Lời nói đầu
Trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay , bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng coi mục tiêu phát triển kinh tế là mục tiêu quan trọng cần đạt được . Nhưng để đạt đượcmụa tiêu quan trọng đó đòi hỏ chính phủ phải có những chính sách , chiến lược phù hợp và hiệu quả để sử dụng tối đa những nguồn lực hiện có của đất nước mình , đồng thời phải kế thừa và phát triển những tinh hao của thế giới .
Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường tài chính đóng vai trò hết sức quan trọn
112 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1316 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Bắc HN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g , sự lớn mạnh của thị trường tài chính nó ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của một quốc gia và cuả cả thế giới . Chủ thể quan trọng của thị trường tài chính là Ngân hàng , nó có mặt trong tất cả các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường . Vì thế muốn một nền kinh tế ổn định và phát triển thì đòi hỏi bản thân hệ thống Ngân hàng cũng phải ổn định và phát triển bởi nếu nó không ổn định thì nó sẽ phá vỡ sự ổn định trong các mối quan hệ kinh tế từ đó dẫn đến làm suy giảm nền kinh tế .
Tín dụng là một trong ba nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại đó là: Nhận tiền gửi , hoạt động tín dụng, trung gian thanh toán , hơn nữa nó là nguồn sinh ra lợi nhuận nhiều nhất cho Ngân hàng thương mại vì thế mà muốn hệ thống Ngân hàng ổn định và phát triển thì đòi hỏi chất lượng hoạt động tín dụng cũng phải ổn định và hiệu quả .
Xuất phát từ quan điểm đó mà em đã chọn đề tài nghiên cứu là :
“Một số giải pháp nhằm nâng cao chât lượng tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà nội ”.
Với thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà nội , một Chi nhánh hoạt động trên địa bàn Gia Lâm cùng với số liệu thống kê từ năm 2000 trở lại đây em hy vọng rằng mình sẽ đóng góp một phần nhỏ bé nào đó của mình vào công cuộc Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Kết cấu của chuyên đề nghiên cứu gồm:
ChươngI : Tín dụng Ngân hàng và chất lượng của tín dụng trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ Nghĩa .
ChươngII: Thực trạng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư &Phát triển Bắc Hà nội và những vấn đề đặt ra về chất lượng tín dụng .
ChươngIII: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà Nội trong những năm trước mắt .
Qua chuyên đề này em xin gửi lời cảm ơn đến các Cô, Bác, Anh , Chị phòng tín dụng và các phòng ban khác của Chi nhánh . Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Lục Diệu Toán đã giúp đỡ em hoàn thành tốt chuyên đề thực tập tốt chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
Sinh viên
Trần Quang Huy
Chương I
Tín dụng ngân hàng và chất lượng tín dụng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
I . tín dụng và vai trò của tín dụng tong nền kinh tế thị trường.
1. khái niệm về tín dụng và sự cần thiết của tín dụng.
1.1.khái niệm và đặc điểm của tín dụng.
1.1.1. Khái niệm .
Trong nền kinh tế hàng hoá tiền là phương tiện thanh toán chủ yếu trong tất cả các muối quan hệ kinh tế, nền kinh tế hàng hoá càng phát triển bao nhiêu thì tốc độ quay vòng của đồng tiền càng nhanh bấy nhiêu, lúc này bản thân mỗi chủ thể kinh tế không thể tự đáp ứng được nhu cầu về vốn của mình mà họ phải dựa vào các chủ thể kinh tế khác đặc biệt là Các tổ chức tín dụng thông qua quan hệ tín dụng mới có thể đáp ứng được nhu cầu vốn của mình. Chính vì thế ta có thể nói cơ sở hình thành và phát triển của quan hệ tín dụng chính là sự tin tưởng và nhu cầu về vốn trong nền kinh tế hàng hoá. Từ cơ sở hình thành đó ta có thể đưu ra một khái niệm chung về quan hệ tín dụng như sau :
Tín dụng là quan hệ vay mượn, sử dụng vốn của lẫn nhau một cách tạm thời và dựa trên nguyên tắc hoàn trả tin tưởng.
Từ khái niệm trên ta có thể thấy tín dụng không phải là quan hệ mua bán , chỉ xảy ra trong thời gian nhất định và phải được xác định trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau. Nói chung đứng trên mỗi góc độ khác nhau người ta sẽ có cách hiểu khác nhau về tín dụng , chính vì thế mà theo Luật các tổ chức tín dụng của Việt nam đã đưa ra định nghĩa về hoạt động tín dụng như sau:
“ Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng vốn tự có, vốn huy động để cấp tín dụng ” . Trong đó cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay , chiết khấu , cho thuê tài chính , bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác .
Dù đứng trên quan điểm như thế nào chăng nữa thì bản chất hoạt động tín dụng không hề thay đổi: Trong quan hệ tín dụng ngườn cho vay chỉ nhường quyền sử dụng vốn cho người đi vay trong một thời gian nhất định chứ không nhường quyền sở hữu và người đi vay phải hoàn trả lại cho người cho vay khi đến hạn đã thoả thuận . Sự hoàn trả này không chỉ là sự bảo tồn về mặt giá trị mà còn được tăng thêm dưới hình thức lãi suất.
1.1.2. Đặc điểm của quan hệ tín dụng
Xuất phát từ cơ sở hình thành cũng như khái niệm về quan hệ tín dụng ta có thể đưa ra một số đặc điểm về quan hệ tín dụng như sau:
Trong quan hệ tín dụng không có sự vận động của quyền sở hữu mà chỉ thay đổi quyền sử dụng trong một thời gian nhất định .
Giá cả trong quan hệ tín dụng chính là lãi suất tín dụng.
Người cho vay nhận được thu nhập dưới hình thức lãi suất . Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Giá cả trong quan hệ tín dụng không ngang bằng với giá trị mà giá cả trong quan hệ tín dụng là biểu hiện bằng tiền của giá trị quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định
Thời gian được xác định trên cơ sở giữa người đi vay và người cho vay.
Quan hệ tín dụng được dựa trên yếu tố tin tưởng .
1.2.Sự cần thiết của tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
Khi nền kinh tế sản xuất hàng hoá ra đời thì quan hệ tín dụng cũng được hình thành và phát triển . Nền kinh tế càng phát triển bao nhiêu thì kéo theo thị trường tài chính tiền tệ cũng phát triển một cách thích ứng. Trong nền kinh tế thị trường tiền tệ là một phạm trù kinh tế, mọi quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá là yếu tố cần thiết của quá trình sản suất . Trong nền kinh tế hàng hoá tiền tệ tham gia vào quá trình tuần hoàn vốn . Trong quá trình đó phát sinh tình trạng tạm thời nhàn rỗi và tạm thời thiếu vốn ở các doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế .
Vậy tại sao quan hệ tín dụng lại cần thiết trong nền kinh tế thị trường, điều này được lý giải ở trên những khía cạnh sau:
1.2.1. Trong nền kinh tế thi trường mỗi doanh nghiệp đều muốn được thể hiện và khẳng định mình trên thương trường . Muốn thắng được đối thủ cạnh tranh đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần phải có được ba yếu tố đó là : Vốn; Lao động; Khoa học công nghệ, trong đố có thể nói Vốn là yếu tố nền tảng hình thành nên hai yếu tố còn lại. Nếu có vốn thì mỗi doanh nghiệp sẽ mua được máy móc thiết bị , vây dựng nhà xưởng v.v.v. Đồng thời họ cũng thuê được lao động , đào tạo được đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn ngày càng cao hơn. Nhưng rõ ràng là với số vốn tự có của mình thì bản thân mỗi doanh nghiệp sẽ không thể đảm bảo được tất cả các mối quan hệ kinh tế , chính vì thế mà trong nguồn vốn của doanh nghiệp luôn tồn tại hai nguồn chính đó là Nợ và Vốn chủ sở hữu. Do đó quan hệ tín dụng được hình thành một cách khách quan trong chính nhu cầu của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường , chỉ có quan hệ tín dụng ra đời mới đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế nói chung , các doanh nghiệp nói riêng . Ngân hàng sẽ là tổ chức tài chính trung gian cung cấp nghiệp vụ đó , đồng thời là người điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu góp phần làm ổn định và phát triển nền kinh tế .
1.2.2. Trong nền kinh tế thị trường ở bất kỳ thời điểm nào cũng xuất hiện tượng: “ Tạm thời thừa vốn” và “ Tạm thời thiếu vốn “
1.2.2.1. “Tạm thời thừa vốn”.
Thừa ở đây với nghĩa là tổ chức , đơn vị đó có một lượng vốn nhàn rỗi trong một thời gian nhất định. Điều nay được thể hiện cụ thể trong từng chủ thể của nền kinh tế .
- Chính phủ :
Trong nền kinh tế quốc dân việc thu chi xảy ra không đồng thời, thông thường các khoản thu nhập thì tạp trung theo định kỳ còn các khoả chi thì được phân bổ dần dần nên trong một khoảng thời gian nhất định sẽ xuất hiện số tiền nhàn rỗi từ Ngân sách nhà nước
- Các doanh nghiệp :
Nguồn thu của các doanh nghiệp và nguồn chi của các doanh nghiệp có sự không thống nhất về mặt thời gian vì những lý do: Hàng hoá sản xuất ra đã tiêu thụ được ; Lương của các công nhân chưa đến hạn trả; Tiền chưa phải trả do mua chịu hàng hoá; Dự trữ của doanh nghiệp ; Chưa phải thực hiện nghĩa vụ tài chính và trả lãi suất Ngân hàng ; Các quỹ chưa được sử dụng ; Lợi nhuận của doanh nghiệp ... Điều này dẫn đến các doanh nghiệp luôn có một lượng vốn nhàn rỗi trong một thời gian nhất định.
- Cá nhân người tiêu dùng:
Trong hoạt động sản suất kinh doanh , các cá nhân trong xã hội sẽ nhận được phần thu nhập của mình dưới các hình thức : tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp, lợi nhuận thu được ... Một phần của các phần thu nhập này không chỉ tiêu dùng ngay mà còn để dành tiêu dùng trong tương lai . Phần tiền để dành này hình thành lượng vốn tiền tệ nhàn rỗi rất lớn trong nền kinh tế
- Nguồn vốn nhàn rỗi từ nước ngoài:
Mỗi quốc gia vì lí do như là muốn tham gia vào các tổ chức quốc tế hay là để đảm bảo an toàn cho nên kinh tế cũng như ổn định đồng tiền trong nước họ thường giữ một khoản tiền tại các Ngân hàng ở nước ngoài để giao dịch hay một định chế tài chính quốc tế hoặc có một lượng vốn dồi dào mà không đêm đầu tư tiếp . Thương mại quốc tế ngày càng mở rộng dẫn đến mỗi quốc gia đều có một tài khoản của mình ở nước ngoài để giao dịch . Chính những lí do đó đã tạo nên một lượng vốn nhàn rỗi không nhỏ có thể sử dụng trong một thời gian nhất định.
1.2.2.2. “ Tạm thời thiếu vốn”.
Thiếu vốn ở đây với nghĩa là tổ chức đơn vị đó thiếu lượng tiền mặt tạm thời để trang trải cho những hoạt động kinh tế trước mắt đòi hỏi phải chi tiền mặt . Và điều này được thể hiện cụ thể trong từng chủ thể của nền kinh tế .
- Chính phủ:
Đóng vai trò là một chủ thể lớn điều hành thúc đẩy sự phát triển của một đất nước , Chính phủ thường đầu tư vào các dự án lớn như cơ sở hạ tầng , các công trình mang tính sống còn đối với lợi ích của quốc gia mà tư nhân không có đủ khả năng và điều kiện thực hiện . Nguồn vốn đầu tư chính phủ lấy từ Ngân sách nhà nước (NSNN), nhưng đôi khi NSNN không đủ vì chưa đến hạn thu thuế dẫn đến sự thiếu vốn đấu tư Chính phủ phải đi vay
- Các doanh nghiệp :
Như ta đã biết các doanh nghiệp khác nhau về điều kiện sản xuất kinh doanh dẫn đến tuần hoàn luôn chuyển vốn khác nhau . Đồng thời mỗi doanh nghiệp lại là một thực thể sở hữu khác nhau cho nên luôn tồn tại hai nhóm doanh nghiệp này thừa vốn thì doanh nghiệp khác thiếu vốn vì chưa bán được hàng, chưa thu được tiền nhưng đã đến thời hạn phải thanh toán các khoản nợ , phải trả lương ... Dẫn đến các doanh nghiệp có nhu cầu được vay vốn.
- Cá nhân:
Người tiêu dùng đôi khi có những khoản phải chi bất thường hoặc những khoản chi tiêu ngoài khả năng tài chính tạm thời của họ nhưng họ có khả năng bù đắp những thiếu hụt đó trong tương lai . Điều này dẫn đến nhu cầu vay tiêu dùng của cá nhân .
Từ sự phân tích ở trên ta thấy trong nền kinh tế luôn tồn tại hai nhu cầu cho vay và đi vay . Hai nhu cầu này có đặc điểm chung là đều nhằm thoả mãn nhu cầu hiện tại của các chủ thể kinh tế và nó xảy ra trong thời gian ngắn. Khác nhau ở cho vay và đi vay là quyền sở hữu, người cho vay vẫn có quyền sở hữu đối với khoản tiền cho vay còn người đi vay chỉ có quyền sử dụng đối với khoản tiền được vay trong khoảng thời gian thoả thuận giữa hai bên. Để giải quyết vấn đề “ Tạm thời thừa vốn “ và “ Tạm thời thiếu vốn “ thì quan hệ tín dụng ra đời và nó không thể thiếu trong nền kinh tế hiện đại.
2. Chức năng và vai trò của tín dụng.
2.1. Chức năng của tín dụng.
Nhìn tổng thể tín dụng có hai chức năng:
Huy động và phân phối nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi dưới hình thức cho vay.
Giám đốc và kiểm soát bằng đồng tiền đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh. Dùng tiền để xây dựng các chỉ tiêu, thước đo để tiến hành quản lý doanh nghiệp với các mục tiêu: Sử dụng vốn hiệu quả , hợp pháp và hợp lệ.
2.2. Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
Thứ nhất. Tín dụng là điều kiện đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra thường xuyên liên tục.
Trong một thời điểm trong nền kinh tế luân tồn tại hai nhóm doanh nghiệp: Một nhóm “ tạm thời thừa vốn “ và muốn sử dụng số vốn nhàn rỗi này để kiếm lời trong một thời gian nhất định. Một nhóm “ tạm thời thiếu vốn “ và muốn tìm kiếm nguồn vốn nhàn rỗi khác để đáp ứng nhu cầu hiện tại. Nhờ hoạt động tín dụng mà cả hai nhóm doanh nghiệp đều được thoả mãn về vốn và dẫn đến quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra một cách thương xuyên, liên tục, nguồn vốn được sử dụng một cách tối đa.
Thứ hai. Tín dụng huy động, tập trung vốn thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Bất kỳ một quốc gia nào muốn phát triển nền kinh tế cũng cần phải có một nguồn vốn đầu tư lớn để đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, chiến thắng trong cạnh tranh. Nhưng để có lượng vốn đầu lớn như vậy thì chỉ có quan hệ tín dụng với đáp ứng được điều đó bởi quan hệ tín dụng sẽ tập trung huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và đáp ứng nhu cầu đó.
Thứ ba. Tín dụng góp phần nâng cao mức sống của dân cư.
Một trong những ví dụ điển hình để minh chứng cho điều này là thông qua quan hệ tín dụng mà những người có thu nhập thấp những người tàn tật đã có được nhà ở, phương tiện đi lại, điện thoại v.v. Bởi họ có thể sử dụng phương thức vay trả góp.
Thứ tư. Là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Như ta đã biết cơ cấu kinh tế được quyết định bởi cơ cấu đầu tư mà tín dụng lại quyết định đến cơ cấu đầu tư. Nhà nước thông qua hoạt động của các Ngân hàng thương mại, chủ yếu là hoạt động tín dụng để điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
3. Các hình thức tín dụng Ngân hàng.
Hoạt động tín dụng Ngân hàng bao gồm các nghiệp vụ: Cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính.
3.1. Hoạt động cho vay.
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên trong hoạt động tín dụng thì hoạt động cho vay đóng vai trò quan trọng và chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản và nó cũng là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho Ngân hàng.
ứng với mỗi tiêu thức khác nhau người ta phân loại cho vay khác nhau, ta có thể dựa trên những tiêu thức sau:
Theo kỳ hạn nợ.
Theo mục đích sử dụng vốn.
Theo hình thức đảm bảo tiền vay.
Theo phương pháp hoàn trả .
Theo loại hình tiền tệ.
3.1.1. Theo kỳ hạn nợ.
Theo kỳ hạn nợ cho vay của Ngân hàng thương mại(NHTM) được phân làm ba loại: Cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn, cho vay dài hạn
Cho vay ngắn hạn.
Là loại cho vay có kỳ hạn dưới 1 năm và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Khoản cho vay ngắn hạn chủ yếu tài trợ cho các hoạt động sau:
+ Cho vay mua hàng dự trữ.
Từ trước tới nay, ngân hàng thường cho các hãng vay ngắn hạn bổ xung tạm thời vốn hoạt động. Trên thực tế cho tới sau chiến tranh thế giới thứ II, ngân hàng chủ yếu tập trung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp dưới hình thức các khoản cho vay mang tính tự thanh toán (self-liquidating loans). Các khoản cho vay này chủ yếu được sử dụng để tài trợ cho việc mua hàng dự trữ như nguyên liệu thô ... Các khoản cho vay như vậy tận dụng được chu kỳ tiền mặt thông thường trong một hãng kinh doanh như sau:
Tiền mặt được chi dùng mua dự trữ nguyên vật liệu và bán thành phẩm hoặc thành phẩm.
Hàng hoá được sản xuất hoặc dữ trữ để bán.
Hàng đã bán(thường là bán chịu).
Tiền mặt thu về( ngay khi bán hàng hoặc thu từ các khoản bán chịu) và được dùng để trả các khoản vay ngân hàng.
Trong trường hợp này, kỳ hạn của các khoản vay bắt đầu được tính từ khi hãng cần vốn để đáp ứng yêu cầu mua hàng, kết thúc(có thể trong vòng từ 60 đến 90 ngày) khi hãng thu được tiền bán hàng và nhập vào tài khoản để trả nợ cho Ngân hàng.
+ Cho vay vốn lưu động.
Đây là những khoản cho vay ngắn hạn đối các hãng kinh doanh với kỳ hạn kéo dài từ vài ngày đến 1 năm. Các khoản vay vốn lưu động thường được dùng để mua hàng dự trữ hoặc mua nguyên vật liệu. Do đó chúng có những đặc điểm gần giống với các khoản cho vay tự thanh toán như đã đề cập ở trên.
Thông thường các khoản vay vốn lưu động được sử dụng để đáp ứng mức sản xuất và nhu cầu tín dụng trong thời kỳ cao điểm của chu kỳ kinh doanh. Ví dụ một hãng sản xuất quần áo dự đoán rằng nhu cầu đối với quần áo học sinh vào mùa thu và quần áo ấm vào mùa đông là rất lớn. Do vậy hãng cần các khoản tín dụng ngắn hạn vào cuối mùa xuân và mùa hạ để mua vải và thuê thêm công nhân nhằm tăng sản lượng để đáp ứng hàng hoá cho người bán lẻ trong giai đoạn từ tháng 8 đến tháng 12 . Ngân hàng của hãng lập ra một hạn mức tín dụng thời hạn từ 6 đến 9 tháng cho phép hãng sản xuất quần áo có thể rút tiền trong suất giai đoạn này. Quy mô của hạn mức tín dụng được xác định trên cơ sở dự tính về lượng vốn lớn nhất mà hãng có thể sẽ cần tại bất cứ thời điểm nào trong suốt thời hạn của hợp đồng tín dụng.
Thông thường các khoản cho vay vốn lưu động được đảm bảo bằng các khoản phải thu hoặc thế chấp bằng hàng tồn kho và khách hàng sẽ phải chịu lãi suất thả nổi trên lượng tiền thực tế họ đã sử dụng. Khoản lệ phí cam kết được tính trên phần tín dụng thuộc hạn mức không sử dụng và đôi khi tính trên toàn bộ giá trị của hạn mức. Ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải có số dư bù tiền gửi. Số dư bù tiền gửi bao gồm lượng tiền gửi tối thiểu bắt buộc được xác định trên cơ sở quy mô hạn mức tín dụng và một lượng tiền gửi bắt buộc bổ xung bằng một tỉ lệ phần trăm quy định trên tổng lượng tín dụng mà khách hàng thực sử dụng.
+ Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng.
Một hình thức cho vay ngắn hạn có bảo đảm phổ biến trong ngân hàng thương mại là cho vay hỗ trợ các công trình xây dựng, nhà ở, các toà nhà văn phòng, trung tâm thương mai, các công trình khác. Mặc dù thời gian xây dựng công trình kéo dài nhưng các khoản cho vay lại mang tính tạm thời. Các khoản cho vay này cung cấp vốn cho bên thi công để thuê công nhân, thuê thiết bị xây dựng, mua vật liệu xây dựng và giải phóng mặt bằng. Khi giai đoạn xây dựng kết thúc, bên thi công thường vay thế chấp dài hạn từ các tổ chức tài chính khác, để lấy tiền thanh toán cho các khoản vay xây dựng ngắn hạn. Trong thực tế chỉ khi Công ty xây dựng chắc chắn có một cam kết cho vay thế chấp để tiếp tục tài trợ dài hạn cho các dự án sau khi kết thúc giai đoạn xây dựng thì ngân hàng mới thực hiện các khoản cho vay xây dựng ngắn hạn. Gần đây một vài ngân hàng đã cho vay với thời hạn khá dài 5 đến 7 năm, cung ứng vốn cho việc xây dựng và hoạt động trong giai đoạn đầu của công trình.
+ Cho vay kinh doanh chứng khoán.
Những người kinh doanh chứng khoán Chính phủ và chứng khoán tư nhân thường cần sự hỗ trợ vốn ngắn hạn để mua chứng khoán mới và duy trì danh mục đầu tư chứng khoán hiện có cho tới khi các chứng khoán này được bán hoặc đến hạn thanh toán. Các ngân hàng lớn nhất thường sẵn sàng cho vay đối với người kinh doanh chứng khoán vì những khoản cho vay này có chất lượng cao, thường được đảm bảo bằng chứng khoán Chính phủ do nhà kinh doanh chứng khoán nắm giữ. Hơn nữa nhiều khoản vay kinh doanh chứng khoán có kỳ hạn rất ngắn, chỉ là vay qua đêm hoặc vài ngày. Nhờ vậy ngân hàng có thể nhanh chóng thu hồi vốn hoặc cho vay các khoản mới với lãi suất cao hơn nếu thị trường tín dụng trở nên căng thẳng.
Một hình thức tín dụng khác thuộc loại này là cho vay đối với các tổ chức ngân hàng đầu tư. Hỗ trợ cho hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu , cổ phiếu công ty và các giấy nợ của Chính phủ. Việc bảo lãnh phát hành chứng khoán thường diễn ra khi ngân hàng đầu tư giúp đỡ khách hàng trong việc mua lại công ty khác, giúp đỡ Công ty phát hành chứng khoán lần đầu, phát hành thêm cổ phiếu để tăng quy mô vốn kinh doanh hiện có, hoặc hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện hoạt động đầu tư mới. Khi ngân hàng bán chứng khoán mới cho các nhà đầu tư trên thị trường vốn thì khoản vay cùng với lãi sẽ được hoàn trả.
+ Cho vay kinh doanh bán lẻ.
Các ngân hàng hỗ trợ người tiêu dùng trong việc mua trả góp xe máy, đồ dùng gia đình, nội thất và các hàng hoá lâu bền khác bằng cách tài trợ cho các khoản phải thu mà người bán những hàng hoá này sẽ nhận được sau khi họ ký hợp đồng bán trả góp. Hợp đồng trả góp sẽ được ngân hàng của người bán lẻ xem xét. Nếu đáp ứng các yêu cầu tín dụng, ngân hàng sẽ mua những hợp đồng này với một mức lãi suất thay đổi tuỳ theo chất lượng tín dụng người vay vốn, chất lượng của vật thế chấp và thời hạn của mỗi khoản vay.
Đối với người kinh doanh mô tô, ti vi, đồ nội thất và các hàng hoá lâu bền khác Ngân hàng có thể tài trợ dự trữ tồn kho thông qua việc xác định kế hoạch sản xuất. Ngân hàng sẽ cấp tín dụng cho người bán lẻ để họ có thể yêu cầu hãng sản xuất chuyển hàng. Lúc đầu hầu hết các khoản vay như vậy có kỳ hạn 90 ngày và sau đó nó có thể được tái gia hạn với thời gian một tháng hay vài tháng. Để có được khoản tín dụng này người bán lẻ phải ký hợp đồng bảo đảm an toàn cho phép ngân hàng có quyền sở hữu hàng hoá trong trường hợp họ không thể thanh toán khoản vay. Sau đó, nhà sản xuất sẽ có thể chuyển hàng cho người bán lẻ và gửi đơn thanh toán cho ngân hàng. Định kỳ ngân hàng sẽ cử cán bộ đến kiểm tra hàng hoá trong kho của người bán lẻ để xác đinh lượng hàng đã được bán và lượng hàng tồn kho. Sau khi bán được hàng hoá, người bán lẻ sẽ gửi séc tới ngân hàng để thanh toán dần khoản nợ cho ngân hàng.
Nếu cán bộ ngân hàng xác định thấy bất kỳ một hàng hoá nào đã được bán mà ngân hàng không nhận được tiền thanh toán thì cán bộ ngân hàng sẽ yêu cầu người bán lẻ viết ngay séc trả tiền cho số hàng hoá đó. Nếu người bán lẻ không thanh toán được, ngân hàng có thể buộc thu hồi hàng và trả một phần hoặc toàn bộ số hàng đó cho nhà sản xuất kinh doanh để thu hồi số vốn cho vay. Hợp đồng kế hoạch sàn thương bao gồm một khoản dự phòng tổn thất tín dụng, tích luỹ các khoản lãi thu được khi người vay trả tiền.
Quy mô của quỹ dự phòng sẽ giảm nếu có bất cứ khoản vay nào không được hoàn trả. Khi dự phòng tổn thất tín dụng đạt tới mức định trước, người bán lẻ sẽ được giam trừ một phần số lãi của hợp đồng trả góp.
+ Cho vay trên tài sản.
Trong những năm gần đây, những khoản cho vay trên tài sản là khoản tín dụng được đảm bảo bằng các tài sản ngắn hạn của hãng được dự tính sẽ chuyển thành tiền mặt trong tương lai. Ngày càng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng cho vay ngắn hạn. Tài sản chủ yếu được dùng để bảo đảm cho các khoản vay bao gồm các khoản phải thu, nguyên vật liệu hoặc thành phẩm tồn kho. Ngân hàng cho vay theo một tỷ lệ phần trăm nhất định trên giá trị ghi sổ của tài khoản phải thu, hoặc trên giá trị hàng tồn kho. Ví dụ ngân hàng có thể sẵn sàng cho vay một khoản tiền bằng 70% khoản phải thu trên tài khoản thanh toán vãng lai của doanh nghiệp. Một cách khác ngân hàng có thể cho vay tới 40% giá trị hàng tồn kho hiện tại của doanh nghiệp gồm hàng hoá đang bán hoặc hàng hoá trong kho. Khi thu hồi được các khoản phải thu hoặc bán được hàng doanh nghiệp sẽ chuyển một phần tiền mặt thu về tới ngân hàng để trả nợ tiền vay.
Đối với hầu hết những khoản vay được thế chấp bằng các khoản phải thu hay hàng tồn kho doanh nghiệp đi vay vẫn có quyền sở hữu đối với các tài sản đó. Tuy nhiên đôi khi quyền sở hữu cũng được chuyển sang cho ngân hàng để hạn chế rủi ro khi một số khoản nợ không được thanh toán như dự tính.
Cho vay trung hạn.
Là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm, loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và có thời gian thu hồi vốn nhanh.
Cho vay dài hạn.
Là loại cho vay có thời hạn từ 5 năm trở lên, loại cho vay này chủ yếu để đáp ứng nhu cầu dài hạn như: Xây dựng nhà ở, các thiết bị phương tiện vân tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. Loại cho vay này tài trợ cho các loại:
+ Cho vay kỳ hạn mua thiết bị và các tài sản cố định khác.
+ Cho vay luôn chuyển.
+ Cho vay theo dự án.
+ Cho vay tài trợ hoạt động mua lại công ty.
3.1.2. Theo mục đích sử dụng vốn vay.
Hoạt động cho vay bao gồm: Cho vay tiêu dùng, cho vay sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Cho vay tiêu dùng:
Là loại cho đối với các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mua sắm nhà cửa, xe và các loại hàng hoá tiêu dùng khác. Hoạt động cho vay tiêu dùng rất phát triển ở các nước Âu Mỹ. Hoạt động cho vay tiêu dùng đã xuất hiện ở nước ta nhưng áp dụng còn rất hạn chế bởi mức sống trung bình của người dân chưa cao, việc thanh toán bằng thẻ đang được chú trọng nhưng chưa thực sự phát triển, hiểu biết của người dân về loại hình tín dụng này chưa nhiều.
Cho vay sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Là hoạt động cho vay đối với các chủ thể kinh tế để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hoá. Hoạt động cho vay này đã xuất hiện từ rất sớm và rất phát triển trên thế giới, chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại.
3.1.3. Theo hình thức bảo đảm tiền vay.
Trong cho vay, để giảm thiểu rủi ro, tổn thất có thể xảy ra cho Ngân hàng đối với những khách hàng không thực hiện đúng cam kết thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng, ngân hàng thường yêu cầu các khoản cho vay phải có bảo đảm. Việc bảo đảm đối với khoản vay là rất cần thiết bởi một mặt với doanh nghiệp sẽ phải có ý thức hơn trong kinh doanh và trả món nợ, mặt khác đối vơi ngân hàng việc có bảo đảm đối với các khoản vay của doanh nghiệp tạo nên tâm lý yên tâm hơn và giảm rủi ro. Có nhiều loại bảo đảm và do đó cũng có nhiều loại cho vay theo hình thức bảo đảm khác nhau như cho vay cầm cố, cho vay thế chấp, cho vay bảo lãnh....
Theo hình thức này ta có thể phân loại cho vay thành cho vay có bảo đảm và không có bảo đảm.
Cho vay có bảo đảm.
Là một loại hình tín dụng được cấp phát trên cơ sở có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ 3.
Cho vay không có bảo đảm.
Là việc cấp tín dụng không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh mà dựa trên uy tín của chính khách hàng hay người ta còn gọi là tín chấp. Khách hàng được ngân hàng cho vay theo hình thức này thường là những khách hàng truyền thống của ngân hàng có uy tín và độ tin cậy cao.
3.1.4 Theo phương thức hoàn trả.
Theo phương thức này ta có thể phân loại cho vay thành hai loại:
Cho vay trả góp: Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn, gốc và lãi theo định kỳ, trả dần trong suốt kỳ hạn thực hiện hợp đồng. Kỳ hạn hoàn trả có thể hàng tháng, hàng quý , nửa năm hoặc một năm.
Cho vay trả một lần: Là loại cho vay trả một lần theo kỳ hạn đã thoả thuận.
3.1.5 Theo loại hình tiền tệ.
Cho vay bằng ngoại tệ.
Cho vay bằng nội tệ.
Cho vay bằng vàng.
3.2 Hoạt động cho thuê tài chính(Leasing).
Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đông thuê. Trong thời hạn cho thuê các bên không được đơn phương từ bỏ hợp đồng. ở Việt nam hoạt động này đã phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây và nó đã trở thành nguồn quan trọng để các doanh nghiệp có thể tiếp cận được công nghệ mới.
3.3 Hoạt động bảo lãnh
Theo quy chế về bảo lãnh Ngân hàng của Ngân hàng nhà nước Viết nam ban hàng ngày 25/08/2000, bảo lãnh Ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng( bên bảo lãnh) với bên(nhận được bảo lãnh) có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính, hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
3.4 Hoạt động chiết khấu
Chiết khấu là việc tổ chức tín dụng mua lại thương phiếu , giấy tờ có giá ngắn hạn khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán.
Trong hoạt động này có một hoạt động đáng chú ý đó là hoạt động tái chiết khấu. Hoạt động tái chiết khấu là việc mua lại thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã được chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán.
Chiết khấu là một nghiệp vụ đã xuất hiện từ rất sớm trên thế giới. Tại Việt nam do việc kém phát triển trong việc phát hành và lưu thông các thương phiếu cũng như các giấy tờ có giá khác, nên hoạt động này mặc dù đã xuất hiện nhưng chưa phát triển mạnh. Hoạt động chiết khấu tại Ngân hàng thương mại chủ yếu được tiến hành với trái phiếu Chinh phủ hoặc trái phiếu , kỳ phiếu của các Ngân hàng thương mại quốc doanh.
Hoạt động tín dụng có nhiều nghiệp vụ như vậy nhưng trong chuyên đề nghiên cứu này ta chủ yếu đi sâu nghiên cứu hoạt động cho vay ngắn hạn của Ngân hàng. Vì vậy từ giờ trở đi ta thống nhất một thuật ngữ tín dụng ngắn hạn là để chỉ hoạt động cho vay ngắn hạn.
II. Quy trình phân tích tín dụng của Ngân hàng.
Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách hàng, các Ngân hàng thường đặt ra quy trình phân tích tín dụng. Đó chính là các bước(hoặc nội dung công việc) mà cán bộ tín dụng, các phòng ban có liên quan trong Ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng.
Bước1: Phân tích trước khi cấp tín dụng.
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định đến chất lượng của phân tích tín dụng. Nội dung chủ yếu là thu thập và sử lý thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay.
Bằng các phương pháp như : phỏng vấn trực tiếp, mua hoặc tìm kiếm thông tin qua các trung gian(qua các cơ quan quản lý, qua cac bạn hàng chủ nợ khác của người vay, qua các trung tâm thông tin hoặc tư vấn), thông qua các báo cáo của người vay trính cho Ngân hàng. Ngân hàng sẽ có được những thông tin về khách hàng của mình, một điều quan trọng đối với Ngân hàng là phải xử lý được các thông tin đó, làm sao phải xác định được tín trung thực của những thông tin mà Ngân hàng có được.
Nội dung phân tích chủ yếu của bước này là phải tập trung vào:
Đánh giá tài sản của khách hàng, việc đánh giá tài sản của khách hàng là điều quan trọng đối với Ngân hàng bởi vì tài sản(một phần hoặc tất cả) của khách hàng luôn được coi là vật đảm bảo cho khoản vay, tạo khả năng thu hồi nợ khi khách hàng mất khả năng sinh lời. Khi đánh giá tài sản của khách hàng thì Ngân hàng tập trung vào: Ngân quỹ, các chứng khoán có giá, hàng tồn kho, tài sản cố định.
Đánh giá các khoản nợ của khách hàng là một công việc quan trọng mà Ngân hàng cần phải làm bởi vì thông qua việc đánh giá các kh._.oản nợ mà Ngân hàng biết được tình khả năng tài chính của khách hàng, đồng thời Ngân hàng cũng biết được vị trí của mình trong các chủ nợ. Nếu Ngân hàng giành được vị trí quan trọng nhất thì nó dễ dàng thu được nợ hơn là các vị trí khác.
Phân tích luồng tiền: Thông qua việc xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập quỹ(gồm: dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động kinh doanh, dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động đầu tư, dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động bất thường) và dòng tiền thực xuất quỹ( gồm: dòng tiền xuất quỹ thực hiện sản xuất kinh doanh, dòng tiền xuất quỹ thực hiện đầu tư, dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động bất thường) Ngân hàng có thể biết được tình trạng ngân quỹ của khách hàng trong tháng, quý, hay năm. Từ đó Ngân hàng có thể thiết lập kế hoạch thu nợ, giải ngân hợp lý, nâng cao chất lượng khoản vay.
Sử dụng các tỷ lệ như: Nhóm tỷ lệ thanh khoản, nhóm tỷ lệ sinh lời để đánh giá khả năng của người vay trong việc đáp ứng trách nhiệm tài chính ngắn hạn và khả năng tạo lợi nhuận của người vay.
Các điều kiện kinh tế: Có thể thấy nghĩa vụ của khách hàng đối với Ngân hàng đều xảy ra trong tương lai vì thế khả năng hoạt động kinh doanh của khách hàng trong tương lai được Ngân hàng đặc biệt quan tâm phân tích. Thời hạn càng dài, dự đoán càng khó chính xác, đó là do tác động của các điều kiện kinh tế. Thiên tai, các thay đổi bất thường trong đời sống chính trị, khủng hoảng kinh tế vùng, quốc gia, sự sa sút đột ngột của ngành... làm thay đổi các tính toán ban đầu, dẫn đến giảm hoặc mất khả năng trả nợ của khách hàng.
Bươc 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài trợ(khách hàng) và ngân hàng, với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng(hoặc hạn mức tín dụng) trong một khoản thời gian và lãi suất nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời phải tuân thủ các điều khoản của các luật, các quy định. So vậy, cả Ngân hàng và khách hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi ký kết hợp đồng tín dụng.
Nội dung của hợp đồng tín dụng gồm những khoản mục chính là: Họ tên, địa chỉ của khách hàng; mục đích sử dụng vốn; số lượng tín dụng; lãi suất; phí; thời hạn tín dụng; các loại bảo đảm; kế hoạch giải ngân; điều kiện thanh toán và các điều kiện khác.
Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng.
Sau khi hợp đồng tín dụng đã được ký kết, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền cho khách hàng như thoả thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng, ngân hàng kiểm soát khách hàng sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ không? Quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ hay không?... Quá trình này cho phép ngân hàng thu thập thêm thông tin về khách hàng. Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt cho thấy chất lượng tín dụng đang được bảo đảm. Ngược lại khi các khoản vay bị đe doạ Ngân hàng có các biện pháp sử lý kịp thời. Ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng bổ xung tài sản thế chấp, giảm số tiền vay... khi thấy cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng. Đây cũng là quá trình ngân hàng thu thập thêm các thông tin bổ sung cho các thông tin ở bước 1 và ra quyết định cụ thể nhằm ngăn chặn kịp thời các khoản tín dụng xấu.
Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới.
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Ngoài những khoản tín dụng được đảm bảo trả đầy đủ và đúng hạn còn có những khoản nợ quá hạn đòi hỏi Ngân hàng phải tìm ra nguyên nhân để kịp thời đưa ra những quyết định mới liên quan đến tín an toàn của tín dụng.
Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng, cố tình nợ nần dây dưa, hoặc làm ăn yếu kém không còn phương cách cứu vãn, ngân hàng áp dụng phương án thanh lý, tức là sử dụng các biện pháp có thể được để thu hồi được khoản nợ, bao gồm phong toả, bán các tài sản thế chấp, tước đoạt các khoản tiền gửi...
Trường hợp khách hàng có khó khăn về tài chính, song vẫn kiên quyết tìm cách khắc phục để trả nợ, ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác, bao gồm gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm.
III. Chất lượng tín dụng và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng đối với ngân hàng.
Khái niệm về chất lượng tín dụng.
Hoạt động tín dụng là một hoạt động sinh lời chủ yếu của Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, nhưng cũng là nơi chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Chính vì thế vấn đề chất lượng tín dụng là vấn đề quan trọng, sống còn đối với tất cả các Ngân hàng. Tuy vậy để đưa ra một khái niêm đúng về chất lượng tín dụng không phải là dễ, bởi lẽ mỗi khái niệm đưa ra đòi hỏi phải chỉ ra nó xuất phát từ đâu trên quan điểm nào. Như ta đã biết mỗi quan điểm khác nhau sẽ có những quan niệm khác nhau về chất lượng tín dụng.
Chất lượng tín dụng theo quan điểm của khách hàng.
Khách hàng là đối tượng sử dụng các dịch vụ của ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ tín dụng vì nó là một nguồn tài trợ quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Mục tiêu của họ là tối đa hoá giá trị tài sản của mình hay nói cụ thể hơn là tối đa hoá giá trị sử dụng của khoản vốn vay. Chính vì thế với khách hàng để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng cái họ quan tâm đầu tiên là lãi suất, kỳ hạn, quy mô, phương thức giải ngân và phương thức thu nợ của khoản tín dụng mà ngân hàng cung cấp có thoả mãn nhu cầu của họ hay không, làm sao để các thủ tục được giải quyết một cách nhanh gọn, tiết kiệm thời gian và chi phí hợp lý. Nếu tất cả các yếu tố này đều đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì khoản tín dụng đó được coi là có chất lượng tốt và ngược lại.
Do đó theo quan điểm của khách hàng thì chất lượng tín dụng là: Sự thoả mãn nhu cầu của họ về khoản tín dụng trên các phương diện, lãi suất, quy mô, thời hạn, phương thức giải ngân, phương thức thu nợ...
1.2 Chất lượng tín dụng theo quan điểm của ngân hàng.
Cũng như bất cứ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế Ngân hàng cũng phải hoạt động kinh doanh làm sao để đem lại càng nhiều thu nhập cho chủ sở hữu thì càng tốt. Nhưng điều rất khác của Ngân hàng đối với các doanh nghiệp khác là Ngân hàng thương mại là đơn vị kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với 3 nghiệp vụ cơ bản: Nhận gửi, cho vay, cung ứng các dịch vụ thanh toán. Vì thế theo quan điểm của Ngân hàng thì chất lượng tín dụng với các yếu tố cấu thành cơ bản đó là mức độ an toàn của tín dụng và khả năng sinh lời do hoạt động tín dụng mang lại.
Mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận hay mối quan hệ giữa an toàn và khả năng sinh lời là mối quan hệ biện chứng. Mối quan tâm hàng đầu của tất cả các nhà đầu tư là phải cân nhắc giữa mức độ an toàn và khả năng sinh lời. Về nguyên tắc đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận thì mức độ rủi ro của lĩnh vực đầu tư càng cao thì sẽ có khả năng sinh lợi càng cao và ngược lại.
Hơn nữa hoạt động của ngân hàng là hoạt động chứa nhiều rủi ro bởi lẽ số tiền ngân hàng cho vay có tới hơn 50% là nguồn vốn ngoài vốn chủ sở hữu. Vì thế nếu như Ngân hàng không cân nhắc thận trọng thì sẽ lâm vào tình trạng “ Mất khả năng thanh toán “.
Đối với Ngân hàng, một khoản tín dụng có khả năng sinh lời cao khi khoản tín dụng đó đến hạn thanh toán thì sẽ hoàn trả đầy đủ vốn gốc và lãi. Do đó theo quan điểm của Ngân hàng chất lượng tín dụng được hiểu là: Chất lượng tín dụng là một thuật ngữ phản ánh mức độ an toàn và khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng Ngân hàng.
1.3 Chất lượng tín dụng theo quan điểm của xã hội.
Thông qua các khoản tín dụng mà Ngân hàng cung cấp cho các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế, các hoạt động như tái sản xuất mở rộng, đầu tư phát triển theo chiều sâu...sẽ được tiến hành và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Như vậy đứng trên quan điểm của xã hội để đánh giá chất lượng tín dụng thì chất lượng tín dụng là: Sự đáp ứng cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà các khoản tín dụng của Ngân hàng đem lại.
2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng.
Ngân hàng là ngành dịch vụ đã có lịch sử tồn tại và phát triển hàng trăm năm. Nó là ngành mang lại cho giới Ngân hàng siêu lợi nhuận song đồng thời nó cũng là ngành chịu nhiều rủi ro. Một trong những rủi ro đáng sợ đối với Ngân hàng là rủi ro tín dụng và nó cũng là một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng mất khả năng thanh toán của Ngân hàng, bằng chứng là đã xảy ra những cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới... Có thể nói bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng có thể lâm và tình trạng đó, vì thế vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng không chỉ đối là cần thiết đối với Ngân hàng, với khách hàng mà còn đối với toàn xã hội nữa.
Về phía Ngân hàng: Ngân hàng thương mại giống như các nhà kinh doanh: bỏ vốn của mình ra và mong muốn thu được lợi nhuận và thu hồi vốn. Như vậy đảm bảo chất lượng cho các khoản vay và cho vay bản thân nó đối với Ngân hàng đã là một nhu cầu cấp thiết. Đặc biệt đối với các Ngân hàng thương mại ở Việt nam hiện nay không còn là cái bóng của Ngân hàng Trung Ương mà đã và đang dần trở thành một chủ thể kinh doanh độc lập, tự kiếm lợi nhuận lời ăn lỗ chịu, chịu trách nhiệm với khách hàng, với Ngân hàng Trung Ương. Do vậy mà Ngân hàng không thể không cần đến sự an toàn với các khoản vay.
Nền kinh tế nước ta hiện nay đang trong thời kỳ quá độ để chuyển sang một nền kinh tế thị trường. Bản thân mỗi doanh nghiệp, tổ chức kinh tế chưa thoát khỏi tư tưởng bao cấp, tư duy về nền kinh tế thị trường còn nhiều hạn chế, do đó việc làm ăn của các doanh nghiệp có nguy cơ dẫn đến rủi ro là rất lớn. Vì thế để nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng không chỉ là người cung cấp vốn cho các doanh nghiệp mà Ngân hàng còn phải là người hiểu rõ hơn ai hết về lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp, có như thế thì Ngân hàng mới mở rộng được các dịch vụ của mình như dịch vụ tư vấn...giúp doanh nghiệp tránh khỏi được những rủi ro không đáng có.
Như vậy, có thể thấy mục tiêu nâng cao chất lượng cho vay là điều kiện tối ưu cần thiết cho mỗi Ngân hàng, nó vừa là yếu tố không những đảm bảo cho Ngân hàng duy trì hoạt động mà còn giúp Ngân hàng phát triển. Nếu đi ngược lại mục tiêu trên, Ngân hàng sẽ đi đến chỗ tự huỷ diệt chính mình.
Về phía nhà đầu tư: Khách hàng của Ngân hàng có hai loại: Người gửi tiền và người vay tiền. Người gửi tiền thì họ quan tâm đến khả năng thanh toán của Ngân hàng mà khả năng thanh toán của Ngân hàng lại có mối quan hệ mật thiết với chất lượng của các khoản tín dụng vì vậy đối với họ nâng cao chất lượng tín dụng là vấn đề cần thiết vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến những khoản tiền gửi của họ vào Ngân hàng. Người vay tiền là người trực tiếp sử dụng giá trị sử dụng của các khoản vốn vay Ngân hàng, mà đối với họ chất lượng tín dụng chính là sự thoả mãn của họ về khoản tín dụng đó. Cuối cùng phải làm sao cho khoản tín dụng đó đem lại lợi nhuận cho họ để họ có thể trang trải chi phí và có lãi. Bởi thế bản thân người vay tiền coi vấn đề chất lượng tín dụng là vấn đề cần thiết và ngày càng phải được nâng cao.
Nếu xét trên quan điểm toàn xã hội thì vấn đề chất lượng tín dụng cũng là vấn đề cần thiết. Bởi một đồng vốn của Ngân hàng cho vay nó là đầu mối trong tất cả các mối quan hệ kinh tế, nếu người sử dụng vốn đó hiệu quả thì cũng đồng nghĩa với việc nó co hiệu quả đối với Ngân hàng và xã hội bởi nó sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, đóng góp phát triển các công trình phúc lợi xã hội. Hơn nữa sự xụp đổ của hệ thống Ngân hàng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế nó có thể làm cho nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái trầm trọng và sẽ ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ xã hội. Do đó vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng cũng được cả xã hội quan tâm.
3. Nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
3.1. Nhân tố khách quan.
3.1.1 Môi trường kinh tế xã hội.
Nói đến môi trường kinh tế xã hội là nói đến tổng thể nền kinh tế quốc gia và thế giới. Như ta đã biết mọi thành phần kinh tế đều hoạt động trong xã hội. Vì thế môi trường kinh tế xã hội có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của Ngân hàng.
Một nền kinh tế ổn định sẽ dẫn đến một chính sách tín dụng tự do so với một nền kinh tế lệ thuộc vào các biến động thời vụ và chu kỳ. Các khoản ký thác trong nền kinh tế không ổn định thường chao đảo biến động mạnh so với các khoản ký thác trong một nền kinh tế ổn định. Nhiều người vay đã làm ăn phát đạt trong những giai đoạn thịnh vượng nhưng trong giai đoạn suy thoái vốn có thể bị tiêu tan, lợi nhuận có thể bị giảm sút, từ đó có thể gây nên tình trạng Ngân hàng không thu hồi được vốn. Một yếu tố hiển nhiên ảnh hưởng đến chính sách tín dụng của Ngân hàng là đường lối chủ trương cuả Quốc gia, địa phương. Lý do chủ yếu để Ngân hàng được tồn tại là nhằm phục vụ các nhu cầu tín dụng của cộng đồng xã hội. Về mặt lý luận các Ngân hàng chỉ cho người nào vay nếu đưa ra được yêu cầu xin vay hợp lệ, hợp pháp và lành mạnh về kinh tế, phù hợp với chủ trương của Nhà nước.
Mức độ phát triển kinh tế của địa phương quy định quy mô và khối lượng đầu tư tín dụng. Nếu đầu tư tín dụng vượt quá khối lượng cần thiết, không phù hợp với sự phát triển kinh tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng. Nhiều Ngân hàng thương mại do nóng vội mở rộng đầu tư, nâng cao dư nợ, đẩy tỷ lệ tăng trưởng tín dụng vượt quá mức tăng trưởng kinh tế trên địa bàn đều phải trả giá cho sự nóng vội.
3.1.2. Môi trường pháp lý.
Bất kỳ một nền kinh tế nào muốn ổn định và phát triển thì cũng cần có một hành lang pháp lý thích hợp, hành lang pháp lý chính là bàn tay hữu hình của Nhà nước tác động vào nền kinh tế nhằm hướng nền kinh tế phát triển theo đúng mục tiêu, chế độ của mình. Hoạt động Ngân hàng là một trong những hoạt động kinh tế trong tổng thể nền kinh tế vì vậy nó cũng chịu ảnh hưởng của hệ thống Pháp luật nhất là Luật các tổ chức tín dụng. Nói đến môi trường pháp lý là nói đến tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ, tính thống nhất của các văn bản dưới luật, đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành pháp luật và trình độ dân trí.
Việc hoàn chỉnh cơ chế, thể hiện tín dụng của ngành đúng với Luật Ngân hàng, phù hợp với thực tiễn là một điều quan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng.
Hiện nay nước ta có nhiều bộ luật, tuy nhiên vẫn còn có nhiều bất cập chưa sát với thực tế gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế xã hội nói chung và hoạt động tín dụng Ngân hàng nói riêng. Trong điều kiện như vậy việc vận dụng thực thi các bộ luật đã có như thế nào để có thể tạo được hành lang pháp lý đầy đủ cho hoạt động Ngân hàng là vấn đề có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng.
3.1.3 Trình độ quản lý, năng lực, chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân vay vốn.
Trong khi các doanh nghiệp trực tiếp sử dụng và quản lý vốn của mình thì Ngân hàng sử dụng vốn của mình dưới hình thức gián tiếp: Đó là giao vốn cho doanh nghiệp không được trực tiếp quản lý vốn của mình mà thông qua hình thức giám sát doanh nghiệp vay vốn. Do vậy, chất lượng tín dụng Ngân hàng chịu nhiều chi phối từ bản thân hoạt động kinh doanh của khách hàng vay vốn.
Chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tốt hay xấu, tương lai phát triển của doanh nghiệp ở mức nào? Dự án, phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có đủ khả năng tồn tại và phát triển được trong cuộc cạnh tranh quyết liệt của cơ chế thị trường hay không? Điều này có ý nghĩa quyết định cho số phận món vay. Nếu doanh nghiệp kinh doanh trên đà phát triển có hiệu quả thì vốn vay Ngân hàng chắc chắn sẽ được hoàn trả đúng hạn cho Ngân hàng cả gốc và lãi.
Mức độ chuyển biến về nhận thức quan điểm tâm lý của ban lãnh đạo doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường ra sao? Họ có đầy đủ ý thức và trách nhiệm trả nợ đối với khoản vay hay vẫn mang nặng tư tưởng bao cấp trông chờ nguồn vốn được cấp , được ưu đãi... Trình độ quản trị điều hành ở mức độ nào? Đã đáp ứng được mức độ nào trong điều kiện kinh tế hiện thời. Một doanh nghiệp trở nên hưng thịnh phát triển trong khi một doanh nghiệp khác làm ăn thua lỗ suy xụp . Sự khác biệt này có nguyên nhân xuất phát từ trình độ, chất lượng quản lý.
Như vậy có thể nói việc quản lý sử dụng vốn vay sao cho có hiệu quả, đảm bảo trả nợ Ngân hàng và có lợi nhuận cho doanh nghiệp là điều rất cần thiết đối với các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có trình độ quản lý tốt, năng lực sản xuất kinh doanh tốt, bảo tồn và phát triển vốn vay thì chất lượng đầu tư tín dụng của Ngân hàng sẽ cao và ngược lại.
3.2 Nhân tố chủ quan của Ngân hàng.
Năng lực, trình độ hiểu biết của đội ngũ cán bộ của Ngân hàng trong cơ chế thị trường có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng món vay của Ngân hàng.
Chúng ta đứng trước một thực trạng chung là xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Xu thế này ngày càng hình thành rõ rệt mà nét nổi bật là nền kinh tế quốc tế thị trường đang trở thành một không gian trung cho tất cả các nước. Các thị trường tài chính ở phạm vi hoạt động dường như không biên giới, vừa tạo điều kiện có cơ hội mới cho Ngân hàng vừa làm sâu sắc thêm quá trình cạnh tranh, đặt Ngân hàng trước những thách thức mới. Bởi vậy nếu Ngân hàng nào không nhận thức được điều này, không tự đổi mới, tìm cách tạo dựng và phát triển thế mạnh riêng của mình, có hướng đi và chính sách tín dụng thích hợp thì sẽ khó lòng tồn tại và phát triển, trong đó chiến lược con người giữ vai trò chủ đạo.
Thực tế cho thấy rằng, nếu Ngân hàng có đội ngũ cán bộ nhanh, nhạy, sáng tạo trong công việc, có tinh thần tập thể vì lợi ích của Ngân hàng thì Ngân hàng đó có thể đứng vững và phát triển, ngày càng có uy tín. Trong khi đó có những cán bộ tín dụng gian dối trong thẩm định tín dụng của Ngân hàng đánh giá sai tài sản thế chấp, lơ là sự giám sát đối với các doanh nghiệp để Ngân hàng gặp rủi ro.
Bên cạnh đó các yếu tố khách quan như thiên tai, dịch hoạ, cơ chế chính sách, khách hàng gặp khó khăn dẫn tới thua lỗ... thì bản thân Ngân hàng phải chịu trách nhiệm chính cho hiện tượng chất lượng tín dụng bị giảm. Trong đó vai trò của cán bộ tín dụng có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của các món vay, bởi họ chính là người trực tiếp nhận hồ sơ, thẩm định, đề suất cho vay và theo dõi quản lý thu nợ của khách hàng. Chính vì vậy cán bộ tín dụng là người, nguồn lực quan trọng nhất của các Ngân hàng khi tìm nguyên nhân nợ quá hạn, các khoản vay không thu hồi được.
Như vậy, để có một khoản vay tốt thì cần phải có nhiều điều. Ngoài một báo cáo tài chình vững mạnh cần có đội ngũ cán bộ tín dụng vững về kỹ thuật nghiệp vụ, trực giác nhạy bén sắc sảo. Thông qua việc đào tạo và lựa chọn những cán bộ có năng lực, thiết lập một cơ chế tổ chức thích hợp thì các Ngân hàng bắt đầu một quá trình cải thiện chất lượng tín dụng, giảm thiểu các rủi ro để ngày một nâng cao uy tín của mình trong xã hội.
4. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng.
4.1. Nhóm chỉ tiêu định tính.
Nhóm chỉ tiêu này nhằm đánh giá tình hinh, quy chế, chế độ, thể lệ tín dụng của Ngân hàng.
Khi cho vay vốn Ngân hàng phải tuân thủ 3 nguyên tăc đó là:
Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích.
Vốn vay phải được đảm bảo bằng giá trị vật tư hàng hoá tương đương.
Vốn vay phải được hoàn trả đủ cả gốc và lãi đúng kỳ hạn cam kết.
Ba nguyên tắc tín dụng trên hình thành một quy luật nội tại của tín dụng. Trên thực tế cho thấy, một khi cả ba nguyên tắc ấy, hoặc một trong ba nguyên tắc ấy bị coi nhẹ, hoặc quá nhấn mạnh nguyên tắc này xem nhẹ nguyên tăc kia sẽ dẫn đến tình trạng khách hàng mất khả năng thanh toán, phá sản, đổ bể một dự án, một doanh nghiệp, một Ngân hàng. Khi nói đến chất lượng tín dụng chúng ta phải xem xét đến chất lượng tuân thủ nghiêm ngặt cả ba nguyên tắc trên.
4.2 Nhóm chỉ tiêu định lượng.
4.2.1 Tỷ lệ nợ quá hạn.
Là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của Ngân hàng thương mại tại một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quí hoặc cuối năm.
Nguyên tắc quan trọng nhất của cho vay là sự hoàn trả, do đó tính an toàn là yếu tố quan trọng bậc nhất để cấu thành chất lượng cho vay. Khi một khoản vay không được hoàn trả đúng hạn như đã cam kết, mà không có lý do chính đáng thì nó sẽ vi phạm nguyên tắc cho vay quan trọng nhất của Ngân hàng và nó bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Trên thực tế phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề , có khả năng mất vốn lớn, có nghĩa là tính an toàn thấp.
Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro trong hoạt động kinh doanh là một tất yếu, có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro gồm cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân khách quan là do khách hàng vay không có khả năng trả nợ được, hoặc không muốn trả nợ. Nguyên nhân chủ quan là do sự yếu kém của bản thân Ngân hàng thương mại. Do đó nợ quá hạn của Ngân hàng thương mại luôn tồn tại, rất khó tránh khỏi. Nhưng nếu Ngân hàng thương mại có nhiều khoản nợ quá hạn hay tỷ lệ nợ quá hạn quá cao sẽ gặp khó khăn trong kinh doanh, sẽ có nguy cơ mất vốn, dễ dẫn đến mất khả năng thanh toán , thậm chí làm phá sản một Ngân hàng. Ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ bị đánh giá là chất lượng cho vay thấp. Chỉ tiêu này thường được sử dụng khi phân tích đánh giá chất lượng cho vay của Ngân hàng thương mại. Phân tích chất lượng thông qua chỉ tiêu nợ quá hạn cần chú ý như sau:
Nợ quá hạn theo nguyên nhân.
Nợ quá hạn theo thành phần kinh tế có tài sản thế chấp hay không có tài sản thế chấp, có khả năng thu hồi hay không có khả năng thu hồi.
Nợ quá hạn theo thời gian: Nợ quá hạn dưới 180 ngày, nợ quá hạn trên 180 ngày.
Giải quyết nợ quá hạn là môt quan tâm thường trực của tất cả các Ngân hàng thương mại và có nhiều vấn đề cần phải làm, song việc quan trọng nhất là chất lượng cho vay.
Tổng dư nợ.
Hiệu suất sử dụng vốn vay =
Tổng vốn huy động.
4.2.2 Hiệu suất sử dụng vốn vay.
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn vay =
Tổng vốn huy động
Chỉ tiêu này cho biết Ngân hàng cho vay được bao nhiêu trên một đồng vốn huy động. Do Ngân hàng phải trả lãi cho các khoản tiền mà Ngân hàng đi vay nên Ngân hàng cần tận dụng hết sức các khoản vốn huy động để tạo ra lợi nhuận bù đắp chi phí và có lãi. Mục đích của Ngân hàng là làm sao tạo ra được nhiều khoản tín dụng lành mạnh và có hiệu quả, góp phần mở rộng và tăng cường sự ổn định hoạt động của Ngân hàng.
4.2.3 Tỷ lệ sử dụng vốn sai mục đích.
Tỷ lệ sử dụng Số tiền vay sử dụng sai mục đích.
vốn sai mục =
đích. Tổng số tiền dư nợ.
Một trong những nguyên tắc vay vốn Ngân hàng là phải sử dụng vốn đúng mục đích như đã thoả thuận. Nếu như sử dụng vốn sai mục đích thì điều đó chứng tỏ có hành vi lừa dối Ngân hàng và khoản cho vay này có nguy cơ mất khả năng hoàn trả cao. Tỷ lệ sử dụng vốn sai mục đích càng cao thì chất lượng cho vay bị đánh giá càng thấp và ngược laị.
4.2.4 Chỉ tiêu lợi nhuận.
Như đã đề cập, lợi nhuận do hoạt động tín dụng mang lại chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của Ngân hàng. Vì vậy lợi nhuận tăng hàng năm, điều đó chứng tỏ chất lượng cho vay đã được tăng lên hoặc Ngân hàng thương mại đã mở rộng công tác cho vay. Chỉ tiêu này cũng chỉ là chỉ tiêu tương đối vì như ta biết lợi nhuận được thu từ nhiều nguồn và nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Chính sách thu nhập, chi phí của Chính phủ, chính sách lãi suất, chính sách khách hàng...
Vì vậy mỗi chỉ tiêu đưa ra phải được xem xét trong mối quan hệ với tất cả các chỉ tiêu khác, có như vậy mới đánh giá được chất lượng tín dụng và có phương án để nâng cao chất lượng tín dụng.
5. Chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà nội.
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà nội là một Chi nhánh của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển. Chi nhánh hoạt động trên địa bàn Gia Lâm tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Chi nhánh đã đưa ra tiêu chuẩn chất lượng trong một quy trình tín dụng ngắn hạn riêng cho mình dựa trên lý thuyết tổng quát và các văn bản pháp luật liên quan.
( Tiêu chuẩn chất lượng của quy trình tín dụng ngắn hạn trang bên ).
Tiêu chuẩn chất lượng của quy trình tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà nội.
Tiêu chuẩn chỉ tiêu
I.Khách hàng mong đợi.
Phục phụ nhanh nhất, thủ tục đơn giản tiện lợi.
Có thái độ đón tiếp hướng dẫn phục vụ khách hàng chu đáo.
Đảm bảo cung ứng đúng và đủ lượng tiền và thời gian theo hợp đồng tín dụng đã ký .
Lãi suất, phí thấp , phù hợp.
Thời gian xét duyệt không quá 10 ngày làm việc kể từ khi Ngân hàng nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn hợp lệ và thông tin cần thiết của khách hàng theo qui định.
Thái độ phục vụ văn minh lịch sự tận tình chu đáo.
Giải ngân đúng theo hợp đồng tín dụng với khách hàng.
Lãi xuất phù hợp với thị trường đảm bảo cho hoạt động kinh doanh Ngân hàng có hiệu quả.
II. Pháp luật yêu cầu.
Thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật.
Thời hạn cho vay.
Mức cho vay.
Tuân thủ các quy định của pháp luật đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng Ngân hàng.
Thời hạn cho vay đối với quy trình tín dụng ngắn hạn tối đa 12 tháng, được xác định phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
Theo giới hạn tín dụng trong Luật các tổ chức tín dụng( tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của Ngân hàng, trừ trường hợp đối với nguồn vốn cho vay từ uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức, cá nhân)
Chương II
Tình hình tín dụng ngắn hạn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà nội và những vấn đề đặt ra về chất lượng tín dụng.
khái quát về chi nhánh ngân hàng đầu tư & phát triển bắc hà nội.
lịch sử ra đời và phát triển của chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển bắc Hà nội.
Quá trình hình thành.
Tiền thân của Chi nhánh ngân hàng Đầu tư và phát triển Bắc Hà Nội là từ Phòng cấp phát 3, sau chuyển thành Chi điếm 3 ngân hàng Kiến Thiết thành phố Hà Nội thuộc ngân hàng Kiến Thiết Việt nam - Bộ Tài Chính. Khi đó Chi điếm 3 gồm 25 cán bộ phụ trách cấp phát vốn cho 2 huyện Gia Lâm và Đông Anh.
Đến năm 1981, Chi điếm 3 đổi tên thành Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và xây dựng khu vực 3 thành phố Hà Nội. Đến năm 1990, Chi nhánh đổi tên thành Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển huyện Gia Lâm thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thành phố Hà Nội và đến tháng 8 năm 2000 thì đổi tên thành Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển khu vực Gai Lâm, trực thuộc Sở Giao Dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ( NHĐT&PT Việt Nam ). Hiện nay, theo quyết định 80/QĐ-HĐQT ( hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2002 ) của NHĐT&PT Việt Nam, chi nhánh được quy định như sau:
- Tên đầy đủ bằng tiếng Việt:
Chi nhánh Ngân hàng Đầu Tư & Phát triển Bắc Hà Nội.
- Viết tắt: Chi nhánh NH ĐT&PT Bắc Hà Nội.
- Gọi tắt: CN Bắc Hà Nội.
- Tên giao dịch quốc tế bằng tiếng Anh:
Bank for investment and development of vietnam, northern hanoi branch.
- Tên gọi tắt bằng tiếng Anh: BIDV Northern Hanoi Branch.
- Trụ sở: Số 558 Đường Nguyễn Văn Cừ - Thị trấn Gia Lâm
Gia Lâm - TP Hà Nội.
Trải qua hơn 39 năm hoạt động với bao thăng trầm, sau nhiều lần đổi tên và được bổ sung về chức năng, nhiệm vụ song về bản chất thì Chi nhánh NHĐT&PT Bắc Hà Nội vẫn là một ngân hàng quốc doanh đóng vai trò phục vụ cho sự nghiệp đầu tư và phát triển của đất nước.
Chi nhánh NHĐT&PT Bắc Hà Nội đã trải qua những chặng đường gắn liền với sự nghiệp cách mạng hết sức vẻ vang của dân tộc, gắn liền với những chuyển mình của đất nước. Nhất là từ năm 1990 trở lại đây, từ khi có pháp lệnh về ngân hàng thì Chi nhánh NHĐT&PT Bắc Hà Nội có những đổi mới cơ bản và thu được những thành tựu đáng khích lệ.
Từ năm 1994 trở về trước, hoạt động trong cơ chế bao cấp, Chi nhánh có nhiệm vụ cấp phát vốn ngân sách nhà nước và vốn tín dụng hình thành từ nguồn ngân sách nhà nước cho các doanh nghiệp thực hiện đầu tư và xây dựng cơ bản các công trình theo kế hoạch chỉ định của nhà nước hằng năm.
Từ năm 1995 trở lại đây, Chi nhánh chuyển hẳn hoạt động kinh doanh tiền tệ theo chế độ bao cấp của nhà nước sang hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thời gian đầu khi thực hiện chuyển đổi, Chi nhánh đã gặp phải không ít khó khăn như cán bộ, nhân viên chưa quen với cơ chế mới, thị phần hạn hẹp do cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng khác trên địa bàn, địa điểm nằm quá sâu so với trục giao thông quốc lộ,...song Chi nhánh đã phấn đấu nỗ lực, cố gắng khắc phục mọi khó khăn và phát huy những tiềm năng, thế mạnh của đội ngũ cán bộ có nhiều năm kinh nghiệm lành nghề.
Qua hơn 7 năm thực hiện chuyển đổi cơ chế hoạt động, Chi nhánh đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và của khu vực Gia Lâm. Chi nhánh đã có nhiều hình thức huy động vốn phù hợp nhằm huy động các nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư và các tổ chức kinh tế để đáp ứng tối đa nhu cầu sử dụng vốn của khách hàng, vì vậy, mức tăng trưởng huy động vốn và sử dụng vốn bình quân hằng năm trên 10%. Bên cạnh đó, chi nhánh đặc biệt quan tâm tới mức tăng trưởng tín dụng và chất lượng tín dụng. Mặc dù mức tăng trưởng tín dụng hằng năm tăng lên nhưng tỷ lệ nợ quá hạn của chi nhánh lại rất thấp. Một trong những yếu tố quyết định sự thành công của ngân hàng là chiến lược khách hàng. Quán triệt chỉ đạo của NHĐT&PT Việt Nam: “Lấy hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của ngân hàng”. Trên cơ sở quan hệ hợp tác hiệu quả cùng có lợi, phương châm hoạt động của Chi nhánh là coi dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng là cơ hội hợp tác kinh doanh, cùng các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, ắc tắc trong sản xuất kinh doanh, hướng mọi hoạt động của chi nhánh vào việc phục vụ và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Chính vì vậy mà chi nhánh giữ được chữ tín với khách hàng và khách hàng đến với chi nhánh ngày càng nhiều hơn.
Có thể nói, với những kết quả kinh doanh đáng khích lệ đó chi nhánh đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Thủ đô nói riêng và của cả nước nói chung. Mặc dù trong mấy năm gần đây vẫn còn có nhiều khó khăn và thách thức cho nền kinh tế nước ta, cho các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp trong nước. Song chúng ta có thể hy vọng rằng, bằng sự nỗ lực phấn đấu không ngừng, Chi nhánh NHĐT&PT Bắc Hà Nội sẽ vượt qua mọi khó khăn, thử._.ượng và chất lượng. Sản phẩm ngày nay có chất lượng cao hơn các sản phẩm cũ cùng loại . Cùng với sự phát triển về khoa học – kỹ thuật, cơ cấu nhu cầu và cơ cấu người tiêu dùng cũng có sự thay đổi đáng kể. Các ngân hàng đều mong muốn dựa vào kỹ thuật tiên tiến để tạo ra nhiều sản phẩm độc đáo, thoả mãn nhu cầu khách hàng, với mong muốn thu hút lợi nhuận tối đa. Vì vậy, chiến lược sản phẩm dịch vụ của ngân hàng là một vũ khí sắc bén trong cạnh tranh trên thị trường, đồng thời là phương pháp có hiệu quả để tạo ra nhu cầu mới.
Có thể nói đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ của mình là một nhu cầu không tất yếu đối với bất cứ một ngân hàng nào trong cơ chế thị trường. Bởi vì nhờ có đa dạng hoá mà ngân hàng có thể phân tán được rủi ro, giảm được rủi ro tín dụng. Không những thế việc đa dạng hoá còn làm cho ngân hàng tận dụng được mọi tiềm lực của mọi thành phần kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, chiến thắng trong cạnh tranh. Ngày nay trong cơ chế thị trường tính cạnh tranh giữa các ngân hàng là rất cao, bất cứ một ngân hàng nào muốn tồn tại và phát triển được đều phải làm sao cho sản phẩm của mình ngày một thích ứng hơn với nhu cầu của người tiêu dùng. Chính vì thế Ngân hàng thương mại phải đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ của mình để làm tăng tính hấp dẫn của các sản phẩm ngân hàng đối với khách hàng, tạo cho khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn hơn, từ đó tạo nên tính hiệu quả của món vay cao hơn dẫn đến khả năng thu hồi cao hơn.
4.2 Tính khả thi của giải pháp.
Một điều mà ta cần phải khẳng định là chính sách sản phẩm đối với ngân hàng rất quan trọng, bởi nó là nền tảng của chiến lược Marketing hỗn hợp, đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Chỉ khi xây dựng được chính sách sản phẩm đúng đắn thì chính sách giá cả, chính sách phân phối , chính sách giao tiếp khuyếch trương mới có điều kiện thực hiện hiệu quả. Chính sách sản phẩm phải đáp ứng thực sự những mong đợi của khách về sản phẩm của ngân hàng đồng thời phải đảm bảo khả năng sinh lợi của ngân hàng.
Chính sách sản phẩm có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng trong thời gian dài. Muốn đạt được mục tiêu đặt ra trong hoạt động kinh doanh cần thực hiện đầy đủ đồng bộ các vấn đề cơ bản sau:
Phải đánh giá sản phẩm hiện có. Để có một chính sách sản phẩm tốt đòi hỏi các ngân hàng phải tự đánh giá về toàn bộ sản phẩm của mình. Sản phẩm đứng được trên thị trường tới mức nào? Cần cải tiến hoặc thay thế sản phẩm mới không?
Phát triển sản phẩm mới: Đổi mới sản phẩm là cơ sở để ngân hàng củng cố mở rộng thị trường , sẽ tăng doanh số hoạt động, tăng thu nhập. Trong sản phẩm mới, tính độc đáo có ý nghĩa hết sức quan trọng, vì nó có khả năng tìm ra khoảng trống trên thị trường thoả mãn nhu cầu khách hàng, do đó có thể thâm nhập dễ dàng vào thị trường.
Đa dạng hoá sản phẩm một mặt nhằm khai thác tối đa tiềm năng của thị trường trong sử dụng sản phẩm của ngân hàng, mặt khác nhằm hạn chế rui ro
Để cụ thể hoá nội dung hoạt động của chính sách sản phẩm, ngân hàng cần làm được những điều sau đây:
Một là: Các ngân hàng phải thực hiện phân chia thị trường thành những “đơn vị” đoạn thị trường theo tiêu thức lựa chọn – phân đoạn thị trường để có khả năng hiểu rõ nhu cầu , cũng như đặc điểm của từng loại hình khách hàng, trên cơ sở đó đưa ra chính sách sản phẩm cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn của thị trường
Hai là: Nghiên cứu sản phẩm – tức là thực hiện chiến lược sản phẩm, nghiên cứu xem sản phẩm mà ngân hàng cung ứng ra thị trường được khách hàng sử dụng bằng sự thoả mãn nhu cầu hay bằng sự gượng ép?
Ba là: Nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm.
Một chu kỳ sống của sản phẩm trải qua 4 giai đoạn: Triển khai – Tăng trưởng – Chín muồi – Suy thoái. Mỗi giai đoạn của chu kỳ sống của sản phẩm đòi hỏi các ngân hàng phải có những phản ứng thích hợp. Như vậy nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm giúp cho công tác kế hoạch hoá sản phẩm và nghiên cứu sản phẩm mới thích hợp với từng giai đoạn chu kỳ sản phẩm, để khai thác tốt hiệu quả của sản phẩm cung ứng. Bởi vậy, cần chẩn đoán chính xác chu kỳ sử dụng của sản phẩm ngân hàng, để định hướng cho việc thiết kế và đưa ra sản phẩm mới.
Bốn là: Nghiên cứu “chu kỳ” khách hàng.
Do đặc điểm mối quan hệ lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng, các ngân hàng thường nghiên cứu chu kỳ khách hàng làm cơ sở cho chính sách dài hạn. Muốn hiểu được “ chu kỳ” khách hàng đối với sản phẩm dịch vụ cần phân loại khách hàng theo đặc tính hoạt động, sản xuất – kinh doanh, đặc biệt là đối với doanh nghiệp mang tính thời vụ. Đối với các khách hàng là tầng lớp dân cư phải phân biệt khách hàng theo độ tuổi để biết khi nào khách hàng cần gửi tiền, khi nào cần vay tiền hay các dịch vụ khác cần cung ứng.
Năm là: Nghiên cứu nội dung chất lượng của sản phẩm ngân hàng, vì dưới con mắt khách hàng chất lượng là yếu tố quan trọng hàng đầu .Ngân hàng phải thường xuyên thu thập và phân tích thông tin từ phía khách hàng về chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà ngân hàng cung ứng, để có sự cải tiến sản phẩm, đưa ra sản phẩm tốt nhất, phù hợp nhất đến với khách hàng.
Ngày nay môi trường kinh doanh của Ngân hàng rất thuận lợi cho việc đa dạng hoá các hoạt động cho vay đầu tư nhằm thu hút khách hàng, tăng quy mô tín dụng, phân tán rủi ro. Ngân hàng nên áp dụng nhiều hình thức cho vay đặc biệt là các khoản đồng tài trợ , cho vay tiêu dùng, tín dụng thuê mua (cho thuê tài chính)
vì với hình thức thuê mua không đòi hỏi vốn tự có của doanh nghiệp phải lớn như trong cho vay trung và dài hạn, không đòi hỏi tài sản thế chấp. Hơn nữa máy móc thiết bị phù hợp với yêu cầu sử dụng của bên thuê nên doanh nghiệp đảm bảo được chất lượng sản phẩm làm ra, khả năng tiêu thụ nhanh, sản xuất kinh doanh sẽ có hiệu quả. Trong điều kiện Việt nam hiện nay môi trường kinh doanh còn chưa ổn định, gặp nhiều khó khăn rủi ro rất lớn, vì vậy những khoản tín dụng thường giành cho những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả trong nhiều năm liền. Cho nên đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh mới thành lập có đủ điều kiện vay vốn là rất khó, cũng vì thế hình thức tín dụng thuê mua đã và đang là loại hình tín dụng hấp dẫn đối với cả Ngân hàng và khách hàng.
Ngày nay đã có rất nhiều Ngân hàng thành lập các Công ty cho thuê tài chính để thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính (leasing) như : Công ty cho thuê tài chính của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam , Công ty cho thuê tài chính của Ngân hàng Công thương Việt nam ... Đó là những đơn vị đi đầu trong lĩnh vực này và đã đạt được những thành quả nhất định trong những năm qua.
Từ khi chuyển đổi cơ chế sang cơ chế thị trường thì giải pháp đa dạng hoá sản phẩm đã được rất nhiều ngân hàng thực hiện , và dường như nó là một quy luật tất yếu đối với bất cứ đơn vị kinh tế nào muốn tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường.
5. Đẩy mạnh công tác huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng.
5.1. Sự cần thiết.
Như ta đã biết, nguồn vốn Chi nhánh nhận điều chuyển từ cấp trên là rất lớn nó chiếm trên 60% tổng nguồn vốn. Điều quan trọng của nguồn vốn điều chuyển là Chi nhánh phải chịu một lãi suất cao hơn lãi suất của nguồn Chi nhánh tự huy động. Trong cơ chế thị trường vấn đề giảm chi phí huy động vốn tăng doanh thu từ hoạt động tín dụng Ngân hàng để tăng lợi nhuận luôn là vấn đề làm đau đầu các nhà Ngân hàng. Trong cơ chế thị trường việc cạnh tranh giữa các Ngân hàng là rất gay gắt, mỗi Ngân hàng muốn tồn tại và phát triển trên thị trường đòi hỏi Ngân hàng đó phải có tính độc lập tự chủ cao, tìm cho mình một hướng đi thích hợp. Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà nội cũng vậy, muốn ngày một phát triển hơn thì không thể cứ trông chờ mãi vào nguồn vốn điều chuyển từ cấp trên được mà phải tìm cho mình một nguồn vốn rẻ hơn, thích hợp hơn với nhu cầu của mình.
Công tác huy động vốn là một phần quan trọng trong hoạt động của Ngân hàng, vì nó ảnh hưởng rất lớn đến quy mô và sự ổn định của nguồn vốn ngân hàng, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Cho nên việc nâng cao công tác huy động vốn là vấn đề cần thiết đối với tất cả các Ngân hàng thương mại trong cơ chế thị trường.
5.2. Tính khả thi của giải pháp.
Từ năm 1995 Chi nhánh mới thực sự chuyển sang hoạt động độc lập cho nên việc tự huy động vốn đáp ứng nhu cầu của mình còn gặp nhiều khó khăn. Nhưng không vì thế mà Chi nhánh cứ sử dụng mãi nguồn vốn điều chuyển từ cấp trên với lãi suất cao. Để giải pháp này thực hiện có hiệu quả đòi hỏi Chi nhánh cần tập trung vào những vấn đề sau:
5.2.1 Tăng cường công tác Marketing, nâng cao uy tín của mình trên thị trường nhằm thu hút nhiều khách hàng gửi tiền vào Chi nhánh, đăc biệt là các doanh nghiệp với những khoản tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi thanh toán.
Trong nền kinh tế hiện đại, doanh nghiệp là đối tượng cung cấp cho Ngân hàng một nguồn vốn dồi dào nhất vì các doanh nghiệp là người sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng nhiều nhất, họ luôn coi Ngân hàng là trung gian thanh toán cho tất cả các mối quan hệ làm ăn của họ, đồng thời Ngân hàng cũng là một lĩnh vực đầu tư hiệu quả, an toàn đối với những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp. Vì thế các Ngân hàng cần khai thác tối đa nguồn vốn của các doanh nghiệp nhằm tạo ra một nguồn vốn ổn định cho mình. Để làm được điều đó đòi hỏi Ngân hàng phải ngày một đổi mới phương thức hoạt động, thanh toán, tiếp thị, quảng cáo... nhằm tạo ra một hình ảnh an toàn trong con mắt của doanh nghiệp.
5.2.2 Đa dạng hoá các hình thức huy động.
Đa dạng hoá các hình thức huy động luôn là một cách thức để các Ngân hàng thương mại nâng cao hiêu quả huy động vốn vì chỉ có đa dạng hoá thì Ngân hàng mới tận dụng được hết thế mạnh của các thành phần kinh tế. Ngày nay đã có rất nhiều hình thức huy động vốn như : Thu hút tiền gửi tiết kiệm, phát hành trái phiếu , kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi... mỗi hình thức có những thế mạnh và hạn chế riêng đòi hỏi Ngân hàng phải cân nhắc xác định cho mình một hình thức huy động phù hợp với điều kiện hiện tại. Đối với Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Băc Hà nội việc phát hành trái phiếu kỳ phiếu còn ít, Chi nhánh nên mở rộng hoạt động này trong tương lai.
5.2.3 Xác định chính sách lãi suất huy động hợp lý.
Lãi suất huy động là giá cả của những khoản vốn mà ngân hàng huy động cho nên nếu Ngân hàng đưa ra một lãi suất cao hơn đối thủ cạnh tranh thì sẽ huy động được nhiều vốn hơn. Nhưng ngược lại lãi suất huy động cũng là chi phí của Ngân hàng, nếu Ngân hàng nâng lãi suất huy động nên quá cao mà không cân nhắc cho phù hợp với lãi suất cho vay thì Ngân hàng sẽ bị lỗ. Điều quan trọng đối với Ngân hàng là phải làm sao xác định một lãi suất huy động đủ chiến thắng đối thủ cạnh tranh và cũng phải phù hợp với lãi suất cho vay nhằm đảm bảo cho ngân hàng hoạt động có lãi.
6. Giải pháp chung: Thường xuyên bồi dưỡng và đào tạo để nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên.
Con người là nhân tố quan trọng trong mọi tổ chức , là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội nói chung và của Ngân hàng nói riêng. Mọi hoạt động dù ở lĩnh vực nào cũng phải thông qua tác động của con người. Dù máy móc thiết bị , công nghệ có hiện đại đế đâu chăng nữa nhưng nếu không có sự tác động chỉ đạo của con người thì cũng trở nên vô nghĩa. Đối với lĩnh vực kinh doanh Ngân hàng, nếu yếu tố con người được xem trọng và được sử dụng đúng đắn sẽ góp phần quyết định vào sự thành công của một Ngân hàng.
Đặc biệt là ngày nay công nghệ càng hiện đại bao nhiêu thì đòi hỏi trình độ của người lao động càng cao bấy nhiêu . Yếu tố con người và công nghệ là những nhân tố quan trọng quyết định đến sự chiến thắng trong cạnh tranh của bất kỳ một tổ chức nào. Vì thế việc thường xuyên bồi dưỡng và đào tạo để nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên là vấn đề cần thiết đối với bất cứ tổ chức nào trong nền kinh tế thị trường.
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng là hoạt động kinh doanh có nhiều khác biệt so với các hoạt động kinh doanh thông thường khác , hoạt động của nó có mối liên hệ mật thiết đối với tất cả các thành phần kinh tế. Chính vì thế mà người cán bộ ngân hàng phải là người có trình độ hiểu biết rất rộng về lĩnh vực kinh tế. Để nâng cao chất lượng tín dụng , thì yếu tố đầu tiên cần phải nói đến là người cán bộ tín dụng. Người cán bộ tín dụng phải là người có chuyên môn trình độ và năng lực, am hiểu khách hàng, hiểu biết sâu về lĩnh vực tài chính doanh nghiệp, dự báo được những biến động kinh tế trong tương lai, có kiến thức nhất định về thị trường và lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp.
Do đó để nâng cao chất lượng tín dụng, Chi nhánh nên đề ra chính sách phát triển nguồn nhân lực và chăm lo việc đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ với những công việc như sau:
Chuyên môn hoá cán bộ tín dụng: Mỗi cán bộ tín dụng sẽ được giao một nhóm khách hàng nhất định, có đặc điểm chung về ngành nghề kinh doanh hoặc loại hình doanh nghiệp....
Có chế độ khen thưởng đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ tín dụng: Đối với những cán bộ tín dụng có năng lực làm việc hiệu quả thì Chi nhánh cần có chính sách khen thưởng kịp thời , ngược lại cần có biện pháp xử lý thích đáng đối với những cán bộ tín dụng thiếu tinh thần trách nhiệm, làm thất thoát vốn , và phải làm sao gắn chặt tinh thần trách nhiệm của cán bộ tín dụng đối với khoản vay. Không ngừng bồi dưỡng nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn cho cán bộ.
Có thể nói bất kỳ một giải pháp nào đưa ra cũng phải dựa trên nền tảng tài chính của chính đơn vị đó , bởi tiềm lực tài chính có ảnh hưởng rất lớn đến tính khả thi của bất kỳ một giải pháp nào. Một giải pháp dù có hay đến đâu cũng sẽ không thể thực hiện được nếu như tiềm lực tài chính của công ty đó không cho phép. Chính vì thế để giải pháp này khả thi đòi hỏi Chi nhánh cần phải có những chính sách hợp lý đối với việc đào tạo cán bộ, phải có chính sách thích hợp trong việc trích lập các quỹ như quỹ đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi...Mặt khác Chi nhánh cũng cần tăng cường các hình thức huy động vốn từ các tổ chức kinh tế để có nguồn tài trợ cho việc thực hiện giải pháp.
Ngày nay các ngân hàng rất coi trọng việc đào tạo cán bộ công nhân viên, nguồn vốn dành cho việc đào tạo trong các doanh nghiệp là rất lớn. Bất kỳ một tổ chức nào nếu làm được điều này thì sẽ có lợi thế lớn trong cạnh tranh.
III. một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển bắc hà nội.
kiến nghị đối với Chính phủ và các cơ quan Nhà nước.
Ban hành, hoàn thiện đồng bộ các bộ luật, các văn bản có liên quan để tạo môi trường kinh tế, pháp lý vững chắc cho hoạt động của các doanh nghiệp cũng như của Ngân hàng.
Quan hệ tín dụng của Ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác chịu sự tác động của nhiều yêú tố kinh tế, chính trị, xã hội, pháp luật, do đó một môi trường pháp lý đồng bộ và hoàn thiện giúp cho ngân hàng thực hiện các hoạt động tín dụng của mình có hiệu quả hơn . Để đạt được điều này, Quốc hội và các cơ quan chức năng cần sửa đổi và hoàn thiện một số luật khác có liên quan bên cạnh Luật Ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng như Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật bảo hiểm , Luật phá sản, các quy định về thế chấp , bảo lãnh....Việc này có tác dụng đảm bảo cho quan hệ tín dụng được dựa trên nền tảng vững chắc, đảm bảo an toàn cho hoạt động Ngân hàng.
Sắp xếp lại doanh nghiệp và tăng cường các biện pháp quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp.
Nhà nước cần phải kiên quyết sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, chỉ để tồn tại những doanh nghiệp làm ăn thực sự có hiệu quả, những doanh nghiệp thực sự là cần thiết cho phát triển kinh tế, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả tín dụng. Trong việc nhanh chóng tổ chức sắp xếp lại doanh nghiệp, cần tập trung vào việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Đây là một biện pháp nhằm huy động các nguồn lực từ các thành phần kinh tế khác nhau tham gia vaò phát triển kinh tế.
Thực hiện chế độ kiểm toán chặt chẽ.
Nhà nước cần thực hiện chế độ kiểm toán chặt chẽ , một mặt giúp Ngân hàng trong khâu thẩm định, xét duyệt hồ sơ xin vay vốn của các khách hàng được chính xác hơn, báo cáo tài chính của khách hàng phải phản ánh đúng tình hình thực tế đồng thời việc thu thập thông tin của khách hàng cũng phải được tiến hành thuận lợi và chính xác. Mặt khác thông qua việc thực hiện chế độ kiểm toán chặt chẽ cũng tiến hành tư vấn cho khách hàng làm thế nào để vay được vốn của Ngân hàng và sử dụng một cách có hiệu quả. Muốn vậy, Nhà nước nên sớm ban hành quy chế tài chính, hạch toán kinh doanh đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Qua đó tăng cường tính hiệu lực pháp lý, đảm bảo tính đồng bộ chuẩn mực của công tác hạch toán kế toán, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ ngân hàng có những kết luận chính xác về tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của khách hàng. Việc chấn chỉnh công tác kiểm toán cũng phải đi đôi với việc nâng cao chất lượng công tác kiểm toán, qua đó nâng cao hiệu quả công tác thẩm định dự án đầu tư.
Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước.
Tăng cường hiệu lực điều hành chính sách tiền tệ, chức năng giám sát và đảm bảo an toàn hệ thống Ngân hàng.
Phát triển trung tâm thông tin khách hàng.
Sớm củng cố hệ thống đào tạo của ngành để bồi dưỡng, đào tạo cán bộ có trình độ chuyên môn cao phù hợp với yêu cầu hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong cơ chế thị trường.
Tổ chức các hoạt động thanh tra có tính độc lập cần thiết để kịp thời phát hiện xử lý kiên quyết các vi phạm.
Đẩy mạnh việc hình thành và phát triển các công ty mua bán và xử lý nợ, để giải quyết số nợ tồn đọng của ngân hàng thương mại hiện nay.
Ngân hàng Nhà nước nên ban hành các thông tư liên tịch để hướng dẫn xử lý tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn của các tổ chức tín dụng. Đề nghị Ngân hàng Nhà nước cần xoá nợ hoặc cấp bù cho những Ngân hàng có những khoản nợ quá hạn vì những lý do khách quan .
Ngân hàng Nhà nước cần đưa ra những quy định cụ thể rõ ràng về việc trích lập các quỹ dự phòng rủi ro, các mức trích lập cũng như danh mục nội dung cần trích lập để các tổ chức tín dụng chủ động trong vấn đề giải quyết các khoản nợ có vấn đề của mình .
Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ cần có một chương trình hiệu quả để quy hoạch và cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, loại bỏ các Ngân hàng hoạt động không có hiệu quả. Việt nam cần có một hệ thống Ngân hàng hoạt động lành mạnh, hiệu quả đủ sức mạnh cạnh tranh trên thị trường trong nước và khu vực.
Kiến nghị đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Là Ngân hàng Trung ương của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà nội, những hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội.
Việc giải quyết những khoản nợ quá hạn chậm chạp cũng một phần cũng là do thiếu sót của các Ngân hàng cấp trên. Chi nhánh không được tự ý khoanh nợ và xoá nợ đối với những khoản nợ quá hạn và khó đòi, việc này phải do Ngân hàng cấp cao quyết định trên cơ sở quyết định của Chủ tịch hội đồng quản trị và hội đồng xoá nợ. Do vậy những năm tới, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nên đưa ra những quyết định của mình về việc giải quyết những khoản nợ quá hạn không có khả năng thu hồi để giúp tình hình tài chính tại Chi nhánh lành mạnh hơn .
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nên trích lập quỹ dự phòng rủi ro trên cơ sở tính toán rủi ro của các Chi nhánh trong toàn hệ thống và để bù đắp rủi ro có hiệu quả, bù đắp những khoản mất mát của Chi nhánh trong thời gian ngắn nhất để Chi nhánh nhanh chóng cân đối tình hình tài chính của mình .
Kết luận.
Chúng ta đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của thông tin và khoa học công nghệ. Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội cần phải nỗ lực thật nhiều thì mới tồn tại và phát triển vững mạnh, cùng đất nước bước vào thế kỷ XXI. Đa dạng hoá các hoạt động nghiệp vụ, trước tiên là phát triển tín dụng ngắn hạn , là một biện pháp để Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội mở rộng hoạt động của mình, trước là sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn được huy động, tăng thêm lợi nhuận, sau là để thu hút và mở rộng khách hàng, tạo lập một vị thế vững vàng trong cạnh tranh. Trong xu thế đa dạng hoá các hoạt động Ngân hàng trên thế giới, Chi nhánh cần phải cố gắng hơn trong việc nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn, tăng doanh thu từ các hoạt động dịch vụ của Ngân hàng, tiến tới nâng cao uy tín và lòng tin đối với khách hàng trong và ngoài nước.
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đã có nhiều nỗ lực, cố gắng vượt qua mọi trở ngại, quyết tâm thực hiện mục tiêu ổn định, an toàn và hiệu quả phát triển, để trở thành đơn vị kinh doanh đạt lợi nhuận cao trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Song bên cạnh những chuyển biến tích cực trong hoạt động kinh doanh, Chi nhánh vẫn còn vấn một số vấn đề tồn tại cần giải quyết về tín dụng ngắn hạn, đây là đối tượng nghiên cứu của chuyên đề.
Sau quá trình nghiên cứu, chuyên đề đã hoàn thành với mục đích: Lý giải những vấn đề cơ bản về Ngân hàng thương mại và chất lượng tín dụng, trên cơ sở số liệu và tình hình thực tế, chuyên đề đã khảo sát và tìm ra những tồn tại chủ yếu, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại góp phần nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn của Chi nhánh trong những năm tới.
Mục lục.
Trang.
Lời nói đầu: ...................................................................................................1
Chương I. Tín dụng ngân hàng và chất lượng tín dụng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
I. tín dụng và vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị trường ............................................................................................................ 3
1.Khái niệm về tín dụng và sự cần thiết của tín dụng ..................................... 3
Khái niệm và đặc điểm của ..........................................................................3
Sự cần thiết của tín dụng trong nền kinh tế thị trường ............................. 4
Chức năng và vai trò của tín dụng ............................................................... 8
Các hình thức tín dụng Ngân hàng .............................................................. 9
Hoạt động cho vay ........................................................................................ 9
Theo kỳ hạn nợ ......................................................................................... 9
Theo mục đích sử dụng vốn vay ........................................................... 15
Theo hình thức đảm bảo tiền vay ......................................................... 15
Theo phương thức hoàn trả ................................................................... 16
Theo loại hình tiền tệ ............................................................................. 16
Hoạt động cho thuê tài chính .................................................................... 16
Hoạt động bảo lãnh .................................................................................... 17
Hoạt động chiết khấu ................................................................................. 17
II.Quy trình phân tích tín dụng của Ngân hàng ................. 18
III.chất lượng tín dụng và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng đối với ngân hàng ................................. 21
1. Khái niệm về chất lượng tín dụng ............................................................... 21
1.1. Chất lượng tín dụng theo quan điểm của khách hàng ........................... 21
1.2. Chất lượng tín dụng theo quan điểm của Ngân hàng ............................ 22
1.3. Chất lượng tín dụng theo quan điểm của xã hội .................................... 23
Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng ..................................... ..23
Nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng .............................................. 25
3.1 Nhân tố khách quan ................................................................................... 25
3.2 Nhân tố chủ quan của Ngân hàng ............................................................. 27
Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng ............................................... 28
4.1 Nhóm chỉ tiêu định tính ............................................................................. 28
4.2 Nhóm chỉ tiêu định lượng .......................................................................... 29
Chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà nội. ........................................................................................ 31
Chương II tình hình tín dụng ngắn hạn của chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Bắc hà nội.
i. khái quát về chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển bắc hà nội ...................................................................................... 33
Lịch sử ra đời và phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà nội ........................................................................................... 33
Tình hình hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà nội từ năm 2000 trở lại đây ................................................................... 37
Hoạt động huy động vốn ............................................................................ 37
Hoạt động sử dụng vốn .............................................................................. 40
Hoạt động khác .......................................................................................... 43
ii. thực trạng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển bắc hà nội ......... 44
Tình hình huy động vốn ngắn hạn ............................................................ 44
Tình hình cho vay ngắn hạn ...................................................................... 46
Đối tượng khách hàng có quan hệ với Chi nhánh .................................... 47
Các chỉ tiêu thể hiện chất lượng tín dụng ................................................. 50
Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn hạn ..................... 54
Nhóm nhân tố từ phía khách hàng ......................................................... . 54
Nhóm nhân tố từ phía Ngân hàng ............................................................ 55
Nhóm nhân tố khác ................................................................................... 57
IiI. những ưu điểm và tồn tại trong hoạt động tín dụng ngắn hạn của chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển bắc hà nội ...................................................................................... 57
Những ưu điểm .............................................................................................57
Những tồn tại ............................................................................................... 58
Chương iii: một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển bắc hà nội.
I. định hướng hoạt động của chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển bắc hà nội ............................................................ 61
Phương hướng hoạt động ............................................................................ 61
Mục tiêu phấn đấu của Chi nhánh đến năm 2005 .................................. 61
II. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh trong những năm tới ............................... 62
Xây dựng chính sách khách hàng và chính sách lãi suất hợp lý nhằm đa dạng hoá đối tượng cho vay của Chi nhánh ............................................. 62
Thực hiện đúng và linh hoạt quy trình tín dụng đặc biệt là trong công tác thẩm định và quản lý món vay ................................................................. 66
Tăng cường công tác quản lý và xử lý nợ quá hạn ................................. 69
Đa dạng hoá sản phẩm ngày một phù hợp hơn với nhu cầu của khách hàng nhằm tạo ra một cơ cấu dư nợ hợp lý ............................................ 74
Đẩy mạnh công tác huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng ......................................................................................... . 77
Giải pháp chung: Thường xuyên bồi dưỡng và đào tạo để năng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên .................................................................. 79
iii. một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển bắc hà nội ..................................................................................... 81
1. Kiến nghị đối với Chính phủ và các cơ quan Nhà nước ........................... 81
2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước ..................................................... 83
3. Kiến nghị đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam ................. 84
Kết luận.
Tài liệu tham khảo.
Tài liệu tham khảo
Lý thuyết tài chính tiền tệ
Tác giả: Nguyễn Văn Trâu
Giáo trình kế toán và xử lý thông tin trong các Ngân hàng thương mại
Tác giả: Lê Đức Lữ
Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính
Tác giả: Frederic S. Mishkin
Luật các tổ chức tín dụng
Giáo trình tài chính doanh nghiệp
Chủ biên: TS. Lưu Thị Hương
Luận văn tốt nghiệp
Tác giả: Lưu Hữu Dũng Tài Chính Công 40
Báo cáo kết quả kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà nội.
Quy trình tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà nội.
Tạp chí Ngân hàng
Số 1,2,5,7,8 năm 2000
Số 3,4,6,7,10,11 năm 2001
Số 1,2,3 năm 2002
Số 1,2 năm 2003
Tạp trí thời báo kinh tế.
Ngân hàng thương mại quản trị và nghiệp vụ
Tác giả: TS. Phan Thị Thu Hà - TS. Nguyễn Thị Thu Thảo.
Bài giảng: Lý thuyết tài chính tiền tệ của thầy giáo Đặng Ngọc Đức.
Bài giảng: Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại của cô giáo Phan Thị Thu Hà.
Bài giảng: Tài chính doanh nghiệp của cô giáo Lưu Thị Hương.
Quản trị Ngân hàng thương mại của (Commercial bank managerment)
Peter S.Rose - NXB Tài Chính.
Giáo trình Lý thuyết Tài chính tiền tệ - TS. Nguyễn Hữu Tài (chủ biên)- NXB Thống kê.
Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương - Hoàng Xuân Quế (chủ biên).
Xác nhận của đơn vị thực tập
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7008.doc