Lời nói đầu
Việt Nam đang trong quá trình phát triển và hội nhập với nền kinh tế thế giới và tìm mọi cách để bắt kịp với các nước thành viên ASEAN (như: Singapore, Thái Lan, Brunei,v.v. .) Chính vì vậy Việt Nam cần phải phát triển được mọi nghành nghề bao gồm: Công nghiệp, Nông nghiệp ,Thủ công nghiệp,Công nghệ viễn thông, Internet..v.v.
Để làm được điều này, đòi hỏi cần có nhiều vốn, nhưng “ vốn ở đâu ra?” đó là câu hỏi đã làm đau đầu các nhà lãnh đạo. Trong khi Việt Nam phải đương đầu với vấ
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1351 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng người nghèo Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n đề nghèo đói của người dân ở nhiều vùng trong khắp cả nước.” Chưa xoá được đói, giảm được nghèo”thì làm sao ta có thể phát triển được mọi nghành nghề một cách ổn định được.
Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam đã được quan tâm từ những ngày đầu tiên của chính quyền cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ hàng đầu là "Diệt giặc dốt, giặc đói và giặc ngoại xâm".
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng CSVN lần thứ V (Khóa VII) tháng 6/01/1993 đã đề ra chủ trương: "Phải hỗ trợ giúp người nghèo bằng cách cho vay vốn, hướng dẫn cách làm ăn, tranh thủ các nguồn vốn tài trợ nhân đạo trong và ngoài nước, phấn đấu tăng hộ giàu đi đôi với xóa đói giảm nghèo".
Giải quyết vấn đề đói nghèo ngày nay không còn là công việc của từng quốc gia mà trở thành chiến lược toàn cầu, có ý nghĩa to lớn về kinh tế và nhân đạo ở tất cả các nước trên thế giới. Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tại Copenhalen (Đan Mạch) tháng 3/1995, 115 vị nguyên thủ quốc gia (trong đó có Việt Nam) đã nhất trí đưa ra tuyên bố và chương trình hành động trong việc chống đói nghèo "chúng tôi cam kết thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo trên thế giới, thông qua các hành động quốc gia kiên quyết và hợp tác, coi đây như là một đòi hỏi bắt buộc về mặt đạo đức, xã hội, chính trị và kinh tế của nhân loại...".
Việt Nam là một trong số những nước nghèo có tỷ lệ hộ đói nghèo cao. Theo số liệu điều tra của Ngân hàng thế giới (WB) thời điểm năm 1993 nước ta có khoảng 59% số hộ nghèo trong đó có khoảng 22,5% số hộ sống dưới mức đói nghèo.
Thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, những năm qua nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt từng năm. Trên cơ sở chủ trương của Đảng của Chính phủ và có một phần đóng góp đáng kể của Ngân hàng người nghèo Việt Nam.
Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng phục vụ người nghèo, tôi thực sự quan tâm đến vấn đề này và đã chọn: "Tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng người nghèo Việt Nam - Thực trạng và giải pháp" làm đề tài cho bản chuyên đề tốt nghiệp.
Bản chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương I: Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo trong quá trình phát triển nông nghiệp-nông thôn ở nước ta.
Chương II: Thực trạng Tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng phục vụ người nghèo Việt Nam trong thời gian qua.
Chương III: Định hướng cho vay hộ nghèo của Ngân hàng người nghèo.
Em xin chân thành cảm ơn Cô giáo hướng dẫn: TS. Lê Hoàng Nga, các thầy cô giáo trong khoa Tài chính - Kế toán, các cán bộ phòng Kế hoạch- nghiệp vụ NHNg đã có công dìu dắt và truyền đạt cho em những kiến thức bổ ích để hoàn thành tốt chuyên đề tốt nghiệp này.
Chương I
Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo trong quá trình phát triển nông nghiệp- nông thôn ở nước ta.
I/. Chiến lược phát triển nông nghiệp-nông thôn và giải quyết tình trạng nghèo đói ở Việt Nam.
1. Vai trò của nông nghiệp-nông thôn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Xét trên các mặt kinh tế, xã hội, môi trường, nông nghiệp-nông thôn có vị trí hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế- xã hội của mỗi nước. Hầu hết các nước trên thế giới đều quan tâm đến phát triển nông nghiệp - nông thôn vì đây là lĩnh vực rộng lớn, là nơi sản xuất lương thực thực phẩm và nguyên liệu nông nghiệp gắn liền với sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Không những thế, nông nghiệp-nông thôn còn là một thị trường tiêu thụ rộng lớn của công nghiệp và các ngành khác. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nước trên thế giới đã lấy nông nghiệp - nông thôn làm điểm xuất phát của quá trình phát triển hay cải cách kinh tế.
Đối với nước ta, một nước có tỷ lệ nông nghiệp lớn lại chủ yếu là sản xuất nhỏ, nông nghiệp-nông thôn lại càng có vị trí đặc biệt quan trọng. Vai trò và vị trí quan trọng đó được thể hiện ở các mặt chủ yếu sau đây:
Trước hết, nông nghiệp - nông thôn là khu vực duy nhất cung cấp lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu cơ bản và thiết yếu nhất cho tiêu dùng xã hội. Nông nghiệp phát triển là điều kiện quan trọng để xây dựng quỹ tiêu dùng ngày càng lớn cho xã hội và góp phần tích luỹ cho nền kinh tế. Hiện nay, nông nghiệp-nông thôn nước ta sản xuất ra nông sản phẩm chiếm 37,4% giá trị tổng sản phẩm xã hội, 45,4% giá trị thu nhập quốc dân, 34,5% GDP và 52,2% giá trị kim ngạch xuất khẩu. Vì vậy nông nghiệp-nông thôn có tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế - chính trị của đa phần dân cư.
Nông nghiệp phát triển sẽ tạo cơ sở thúc đẩy các ngành công nghiệp phát triển. Vì một mặt nó là nguồn cung cấp các nguồn nguyên vật liệu chủ yếu cho nhiều ngành công nghiệp như: công nghiệp chế biến nông-lâm- thuỷ sản, công nghiệp dệt, tiểu thủ công nghiệp... Mặt khác, nó là một thị trường tiêu thụ rộng lớn cho các ngành công nghiệp này, vì thế nó có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế. Trong khi các sản phẩm công nghiệp của ta khó tìm được thị trường xuất khẩu do chất lượng kém, thiếu sức cạnh tranh thì thị trường trong nước có một vai trò quan trọng để các ngành này có thể phát triển được. Nói đến thị trường trong nước thì không thể không kể đến thị trường nông thôn với gần 80% dân số sinh sống. Nếu sức mua của thị trường này tăng thì thị trường tiêu thụ tăng và các ngành công nghiệp sẽ có cơ hội phát triển, ngược lại nếu sức mua của thị trường này bị giảm thì sẽ cản trở việc phát triển nền kinh tế quốc dân.
Nông nghiệp - nông thôn không chỉ cung cấp lương thực thực phẩm để nuôi sống toàn bộ dân cư mà còn có sản phẩm thặng dư để xuất khẩu. Hiện nay nguồn xuất khẩu chủ yếu của nước ta là dựa vào nông nghiệp. Hàng năm nguồn xuất khẩu từ gạo và các sản phẩm nông nghiệp khác đã mang lại cho chúng ta một lượng ngoại tệ đáng kể. Tỷ trọng xuất khẩu nông nghiệp chiếm trên 52% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế.
Nông thôn Việt Nam nằm trải rộng trên những vùng kinh tế lớn của đất nước, là cơ sở cho việc công nghiệp hoá - hiện đại hoá, hình thành và phát triển cơ cấu hợp lý với chuyên môn hoá và tập trung hoá sản xuất.
Có một vấn đề cũng rất quan trọng mà nói đến nông nghiệp-nông thôn ta không thể không nhắc đến đó là: Nông nghiệp - nông thôn phát triển sẽ góp phần ổn định tình hình kinh tế, chính trị - xã hội và an ninh quốc phòng. Nông nghiệp-nông thôn phát triển thì ý thức của người dân về bảo vệ môi trường cũng tốt hơn.
2. Vai trò của hộ nông dân trong sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp-nông thôn và giải quyết tình trạng nghèo đói ở nước ta.
Hộ nông dân được hiểu là một đơn vị sản xuất nhận khoán ruộng đất, vườn đồi, cây, hồ ao, rừng,... do hợp tác xã hoặc chính quyền địa phương giao cho để tự chủ sản xuất chế biến, tiêu thụ sản phẩm . Đó là một đơn vị kinh tế tự chủ được quyền quan hệ với các tổ chức và các thành phần kinh tế trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Nó gắn liền với thị trường và sản xuất hàng hoá, do đó quá trình hình thành và phát triển của hộ nông dân gắn liền với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất.
Trải qua nhiều giai đoạn phát triển từ mô hình sở hữu tập thể, hiện nay mỗi hộ nông dân được xem là một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Điều này đã khích lệ người nông dân quan tâm đầu tư nhiều vốn, kỹ thuật vào thửa ruộng, mặt nước ao hồ... của mình để nâng cao đời sống gia đình, góp phần vào sự nghiệp phát triển nông thôn.
Trong tình hình phát triển kinh tế hiện nay, hộ nông dân đóng một vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp-nông thôn và góp phần to lớn trong công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nước ta.
Do tính chất là một đơn vị kinh tế tự chủ, cơ bản và ổn định nên hộ nông dân là những đơn vị cung cấp nhiều sản phẩm đa dạng nông, lâm, ngư nghiệp không những cho thị trường trong nước mà cho cả thị trường quốc tế. Sản phẩm nông nghiệp của hộ chiếm 48% giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp, 95% sản lượng chăn nuôi, 93% sản lượng rau quả. Tính tự chủ đã làm cho người nông dân mạnh dạn và tận tâm đầu tư vào ngành nghề mà họ cho là có hiệu quả từ đó nâng cao hiệu quả của việc sản xuất. Theo nhà bác học người Nga A.V Trai Anop (1889-1959) thì: “ Hộ nông dân là phương tiện tuyệt vời để tăng trưởng và phát triển nông nghiệp”.
Trải qua 15 năm đổi mới, nền nông nghiệp nước ta đã có những tiến bộ vượt bậc nhưng vẫn còn là một nền nông nghiệp lạc hậu. Để công nghiệp hoá và hiện đại hóa nông nghiệp-nông thôn như chủ trương của Đảng và Nhà nước trong một môi trường kinh tế như thế thì việc đa dạng hoá các ngành nghề, chú trọng vào chuyên môn hoá và đặc biệt là hình thành lên nhiều loại hình doanh nghiệp là cần thiết và hợp lý. Vì vậy hộ nông dân là những ứng cử viên duy nhất cho việc thành lập doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này sẽ làm thay đổi bộ mặt kinh tế nông thôn nước ta.
Khi hộ nông dân phát triển sản xuất, nhu cầu về vốn đầu tư sẽ nhiều và sẽ dẫn đến việc hình thành nhiều ngành dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp. Điều này sẽ tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động đồng thời tăng trưởng phần đóng góp của khu vực nông thôn đối với nền kinh tế. Vai trò của hộ nông dân trong sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp-nông thôn ở nước ta là rất lớn. Việc đầu tư phát triển hộ nông dân sản xuất có hiệu quả là một việc làm rất quan trọng đối với mọi ngành trong sự nghiệp hiện đại hoá nông thôn vì họ chiếm phần lớn trong kinh tế nông thôn.
II/. Tín dụng và vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường và trong quá trình phát triển nông nghiệp - nông thôn.
1. Khái niệm tín dụng
Về bản chất, tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau và hoàn trả cả gốc và lãi trong một khoảng thời gian nhất định đã được thoả thuận giữa người đi vay và người cho vay. Hay nói một cách khác, tín dụng là một phạm trù kinh tế, trong đó mỗi cá nhân hay tổ chức nhường quyền sử dụng một khối lượng giá trị hay hiện vật cho một cá nhân hay tổ chức khác với thời hạn hoàn trả cùng với lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi món vay... Tín dụng ra đời, tồn tại và phát triển cùng với nền sản xuất hàng hoá. Trong điều kiện nền kinh tế còn tồn tại song song hàng hóa và quan hệ hàng hóa tiền tệ thì sự tồn tại của tín dụng là một tất yếu khách quan.
Trong nền kinh tế hàng hóa, đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình sản xuất kinh doanh của các đơn vị là không hoàn toàn giống nhau. Do đặc điểm nhu cầu về vốn của các đơn vị tập thể, cá nhân khác nhau làm nảy sinh hiện tượng chủ yếu phổ biến là trong cùng một thời gian, có những đơn vị kinh tế phát sinh nhu cầu về vốn tiền tệ cần đáp ứng và bổ sung với khối lượng và thời gian nhất định. Trong khi đó lại có những đơn vị kinh tế có số vốn nhàn rỗi trong cùng thời gian đó. Mâu thuẫn này thường xuyên xảy ra và xen kẽ lẫn nhau trong quá trình tuần hoàn của vốn tiền tệ trong toàn bộ nền kinh tế . Để đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được liên tục và tiết kiệm vốn, có nhiều phương pháp khác nhau nhưng tín dụng là phương pháp đạt hiệu quả cao nhất. Thông qua hình thức này, những lượng tiền nhàn rỗi tạm thời được tập trung và đáp ứng nhu cầu vốn, kịp thời phục vụ cho sản xuất và lưu thông.
Ngoài ra, trong nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần kinh tế, do vậy cũng tồn tại nhiều chế độ sở hữu về vốn khác nhau. Các nguồn vốn này thuộc các chủ sở hữu khác nhau và độc lập nhưng chúng lại đòi hỏi phải có sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các hình thức sở hữu về vốn . Như vậy, để để điều hòa vốn giữa các hình thức sở hữu khác nhau mà không xâm phạm đến quyền chủ sở hữu thì phải thông qua quan hệ tín dụng cho vay có trả cả gốc và lãi.
Hơn nữa, do yêu cầu của chế độ hạch toán thì một đơn vị kinh doanh phải tự chủ về vốn, chủ động xác định nhu cầu vốn của mình để có thể điều hòa vốn một cách hợp lý. Do đó tất yếu đòi hỏi phải có nghiệp vụ huy động vốn, từ đó cho vay đối với các đơn vị thiếu vốn
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tín dụng ngày càng phát triển cả về nội dung lẫn hình thức, từ tín dụng nặng lãi đến tính dụng thương mại và tín dụng ngân hàng. Quan hệ tín dụng ngày càng phát triển và mở rộng thêm, từ quan hệ giữa cá nhân với nhau đến các quan hệ giữa các cá nhân với tổ chức, quan hệ giữa các tổ chức với nhau, quan hệ giữa các tổ chức với Nhà nước và đến cao nhất là tín dụng quốc tế.
2. Các hình thức tín dụng và vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
a. Các hình thức tín dụng
Quan hệ tín dụng đầu tiên trong lịch sử là tín dụng nặng lãi. Quan hệ tín dụng này hình thành vào đầu chế độ nô lệ và tồn tại thậm chí đến tận ngày nay. Cùng với sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy là sự ra đời của chế độ nô lệ gắn liền với quá trình phân hoá giàu nghèo rất sâu sắc, các nhu cầu chi tiêu rất lớn mâu thuẫn với lực lượng sản xuất còn kém phát triển. Các điều kiện kinh tế xã hội đó đã làm nảy sinh một quan hệ vay mượn đặc biệt khác với quan hệ vay mượn thông thường trong dân cư : đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian nhất định. Lãi thường rất lớn do nhu cầu đi vay mang tính cấp bách do khả năng đi vay còn ít ỏi và tính rủi ro cao trong khi sử dụng vốn vay. Tín dụng nặng lãi với sản xuất hàng hoá nhỏ, phân tán và phục vụ chủ yếu cho nhu cầu tín dụng tiêu dùng. Tín dụng nặng lãi được coi là phương pháp tích luỹ nguyên thuỷ, là công cụ đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn, tạo điều kiện cho phương thức sản xuất mới ra đời. Sau đó, do nhu cầu phát triển, tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng Nhà nước ra đời.
- Tín dụng thương mại: Tín dụng thương mại ra đời sớm hơn tín dụng ngân hàng nhưng khi nền sản xuất hàng hóa phát triển thì cả hai hình thức này cùng song song tồn tại và phát triển. Tín dụng thương mại là tín dụng giữa các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh trong khi tiêu thụ hàng hóa, là việc mua bán chịu lẫn nhau giữa các nhà tư bản. Như vậy, tín dụng thương mại chính là việc cho vay bằng hàng hóa, giá trị hàng hóa được hai bên quy ra tiền. Tín dụng thương mại là quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau, giữa các doanh nghiệp được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi nhà kinh doanh vừa là người mua chịu (người đi vay) vừa là người bán chịu (người cho vay).
Sự phát triển của nền kinh tế đã góp phần hoàn thiện quan hệ tín dụng thương mại về nhiều mặt và ngược lại, tín dụng thương mại cũng có tác dụng tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế. Tín dụng thương mại không những góp phần đẩy nhanh quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá mà còn tham gia vào sự điều tiết vốn giữa các doanh nghiệp một cách trực tiếp không qua một tổ chức trung gian nào. Một vai trò không kém phần quan trọng nữa của tín dụng thương mại là góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông và do đó làm giảm chi phí lưu thông xã hội.
Tuy nhiên, tín dụng vẫn còn một số hạn chế:
Thứ nhất, do người bán không thể bán hàng hóa vượt quá số lượng mà mình có và ngược lại, người bán có khối lượng hàng hóa lớn nhưng người mua chỉ cần mua một phần số hàng hóa đó nên quy mô của tín dụng bị hạn chế bởi người cung cấp (người bán). Đơn vị bán phải tìm thêm để cho vay hoặc tiêu thụ bằng phương thức khác.
Thứ hai, tín dụng thương mại là tín dụng hàng hóa nên bị hạn chế về không gian và thời gian.
Thứ ba, tín dụng thương mại là tín dụng ngắn hạn, nó không thể thoả mãn nhu cầu của người muốn vay dài hạn. Hàng hóa của người bán vẫn chưa thoát khỏi chu kỳ sản xuất, do đó nó chưa phải là tiền. Còn người bán trong thời gian ngắn cần phải thu tiền về để tiếp tục sản xuất và sử dụng một phần lợi nhuận vào mục đích khác.
Thứ tư, là tín dụng thương mại không thể mở rộng đầu tư vào mọi ngành trong nền kinh tế quốc dân bởi vì hàng hóa đơn vị bán chịu chỉ có thể là nguyên liệu của đơn vị mua chịu nhưng đơn vị mua chịu không thể mua bất cứ hàng hóa nào mà chỉ mua hàng hoá họ cần cho sản xuất kinh doanh của họ và người bán cũng chỉ có thể đầu tư một chiều. Điều này cũng có nghĩa là có thể không cần sản phẩm mà người mua chịu hàng hóa của mình có được.
Để khắc phục những khuyết tật trên của tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng ra đời.
- Tín dụng ngân hàng: Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng vô cùng quan trọng. Có thể nói quan hệ tín dụng ngân hàng giữa doanh nghiệp với ngân hàng là quan hệ tín dụng chủ yếu, cung cấp phần lớn nhu cầu tín dụng cho doanh nghiệp. Ngân hàng ở đây đóng vai trò là tổ chức kinh tế trung gian đi vay để cho vay. Khi khối lượng hàng hoá sản xuất và lưu thông tăng lên thì nhu cầu về vốn, trong đó có vốn tín dụng ngân hàng cũng tăng lên.
So với tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng có những ưu điểm hơn hẳn. Trước hết tín dụng ngân hàng là tín dụng bằng tiền, không bị hạn chế về không gian địa lý. Điều quan trọng hơn là người nhận được tín dụng thương mại khi đến hạn trả nợ nếu vì lý do nào đó mà không có hoặc không có đủ tiền trả thì tín dụng thương mại sẽ gặp bế tắc. Trong trường hợp này tín dụng ngân hàng sẽ là cứu cánh cho người mua.
Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng có thể thoả mãn một cách tối đa nhu cầu về vốn trong nền kinh tế nếu người vay chấp hành đầy đủ các quy chế tín dụng của ngân hàng. Tín dụng ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu của người vay theo nhiều loại như: tín dụng ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, tín dụng tiêu dùng, tín dụng trả góp... Trong khi quy mô của tín dụng thương mại bị hạn chế bởi khả năng của người cấp tín dụng thương mại.
Công cụ của tín dụng ngân hàng là thương phiếu. Sự gắn bó chặt chẽ và tạo điều kiện để cùng nhau phát triển giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng chính là việc thực hiện nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu tại ngân hàng. Trong thực tiễn sản xuất kinh doanh có nhiều trường hợp khi thực hiện tín dụng thương mại, tuy thương phiếu chưa đến kỳ hạn thanh toán tiền hàng nhưng người bán do nhiều nguyên nhân đã cần tiền. Trong trường hợp này người bán có thể đem thương phiếu đến ngân hàng để xin chiết khấu để giải quyết nhu cầu vốn của mình. Đồng thời, các ngân hàng thương mại khi cần vốn cũng có thể mang thương phiếu đã chiết khấu đến Ngân hàng Nhà nước để tái chiết khấu. Nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu về thực chất là nghiệp vụ tín dụng ngân hàng .
Tín dụng ngân hàng không những chỉ được đầu tư vào các doanh nghiệp sản xuất và lưu thông hàng hoá mà còn được đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác trong nền kinh tế- xã hội và cho vay mọi đối tượng khách hàng miễn là họ có khả năng hoàn trả.
Tóm lại, sự ra đời của tín dụng ngân hàng đã khắc phục được những nhược điểm của tín dụng thương mại. Với tín dụng ngân hàng các doanh nghiệp sẽ nhận được khối lượng vốn bổ sung cần thiết, từ đó tăng quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động, đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ kỹ thuật. Ngoài ra, tín dụng ngân hàng còn tăng khả năng kiểm soát các hoạt động kinh tế.
- Tín dụng Nhà nước: Tín dụng Nhà nước là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với các tầng lớp dân cư hoặc các tổ chức kinh tế-xã hội, được thực hiện bằng cách phát hành các chứng chỉ nợ thích hợp.
Nhà nước đóng vai trò là người đi vay trong trường hợp nhu cầu chi cho ngân sách lớn nguồn thu không đáp ứng đủ. Khi đó Chính phủ cân đối ngân sách bằng cách phát hành trái phiếu. Nếu tiến hành một dự án nào đó mà Chính phủ không muốn sử dụng vốn ngân sách Nhà nước thì trái phiếu cũng được phát hành nhằm thu hút vốn cho dự án.
Khi Nhà nước có chủ trương dành vốn ưu đãi cho một số chương trình đặc biệt mà vốn tín dụng ngân hàng không thể đáp ứng được thì Nhà nước là người đi vay. Tín dụng ngân hàng được thực hiện để hỗ trợ chương trình cho vay tạo việc làm, chương trình nhà ở ở đồng bằng Sông Cửu Long, chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chương trình cho vay để tái thiết các công trình công cộng...
Khái quát các hình thức tín dụng và đặc trưng của nó, ta thấy mỗi hình thức đều có cả mặt mạnh và cả những mặt hạn chế. Mỗi hình thức tín dụng đều có những điều kiện kinh tế -xã hội cụ thể dẫn đến quá trình phủ nhận hoặc bổ sung cho nhau giữa các hình thức tín dụng. Tín dụng nói chung là một thể thống nhất của nhiều hình thức: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng Nhà nước và thậm chí cả tín dụng nặng lãi. Bất kỳ một sự loại bỏ nào về các hình thức tín dụng sẽ dẫn đến phá vỡ tính thống nhất của hệ thống tín dụng và làm giảm vai trò cực kỳ quan trọng của tín dụng như là một công cụ có hiệu quả để phát triển kinh tế.
b.Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Tín dụng nói chung, đặc biệt là tín dụng ngân hàng đã tập trung được các khoản vốn nhỏ, lẻ tẻ thành các khoản vốn lớn, tạo khả năng đầu tư vào các công trình lớn, hiệu quả cao. Tín dụng ngân hàng có vai trò tập trung và tích tụ vốn từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Trong nền kinh tế thị trường tín dụng ngân hàng góp phần vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn. Điều đó vừa làm tăng khả năng tích luỹ tư bản vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhờ vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Nói cách khác, tín dụng ngân hàng góp phần giảm hệ số nhàn rỗi trong lưu thông và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Nó cũng góp phần vào bình quân hoá lợi nhuận. Nhờ có tín dụng ngân hàng mà các doanh nghiệp dễ dàng chuyển hướng kinh doanh. Tín dụng ngân hàng trở thành công cụ làm cho nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp trở nên năng động, mềm dẻo, linh hoạt hơn.
Tín dụng ngân hàng còn là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế. Ngày nay quan hệ kinh tế quốc tế dựa trên sự hợp tác bình đẳng, đôi bên cùng có lợi giữa các nước trên thế giới và trong khu vực đang được phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đó là nhân tố quan trọng tạo điều kiện cho phát triển kinh tế của các nước, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa là hai lĩnh vực quốc tế thông dụng. Vốn là nhân tố quyết định đầu tiên cho việc thực hiện quá trình này. Nhưng không có một tổ chức kinh tế nào có đủ vốn mà nếu có đủ vốn người ta cũng không đầu tư hết vào một lĩnh vực. Ngân hàng với tư cách là một tổ chức kinh tế đặc biệt trong kinh doanh tiền tệ, qua hoạt động tín dụng sẽ là trợ thủ đắc lực về vốn cho các nhà đầu tư và kinh doanh hàng hóa xuất nhập khẩu.
Nói tóm lại, tín dụng ngân hàng đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất hàng hóa.
3. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong quá trình phát triển nông nghiệp- nông thôn nước ta.
Như ta đã biết, tín dụng ngân hàng là mối quan hệ giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với doanh nghiệp và cá nhân. Tín dụng ngân hàng giữ vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp-nông thôn, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách toàn diện. Vậy tín dụng ngân hàng thể hiện vai trò của nó trong quá trình phát triển nông nghiệp-nông thôn ở nước ta ra sao?
a. Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, nhu cầu vốn để sản xuất kinh doanh rất lớn, bên cạnh các nguồn vốn khác thì vốn từ tín dụng ngân hàng giữ vai trò rất quan trọng để duy trì quá trình sản xuất, chăn nuôi, trồng trọt được liên tục đồng thời đầu tư phát triển kinh tế nông nghiệp-nông thôn.
Tuy nhiên, trong một vài chu kỳ, ở các hộ nông dân, các tổ chức kinh tế có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi, tín dụng ngân hàng thực hiện sự điều hoà giữa những người thừa vốn và những người thiếu vốn. Bên cạnh đó tín dụng ngân hàng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, nó là động lực kích thích tiết kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển mở rộng sản xuất chăn nuôi. Tín dụng là nguồn hình thành vốn lưu động cho các hộ nông dân, thực hiện nguyên tắc hoàn trả đủ cả gốc và lãi lúc đến hạn. Vì vậy, nó thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời góp phần vào việc nâng cao ý thức sản xuất kinh doanh của người sử dụng vốn. Từ đó nâng cao hiệu quả của đồng vốn đầu tư.
Đối với nước ta hiện nay, thông qua việc đầu tư tín dụng sẽ góp phần giúp người nông dân tiếp cận và quen dần với tác phong giao dịch với các tổ chức tín dụng.
b. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất
Hoạt động của tín dụng ngân hàng là tập trung vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng trong các tổ chức và cá nhân để cho vay lại các tổ chức kinh tế , hộ gia đình. Vì vậy, tín dụng ngân hàng góp phần tăng hệ số nhân tiền, vòng quay của vốn trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, tín dụng ngân hàng không phải rải đều cho mọi chủ thể kinh tế có nhu cầu, mà việc đầu tư được thực hiện một cách tập trung chủ yếu cho các hộ nông dân làm ăn có hiệu quả. Điều này là tất yếu vì nó làm giảm bớt được rủi ro tín dụng, đồng vốn đầu tư mang lại hiệu quả đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất của hộ nông dân.
c. Tín dụng ngân hàng là công cụ hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp và các ngành nghề khác ở nông thôn.
ở nước ta, nông nghiệp là ngành sản xuất đáp ứng nhu cầu cần thiết cho xã hội và là ngành chịu tác động nhiều nhất của điều kiện tự nhiên. Thực tế nông nghiệp nước ta còn lạc hậu và kém phát triển. Điều này có thể do nhiều nguyên nhân nhưng có một nguyên nhân rất quan trọng đó là thiếu vốn. Vì vậy vai trò của tín dụng ngân hàng rất lớn trong việc hỗ trợ về phân bón, cây giống, kỹ thuật canh tác,..cho sản xuất nông nghiệp, đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá nông nghiệp-nông thôn.
Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng cũng góp phần tích cực vào việc phát triển các ngành nghề, các làng nghề truyền thống ở nông thôn
d. Tín dụng ngân hàng góp phần đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá kinh tế nông nghiệp-nông thôn
Nông nghiệp-nông thôn nước ta đang còn ở trình độ phát triển thấp. Kinh tế nông thôn nước ta chủ yếu là kinh tế thuần nông với cơ sở vật chất nghèo nàn, kết cấu hạ tầng thấp kém, chủ yếu dựa trên nền kinh tế tự cung, tự cấp, đời sống dân cư còn thấp kém. Để thúc đẩy nông nghiệp-nông thôn phát triển đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đa dạng hơn, thu hẹp tỷ lệ hộ thuần nông, mở rộng các ngành nghề thủ công truyền thống,..góp phần nâng cao đời sống của người dân nông thôn thì vai trò của tín dụng ngân hàng là hết sức quan trọng. Bởi vì, nó tháo gỡ một trong những nốt buộc khó nhất đã kìm hãm sự phát triển nông nghiệp-nông thôn đó là thiếu vốn trầm trọng.
e. Tín dụng ngân hàng góp phần hạn chế hiện tượng cho vay nặng lãi ở nông thôn, góp phần quan trọng đặc biệt vào công cuộc xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước
Hiện tượng cho vay nặng lãi đã và đang diễn ra rất sôi động trên thị trường Việt Nam. Một người đang cần vốn cho một kế hoạch sản xuất kinh doanh mà không thể trì hoãn được họ phải sãn sàng chấp nhận mức lãi suất cao để có thể được “ vay nóng” ngay. Tín dụng ngân hàng đã góp phần hạn chế hiện tượng này trên thị trường.
Đối với người nông dân trong thời điểm sản xuất có lúc họ rất cần tới vốn. Vì không muốn bán tài sản của mình đi họ chấp nhận vay với lãi suất “cắt cổ” hoặc phải bán lúa non, cây non. Điều này làm giảm hiệu quả sản xuất, đồng thời khó có thể giúp người nông dân vươn lên được bởi vì sản phẩm họ làm ra may lắm mới chỉ trả đủ nợ gốc và lãi, lấy đâu ra để tái sản xuất và nâng cao đời sống.
Tín dụng ngân hàng ra đời sẽ giúp người dân tự chủ hơn về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Bất cứ khi nào cần vốn họ có thể làm đơn vay ngân hàng mà không phải chấp nhận vay nặng lãi như trước đây nữa. Tín dụng ngân hàng đã thực sự mang lại hiệu quả trong sản xuất và góp phần cải thiện đời sống của người dân.
f. Tín dụng ngân hàng kiểm soát bằng đồng tiền và thúc đẩy người nông dân thực hiện hạch toán kinh tế
Nguyên tắc cho vay của tín dụng ngân hàng là phải trả đủ nợ gốc và lãi khi đến hạn. Chính vì mối ràng buộc này mà người nông dân vay vốn phải ý thức được về giá trị của đồng vốn, từ đó nâng cao ý thức trong sản xuất, biết tính toán kinh tế trước khi đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nào đó.
III/. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với Hộ nghèo ở nông thôn hiện nay.
1. Khái quát về tình trạng nghèo đói ở Việt Nam
Thành tựu 15 năm đổi mới đã ảnh hưởng ngày càng sâu rộng tới mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội của đất nước, đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng và bước vào một giai đoạn phát triển mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế tiến tới phát triển công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Tuy vậy, Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo, chỉ tiêu kinh tế bình quân đầu người thấp, số hộ nghèo đói trên toàn quốc còn chiếm tỷ lệ cao. Mức hộ nghèo đói nhiều hay ít là căn cứ vào lượng lương thực bình quân đầu người trong một tháng, theo mùa vụ hay cả năm đối với từng vùng. Nhưng dù sao thì khái niệm này chỉ là tương đối vì có thể nghèo đói ở địa phương này nhưng không nghèo đói ở địa phương kia.
Những người nghèo tuyệt đối là những người mà thu nhập của họ không đủ để duy trì mức dinh dưỡng tối thiểu đảm bảo cho sự tăng trưởng và tồn tại lâu dài, nghĩa là người bị thiếu ăn. Còn nghèo đói tương đối là tình trạng không có khả năng đạt mức độ tối thiểu tại một thời điểm nào đó.
ở Việt Nam cũng có những tỷ lệ người nghèo khác nhau khi dựa trên các tiêu thức đánh giá khác nhau. Hiện nay, chỉ tiêu đánh giá về đói nghèo ở nước ta là lấy thu nhập bình quân đầu người một tháng được đo bằng giá trị hay hiện vật quy đổi lấy lương thực (gạo) để đánh giá. Ngoài ra còn có hệ thống chỉ tiêu phụ như: dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, y tế...
Theo chuẩn mực phân loại hộ nghèo do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội quy định thì tại văn bản số 1143 ngày 01/11/2000 thì hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người hàng tháng như sau:
- Dưới 150 ngàn đồng ở khu vực thành thị.
- Dưới 100 ngàn đồng ở vùng nông thôn, đồng bằng, trung du.
- Dưới 80 ngàn đồng ở vùng nông thôn miền núi hải đảo.
Theo tiêu chí này thì đến đầu năm 2001, tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta vào khoảng 17,3%.
Còn nếu theo tiêu chí đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB), yêu cầu về Calo theo đầu người là 2100 Calo mỗi ngày hoặc tính theo mức thu nhập bình quân đầu người là 1 USD/ngày thì ở Việt Nam hiện nay có đến 37% dân số được xếp vào loại nghèo, trong đó 90% tập trung ở vùng nông thôn.
Nhưng dù theo cách đánh giá nào đi chăng nữa thì bộ phận dân chúng nghèo khổ hiện nay ở Việt Nam vẫn còn quá lớn. Sự thật đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Có xem xét nguyê._.n nhân nghèo đói của các hộ gia đình thì mới có thể có biện pháp giúp đỡ hữu hiệu.
2. Nguyên nhân nghèo đói.
Tình trạng nghèo đói ở nước ta phần lớn tập trung ở nông thôn và thường rơi vào các nhóm hộ độc canh cây lúa và tự cung tự cấp, thiếu tư liệu sản xuất, thiếu lao động, thiếu việc làm hoặc làm kém hiệu quả, thu nhập thấp, không có khả năng tích luỹ để tái sản xuất giản đơn. Đói nghèo có thể thiếu do nhiều nguyên nhân nhưng chung quy lại có các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, người nghèo thiếu khả năng tiếp cận (thiếu trình độ sản xuất). Người nghèo thường phải sống ở những nơi mà điều kiện về cơ sở hạ tầng ở mức yếu kém nên họ ít có khả năng tiếp cận với chợ, dịch vụ công cộng thông tin. Trong số trên 10.000 xã ở cả nước có 1.900 xã tỷ lệ hộ nghèo trên 40% thì 721 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xã, 853 xã thiếu trường học cấp cơ sở, 700 xã chưa có trạm y tế, 930 xã chưa có chợ, 895 xã chưa có điện, 630 xã chưa đảm bảo được nước sinh hoạt. Đó là hàng loạt những rào cản làm cản trở sự tiếp cận của những người nghèo tới nơi mà họ có thể học hỏi được kinh nghiệm sản xuất kinh doanh. Vì vậy, họ thường làm theo tập quán cũ , dẫn đến năng suất lao đông thấp. Nếu năng suất lao động cao và có được mùa mà sống trong điều kiện cơ sở hạ tầng thấp kém như vậy thì chi phí giao thông cao và sự cách biệt cũng rất khó khăn cho việc tiêu thụ sản phẩm.
Khu vực nông thôn, thị trường tín dụng chưa thống nhất vì thiếu thông tin và cách biệt địa lý, đặc biệt ở vùng núi phía Bắc, vùng hải đảo. Người nghèo thiếu trình độ nên không nhận thức được các hình thức tín dụng dành cho họ.
Chính điều kiện sống đã làm cho người nghèo cách biệt với xã hội và tri thức. Điều này là một khó khăn lớn đối với họ khi mà kinh tế thị trường ngày càng phát triển, họ sẽ càng mất khả năng cạnh tranh trên thương trường trừ trường hợp Chính phủ có những chính sách giúp đỡ tích cực.
Thứ hai, người nghèo thường gặp các rủi ro. Rủi ro đối với người nghèo có liên quan mật thiết đến khả năng tiếp cận của họ như đã đề cập ở trên. Rủi ro trước hết là do người nghèo thường tập trung ở những nơi thời tiết khắc nghiệt, thường xuyên xảy ra hạn hán, lũ lụt và dịch bệnh. Thứ hai, do sự cách biệt mà hàng hoá của họ sản xuất ra thường bị bán rẻ (do chi phí lưu thông) thậm chí còn không bán được, chất lượng cũng bị giảm sút do lưu thông không kịp thời.
Một rủi ro khác nữa là do thiếu thông tin và thiếu kiến thức về y tế dẫn đến tăng dân số quá mức hay nếu có bị ốm đau gì thì chi phí cho việc đến bệnh viện cũng rất cao.
Ngoài ra, còn rủi ro rất lớn đó là rủi ro về giá. Giá cả lên xuống thất thường trong khi nông dân nghèo có ít thông tin để dự đoán hoặc nếu họ có dự đoán được thì đôi khi vẫn phải bán nông sản với giá rất hạ để phục vụ cho những chi tiêu cần thiết. Việc rớt giá cà phê và giá thóc từ đầu năm 2001 đến nay là thí dụ điển hình.
Thứ ba, các nguồn lực sản xuất tạo thu nhập ở người nghèo còn hạn chế.
- Thiếu ruộng đất: Hộ nông dân Việt Nam được xác định như một đơn vị kinh tế tự chủ, được giao ruộng đất và sử dụng những phương tiện sản xuất của mình. Ruộng đất được phân phối đồng đều theo số lao động trong gia đình có ruộng đất để sản xuất. Tuy nhiên, tình trạng thiếu ruộng đất vẫn là một vấn đề lớn với nhiều hộ nông dân. Diện tích đất canh tác bình quân đầu người thấp, khoảng 1.000m2/ người, riêng đồng bằng Bắc Bộ chỉ còn trên 500m2/ người. Hiện tượng bán đất và cầm cố ruộng đất của hộ nghèo ở vùng đồng bằng sông Cửu long thời gian qua đã diễn ra khá phổ biến.
Chất lượng đất không đồng đều cũng dẫn đến phải chia nhỏ phần đất thuộc mỗi loại cho mỗi hộ nên manh mún, khó canh tác. Cũng do nghèo mà người nông dân khó có điều kiện thâm canh, tăng vụ, cải tạo chất đất hoặc thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi cho phù hợp.
- Thiếu vốn: Vốn được coi như là yếu tố quan trọng để giải quyết đói nghèo, nhưng người nghèo vẫn còn khó có thể tiếp cận dễ dàng với các hình thức tín dụng.
Hơn nữa, do nguồn vốn dành cho vay hộ nghèo còn hạn chế nên mức vay bình quân thấp chưa thể đủ vốn để phát triển kinh doanh, làm dịch vụ. Vấn đề lãi suất, thủ tục vay, thời hạn vay, mức vay và trả vốn đang áp dụng chưa thống nhất giữa các nguồn cung cấp tín dụng, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo tiếp cận với hệ thống tín dụng.
- Mất sức lao động: Do hậu quả của chiến tranh, nhiều người dân bị mất sức lao động, nhiều phụ nữ bị goá bụa nên xảy ra tình trạng thiếu hoặc thiếu lao động trẻ khoẻ có khả năng đảm nhận những công việc nặng nhọc.
- Thiếu sự bền vững: Các gia đình nghèo thường sống trong điều kiện thiếu thốn, do đó dễ dàng khai thác hoặc hủy hoại môi trường sống hoặc canh tác, làm cạn kiệt cả đất hoặc phải sử dụng nguồn vốn tái sản xuất (kể cả vay vào những nhu cầu thiết yếu).
- Thiếu khả năng tham gia: Điển hình là thiếu ảnh hưởng trong cộng đồng.
3. Sự cần thiết phải hỗ trợ người nghèo:
Tạo chính sách vĩ mô để tăng trưởng kinh tế một cách bền vững là nguồn gốc, là yếu tố quyết định để đảm bảo sự phát triển của xã hội vì kinh tế có phát triển mới tạo được cơ sở vật chất để hỗ trợ người nghèo. Trong khi đó, nền kinh tế chỉ có thể phát triển trên cơ sở có sự ổn định xã hội.
Như vậy, hỗ trợ người nghèo trước hết là mục tiêu của xã hội. Xóa đói giảm nghèo sẽ hạn chế được các tệ nạn xã hội, tạo sự ổn định công bằng xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Người nghèo được hỗ trợ để tự vươn lên, tạo thu nhập, từ đó làm tăng sức mua, khuyến khích sản xuất phát triển. Chính vì vậy, quan điểm cơ bản của chiến lược phát triển xã hội mà Đảng ta đã đề ra là phát triển kinh tế, ổn định và công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Tóm lại, hỗ trợ người nghèo là một tất yếu khách quan. Xuất phát từ lý do của sự đói nghèo có thể khẳng định một điều: mặc dù kinh tế đất nước có thể tăng trưởng nhưng nếu không có chính sách và chương trình riêng về xoá đói giảm nghèo thì các hộ nghèo không thể thoát ra khỏi đói nghèo được. Chính vì vậy mà Chính phủ đã đề ra những chính sách đặc biệt trợ giúp người nghèo, nhằm dần dần thu hẹp khoảng cách giữa giàu và nghèo. Tất nhiên, Chính phủ không phải tạo ra cơ chế bao cấp mà tạo ra cơ hội cho hộ nghèo vươn lên bằng những chính sách và giải pháp. Cụ thể là:
- Điều tra, nắm bắt được tình trạng hộ nghèo và thực hiện nhiều chính sách đồng bộ: tạo việc làm, chuyển giao kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng với quy mô nhỏ ở những vùng nghèo, cho hộ nghèo vay vốn với lãi suất ưu đãi, đồng thời cung cấp thông tin cần thiết để họ có thể tiếp cận với thị trường và hoà nhập với cộng đồng.
- Tiếp tục triển khai mở rộng Chương trình Mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo của Thủ tướng Chính phủ. Hàng năm Chính phủ dành ra một tỷ lệ trong tổng chi ngân sách để bổ sung quỹ cho vay xoá đói giảm nghèo.
- Kết hợp chương trình Mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo với các chương trình kinh tế xã hội khác như: chương trình khuyến nông, chương trình phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ, chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chương trình hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn, chương trình nước sạch nông thôn, dân số kế hoạch hoá gia đình, xoá mù chữ,...
- Thực hiện một số chính sách khuyến khích và giúp đỡ hộ nghèo như: miễn giảm thuế, viện phí, học phí... Đối với hộ nghèo không còn khả năng lao động tạo ra nguồn thu nhập, Nhà nước trợ cấp hàng tháng và vận động các tổ chức đoàn thể, quần chúng, các nhà hảo tâm giúp đỡ dưới nhiều hình thức khác nhau.
- Mở rộng sự hợp tác quốc tế với các tổ chức Chính phủ, tổ chức phi Chính phủ để giúp đỡ lẫn nhau về nguồn lực và trao đổi kinh nghiệm.
Thực tế cho thấy có rất nhiều hình thức hỗ trợ để thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo nhưng hình thức tín dụng có hoàn trả là có hiệu quả hơn cả. Để thấy được tính ưu việt của nó chúng ta hãy đi tìm hiểu vai trò của kênh tín dụng ngân hàng đối với hộ nông dân nghèo.
4. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo.
Chúng ta có thể nhận thấy rằng hộ nghèo không thể thoát ra khỏi các vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Nếu không có cú hích từ bên ngoài thì không thể thoát ra khỏi cái vòng đó được. Liệu có thể cú hích đó là việc người nghèo đi ăn vay nặng lãi? Điều này chỉ có thể dẫn người nghèo đến tình trạng xoáy thêm vào cái vòng luẩn quẩn đó. Sự giúp đỡ của Nhà nước về các chính sách chỉ tạo cơ hội gián tiếp để hộ nghèo thoát ra khỏi, còn cú hích trực tiếp ở đây có lẽ là tín dụng ngân hàng. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này qua việc tìm hiểu vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo.
- Tín dụng ngân hàng giúp người nghèo bước đầu sản xuất tự cung tự cấp và đi lên sản xuất hàng hoá, mở rộng ngành nghề, giúp người dân thoát khỏi nghèo đói. Nền kinh tế nước ta kém phát triển, hậu quả của chiến tranh còn lớn, tích luỹ trong nước chưa đáng kể, vốn bên ngoài thu hút được chưa nhiều chính vì thế mà nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp còn hạn chế. Do thiếu vốn công cụ sản xuất và kỹ thuật lạc hậu nên năng suất lao động và thu nhập thấp. Tín dụng sẽ giúp người nghèo có một tiềm lực nhất định về vốn để đầu tư cho giống, phân bón... nhằm đạt được năng suất và chất lượng sản phẩm cao. Tín dụng sẽ biến những hộ nghèo vay vốn thành các đơn vị kinh tế tự chủ nên những hộ này có ý thức tiết kiệm, chi tiêu có kế hoạch, lo trả nợ và lãi. Cung cấp tín dụng cho hộ nghèo là một trong những giải pháp thực hiện chiến lược xoá đói giảm nghèo mà Đảng và Chính phủ ta đã đề ra.
- Cũng như trong vai trò của tín dụng ngân hàng với quá trình phát triển nông nghiệp-nông thôn, tín dụng ngân hàng có tác dụng hạn chế cho vay nặng lãi ở nông thôn. Đây là một vấn đề bức xúc mà nhệm vụ của ngành ngân hàng là phải có các biện pháp để hạn chế hiện tượng này.
- Tín dụng ngân hàng góp phần xóa bỏ tâm lý mặc cảm của người nông dân nghèo. Đặc điểm chung của hộ nông dân nghèo là rụt rè, tự ti, dân trí thấp, đông con. Vì vậy, họ không thể nào thoát ra khỏi sự bế tắc của cuộc sống. Tín dụng ngân hàng ra đời đã góp phần rất lớn trong quá trình xoá bỏ những mặc cảm, tự ti của người nông dân nghèo bằng cách tạo ra cho họ một công cụ hết sức quan trọng đó là nguồn vốn.
- Tín dụng ngân hàng tạo môi trường kinh tế cho hộ nông dân nghèo. Thông qua việc đầu tư vào thị trường nông thôn nói chung, tín dụng ngân hàng đã góp phần tạo ra một môi trường kinh tế đa thành phần để người nghèo có thể tham gia như những thành phần khác để giúp họ làm ăn có hiệu quả, thoát khỏi cảnh đói nghèo.
5. Kinh nghiệm ở một số nước trong vấn đề cho vay đối với người nghèo.
Bangladesh
ở đây có ngân hàng Grameen Bank (GB) là ngân hàng chuyên phục vụ người nghèo , chủ yếu là phụ nữ nghèo triển GB phải tự bù đắp các chi phí hoạt động. Như vậy, nó hoạt động như các ngân hàng thương mại khác không được bao cấp từ phía Chính phủ. GB thực hiện cơ chế lãi suất thực dương, do vậy lãi suất cho vay tới các thành viên thường cao hơn lãi suất thị trường. GB cho vay tới các thành viên thông qua nhóm tiết kiệm và vay vốn. GB cho vay không áp dụng biện pháp thế chấp tài sản mà chỉ cần tín chấp qua các nhóm tiết kiệm và vay vốn. Thủ tục vay vốn ở GB rất đơn giản và thuận tiện, người vay vốn chỉ cần làm đơn và nhóm bảo lãnh là đủ. Nhưng ngân hàng có cơ chế kiểm tra rất chặt chẽ, tạo cho người nghèo sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả. Để phục vụ đúng đối tượng người vay phải đủ chuẩn mực đói nghèo, nghĩa là hộ gia đình phải có dưới 0,4 acre đất canh tác và có mức thu nhập bình quân đầu người dưới 100 USD/ năm. GB được quyền đi vay để cho vay và được uỷ thác nhận tài trợ từ các tổ chức trong và ngoài nước, huy động tiền gửi, tiết kiệm của các thành viên, quản lý các quỹ của nhóm và được phát hành trái phiếu vay nợ.
GB hoạt động theo cơ chế lãi suất thực dương, được Chính phủ cho phép hoạt động theo luật riêng, không bị chi phối bởi luật tài chính và luật ngân hàng hiện hành của Bangladesh.
Nepal
Chương trình tín dụng cho người nghèo ở Nepal được triển khai vào năm 1975 với sự trợ giúp của FAO. Trong chương trình này, ngân hàng phát triển nông nghiệp Nepal hoạt động với tư cách là cơ quan tổ chức thực hiện. Theo chương trình này, từ các hợp tác xã sản xuất vốn có người ta lập ra các nhóm khoảng 10-15 người. Các nhóm này bao gồm cả nông dân và thợ thủ công. Mục tiêu đặt ra là khuyến khích và hỗ trợ vốn, các hoạt động tạo ra thu nhập trên cơ sở các kế hoạch được vạch ra của nhóm. Ngoài việc cấp tín dụng chỉ định, chương trình còn tổ chức các nhóm đào tạo, bồi dưỡng cũng như cố vấn và giúp đỡ nhiệm vụ. Để làm việc này, ngân hàng đảm nhận công việc đào tạo các cán bộ tổ chức cho các nhóm từ những đại diện mà họ bầu ra trên cơ sở đề nghị vay vốn của cả nhóm. Về khoản này, tín dụng sẽ cấp cho cả nhóm hoặc từng cá nhân trong nhóm.
Vào giữa những năm 80 với sự giúp đỡ của Hội hợp tác kỹ thuật Cộng hoà liên bang Đức, chương trình này thành công và được mở rộng ra trong phạm vi cả nước và được tiến hành trong tổng thể trong chương trình phát triển nông thôn ở Nepal.
Thái Lan
Ngân hàng nông nghiệp và hợp tác xã tín dụng ( BAAC) là ngân hàng thương mại quốc doanh do Chính phủ thành lập. Hàng năm được Chính phủ tài trợ vốn để thực hiện chương trình hỗ trợ vốn cho nông dân nghèo. Những người có thu nhập dưới 1000Bath/ năm và những người nông dân có ruộng đất thấp hơn mức trung bình trong khu vực thì được cho vay mà không cần phải thế chấp tài sản chỉ cần tín chấp bằng sự cam kết bảo đảm của nhóm, tổ hợp tác xã sản xuất. Lãi suất cho vay đối với hộ nông dân nghèo thường được giảm từ 1-3%/ năm so với lãi suất cho vay các đối tượng khác. Kết quả là năm 1995 BAAC tiếp cận được 85% khách hàng là người nông thôn và có tổng nguồn vốn là 163.210 triệu Baht. Sở dỹ có được điều này là một phần là do Chính phủ đã quy định các ngân hàng thương mại khác phải dành 20% số vốn huy động được để cho vay đối với lĩnh vực nông thôn. Số vốn này có thể cho vay trực tiếp hoặc gửi vào BAAC.
Malaixia
Trên thị trường chính thức hiện nay của Malaixia, việc cung cấp vốn cho lĩnh vực nông nghiệp-nông thôn chủ yếu do Ngân hàng nông nghiệp Malaixia đảm nhận. Đây là ngân hàng thương mại quốc doanh, được Chính phủ thành lập và cấp 100% vốn tự có ban đầu. Ngân hàng nông nghiệp Malaixia chú trọng cho vay trung và dài hạn theo các dự án và các chương trình đặc biệt. Ngoài ra, ngân hàng còn cho vay hộ nông dân nghèo thông qua các tổ chức tín dụng trung gian khác như: Ngân hàng nông thôn và hợp tác xã tín dụng. Ngoài ra, Chính phủ còn buộc các ngân hàng thương mại khác phải gửi 20,5% số tiền huy động được vào ngân hàng trung ương (trong đó có 3% dự trữ bắt buộc) để làm vốn cho vay đối với nông nghiệp-nông thôn. Ngân hàng nông nghiệp Malaixia không phải gửi tiền dự trữ bắt buộc ở ngân hàng trung ương và không phải nộp thuế cho Nhà nước.
* Những kinh nghiệm về cho vay người nghèo ở các nước có thể vận dụng vào Việt Nam.
- Tín dụng ngân hàng cho hộ nghèo cần được trợ giúp từ phía Nhà nước. Vì cho vay hộ nghèo gặp rất nhiều rủi ro. Trước hết là rủi ro về nguồn vốn. Khó khăn này cần có sự giúp đỡ từ phía Nhà nước. Điều này các nước Thái Lan và Malaixia đã làm. Sau đến là rủi ro về cho vay, có nghĩa là rủi ro mất vốn. Nhà nước phải có chính sách cấp bù cho những khoản tín dụng bị rủi ro bất khả kháng mà không thu hồi được.
- Phát triển thị trường tài chính nông thôn và quản lý khách hàng cho những món vay nhỏ. Ngân hàng thương mại kinh doanh tín dụng đối với những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao, tạo thuận lợi để hỗ trợ các hợp tác xã, ngân hàng làng, ngân hàng cổ phần... để tạo kênh dẫn vốn tới hộ nông dân. Các ngân hàng thương mại cung cấp các dịch vụ giám sát và điều hoà vốn tới các kênh dẫn vốn nêu trên, tạo ra định chế tài chính trung gian có thể đảm nhận dịch vụ bán lẻ tới hộ gia đình.
- Tiết giảm đầu mối quản lý: các ngân hàng thúc đẩy để tạo nên các nhóm liên đới trách nhiệm, cung cấp cho ban quản lý kiến thức khả năng quản lý sổ sách, giám sát món vay tới từng thành viên của nhóm... từ đó ngân hàng hạch toán cho vay theo từng nhóm chứ không tới từng thành viên.
- Đơn giản hoá thủ tục cho vay, thay thế yêu cầu thế chấp truyền thống bằng việc đảm bảo nợ theo món vay.
- Mở rộng các hình thức huy động tiết kiệm, cải tiến chất lượng phục vụ để thu hút tiết kiệm tự nguyện.
- Từng bước tiến tới hoạt động theo cơ chế lãi suất thực dương. Lãi suất cho vay đối với người nghèo không nên quá thấp bởi vì lãi suất quá thấp sẽ không huy động được tiềm năng về vốn ở nông thôn, người vay vốn không chịu tiết kiệm và vốn được sử dụng không đúng mục đích, kém hiệu quả kinh tế.
Tóm lại, tín dụng ngân hàng sẽ đáp ứng được vốn cho người nghèo sản xuất có hiệu quả, tạo cho người ta biết tiết kiệm chi tiêu trong gia đình, từ đó sẽ thoát khỏi đói nghèo. Tín dụng ngân hàng ở Việt Nam hiện nay mang tính tất yếu khách quan và phù hợp với xu thế phát triển của đất nước.
Chương II
Thực trạng Tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng phục vụ người nghèo Việt Nam trong thời gian qua.
I. Khái quát về Ngân hàng Phục vụ Người nghèo
Ngân hàng phục vụ người nghèo được thành lập theo quyết định số 525/TTg, ngày 31/8/1995 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 230/ QĐ - NH5, ngày 01/9/ 1995 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng phục vụ người nghèo chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1996 trên cơ sở nhận bàn giao từ quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
1. Chức năng nhiệm vụ.
Ngân hàng phục vụ người nghèo có chức năng khai thác các nguồn vốn của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước; tiếp nhận các nguồn vốn tín dụng của Nhà nước đối với người nghèo và các nguồn vốn khác được Nhà nước cho phép để lập quỹ cho người nghèo vay, thực hiện chương trình của Chính phủ đối với người nghèo.
Hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo vì mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, không vì mục đích lợi nhuận, thực hiện bảo tồn vốn ban đầu, phát triển vốn và bù đắp chi phí.
Ngân hàng phục vụ người nghèo thực hiện cho vay trực tiếp đến hộ nghèo có sức lao động nhưng thiếu vốn để sản xuất kinh doanh, không phải thế chấp tài sản, có hoàn trả vốn vay và theo lãi suất quy định.
Ngân hàng phục vụ người nghèo được xét miễn thuế doanh thu và thuế lợi tức để giảm lãi suất cho vay đối với hộ nghèo.
2. Mô hình tổ chức.
Mô hình Ngân hàng phục vụ người nghèo Việt Nam
BĐD tỉnh
BĐD huyện
HĐQT
BKS HĐQT
TTĐHTN
Chi nhánh TP
Chi nhánh TP
Chi nhánh TP
Chi nhánh huyện
Chi nhánh huyện
Chi nhánh huyện
Ban XĐGN xã
Tổ vay vốn
Hộ nghèo
Hình 1.
Tổ chức của Ngân hàng phục vụ người nghèo gồm có:
a. Hôi đồng quản trị
Là cơ quan quản lý của Ngân hàng phục vụ người nghèo, bao gồm các thành viên là đại diện có thẩm quyền của Văn phòng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Uỷ ban Dân tộc và Miền núi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, NH Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
Chủ tịch Hội đồng quản trị là Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước, dưới Chủ tịch gồm có 4 Phó chủ tịch. Phó chủ tịch thường trực là Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt nam , 3 Phó Chủ tịch khác là các Thứ trưởng các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội.
Tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh có Ban đại diện Hội đồng quản trị Ngân hàng phục vụ người nghèo do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp quyết định nhân sự cụ thể.
b. Trung tâm điều hành tác nghiệp
Trung tâm điều hành tác nghiệp có Tổng Giám đốc. Giúp việc cho Tổng giám đốc có một số Phó Tổng Giám đốc và một số phòng ban chuyên môn. Điều hành tác nghiệp tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh do NHNo&PTNT Việt Nam đảm nhiệm.
3. Nguồn vốn hoạt động:
Nguồn vốn của Ngân hàng phục vụ người nghèo bao gồm:
* Vốn điều lệ: là vốn được cấp lúc mới thành lập
* Vốn huy động: Là nguồn vốn Ngân hàng phục vụ người nghèo huy động từ các tổ chức, cá nhân ở trong nước và ngoài nước, NHNg được quyền sử dụng và có trách nhiệm hoàn trả đúng gốc và lãi. Vốn huy động bao gồm:
- Tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn của mọi tầng lớp dân cư trong và ngoài nước.
- Tiền gửi của các tổ chức kinh tế xã hội.
- Vốn huy động trong cộng đồng người nghèo.
* Vốn đi vay
- Vay các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước.
- Phát hành chứng chỉ nợ (kỳ phiếu, trái phiếu)
- Vay của các NH thương mại trong nước như NH Ngoại thương VN, NH Công thương VN, NHNo&PTNT Việt Nam.
* Vốn uỷ thác: là nguồn vốn của Nhà nước, của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước uỷ thác cho Ngân hàng phục vụ người nghèo làm dịch vụ cho vay đối với hộ nghèo,vùng nghèo.
* Các loại vốn khác: Được hình thành trong quá trình hoạt động như vốn trong thanh toán, chênh lệch thu nhập và chi phí nghiệp vụ.
4. Những quy định chung về cho vay hộ nghèo của Ngân hàng phục vụ người nghèo.
a. Mục đích cho vay.
Hỗ trợ vốn cho các hộ gia đình nghèo sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, xóa đói-giảm nghèo.
b. Nguyên tắc cho vay.
Cho vay hộ nghèo có sức lao động nhưng thiếu vốn sản xuất kinh doanh, hộ vay vốn phải sử dụng vốn vay đúng mục đích xi vay, có hiệu quả. Cho vay trực tiếp đến hộ nghèo đầu tư vào sản xuất kinh doanh và hộ vay phải hoàn trả nợ (cả gốc và lãi ) đúng thời hạn ghi trong sổ tiết kiệm và vay vốn. Hộ vay vốn phải trực tiếp ký nhận tiền vay và chịu trách nhiệm trước pháp luật về sử dụng tiền vay.
c. Điều kiện cho vay.
Để được vay vốn Ngân hàng phục vụ người nghèo, hộ nghèo phải có đủ các điều kiện sau đây:
- Hộ vay vốn phải có tên trong danh sách hộ nghèo do Ban xóa đói giảm nghèo ở xã, phường, thị trấn đề nghị, được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã sở tại xét duyệt, chuyển lên Ban đại diện Hội đồng quản trị Ngân hàng phục vụ người nghèo quận, huyện, thị xã phê duyệt.
- Hộ nghèo phải có hộ khẩu thường trú tại địa phương nơi chi nhánh Ngân hàng phục vụ người nghèo đóng trụ sở.
- Hộ nghèo vay vốn không phải thế chấp tài sản nhưng phải là thành viên của Tổ tương trợ hoặc Tổ tiết kiệm và vay vốn. Trường hợp không phải là thành viên của Tổ thì phải được một tổ chức chính trị -xã hội cơ sở bảo lãnh bằng tín chấp (gọi tắt là Tổ tín chấp).
- Chủ hộ và người thừa kế hợp pháp là người đại diện cho hộ gia đình chịu trách nhiệm trong việc vay và trả nợ ngân hàng.
- Hộ nghèo không còn nợ vay các tổ chức tài chính tín dụng khác.
- Hộ nghèo chấp nhận quy định nghiệp vụ cho vay của Ngân hàng phục vụ người nghèo và chịu sự kiểm soát của Ngân hàng phục vụ người nghèo từ khi nhận tiền vay cho đến khi trả hết nợ gốc và lãi.
d. Đối tượng cho vay.
Ngân hàng phục vụ người nghèo cho các hộ nghèo vay vốn để mua sắm vật tư, công cụ lao động, chi trả lao vụ đầu tư vào sản xuất, kinh doanh các ngành nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi), lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, buôn bán nhỏ,... theo pháp luật hiện hành của Việt Nam .
e. Mức cho vay.
Căn cứ vào nhu cầu vốn của hộ nghèo đầu tư cho sản xuất kinh doanh theo mùa, vụ hoặc dự án và vốn tự lực của hộ để xác định mức vốn cho vay đối với hộ nghèo. Mức cho vay tối đa đối với một hộ nghèo do Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng phục vụ người nghèo quy định trong từng thời kỳ. Hiện nay mức cho vay tối đa đối với một hộ nghèo là 5 triệu đồng/hộ.
f. Lãi suất cho vay:
Lãi suất cho vay do Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng phục vụ người nghèo đề nghị, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định và công bố từng thời kỳ. Hiên nay, lãi suất cho vay hộ nghèo là 0,5%/tháng
Lãi suất cho vay từ nguồn vốn uỷ thác đầu tư cho các chủ dự án trong nước và ngoài nước thì thực hiện theo văn bản ký kết giữa chủ đầu tư với Giám đốc Ngân hàng phục vụ người nghèo (huyện, tỉnh, thành phố) hoặc Tổng Giám đốc Ngân hàng phục vụ người nghèo theo nguyên tắc phí dịch vụ phải đủ bù đắp chi phí quản lý và rủi ro nghiệp vụ.
Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% mức lãi suất cho vay trong hạn.
g. Thời hạn cho vay, định kỳ hạn nợ, thu lãi.
* Thời hạn cho vay: theo chu kỳ sản xuất kinh doanh tối đa không quá 60 tháng kể từ ngày nhận được món vay đầu tiên. Trong đó:
- Cho vay ngắn hạn: tối đa không quá 12 tháng
- Cho vay trung hạn: từ trên 12 tháng đến 60 tháng
* Thu nợ gốc: Vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi theo đúng hạn đã cam kết.
- Món vay ngắn hạn: thu nợ gốc khi đến hạn.
- Món vay trung hạn: phân kỳ trả nợ nhiều lần: theo quý, 6 tháng hoặc 1 năm do Ngân hàng phục vụ người nghèo và người vay vốn thoả thuận.
- Hộ nghèo vay vốn được quyền trả nợ trước thời hạn.
* Thu lãi: Thực hiện thu lãi hàng quý, hàng tháng trên số dư nợ thoả thuận giữa ngân hàng và hộ nghèo vay vốn. Những khoản vay từ 6 tháng trở xuống thu lãi và gốc một lần khi đến hạn.
Lãi chưa thu được của tháng trước hoặc kỳ hạn trước được chuyển sang thu lãi vào tháng hoặc kỳ hạn tiếp theo.
h. Cho vay lưu vụ.
Những hộ trả lãi vay đúng cam kết đối với những món vay ngắn hạn, nếu chưa vượt được ngưỡng nghèo đói mà có nhu cầu vay vốn tiếp thì được kéo dãn thời hạn nợ sang chu kỳ sản xuất sau và gọi là cho vay lưu vụ. Ngân hàng phục vụ người nghèo không khống chế số lần cho vay lưu vụ đối với 1 hộ nghèo.
II. Thực trạng công tác huy động vốn và cho vay hộ nghèo ở Ngân hàng phục vụ người nghèo.
1. Tình hình về nguồn vốn cho vay hộ nghèo.
Tình hình tăng trưởng nguồn vốn, hộ hộ dư nợ từ năm 1996 đến 2001
Tính đến 31/12/2001, tổng nguồn vốn của NHNg có được là 6.266 tỷ đồng. Nguồn vốn này được phát triển trên cơ sở nhận bàn giao Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo của NHNo&PTNT Việt Nam trước tháng 8/1995 là 518 tỷ đồng. Nguồn vốn được tăng trưởng đều đặn qua các năm: năm 1996 tăng 378% so với vốn nhận bàn giao ban đầu; năm 1997 tăng 19,5%; năm 1998 tăng 46,2%; năm 1999 tăng 19,4%; năm 2000 tăng 22,8% và năm 2001 tăng 24,7%. Cơ cấu nguồn vốn như sau:
- Vốn điều lệ được cấp: 1.015 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 16,2%, trong đó Ngân sách cấp ban đầu khi mới thành lập là 500 tỷ đồng và cấp bổ sung 515 tỷ đồng vào các năm 1998, 2001.
- Vay Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 940 tỷ đồng, (trong đó vay: trung hạn 600 tỷ đồng; vay ngắn hạn: 340 tỷ đồng), chiếm tỷ trọng 15%.
- Nguồn vốn huy động trong cộng đồng dân cư thông qua các Ngân hàng thương mại, chủ yếu là NHNo&PTNT Việt Nam qua hình thức nhận tại Hội sở giao dịch của các Ngân hàng thương mại, thời hạn tối đa 12 tháng với 3.696 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 59% tổng nguồn vốn. (Nguồn này tăng giảm phụ thuộc mức cấp bù Ngân sách và khả năng huy động của các Ngân hàng thương mại).
- Vốn vay nước ngoài: 151 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 2,4%, là khoản vay của Tổ chức xuất khẩu dầu lửa quốc tế (OPEC).
- Vốn nhận dịch vụ uỷ thác: (thông qua các hình thức huy động và tiết kiệm chi Ngân sách tại các địa phương, Uỷ thác nước ngoài) chuyển qua làm nguồn vốn cho vay hộ nghèo: 412 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 6,6%. Trong đó:
+ Vốn nhận uỷ thác trong nước: 359 tỷ đồng.
+ Vốn nhận uỷ thác nước ngoài: 53 tỷ đồng.
- Nguồn vốn huy động trong cộng đồng người nghèo thông qua các dự án và vốn khác: 52 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 0,8%
Những năm qua, được sự chỉ đạo của Ban đại diện HĐQT các cấp, một số địa phương đã có nhiều hình thức huy động vốn như: tiết kiệm ngày lương của cán bộ, công nhân viên; huy động sự đóng góp của các tổ chức kinh tế, cá nhân; tiết kiệm chi Ngân sách... đã đóng góp đáng kể về tăng trưởng nguồn vốn tín dụng để cho vay, điển hình là: Hà Tây 24,8 tỷ đồng, Nghệ An 22 tỷ đồng, ĐăcLăk 19,8 tỷ đồng, Khánh Hòa 17 tỷ đồng. Lạng Sơn 16,4 tỷ đồng, Quảng Trị 13,6 tỷ đồng, Thừa Thiên Huế 13 tỷ đồng, ...
Theo cơ cấu nguồn vốn như trên thể hiện quy mô phát triển nguồn vốn còn hạn hẹp và chưa ổn định. Do thực hiện cho vay lãi suất ưu đãi, hiện nay các tổ chức tài chính quốc tế: WB, ADB đều nghi ngại tính bền vững của NHNg nên chưa đồng ý cho vay vốn. Đặc biệt dự án tài chính nông thôn của WB đã ghi trong hiệp định dành 12 triệu USD để cho vay hộ nghèo thông qua NHNg, nhưng hơn 3 năm qua, WB vẫn chưa đồng ý giải ngân vì lý do trên. Mục tiêu theo Quyết định 525/TTg về việc thành lập NHNg để tập trung các nguồn vốn từ các chương trình thuộc vốn Ngân sách dành cho tín dụng XĐGN thành kênh thống nhất phương thức quản lý và vay vốn từ các tổ chức quốc tế là chưa thực hiện được.
2- Hoạt động cho vay
Bảng 2.2. Bảng kết quả cho vay của NHNg qua các năm
Chỉ tiêu
ĐVT
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Tổng cộng
1. Doanh số cho vay trong năm
tỷ (đ)
517
1608
1094
1797
2001
2171
3261
12449
2. Doanh số trả nợ trong năm
tỷ (đ)
28
328
606
954
1204
1364
1771
6255
3. Dư nợ cuối năm
tỷ (đ)
189
1769
2257
3100
3879
4704
6194
22092
Trong đó: - Nợ quá hạn
tỷ (đ)
3
12,5
41
44,8
58
77
107
343,3
- % nợ quá hạn
%
0,6
0,7
1,8
1,44
1,49
1,63
1,73
1,67
- Nợ khoanh
tỷ (đ)
90
112
102
108
106
- Nợ chờ xử lý
tỷ (đ)
13
94
26
30
4. Số hộ dư nợ
1000hộ
451
1282
1606
2060
2320
2502
2803
2370
- Dư nợ bình quân 1 hộ
triệu (đ)
1,08
1,38
1,41
1,51
1,67
1,88
2,21
1,74
5. Số tổ dư nợ
100 tổ
131
185
189
197
209
225
196
6. Số lượt hộ vay
1000hộ
1400
77
1471
1011
953
1177
6000
7. Số hộ thoát khỏi ngưỡng nghèo đói (luỹ kế)
1000hộ
100
221
270
353
447
562
395
(Theo báo cáo năm năm của NHNg)
Để hiểu được rõ hơn về hoạt động cho vay hộ nghèo của NHNg ta có thể xem xét một vài nét cơ bản sau đây:
2.3.3. Quy trình cho vay hộ nghèo
Hộ nghèo
Hộ tương trợ
Ban đại diện HĐQT NHNg
NHNg
huyện
UBND
xã
1
7
3
6
2
8
4
5
1. Hộ nghèo gửi đơn xin vay cho tổ tương trợ (phụ lục 1)
2. Tổ họp để bình xét và lập danh sách hộ xin vay (theo mẫu 03) gửi UBND xã (phụ lục 2).
3. UBND xã và ban XĐGN xã xét duyệt danh sách hộ xin vay, gửi chi nhánh NHNg huyện.
4. NHNg huyện kiểm tra lại hồ sơ xin vay (đơn và danh sách 03) và trình trưởng ban đại diện huyện phê duyệt.
5. Sau khi phê duyệt, danh sách 03 được gửi lại cho NHNg huyện.
6. NHNg huyện thông báo danh sách hộ nghèo được vay vốn cho UBND xã biết (phụ lục 3).
7. UBND xã thông báo kết quả phê duyệt danh sách 03 tới từng hộ nghèo biết.
8. NHNg giải ngân trực tiếp đến hộ nghèo.
Có thể xem đây là hình thức cho vay k._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0114.doc