82 3. Trên 360 ngày 31,17 17 7,27 II. Ngoài quốc doanh 125,24 0 0 1. Dưới 180 ngày 1,5 0 0 2. 181 đến 360 ngày 0,9 0 0 3. Trên 360 ngày 122,84 0 0 Báo cáo tổng kết kinh doanh CN NHCT Chương Dương 2002-2004 Khi đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn, ta cần phải xem xét nợ quá hạn bởi vì nợ quá hạn cao cũng có nghĩa là ngân hàng không thu được lãi và gốc cho vay đúng hạn, nói cách khác làm giảm chất lượng tín dụng của ngân hàng. Qua bảng số liệu 3 ta thấy, dư nợ tín dụng ngắn hạn quá hạn của Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương giảm dần qua các năm. Năm 2002, tổng dư nợ quá hạn là 156,41 tỷ đồng. Đến năm 2003 dư nợ quá hạn giảm xuống còn 35,2 tỷ đồng, và đến năm 2004 thì nợ quá hạn giảm xuống chỉ còn 13,09 tỷ đồng. Như vậy ta có thể thấy tình hình nợ quá hạn được Chi nhánh NHCT Chương Dương giải quyết rất hiệu quả. Số lượng nợ quá hạn giảm rất mạnh qua các năm và đến năm 2004, theo báo cáo kết quả kinh doanh năm 2004 thì nợ quá hạn chỉ còn 13,09 tỷ đồng. Chi nhánh luôn phấn đấu ngăn ngừa nợ quá hạn phát sinh hàng năm, mà còn tập trung giải quyết, thu hồi nợ quá hạn. Qua biểu 3, tình hình thu hồi nợ quá hạn của Chi nhánh là rất tốt. Năm 2003 Chi nhánh thu hồi 154,84 tỷ đồng nợ quá hạn, trong đó của thành phần kinh tế quốc doanh là 39,95 tỷ đồng, ngoài quốc doanh là 114,89 tỷ đồng. Năm 2003 là năm Chi nhánh thu hồi nợ quá hạn nhiều nhất vì trong năm trong năm 2003, Ban giám đốc chi nhánh đề ra nhiệm vụ giải quyết tối đa số dư nợ quá hạn tồn đọng từ những năm trước mà tính đến hết năm 2002 thì tổng dư nợ quá hạn là 156,41 tỷ đồng. Tiếp theo ta sẽ đánh giá được chất lượng tín dụng thông qua chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Năm 2002, dư nợ ngắn hạn là 1247,865 tỷ đồng, nợ quá hạn phát sinh mới là 48,42 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 3,9%. Trong năm 2003, dư nợ ngắn hạn giảm mạnh so với năm 2002 và đạt 640,705 tỷ đồng, nợ quá hạn trong năm 2003 là 33,63 tỷ đồng, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ là 5,24% Năm 2004, nợ quá hạn phát sinh giảm đi nhiều so với năm 2003 và chỉ phát sinh là 7 tỷ đồng, tuy nhiên dư nợ năm 2004 lại tăng so với năm 2003 và đạt 769,598 tỷ đồng, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ là 0,9%, giảm nhiều so với năm 2002 và năm 2003. Qua những số liệu trên ta có thể thấy tình hình nợ quá hạn của Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương diễn biến khá phức tạp. Tỷ lệ nợ quá hạn phát sinh hàng năm trên tổng dư nợ ngắn hạn tăng rồi lại giảm. Năm 2002 tỷ lệ này là 3,9%, năm 2003 tăng lên và đạt 5,24%. Đây là tỷ lệ báo động đối với Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương vì chỉ tiêu nợ quá hạn trên tổng dư nợ tối đa mà NHCT Việt Nam quy định là 5%. Tuy nhiên đến năm 2004, nhờ những biện pháp xử lý thu hồi nợ hiệu quả mà nợ ngắn hạn quá hạn phát sinh chi có 7 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với tổng dư nợ ngắn hạn trong năm là 0,9%. Đây là dấu hiệu chứng tỏ cho ta thấy chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh NHCT Chương Dương ngày càng được nâng lên. Như ta đã biết nợ quá hạn không thể tránh khỏi trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng và trong kinh doanh tín dụng tỷ lệ nợ quá hạn cao ảnh hưởng rất nhiều tới tình hình hoạt động của ngân hàng. Hậu quả của nó là ngân hàng có thể sẽ mất vốn, giảm uy tín của ngân hàng trên thị trường trong nước và quốc tế. Vì vậy Chi nhánh phải tiếp túc đẩy mạnh công tác giải quyết nợ quá hạn và giảm thiểu nợ quá hạn phát sinh. Để nhanh chóng xử lý thu hồi nợ quá hạn, nợ tồn đọng, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Chi nhánh đã tập trung chỉ đạo rà soát từng khoản nợ, từng tài sản, lên phương án giải quyết cụ thể ... Kết quả trong năm đã xử lý được nhiều tài sản: bán đấu giá công ty Thành Đạt, công ty Thành Phương, Xí nghiệp Hoàng Lê... thu hồi nhiều món nợ vay không có tài sản đảm bảo phát sinh từ những năm trước như: công ty TNHH Gia Lâm, HTX cơ điện Ngọc Lâm, Công ty XNK Hồng Hà. Bên cạnh xử lý thu hồi nợ quá hạn, nợ tồn đọng, Chi nhánh tập trung rà soát thu hồi các khoản nợ không sinh lời, do khách hàng không trả được lãi như công ty cổ phần Giầy Gia Lâm đã xử lý tài sản thu hồi 9 tỷ đồng, thu hồi khoản nợ gốc của công ty PTKTKT 16 tỷ đồng. Ngoài sự tồn tại của nợ quá hạn phát sinh hàng năm như số liệu nêu trên thì trong những năm qua, Chi nhánh còn có những mặt hạn chế còn tồn tại sau: - Nguồn vốn tăng trưởng cao song chưa thực sự ổn định, vững chắc. - Cơ cấu dư nợ: Chi nhánh đã điều chỉnh dư nợ đối với các thành phần kinh tế, nhưng tỷ lệ cho vay đối với các Doanh nghiệp Nhà nước còn chiếm tỷ trọng quá lớn, trên 80%. Chi nhánh cũng chưa có sự quan tâm đúng mức đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Thể hiện là quy chế cấp tín dụng ngắn hạn cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn rườm rà, gây khó khăn cho các doanh nghiệp tiếp cận với Chi nhánh NHCT Chương Dương. - Số lượng khách hàng của Chi nhánh còn ít mà Chi nhánh lại tập trung vào các khách hàng lớn như công ty xăng dầu Hàng Không, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, Công ty điện lực Hà Nội, Công ty đầu tư xây dựng Cầu Đuống - Công tác xử lý nợ tồn đọng còn gặp nhiều khó khăn trong việc hợp thức hoá thủ tục pháp lý của tài sản thế chấp, tài sản bất động sản nằm trong ngõ sâu…. Trong việc xử lý tài sản thế chấp còn gặp nhiều khó khăn, không phát mại được tài sản thế chấp, dẫn đến không thu hồi được nợ, hoặc có bán được tài sản thế chấp thu được nợ nhưng số tiền không đủ vốn cho vay ra ban đầu do giá cả thị trường đối với vốn tài sản đó giảm xuống. - Trụ sở giao dịch mới đang được xây dựng, vị trí nằm sâu trong ngõ, không thuận lợi trong quan hệ giao dịch và tiếp thị. 2.2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế tồn tại. Nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng bao gồm nguyên nhân chủ quan và nguyên nhânkhách quan. 2.2.2.2.1. Nguyên nhân chủ quan. - Do một số cán bộ buông lỏng quản lý, thiếu tinh thần trách nhiệm đã không kiểm tra chặt chẽ trước, trong và sau khi cho vay, đặc biệt la khâu kiểm soát trong và sau khi cho vay dẫn đến khách hàng sử dụng vốn sai mục đích mà không bị phát hiện sớm. Ví dụ như sử dụng vốn vay ngắn hạn vào đầu tư dài hạn như xây dựng cơ bản hay quay vòng vốn, hoặc là khách hàng sau khi bán được hàng nhưng không trả tiền vay cho Chi nhánh mặc dù đã đến kì hạn trả nợ gốc và lãi. Do khách hàng được Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương cấp tín dụng ngắn hạn tập trung ở khu vực quận Long Biên, hơn nữa số lượng khách hàng cũng nhỏ nên các cán bộ tín dụng sẽ dễ dàng đi lại, kiểm tra tình hình của khách hàng. Tuy vậy, cán bộ tín dụng ở Chi nhánh cũng gặp phải những khó khăn. Do Chi nhánh NHCT Chương Dương phân công cán bộ tín dụng chuyên trách khách hàng vay vốn theo thành phần kinh tế. Đó là cán bộ phụ trách khối doanh nghiệp nhà nước, cán bộ phụ trách các công ty trách nhiệm hữu hạn, chuyên trách về Công ty cổ phần, cán bộ chuyên trách doanh nghiệp tư nhân và cán bộ chuyên trách hộ kinh doanh. Ngoài đối tượng khách hàng thuộc khối doanh nghiệp nhà nước, đối với các cán bộ chuyên trách các nhóm khách hàng khác thì đối tượng vay này rất phức tạp, phần lớn là kinh doanh thương mại, làm dịch vụ, tài sản thế chấp đa dạng, mức vay lớn, từ hàng chục triệu đồng đến hàng tỷ đồng, hàng chục tỷ đồng. Do đó, cường độ làm việc của cán bộ tín dụng là rất lớn. Như vậy dễ dàng xảy ra tình trạng thiễu xót trong kiểm tra khách hàng, nhất là trong khâu kiểm tra sử dụng vốn và quản lý tài sản thế chấp. Việc chấp hành quy trình tín dụng ngắn hạn chưa tốt, việc kiểm tra, kiểm soát các khoản tiền vay ngắn hạn của khách hàng chủ yếu giao cho các bộ tín dụng chuyên trách theo dõi, kiểm tra, thu hồi nợ… mà chưa có sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các bộ phận kế toán, kiểm soát. Ta cũng có thể đề cập đến vấn đề chất lượng thông tin chưa cao. Lý do là hệ thống máy móc phục vụ cho thông tin còn yếu kém, chất lượng thông tin không chính xác, số lượng chưa đầy đủ. Do đó khả năng phân tích của cán bộ tín dụng sẽ giảm xuống, chất lượng tín dụng cũng giảm theo. Công tác lưu trữ thông tin ở Chi nhánh cũng chưa tốt, cũng như việc trao đổi thông tin giữa các phòng ban cũng không nhịp nhàng, đầy đủ. Như vậy rủi ro phân tích tìn dụng sai sẽ dễ dàng xảy ra. Cán bộ tín dụng còn chưa có tính chủ động, sáng tạo cùng khách hàng tìm kiếm phương án kinh doanh có hiệu quả. Khi các điều kiện vay chưa đáp ứng đủ, các cán bộ tín dụng chưa chủ động cùng khách hàng tìm ki._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6989.doc
Tài liệu liên quan