Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một nước nông nghiệp, hiện có 73% dân số và 56% lao động sinh sống và làm việc ở nông thôn. Do đó, nông nghiệp, nông thôn và nông dân là những nguồn lực quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Do đó, bộ mặt nông thôn có khởi sắc, kinh tế nông nghiệp, nông thôn được đổi mới, đời sống nông dân được cải thiện, tình trạng đói ng

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1343 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hèo được giảm dần. Tuy nhiên, mức đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn tuy có tăng nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Núi Thành là một huyện nghèo của tỉnh Quảng Nam, trình độ phát triển còn thấp, trong khi tiềm năng về đất đai, rừng, biển và lao động dồi dào nhưng chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả. Để huy động vốn đầu tư thúc đẩy quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn cả nước nói chung, huyện Núi Thành nói riêng, cần có sự tác động của nhiều nhân tố, trong đó tín dụng ngân hàng là một nhân tố hết sức quan trọng. Vì vậy, ngân hàng mà đặc biệt là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần phát huy vai trò, chức năng của mình nhằm thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển. Xuất phát từ những lý do trên mà tác giả chọn đề tài: "Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam" làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Gần đây có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài về hoạt động tín dụng ngân hàng đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn như: - Hà Huy Hùng (2003), Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn Nghệ An, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Hoàng Bá Đồng (2002), Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại NHNo&PTNTHà Tĩnh, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Ngân hàng. - Võ Văn Lâm (1999), Đổi mới hoạt động tín dụng nông nghiệp nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Nguyễn Mạnh Hùng (2005), Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Gia Lai, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Ngân hàng... Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu về tín dụng của NHNo&PTNT với việc phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Trên cơ sở hệ thống hoá và phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về tín dụng của NHNo&PTNT với phát triển nông nghiệp, nông thôn, từ đó đề xuất các giải pháp đổi mới hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT nhằm phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành. Nhiệm vụ: - Phân tích làm rõ tác động của ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc thực hiện huy động vốn, đặc biệt huy động từ nguồn nội lực trong dân cư để phục vụ công cuộc phát triển nông nghiệp, nông thôn. - Phân tích tình hình tín dụng, thu hồi nợ vay, rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn ở huyện Núi Thành trong những năm qua, tìm ra những hạn chế và nguyên nhân của nó. - Từ cơ sở phân tích trên, kiến nghị một số giải pháp nhằm đổi mới hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT ở huyện Núi Thành phục vụ việc phát triển nông nghiệp, nông thôn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Tín dụng của NHNo&PTNT với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành. Phạm vi nghiên cứu: Về tín dụng của NHNo&PTNT với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam trong khoảng thời gian từ 2001 - 2005. 5. Phương pháp nghiên cứu ứng dụng các phương pháp cơ bản như: phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp khái quát hoá, phương pháp so sánh, thống kê... và kết hợp với việc nghiên cứu lý luận, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước, các quy định, các qui chế của ngân hàng Nhà nước, NHNo&PTNT. 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn - Phân tích "Tín dụng của NHNo&PTNT với phát triển nông nghiệp, nông thôn" từ đó nêu những thành tựu đạt được, những bài học thành công và chỉ ra khiếm khuyết, hạn chế trong hoạt động NHNo&PTNT tại cơ sở, đặc biệt về cho vay phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành. - Đưa ra những giải pháp, kiến nghị đối với ngân hàng cấp trên, chính quyền địa phương nhằm hoàn thiện về mặt lý luận chung trong tổ chức chỉ đạo và điều hành hoạt động ngân hàng No&PTNT ở huyện Núi Thành ngày càng tốt hơn. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu thành 3 chương, 7 tiết. Chương 1 Mối quan hệ của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với việc phát triển nông nghiệp, nông thôn 1.1. Tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 1.1.1. Khái niệm, bản chất tín dụng Tín dụng ngân hàng nói chung, tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nói riêng cũng mang tính chất chung của quan hệ tín dụng. Tín dụng ra đời cùng với sự phát triển và trao đổi hàng hoá, tín dụng xuất phát từ ngôn ngữ Latinh: Creditum là tin tưởng, tín nhiệm. Dần dần thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo tiếng Anh và tiếng Pháp tín dụng là " Credit", khái niệm của Tooke được Mác thừa nhận: Tín dụng dưới các hình thức biểu hiện đơn giản nhất của nó là sự tín nhiệm ít nhiều có căn cứ, đã khiến cho một người này giao cho một người khác một số tư bản nào đó dưới hình thái tiền hoặc dưới hình thái hàng hóa đánh giá một số tiền nhất định nào đó, số tiền này bao giờ cũng phải được trả lại trong một thời hạn nhất định. Khi nào tư bản được cho vay... thì người ta tăng số tiền phải hoàn trả lại lên, thêm một tỉ lệ phần trăm nhất định, coi là tiền để trả về quyền sử dụng tư bản [15, tr.613]. Xét trong quan hệ tài chính nhất định, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể, thuật ngữ tín dụng cũng hàm chứa và phản ánh những nội dung khác nhau: - Xét trên góc độ chuyển dịch số tiền cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay. - Trong mối quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Chẳng hạn, một công ty thương nghiệp bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán chuyển giao hàng hoá cho bên mua và sau một thời gian nhất định theo thỏa thuận bên mua trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn là hình thức Ngân hàng cấp tiền vay cho bên đi vay và sau một thời gian nhất định, người đi vay phải thanh toán cả gốc và lãi cho Ngân hàng. - Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng. Trong một ngữ cảnh cụ thể, thuật ngữ tín dụng đồng nghĩa với thuật ngữ cho vay. Ví dụ: Tín dụng ngắn hạn (Short - term credit) đồng nghĩa với cho vay ngắn hạn (Short - term loans); tín dụng dài hạn (long - term credit) đồng nghĩa với cho vay dài hạn (Long - term loans). Tín dụng xét theo nội dung hoạt động của các tổ chức tín dụng có nghĩa khá rộng. Đó là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Trong đó, cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả (gồm cả gốc và lãi) bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác. Quá trình phát triển tín dụng thương nghiệp đã mở rộng và ăn sâu sang lĩnh vực sản xuất làm xuất hiện hình thức tín dụng ngân hàng, nhờ sự phát triển của hệ thống ngân hàng tín dụng được đẩy nhanh hơn bao giờ hết. Tín dụng được xem là một trong những chức năng hoạt động cơ bản của ngân hàng. Với cách tiếp cận này, tín dụng ngân hàng được hiểu như sau: Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận. Bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn và lãi cho bên cho vay khi đến thời hạn thanh toán. Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có đặc trưng sau: - Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng Ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (động sản và bất động sản). Trước những năm 1960, hoạt động tín dụng của Ngân hàng hầu như chỉ cho vay bằng tiền. Xuất phát từ tính đặc thù đó mà nhiều lúc thuật ngữ tín dụng và cho vay được coi như đồng nghĩa với nhau. Ngày nay, dịch vụ Ngân hàng phát triển, việc cho thuê vận hành và cho thuê tài chính đã được ngân hàng và các định chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng, đây là một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình thức tín dụng bằng tài sản thực (cho thuê văn phòng làm việc, phương tiện vận tải, máy móc, thiết bị.v.v.) - Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, nên khi người cho vay chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng, họ phải có cơ sở để tin rằng người đi vay trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đến các đảm bảo, chính quan niệm này đã ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng. - Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện được nguyên tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát hay nói cách khác phải xác định lãi suất thực dương (lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát). Tuy nhiên vì lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, nên trong một số trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một giai đoạn ngắn. - Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cung cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khuế ước v..v thực chất là lệnh phiếu (Promissory note), trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. 1.1.2. Chức năng của tín dụng Trong nền kinh tế hàng hoá, tín dụng thực hiện hai chức năng cơ bản sau: Thứ nhất, tín dụng có chức năng tập trung và phân phối lại tiền tệ trên cơ sở có hoàn trả. Đây là hai quá trình thống nhất trong sự vận hành của hệ thống tín dụng. ở đây, sự có mặt của tín dụng được xem như chiếc cầu nối giữa các nguồn cung - cầu về vốn tiền tệ trong nền kinh tế. Thông qua chức năng này, tín dụng tham gia trực tiếp vào việc điều tiết các nguồn vốn tạm thời thừa đến nơi thiếu. Nói cách khác, ở khâu tập trung, tín dụng là nơi tập hợp những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, còn ở khâu phân phối, tín dụng là nơi đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, các cá nhân và cho cả ngân sách. Thứ hai, kiểm soát các hoạt động kinh tế. Chức năng này được phát huy tác dụng phụ thuộc vào sự phát triển của chức năng nói trên. Cụ thể là, thông qua quá trình tập trung và phân phối lại vốn, tín dụng góp phần phản ánh mức độ phát triển nền kinh tế về các mặt như: khối lượng tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội, nhu cầu vốn trong từng thời kỳ. Từ đó giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát về những quan hệ cân đối vốn trong nền kinh tế, đặc biệt là quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng. Ngoài ra, trong hoạt động cho vay của ngân hàng, để góp phần đảm bảo an toàn vốn, đảm bảo cho khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả, ngân hàng luôn thực hiện quá trình kiểm tra hoạt động kinh doanh của khách hàng, đặc biệt là kiểm tra tình hình tài chính, qua đó sẽ phát hiện kịp thời những hạn chế, yếu kém trong hoạt động của khách hàng hoặc những trường hợp vi phạm chế độ quản lý kinh tế của nhà nước để cảnh báo, nghiêm cấm hoặc có biện pháp xử lý kịp thời. Bên cạnh đó, trên cơ sở thực hiện nguyên tắc cho vay có hoàn trả, tín dụng ngân hàng còn phản ánh kịp thời tình hình quản lý và sử dụng vốn của các đơn vị có hiệu quả hay không. Như vậy, với chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế, tín dụng sẽ góp phần giải quyết tình trạng mất cân đối cục bộ của nền kinh tế với những giải pháp khắc phục kịp thời, từ đó phát huy vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Điều này cũng có nghĩa là tín dụng cần phải được vận dụng như một đòn bẩy kích thích phát triển kinh tế. 1.1.3. Các hình thức của tín dụng Tín dụng biểu hiện dưới các hình thức như: cho vay, chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính. Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu, chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, nó thể hiện quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng với các xí nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân được thực hiện dưới hình thức ngân hàng đứng ra huy động vốn bằng tiền và cấp tín dụng đối với các đối tượng trên. - Hình thức cho vay: Cho vay tiền là một hình thức tín dụng, trong đó người cho vay cam kết giao cho người đi vay một khoản tiền và người đi vay cam kết sẽ hoàn trả sau thời hạn nhất định. Giá trị hoàn trả lớn hơn giá trị tại khoản vay, phần chênh lệch đó là lãi cho vay, lãi vay tỉ lệ với số lượng tiền và thời hạn vay. Cho vay dựa trên các nguyên tắc sau: + Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi. + Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích + Vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo Căn cứ vào thời hạn thì có 3 loại cho vay: Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. + Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng nhằm đáp ứng các nhu cầu vốn ngắn hạn như: bổ sung vốn lưu động của các doanh nghiệp, hộ sản xuất... + Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 12 tháng đến dưới 60 tháng, loại tín dụng này được cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới thiết bị, mở rộng và xây dựng các công trình có thời hạn thu hồi vốn nhanh. + Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 60 tháng, được sử dụng để cấp vốn cho vay xây dựng cơ bản như đầu tư xây dựng xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn, thời hạn thu hồi vốn dài. - Hình thức chiết khấu chứng từ có giá: Chiết khấu chứng từ có giá là một loại hình tín dụng ngắn hạn của NHTM. Trong nghiệp vụ này ngân hàng sẽ đứng ra trả tiền trước cho các hối phiếu hoặc chứng từ có giá khác chưa đến hạn thanh toán theo yêu cầu của người thụ hưởng (người sở hữu chứng từ) bằng cách khấu trừ ngay một số tiền nhất định gọi là tiền chiết khấu, tính theo giá trị chứng từ, thời hạn chiết khấu, lãi suất và các tỉ lệ chiết khấu khác, số còn lại thanh toán cho người thụ hưởng. Người thụ hưởng muốn nhận được số tiền này thì bắt buộc phải làm thủ tục chuyển nhượng quyền hưởng lợi cho ngân hàng chiết khấu đối với các chứng từ xin chiết khấu. Hình thức chiết khấu chứng từ sẽ giúp cho người sở hữu chứng từ có tiền để đáp ứng các nhu cầu thanh toán, nhất là khôi phục năng lực thanh toán, duy trì được mối quan hệ tài chính, nhờ đó mà họ tiến hành sản xuất kinh doanh bình thường. Với nghiệp vụ chiết khấu qua NHTM làm cho các chứng từ có giá chưa đến hạn thanh toán có thể lưu thông từ tay người này sang tay người khác, biến các công cụ này từ chỗ các giấy nợ thương mại trở thành các phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán. Đối với các NHTM: Chiết khấu là nghiệp vụ tín dụng có đảm bảo bằng các tài sản có tính thanh khoản cao, vì vậy vừa tạo ra tài sản có sinh lời cho ngân hàng, vừa tạo ra một lực lượng dự trữ để sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu thanh toán. Khả năng thanh toán của ngân hàng luôn được đảm bảo vì vậy các ngân hàng thường có xu hướng mở rộng nghiệp vụ chiết khấu. - Hình thức cho thuê tài chính: Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác. Bên cho thuê máy móc, thiết bị và động sản theo yêu cầu của bên thuê và nắm quyền sở hữu tài sản thuê. Bên đi thuê được sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ hợp đồng trước hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê. Các nguyên tắc cho thuê tài chính: + Tài sản cho thuê thuộc sở hữu hợp pháp của công ty cho thuê tài chính, bên thuê chỉ có quyền sử dụng. + Bên thuê phải quản lý tài sản thuê và sử dụng đúng mục đích xin thuê và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc sử dụng tài sản thuê. + Bên thuê phải thanh toán tiền thuê cả gốc và phí đầy đủ, đúng hạn. + Tiền mua tài sản thuê được bên cho thuê chuyển trả trực tiếp cho bên cung cấp tài sản. Cho thuê tài chính có các hình thức sau: Cho thuê tài chính có sự tham gia của hai bên, cho thuê có sự tham gia của ba bên, cho thuê hợp tác, bán và tái thuê, cho thuê giáp lưng, cho thuê trả góp. - Hình thức bảo lãnh ngân hàng: Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên được bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên nhận bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. Bảo lãnh ngân hàng thông qua cam kết bù đắp, đền bù những thiệt hại về phương diện tài chính cho người thụ hưởng, bảo lãnh khi có thiệt hại xảy ra qua đó ngăn ngừa và hạn chế rủi ro phát sinh trong các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Bảo lãnh ngân hàng có tính độc lập tương đối so với các hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại, tài chính... Ngân hàng bảo lãnh phải thực hiện cam kết bảo lãnh theo đúng trách nhiệm của mình đã ghi trong thư bảo lãnh, không kể người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng vì lý do gì. Bảo lãnh ngân hàng có các loại hình sau đây: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm, bảo lãnh hoàn thanh toán, bảo lãnh đối ứng. 1.1.4. Vai trò của tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với phát triển nông nghiệp, nông thôn Tín dụng ngân hàng đối với nông nghiệp là đáp ứng các nhu cầu về nguyên, nhiên vật liệu, chi phí sản xuất cho mùa vụ, trang bị máy móc, nông cụ, cải tiến sản xuất... cho đầu tư phát triển nông nghiệp. Đó là các khoản tín dụng mà ngân hàng cấp cho nông dân và các doanh nghiệp sản xuất ngành nông nghiệp nhằm chi phí về nguyên, nhiên liệu, giống cây trồng, vật nuôi, thức ăn gia súc, phân bón, thuốc trừ sâu, phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm, chi phí ngày công lao động v.v.. Tín dụng vào nông nghiệp, nông thôn còn bao gồm các khoản vay trung, dài hạn để cải tạo đồng ruộng, xây dựng chuồng trại chăn nuôi, trồng cây ăn trái lâu năm, cây công nghiệp dài ngày, xây dựng kho tàng, cơ sở chế biến, các ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ, mua sắm máy móc, thiết bị... phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy tín dụng giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển nông nghiệp, nông thôn. Cụ thể: - Tín dụng góp phần hình thành thị trường tiền tệ ở nông thôn và giữ vai trò trung gian thu hút vốn, tài trợ vốn cho sản xuất nông nghiệp: Vấn đề tăng trưởng và phát triển kinh tế là yêu cầu cần thiết, nó đòi hỏi vốn đầu tư làm động lực, thúc đẩy thị trường vốn ra đời và phát triển. Trong nông nghiệp, khi nghiên cứu địa tô tư bản chủ nghĩa, Các Mác đã chỉ rõ vai trò của tư bản (vốn) như sau: "... do những quy luật tự nhiên chi phối trong nông nghiệp, nên khi việc canh tác đã đạt đến trình độ nhất định và khi đất đã bị kiệt màu đi một cách tương ứng, thì tư bản... sẽ trở thành một yếu tố quyết định" [15, tr.333]. Như vậy, theo C.Mác, cùng với đất đai và lao động, vốn trở thành một yếu tố quyết định đối với mọi nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá. ở nước ta nông thôn đang là thị trường rộng lớn, với dân số chiếm khoảng 73%, gồm hơn 12 triệu hộ nông dân. Trong khi đó, chủ trương của Đảng và Nhà nước là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Từ đó mà nảy sinh nhu cầu vốn để nâng cao năng lực sản xuất. Nhu cầu đó trở thành cầu nối giữa tiết kiệm - tích luỹ - đầu tư cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nông dân và các doanh nghiệp do nhu cầu sản xuất, kinh doanh đòi hỏi phải có vốn đầu tư. Điều đó đặt ra cho ngân hàng phải thực hiện đầu tư tài chính thông qua thị trường vốn nhằm huy động các khoản tiền nhàn rỗi để cho nông dân vay. Mặt khác, một ngân hàng thương mại hoạt động trong lĩnh vực tín dụng giữ địa vị trung gian thể hiện qua chức năng thu hút vốn và cho vay. Khi người nông dân thu hoạch và tiêu thụ được sản phẩm, họ thừa tiền, tạm thời chưa đầu tư vào đâu, ở đây ngân hàng thương mại, đặc biệt là NHNo&PTNT, với mạng lưới sâu sát của mình, sẵn sàng tiếp nhận các nguồn vốn nhàn rỗi đó dưới hình thức ký thác (gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, mở tài khoản tiền gửi...) làm cho người nông dân có khoản tài chính tạm thời nhàn rỗi được sinh lợi và được dự trữ an toàn cho việc sử dụng sau này. Điều quan trọng hơn là khi người nông dân cần vốn để phục vụ cho việc tiến hành sản xuất thì ngân hàng là người bạn đắc lực của họ trong việc trợ giúp vốn. - Tín dụng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, thúc đẩy sản xuất hàng hoá ở nông thôn: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là một nội dung cơ bản của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do thiếu vốn, cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn chuyển dịch chậm: ngành nghề truyền thống và nông nghiệp, nông thôn kém phát triển, trồng trọt chủ yếu là trồng lúa chiếm tỷ lệ cao, chăn nuôi, đánh bắt nuôi trồng thủy sản bước đầu phát triển; dịch vụ nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy, tín dụng góp góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên các mặt: Đầu tư cho công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn; đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ giới hoá, điện khí hoá; đầu tư vào phát triển công nghiệp cung cấp phân bón, xăng dầu, máy móc, nông cụ, điện; thu hút lao động từ nông nghiệp v.v.. Quá trình đó làm tăng khối liên kết giữa các khâu trong quá trình sản xuất, đảm bảo hài hoà, cân đối giữa công nghiệp và nông nghiệp. Tín dụng nông nghiệp còn thúc đẩy sản xuất hàng hoá ở nông thôn. Tín dụng nông nghiệp thúc đẩy sản xuất hàng hoá ở nông thôn. Sản xuất nông nghiệp chỉ có thể phát triển khi nào nó được chuyển qua sản xuất hàng hoá. Sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra được trao đổi với các ngành sản xuất khác phục vụ cho sản xuất công nghiệp, tiêu dùng ở các đô thị và xuất khẩu ra nước ngoài. Mặt khác, tín dụng nông nghiệp góp phần đầu tư và tăng cường vốn để xây dựng các vùng kinh tế nông nghiệp trọng điểm, chuyên môn hoá và tập trung hoá sản xuất với trình độ công nghệ cao, với khoa học kỹ thuật hiện đại và hiệu quả nhất. Qua đó hình thành các vùng chuyên canh như: vùng cây lương thực, vùng cây nguyên liệu, vùng trái cây chất lượng cao, vùng rau an toàn; hình thành các trung tâm đánh bắt và chế biến thủy sản, các vùng chăn nuôi tập trung... tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm hàng hoá có giá trị. Ngoài ra đầu tư vào phát triển nông nghiệp, nông thôn như trên nó sẽ làm thay đổi cơ cấu lao động giữa nông nghiệp và công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, một bộ phận nông dân từ chỗ không biết hoặc chưa biết sản xuất hàng hoá từng bước thích nghi với cơ chế thị trường để đạt được việc sử dụng vật tư - lao động - tiền vốn một cách có hiệu quả hơn nhằm thoát được đói, giảm được nghèo trở nên trung bình, từ trung bình thành giàu có. Từ đó thể hiện được vị trí tín dụng NHNo&PTNT góp phần vào việc thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung vốn, tập trung sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp. Tín dụng cũng sẽ thúc đẩy sản xuất theo mô hình trang trại - một hình thức tổ chức kinh doanh phù hợp với kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp. Tín dụng còn theo các chương trình dự án phát triển cây, con, các vùng chuyên canh, phục hồi các làng nghề truyền thống từ đó tạo ra lượng hàng hoá tiêu dùng và xuất khẩu đa dạng, có hiệu quả hơn. - Tín dụng giữ vai trò trung gian điều tiết giữa sản xuất nông nghiệp với các ngành sản xuất khác. Tất cả các ngành sản xuất đều được tiến hành theo những cung đoạn nhất định, những thời gian và chu kỳ cụ thể. Trong chu kỳ sản xuất đó, có lúc nhu cầu vốn tăng lên rất cao, có lúc lại giảm xuống. Điều này đòi hỏi có một sự điều tiết kịp thời giúp các nhà sản xuất giải toả phần vốn thừa và cung cấp phần vốn thiếu. Giữa sản xuất nông nghiệp với các ngành sản xuất khác cũng có nhu cầu điều tiết vốn, chính điều này đã nối kết sản xuất nông nghiệp với các ngành sản xuất khác một chặt chẽ hơn. Công nghiệp và dịch vụ là những ngành sản xuất tiêu thụ sản phẩm của nông nghiệp dưới dạng nguyên liệu sản xuất. Nếu sản xuất nông nghiệp gặp khó khăn thì sản xuất công nghiệp và dịch vụ cũng khó khăn theo. Do tính mùa vụ của sản xuất nông nghiệp, nên tín dụng nông nghiệp cũng có những đặc điểm riêng. Vào vụ thu hoạch tín dụng nông nghiệp chủ yếu là phục vụ cho thu mua, tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá do nông nghiệp sản xuất ra. Điều này cho phép sử dụng hình thức tín dụng gián tiếp. Các tổ chức tín dụng có thể cho vay các tổ chức tiêu thụ, chế biến hàng hoá như thương nghiệp, công nghiệp để những tổ chức này mở rộng khả năng dự trữ hàng hoá do ngành nông nghiệp sản xuất ra. Trong điều kiện này, các tổ chức tín dụng đồng thời là người thu hút vốn từ người nông dân có tiền nhàn rỗi do vừa bán sản phẩm. Khi vào vụ sản xuất mới, các tổ chức tín dụng là người trực tiếp cấp tín dụng cho người nông dân cần vốn. Điều quan trọng là phải có sự kết hợp chặc chẽ giữa các ngành sản xuất để tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Sản xuất nông nghiệp giữ vai trò sản xuất cơ bản nên luôn luôn đòi hỏi ở các ngành sản xuất khác một sự tài trợ nhất định. Trong đó ngân hàng làm trung gian cho quá trình kết hợp này. Sự đầu tư của các ngành công nghiệp chế biến phải luôn quan tâm đến đầu tư để sản xuất ra nguyên liệu. Trong đó ngân hàng giữ vị trí trung gian để đưa hàng hoá từ nông nghiệp vào sản xuất công nghiệp và ngược lại. - Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, trong nông nghiệp đã hình thành nhiều hình thức hợp tác mới giữa nông dân với nông dân, giữa DNNN với nông dân, giữa nông dân với tổ hợp tác, HTX. Trong các mối quan hệ này tín dụng đóng vai trò tích cực thông qua việc đầu tư vốn cho các nhà máy để đổi mới và trang bị thêm máy móc, thiết bị, tạo nguồn nguyên liệu dưới hình thức cho vay ứng trước thu mua, cho vay tiệu thụ sản phẩm sau thu hoạch, xuất khẩu hoặc theo các dự án phát triển cây, con, các vùng chuyên canh, phục hồi các làng nghề truyền thống. Từ cơ sở tác động đó, tín dụng làm cho các thành phần kinh tế từ hộ kinh doanh nhỏ lẻ đến doanh nghiệp đến hộ sản xuất, từ hình thức sản xuất riêng biệt, đơn lẻ trong nông nghiệp đến các mô hình trang trại với các loại hình sản xuất tổng hợp v.v... phát triển mạnh mẽ, dẫn đến tăng khả năng tích luỹ, tập trung hơn cho quá trình tái sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp. - Tín dụng góp phần khai thác tiềm năng lao động, đất đai: Trong những năm qua, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đã cho vay phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn như: Khai thác, đánh bắt, chế biến hải sản, cho vay xây dựng ao hồ và cho vay phục vụ nuôi tôm nước lợ tại địa bàn với hơn ngàn tàu và cả ngàn ha mặt nước nuôi, cho vay sản xuất đậu, mì, lúa và phát triển gia súc, gia cầm đối với các hộ sản xuất. Ngoài ra còn cho vay trồng rừng, phát triển mô hình trang trại, mở rộng qui mô sản xuất theo hướng chuyên canh, cho vay các nhà doanh nghiệp ở nông thôn, thu hút nhiều lao động nông nghiệp có kỹ năng sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tạo sự chuyển biến trong cơ cấu giữa nông nghiệp với công nghiệp. ở những mức độ khách nhau, tín dụng cũng tham gia vào việc huy động vốn, gia tăng vốn đầu tư cho khoa học để vừa có đủ vốn nhập khẩu, những công nghệ cao từ nước ngoài khi trong nước chưa nghiên cứu được, vừa có vốn để nghiên cứu, triển khai những công nghệ mới do các nhà khoa học trong nước tạo ra nhằm thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ mới vào sản xuất, đặc biệt về giống cây trồng, vật nuôi, bảo vệ thực vật, bảo quản và chế biến, góp phần đẩy mạnh quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn. - Tín dụng góp phần xây dựng sơ cở hạ tầng nông thôn: Cơ sở hạ tầng ở nông thôn nước ta còn rất hạn chế về điện, đường, trường, trạm v.v... Những năm gần đây đã được Nhà nước và nhân dân tích cực chú trọng đầu tư nhiều hơn. Cơ sở hạ tầng là một trong những thành tố quan trọng tác động rất lớn vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Vì nó làm thay đổi bộ mặt nông thôn, đưa nhanh các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, tiếp cận với thị trường trong và ngoài nước, làm giảm sự chênh lệch về phát triển giữa thành thị và nông thôn, gắn nông thôn với thành thị. Trong điều kiện ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp, kế hoạch đầu tư vào cơ sở hạ tầng ở nông thôn còn ít, thì nguồn vốn đầu tư tín dụng, trên góc độ trực tiếp và gián tiếp đã tham gia một cách tích cực vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, tạo điều kiện phối kết hợp với vốn tự lực trong dân, với vốn ngân sách theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, đã làm cho hệ thống giao thông, thuỷ lợi, điện, nước sinh hoạt ... được xây dựng và phát triển ngày càng tốt hơn. Tóm lại, có thể khẳng định từ hệ quả vai trò tín dụng NHNo&PTNT nói trên, tín dụng đã làm cho sản xuất nông nghiệp cũng như bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc. Nó tác động trực tiếp tới mọi mặt đời sống kinh tế -xã hội trong các vùng nông nghiệp, nâng cao hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân. 1.1.5. Yêu cầu đổi mới hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Xuất phát từ đặc thù của NHNo&PTNT là điạ bàn rộng, từ thành thị đến nông thôn, ngành nghề đa dạng, khối lượng công việc nhiều, phức tạp, tín dụng chứa đựng rủi ro cao do nhiều nguyên nhân bất khả kháng như: Thiên tai, dịch bệnh, cán bộ ít, khách hàng nhỏ lẻ, chi phí cao, lợi nhuận thấp . Điều đó đòi hỏi NHNo&PTNT phải không ngừng tự đổi mới, đặc biệt là đổi mới hoạt động tín dụng hướng trọng tâm vào việc tạo vốn nhằm mở rộng đầu tư vốn có hiệu quả cho phát triển nông nghiệp, nông th._.ôn trên các lĩnh vực: - Đáp ứng yêu cầu vốn cho sự nghiệp phát triển: Đối với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn như ở nước ta cần một khối lượng vốn lớn để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, xây dựng công nghiệp chế biến, khôi phục và chấn hưng các làng nghề truyền thống, phát triển nghành nghề mới nhằm tận dụng những nguyên, vật liệu có lợi thế từ nông nghiệp trong nước mà các nước khác không có được. Mục tiêu của NHNo&PTNT và PTNT tỉnh Quảng Nam đề ra tại Chương trình triển khai đề án cơ cấu lại NHNo&PTNT (giai đoạn 2006 - 2010) là: Tỷ lệ tăng trưởng nguồn vốn bình quân hằng năm tăng từ 15% đến 20%, tỉ trọng tiền gửi dân cư trên tổng nguồn vốn huy động chiếm ít nhất 60%, tiền gửi không kỳ hạn từ 30% - 35%, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng bình quân phải đạt 15%- 17 % / năm, tỉ lệ cho vay trung và dài hạn chiếm 47% - 50%, tỉ lệ nợ xấu thấp hơn 4%, doanh thu về dịch vụ phấn đấu đạt 10% - 15% trên tổng thu tài chính. Như vậy, muốn đáp ứng yêu cầu về vốn cho hoạt động tín dụng, NHNo&PTNT cơ sở phải tìm ra những giải pháp khả thi để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn nhằm duy trì tiềm lực sẳn có đồng thời tạo ra tiềm lực khả dụng hơn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống đối với nông nghiệp, nông thôn. - Mở rộng và nâng cao chất lượng trong hoạt động tín dụng: Từ sau khi Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 53 ( tháng 3 năm 1998) và tiếp theo là pháp lệnh ngân hàng, luật ngân hàng và luật các tổ chức tín dụng. NHNo&PTNT và PTNT Việt Nam đã đóng góp đáng kễ vào sự ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế thông qua việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT trong nền kinh tế thị trường không thoát khỏi những thiếu sót như đầu tư chưa tập trung mạnh vào các ngành kinh tế trọng điểm; còn chạy theo xu thế số lượng dự án đã hình thành, chưa chủ động tư vấn cho những dự án mới, tỉ trọng tín dụng trung và dài hạn còn thấp, tỉ lệ nợ quá hạn thể hiện qua số liệu còn thấp nhưng thực chất nợ xấu, nợ có khả năng đầu tư kém hiệu quả chưa bộc lộ hết. Vì vậy muốn nâng cao chất lượng tín dụng chúng ta cần phải: + Từng bước nâng cao năng lực, trình độ, kiến thức về quản trị điều hành của cán bộ trên cơ sở cơ cấu lại bộ máy hoạt động: Đây là một đòi hỏi xuất phát từ thực tiễn, mang tính cấp bách đối với NHNo&PTNT trước nền kinh tế phát triển và hội nhập, nếu muốn tồn tại và phát triển trong quan hệ cạnh tranh gay gắt với các NHTM khác. Sự phân bố cán bộ giữa các bộ phận nghiệp vụ, các phòng ban cũng phải cân đối, nắm bắt và khai thác tối đa về năng lực, sở trường, bố trí lao động hợp lý. Ngoài ra yêu cầu chung đặt ra đối với NHNo&PTNT và PTNT ở đây là: * Đối với cán bộ lãnh đạo phải biết đề ra chiến lược phát triển và tổ chức chỉ đạo hoạt động theo chiến lược, mục tiêu đề ra, hướng phấn đấu là tăng tài sản có và lợi nhuận cao, phải có biện pháp mở rộng địa bàn hoạt động, đi sâu vào kễ cả các địa bàn xa thị trấn, thị tứ. Môi trường kinh doanh ngày càng tự do hoá thì cán bộ lãnh đạo phải luôn đối phó với các tình hình cạnh tranhvề lãi suất trong huy động, trong cho vay, cạnh tranh cả về khách hàng và thị phần tín dụng. Phải đổi mới công nghệ thông tin, công nghệ quản lý,chú trọng đầu tư và thu hút nguồn nhân lực. * Đối với cán bộ nghiệp vụ phải có đầy đủ kỹ năng về nghiệp vụ và chế độ làm việc thích hợp nhằm hướng mọi kỹ năng của mình vào hoạt động có hiệu quả trên lĩnh vực tín dụng, quản lý ngân quỹ, tài chính, tổ chức và quản lý con người, công nghệ, kiểm toán, tiếp thị, tư vấn, tin học. + Gắn tín dụng với công tác huy động vốn, giảm chi phí nhằm nâng cao tỉ suất hiệu quả sử dụng vốn trong huy động vốn tín dụng. Nhìn chung, đối với các NHTM Việt Nam vốn điều lệ nhà nước cấp còn thấp so với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Vấn đề đặt ra ở đây là việc thiếu vốn cho vay ở khu vực nông thôn cao hơn ở khu vực thành thị, chi phí huy động vốn ở khu vực nông thôn tăng hơn vì số lượng nhỏ, lẻ, địa bàn rộng, đi lại khó khăn hơn. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cơ sở phải đặt quầy, bàn huy động xuống địa phương xã trong những đợt phát động do NHNo&PTNT tỉnh và trung ương tổ chức để quảng bá và tiếp cận nguồn tiền gửi tận nơi của người dân. + Mở rộng thị trường tín dụng, đầu tư đúng hướng, có hiệu quả thúc đẩy sản xuất kinh doanh: Yêu cầu này chi phối sự phát triển của NHNo&PTNT đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo những bước đi thích hợp để có thể đạt được những hiệu quả kinh tế cao đảm bảo tự tăng trưởng bền vững; lựa chọn đúng ngành, đúng vùng, đúng đối tượng cần ưu tiên sẽ cho phép sử dụng các nguồn vốn đầu tư một cách tập trung nhằm khai thác tiềm năng từng vùng, lĩnh vực chuyên ngành một cách tối ưu theo các tiêu chuẩn: sản phẩm đang có nhu cầu trên thị trường; thu hút thêm lao động, tạo công ăn việc làm; sản phẩm và quá trình sản xuất, tiêu thụ có liên quan đến các ngành nghề khác nhau; những ngành dựa trên cơ sở nguồn vốn tự lực, đòi hỏi ít đầu tư nhưng thu được hiệu quả cao; phát huy truyền thống, tinh hoa dân tộc. Ngoài ra còn phải tính đến những điều kiện kinh doanh hiện tại và tiềm năng; vai trò và vị trí của địa phương đối với các vùng, khu vực khác; trình độ, kinh nghiệm sản xuất của vùng; nhu cầu cấp bách và bước đi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. + Thực hiện tốt chính sách xã hội nhằm hổ trợ cho chính sách tín dụng ở nông thôn: Từ khi ra đời và hoạt động NHNo&PTNT đã được Đảng và Nhà nước chiếu cố cả về vốn điều lệ ( gấp đôi các NHTM khác). Ngân hàng phải thực hiện chính sách cho vay như: xoá đói, giảm nghèo, làm nhà trên cọc, cho vay khắc phục bão, lụt... Tuy đến nay ngân hàng chính sách, ngân hàng nhà đã ra đời, gánh vác chức năng xã hội lớn cho Nhà nước, nhưng trong nội tại của ngành NHNo&PTNT, cũng như dưới góc độ thiên về xã hội, thì ngân hàng nông nghiệp cũng chứa đựng một chính sách xã hội không thể không có. Đối tượng cho vay của ngân hàng hầu hết hộ nông dân, với thiên tai, dịch bệnh, những rủi ro khác bất khả kháng, mà thực tế đã xảy ra như: Cơn bão số 2 năm 1999, bão Chan chu năm 2006, bão số 6 năm 2006, dịch cúm ga cầm v.v.. dẫn đến mất mát con người, tài sản, kéo theo hàng tỉ đồng vốn tín dụng mà kết quả là NHNo&PTNT phải xử lý rủi ro dưới sự chỉ đạo của NHNN. Ngoài ra, NHNo&PTNT còn cho các hộ trên vay vốn để khắc phục, phục hồi tái sản xuất; giãn nợ, gia hạn nợ, khoanh nợ v.v... để khôi phục lại sản xuất, ổn định cuộc sống từng hộ nói riêng, từ đó góp phần ổn định kinh tế - xã hội. Thông qua đó cũng là nhằm hổ trợ đắc lực cho chính sách xã hội ở nông thôn. + Đổi mới công tác đầu tư, chuyển mạnh sang phương thức cho vay theo chương trình dự án: Để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá, nông nghiệp, nông thôn cần hướng chủ trương đầu tư vốn tín dụng NHNo&PTNT vào cho vay theo chương trình, dự án đối với các ngành, nghề chủ chốt như: cho vay tàu công suất lớn phục vụ đánh bắt dài ngày, xa bờ; cho vay qui hoạch vùng nuôi tôm nước lợ theo hướng công nghiệp; cho vay mở những trang trại chuyên canh, trang trại sản xuất nông nghiệp, kết hợp chăn nuôi tổng hợp v.v.. Dùng một tỉ lệ vốn thích đáng để mở rộng đối tượng đầu tư trung và dài hạn nhằm đầu tư cho các ngành công nghiệp, dịch vụ, phục vụ trực tiếp cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển làng nghề truyền thống, thuỷ lợi nhỏ, kênh mương nội đồng, giao thông nông thôn... Tín dụng NHNo&PTNT đầu tư theo chương trình, dự án còn phải đạt được yêu cầu khép kín qui trình từ sản xuất đến tiêu thụ, xuất khẩu tạo cho đồng vốn nội tệ từ NHNo&PTNT một khi chuyển hóa thành ngoại tệ phải qui về NHNo&PTNT nhằm quản lý và thu hồi được nợ một cách có hiệu quả. + Bảo tồn vốn, bù đắp chi phí, có lãi, bổ sung vốn tự có: Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, nó quyết định sự tồn tại và phát triển, sự thành, bại trên thương trường của bất cứ một NHTM nào. Thực trạng kinh doanh của NHNo&PTNT trong điều kiện hiện nay khi hành lang pháp lý của nước ta chưa hoàn chỉnh, dư nợ cho vay trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn chiếm tỷ trọng cao. Nợ quá hạn lớn, luôn gặp phải rủi ro do thiên tai, dịch bệnh đòi hỏi yêu cầu bảo tồn vốn, thu hồi được vốn và lãi để bù đắp đủ chi phí, duy trì bộ máy hoạt động hiện nay đồng thời có tích luỹ để bổ sung vốn tự có, bù đắp rủi ro đang là một yêu cầu cốt lõi. Yêu cầu đó đòi hỏi huy động nguồn vốn và xử lý tín dụng với chi phí thấp nhất trên cơ sở lấy hiệu quả làm thước đo chính, có dự đoán những rủi ro bất trắc có thể xảy ra vì thiên tai, thời vụ. + Đảm bảo lợi ích cho khách hàng, cho ngành và cho Nhà nước: Để giải quyết mối quan hệ hài hòa này cũng chính là hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. NHNo&PTNT muốn tồn tại phải có khách hàng. Khách hàng muốn tồn tại và phát triển sản xuất kinh doanh cũng cần đến ngân hàng. Ngân hàng cùng khách hàng cùng tồn tại và phát triển trên nền tảng dân giàu, nước mạnh; thông qua các nguồn thu Nhà nước sẽ cung ứng những nhu cầu về phúc lợi xã hội cho nền kinh tế. Hàng ngàn tỷ đồng hàng năm nộp cho ngân sách nhà nước đã thể hiện được yêu cầu đó góp phần vào mục tiêu chung về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Và cũng nhờ đó mà tạo điều kiện cho đời sống cán bộ nhân viên ổn định, khách hàng phát triển, hoạt động tín dụng mở rộng. + Đổi mới quản lý tín dụng. Địa bàn hoạt động của NHNo&PTNT luôn rộng, khối lượng tín dụng lớn, phân tán, đa dạng, các khoản cho vay manh mún, chi phí lớn, rủi ro cao, tỉ suất lợi nhuận thấp vừa phải thực hiện chính sách ưu đãi đối với tín dụng miền núi, hải đảo, các chương trình cho vay theo chỉ định của Chính phủ. Đội ngũ cán bộ tín dụng đông, nhưng mức quản lý dư nợ ngày càng tăng (Bình quân tại cơ sở hơn 10tỷ đồng / cán bộ) điều này đòi hỏi NHNo&PTNT không ngừng đổi mớiquản lý tín dụng theo yêu cầu phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả và chất lượng tín dụng, cụ thể qua các công cụ chủ yếu sau: * Thực hiện tốt công tác kế hoạch hoá tín dụng: Các ngân hàng cơ sở phải xây dựng các phương án, đề án thể hiện được nguồn vốn tăng trưởng, nhu cầu vốn tín dụng và khả năng thu hồi vốn trên cơ sở mang lại hiệu quả cho công tác tài chính, đảm bảo hài hoà ba lợi ích giữa cán bộ tín dụng trực tiếp làm công tác chuyên môn, ngành. Đồng thời thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước trên cơ sở đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, cũng như cho NHN0&PTNT Việt Nam phát triển ổn định và bền vững theo tiến trình chung của quốc gia trong thời kỳ hội nhập. * áp dụng linh hoạt lãi suất thực dương: NHNo&PTNT hiện đang thực hiện 2 loại lãi suất (lãi suất điều hành theo thị trường trên cơ sở lãi suất cơ bản của NHNN và lãi suất làm dịch vụ uỷ thác các chương trình chỉ định của Chính phủ). Lãi suất có tác dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong việc huy động vốn để cho vay nhằm mang lại lợi nhuận tối ưu. Nếu lãi suất không được sử dụng một cách linh hoạt trên từng địa bàn, từng loại khách hàng (Truyền thống, doanh nghiệp loại A, khách hàng không quan hệ thường xuyên) đặc biệt trong điều kiện hiện nay thì NHNo&PTNT lại càng đứng trước những khó khăn và thách thức so với NHTM khác để có thể hạ lãi suất nhằm kích cầu vì mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế thu nhập NHTM bị cắt giảm rỏ rệt nhất là khi áp dụng luật ngân hàng như trích lập quỹ dự phòng rủi ro, thuế giá trị gia tăng, giảm 30% lãi suất vùng núi cao, hải đảo, xử lý nợ quá hạn ... đòi hỏi NHNo&PTNT phải uyển chuyển, linh hoạt lãi suất cho vay theo quan hệ cung - cầu đặc biệt là phải hạ lãi suất đầu vào thông qua tiết kiệm tối đa các chi phí nhằm tạo được khoản cách chênh lệch giữa đầu vào và đầu ra ngày một hạ để có thể cạnh tranh và tồn tại trước các NHTM khác như NHCT, NHNT, NHĐTPT đang có điều kiện thuận lợi hơn về khách hàng và môi trường kinh doanh là một yêu cầu bức xúc của NHNo&PTNT. - Thực hiện tốt biện pháp khoán tín dụng: Kết quả thực hiện thu nhập trong những năm qua đối với NHNo&PTNT thì nguồn thu từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng khoảng 90%, NHNo&PTNT Quảng Nam 97%, NHNo&PTNT Núi Thành 98%. Vì vậy làm tốt công tác tín dụng chính là thực hiện tốt công tác tài chính, nâng cao thu nhập nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng thì cần áp dụng biện pháp khoán tín dụng và xem đây là động lực tích cực cho những cá nhân làm công tác tín dụng, một nghề rủi ro nhất trong hoạt động NHTM kinh doanh theo cơ chế thị trường. Hiện nay rất ít cán bộ thích làm tín dụng. Khoán tín dụng được thực hiện trên hai mặt huy động và cho vay với kết quả mang lại là hiệu quả thể hiện ở dư nợ lành mạnh, tỷ lệ thu nợ đạt cao, tỷ lê quá hạn thấp. Để làm được điều đó thì người làm công tác tín dụng cũng phải được giao khoán chế độ công tác phí, chi trả tiền lương kinh doanh, khen thưởng một các đúng mức nhằm đảm bảo quyền lợi giữa cá nhân ngành và nhà nước. - Thực hiện tốt việc thẩm định, kiểm tra, kiểm soát: Một dự án, một đối tượng khi xem xét đầu tư cho đến khi thu được nợ là một chuỗi dài liên tục đòi hỏi việc thẩm định, kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau khi đầu tư vì yêu cầu bảo toàn vốn, thực hiện chính sách tài chính ngành, chống những biểu hiện tiêu cực là vấn đề cần quan tâm đặc biệt nhất là trong kinh doanh theo cơ chế thị trường. Thị trường của NHNo&PTNT lại đa phần là nông nghiệp, nông thôn vừa chịu tác động của thiên nhiên, vừa chịu tác động chủ quan nhiều rủi ro về cả hai phía: khách hàng và ngân hàng, khi mà kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn ở nước ta ngày nay không còn thuần khiết như trước. Thực hiện tốt việc thẩm định, kiểm tra, kiểm soát còn phải khắc phục cho được những tồn tại cũ từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp để lại, chống tệ nhũng nhiễu phiền hà, ngăn chặn những hành vi vụ lợi cá nhân nhằm lành mạnh hoá hệ thống NHNo&PTNT theo hướng phát triển bền vững. 1.2. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành Trong lịch sử của mình, tín dụng ngân hàng đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài, từ phạm vi nhỏ đến phạm vi lớn. Nhìn chung, tín dụng ngân hàng tồn tại và phát triển phụ thuộc vào các điều kiện sau: 1) Trình độ phát triển của nền kinh tế quốc dân. 2) Cơ chế quản lý và mô hình quản lý kinh tế. 3) Môi trường pháp lý. 4) Môi trường kinh tế - xã hội. 5) Chính sách và công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. 6) Trình độ khoa học và công nghệ. 7) Trình độ đội ngũ viên chức ngân hàng ở huyện Núi Thành, tác động của tín dụng NHNo&PTNT đối với nông nghiệp, nông thôn chịu sự ảnh hưởng của các nhân tố chủ yếu sau: 1.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Núi Thành Núi Thành là huyện ven biển nằm về phía nam của tỉnh Quảng Nam. Đựơc thành lập năm 1983, tách từ huyện lỵ Tam Kỳ thành hai địa giới hành chính huyện. Toạ độ địa lý 150 33 - 150 36 B, 1080 34 - 1080 37 Đ. Diện tích tự nhiên 523,94km2, dân số hiện nay khoảng 145.000 khẩu, với hơn 33.800 hộ, và gần 70.000 lao động. Địa hình chia làm 3 vùng tương đối rõ rệt. - Vùng núi có 5 xã: Tam Trà, Tam Thạnh, Tam Sơn, Tam Mỹ Đông, Tam Mỹ Tây. - Vùng đồng bằng có 6 xã: Tam Nghĩa, Tam Hiệp, Tam Anh Nam, Tam Anh Bắc, Tam Xuân I, Tam Xuân II. - Vùng ven biển có 5 xã: Tam Tiến, Tam Hoà, Tam Hải, Tam Giang, Tam Quang. Và 1 Thị Trấn Núi Thành. Chiều dài của huyện dọc theo trục giao thông chính của quốc gia (đường sắt và quốc lộ 1A), có sân bay, bến cảng, ga đường sắt nên điều kiện đi lại và giao lưu tốt với mọi địa điểm, khu vực trên địa bàn kể cả trong và ngoài huyện. Điều đó càng lợi thế cho việc hội nhập khu công nghiệp Dung Quất, Khu kinh tế mở Chu Lai mà nổi bật là giao lưu và trao đổi nhanh chóng, thuận lợi về khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, thông tin kinh tế và trao đổi, mua bán sản phẩm, hàng hoá v.v... Huyện Núi Thành có bờ biển dài 37km, với 2 cửa biển là cửa Lỡ và cửa An Hoà. Đặc biệt cửa An Hoà có độ sâu đảm bảo cho các tàu thuyền đánh cá cỡ lớn ra, vào neo đậu trú bão thuận lợi. Ngư trường rộng lớn, nguồn lợi hải sản phong phú đa dạng với nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế cao. Toàn huyện có gần 4.500ha mặt nước, sông, suối, ao hồ, đầm phá... trong đó các thuỷ vực nước lợ vùng cửa sông rộng trên 3.000ha. Đây là hệ sinh thái đầm phá đặc biệt, là vùng nuôi trồng thuỷ đặc sản xuất khẩu mang lại giá trị kinh tế cao. Từ những đặc điểm trên, tại địa phương huyện đã hình thành làng cá truyền thống tự nhiên cũng như kèm theo là các dịch vụ chế biến hải sản, hậu cần nghề cá v.v ..và được xem là trung tâm nghề cá lớn nhất tỉnh Quảng Nam. Tổng số tàu thuyền dùng để khai thác đánh bắt trên toàn huỵên khoảng 1.045 chiếc, trong đó loại tàu có công suất từ 90CV - 335CV có khoảng 80 chiếc. Sản lượng đánh bắt hàng năm từ 16 - 18 ngàn tấn với giá trị hàng ngàn tỷ đồng. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản khoảng 1700 ha, chủ yếu là nuôi tôm, cua nước lợ với sản lượng hằng năm bình quân khoảng 2350 tấn, trong đó sản lượng nuôi tôm nước lợ bình quân khoảng 1800 tấn/1năm. Từ tháng 6/2003, sau khi có quyết định thành lập Khu kinh tế mở Chu Lai của Thủ tướng Chính phủ đã có 3 nhà máy chế biến thuỷ, hải sản được xây dựng và đi vào sản xuất. Với hơn 2.000ha đất bằng và 6.600ha đất đồi nuí chưa được khai thác sử dụng ở vùng ven biển và trung du tạo nên một tìêm năng phát triển lâm nghiệp phong phú và đa dạng. Đồng thời, các vùng này còn có nguồn nguyên liệu phi kim loại như: đá, cát thuỷ tinh với trữ lượng lớn là điều kiện để phát triển công nghiệp và vật liệu xây dựng. Cùng với lâm nghiệp, nông nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu, thu hút hơn 70% lao động, đóng góp hơn 60% GDP. Quĩ đất nông nghiệp của huyện khoảng 13.000ha, trong đó hơn 2/3 là đất sản xuất lúa. Chăn nuôi gia súc, gia cầm trên địa bàn huyện không phát triển mạnh nhưng khá ổn định, với tổng đàn gia súc (trong đó chủ yếu là trâu, bò) khoảng 70.000 con, đàn gia cầm khoảng 350.000 con, kể từ sau bệnh cúm gia cầm, sự phát triển chậm lại, ở mức ổn định là chính. Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn, trước khi có chủ trương thành lập khu kinh tế mở Chu Lai, gồm chủ yếu: các ngành mây tre, chế biến thuỷ, hải sản và sản xuất khai thác cát, đá, sỏi giá trị sản xuất khoảng 300 tỷ đồng mỗi năm Từ khi có quyết định của Thủ tướng về thành lập Khu kinh tế mở Chu Lai tháng 6/2003 đến nay đã mở ra một số cơ sở như: Nhà máy ô tô Trường Hải, Nhà máy chế biến thức ăn gia súc, chế biến thuỷ, hải sản, các đơn vị kinh doanh dịch vụ và du lịch v.v.. tác động vào nhiều mặt đối với sản xuất nông nghiệp và nông thôn trên địa bàn, tuy vậy việc phát triển công nghiệp, dịch vụ ở Khu kinh tế mở Chu Lai, với địa bàn trọng tâm là huyện Núi Thành còn ở mức thấp. Tác động của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của nông nghiệp, nông thôn Núi Thành đến hoạt động tín dụng NHNo&PTNT: Từ những điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội nêu trên, bước đầu thành lập huyện Núi Thành đã xác định cho mình mô hình kinh tế Nông - Ngư - Lâm, công nghiệp sau đó là Nông - Ngư - Lâm - công thương nghiệp, thời gian gần đây đặc biệt từ sau năm 2003, ưu tiên hàng đầu cho cơ cấu công nghiệp - dịch vụ rồi mới đến nông, ngư nghiệp. Tuy nhiên, liên tục trong các kỳ đại hội, theo nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân vẫn xem sản xuất nông, ngư nghiệp trên địa bàn là cơ sở, đánh giá điều kiện về môi trường sản xuất và khai thác thuỷ, hải sản là kinh tế mũi nhọn của địa phương. - Thực tế hàng chục năm qua, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tại huyện Núi Thành đã chi phối và quyết định đến cơ cấu đầu tư, sách lược và thực trạng đầu tư tín dụng của các ngân hàng thương mại trên địa bàn. - Tính đến thời kỳ 6 tháng đầu năm 2006 sản xuất kinh doanh trong ngành nông, ngư nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ chủ yếu, lao động trong các ngành này chiếm đại bộ phận, sản phẩm hàng hoá từ các ngành nghề này vẫn là thu nhập, trang trãi đời sống cho hầu hết các hộ gia đình trên địa bàn. - Việc kêu gọi đầu tư vào phát triển khu kinh tế, khu công nghiệp có tích cực từ phía Nhà nước nhưng do nhiều nguyên nhân, nhất là tính hiệu quả không hấp dẫn nên việc thu hút đầu tư còn hạn chế, các xí nghiệp nhà máy mở ra chưa nhiều, tình trạng giải quyết việc làm còn quá ít trong khi ngoài nhu cầu thường xuyên, cộng thêm việc qui hoạch, giải toả đã phát sinh thêm yêu cầu bức thiết về giải quyết lao động, việc làm, đời sống cho nhân dân địa phương. Vì lẽ đó nhìn vào các bảng tổng hợp, tình hình cho vay của NHNo&PTNT, chúng ta thấy rằng lĩnh vực nông, ngư nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao và xu hướng phát triển ổn định từ năm 1984 đến nay (cụ thể giai đoạn phân tích từ 2001 - 1005). Với thực tế cơ sở vật chất đầu tư lớn nhất là tàu, thuyền và hàng ngàn ha nuôi tôm nước lợ. Qua đó có thể khẳng định thêm một lần nữa điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội đã quyết định một cách tất yếu lên thực trạng đầu tư tín dụng NHNo&PTNT của huyện Núi Thành. 1.2.2. Các nhân tố về đường lối chủ trương, chính sách tác động đến tín dụng nông nghiệp Đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nói chung cũng như của chính quyền từ tỉnh đến huyện và của ngành ngân hàng nói riêng là những thể chế, qui định, yêu cầu, cũng như có tính chất chỉ đạo, định hướng về phát triển kinh tế, xã hội... mà từ đó, tác động mạnh đến hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT với việc đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn. Cụ thể: Nghị định 14/CP ngày 02/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ và thông tư số 01/TT-NH ngày 26/3/1993 của Thống đốc NHNN Việt Nam hướng dẫn thực hiện nghị định về: Chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển sản xuất nông - lâm - ngư - diêm nghiệp và kinh tế nông thôn. Quyết định 67/QĐ - TTg ngày 30/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc cho vay vốn phát triển nông nghiệp, nông thôn đã làm tiền đề thúc đẩy mở rộng tín dụng vào lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn về mọi mặt. Từ đó ra đời thông tư liên tịch 2308 giữa hội nông dân và NHNo&PTNT Việt Nam. - Luật Ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, bộ luật dân sự của nước cộng hoà XHCN Việt Nam. - Về NHNo&PTNT có văn bản 499A/TDNT ngày 02/09/1993 của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam qui định về các biện pháp nghiệp vụ cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông - lâm - ngư - diêm nghiệp và kinh tế hộ nông thôn đã tác động mạnh mẽ đến tín dụng với nông nghiệp, nông thôn trên phạm vi rộng lớn nhất. Đồng thời với các cơ chế, thể lệ tín dụng khác tạo nên sự đồng bộ, toàn diện... cho qui mô và tốc độ tín dụng tăng trưởng không ngừng đối với sản xuất và đời sống. - Tại văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, có báo cáo của BCH trung ương Đảng khoá IX về phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010 đã nêu: Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và có hiệu quả kinh tế cao, đẩy mạnh thâm canh các loại cây trồng trên cơ sở áp dụng các qui trình sản xuất đồng bộ tiên tiến, qui hoạch diện tích sản xuất lương thực ổn định, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực, phát triển mạnh chăn nuôi theo hướng qui mô lớn, an toàn dịch bệnh và bền vững về môi trường. Xây dựng các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung gắn với việc chuyển giao công nghệ sản xuất, chế biến và bảo quản... Tiếp tục thực hiện có hiệu qủa chương trình bảo vệ và phát triển rừng... Phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá lớn đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái [6, tr.191-192]. - Quyết định 108/2003 QĐ-TTg ngày 05/06/2003 của Thủ tướng Chính phủ V/v thành lập khu Kinh tế mở Chu Lai trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Quyết định số 14/2004 QĐ - UB ngày 09/02/2004 V/v ban hành qui chế tổ chức và hoạt động của Ban quản lý Khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam và quyết định số 30/2004/ QĐ-UB ngày 19/05/2004 V/v ban hành qui định về một số cơ chế ưu đãi đầu tư vào Khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam của UBND tỉnh Quảng Nam cũng làm ảnh hưởng đến tín dụng của NHNo&PTNT với việc phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn huyện Núi Thành. - Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX nhiệm kỳ 2005 - 2010, trong báo cáo giải trình về một số vấn đề chủ yếu phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2006 - 2010 có nêu: Về nông, lâm, ngư, nghiệp phải chuyển đổi theo hướng sản xuất hàng hoá, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ. Lấy hiệu quả và giá trị làm mục tiêu để chuyển đổi trong sản xuất nông nghiệp. Chuyển đổi mạnh cơ cấu trong nội bộ ngành nông - lâm - ngư nghiệp, đẩy mạnh chương trình trồng cỏ nuôi bò, đưa cơ cấu chăn nuôi từ 28% hiện nay lên 35% trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp vào năm 2010 [7, tr.83]. - Nghị quyết đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Núi Thành lần thứ XIX (nhiệm kỳ 2005 - 2010) có nêu: Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp trên cơ sở chuyển đổi cây trồng, con vật nuôi theo hướng chuyên canh, và phát triển tổng hợp ... phát triển ngành nghề, đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá gắn với công nghiệp chế biến và tiêu thụ của thị trường để nâng cao giá trị sản phẩm và giữ ổn định về sản xuất. ổn định lương thực có hạt đạt 29.000tấn/năm Tích cực chuyển 500ha đất sản xuất lúa không chủ động nguồn nước tưới sang trồng các loại cây khác phù hợp, có hiệu quả cao. Phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại, trồng các loại cây nguyên liệu, cây công nghiệp, phát triển mô hình chăn nuôi bò... Đầu tư phát triển ngành thuỷ sản thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, với sản lượng khai thác, đánh bắt, nuôi trồng bình quân hằng năm 20.000 tấn, trong đó sản lượng có giá trị xuất khẩu đạt trên 30%, phát triển các ngành nghề đánh bắt đạt giá trị và hiệu quả kinh tế cao như: lưới vây ngày, câu cá ngừ đại dương, câu mực... ổn định sản xuất và đầu tư thâm canh tăng năng suất diện tích nuôi trồng thuỷ sản hiện có. Khuyến khích và tạo điều kiện để ngư dân đóng mới tàu thuyền và phát triển hậu cần nghề cá [8, tr.32-33]. Tín dụng của NHNo&PTNT huyện Núi Thành lấy các phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu... cụ thể trên làm định hướng đầu tư, từ đó xây dựng một kế hoạch cho vay vốn phát triển kinh tế - xã hội vừa thúc đẩy sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, nông thôn đúng theo chiến lược trước mắt, cũng như dài hạn của Đảng và Nhà nước các cấp nhằm vừa nâng cao tính hiệu quả trong công tác tín dụng lẫn hiệu quả đầu tư vốn vào nông nghiệp, nông thôn mang lại. 1.2.3. Các nhân tố chủ quan của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Núi Thành NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Núi Thành tiền thân là Chi nhánh NHNN huyện Núi Thành được thành lập sau khi tách huyện từ tháng 4/1984 có thể nói ra đời và phát triển của nó song hành với lịch sử 22 năm của địa phương huyện. Từ việc cho vay vốn phát triển nông nghiệp, nông thôn tại địa phương NHNo&PTNT huyện Núi Thành đóng góp to lớn vào thành tích chung của cả huyện với giá trị sản xuất nông nghiệp tăng trưởng hằng năm bình quân xấp xỉ 9,5%, sản xuất công nghiệp 18,5%, dịch vụ thương mại tăng 15%; tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 14%; trong đó, đáng lưu ý là chỉ tính từ 2001 đến nay tỉ lệ hộ đói nghèo giảm nhanh, từ 19,84% xuống còn cấp xỉ 7% đến 6 tháng đầu năm 2006. Về phần nội tại NHNo&PTNT huyện Núi Thành cũng phát triển không ngừng từ sơ khai 1984 chỉ vài chục triệu nguồn vốn huy động đến nay đã gần 115 tỷ đồng, dư nợ từ mức 70 triệu đồng, nay lên đến gần 60 tỷ đồng. Nợ quá hạn ngày càng giảm thấp, chất lượng đảm bảo theo yêu cầu của ngành và tiêu chuẩn quốc tế. Thu nhập ngày càng cao và ổn định, đời sống của CBCNV được cải thiện hằng năm theo tiêu chuẩn quốc gia và yêu cầu của ngành... Sở dĩ đựơc như vậy là nhờ vào các yếu tố chủ quan như sau: - Các nhân tố chủ quan của NHNo&PTNT Ngân hàng No&PTNT huyện Núi Thành có địa điểm tại trung tâm thị Trấn Núi Thành, cũng là trung tâm huyện lỵ, giao thông thuận lợi, đa chiều cả về hệ thống đường bộ, đường sắt và hàng không. Tình hình an ninh tốt, an toàn tài sản cơ quan tài sản khách hàng trong nhiều năm liền đã để lại ấn tượng rất tốt cho nhân dân, cũng như mọi khách hàng. Đây là điều kiện tốt để thu hút khách hàng đến giao dịch, đồng thời cán bộ nhân viên ngân hàng cũng có điều kiện thuận lợi tiếp xúc khách hàng để ngày càng mở rộng thị trường, mở rộng địa bàn hoạt động tín dụng. - Đội ngũ cán bộ với 70% đảng viên, với xấp xỉ 70% có trình độ đại học, trung cấp 28%đã được tinh lọc qua các đợt giảm biên chế theo chủ trương của ngành đã phần nào nói lên được đạo đức, phẩm chất và năng lực cán bộ, luôn được bổ túc và đào tạo lại, từ đó đảm bảo nhân lực đối với xu thế chuyển mạnh sang hoạt động kinh doanh ngân hàng theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế. Đặc biệt đội ngũ làm công tác tín dụng chiếm xấp xỉ 43%/ tổng biên chế, đều có tuổi nghề từ 5 năm trở lên, 100% tốt nghiệp và đang học đại học, có kinh nghiệm giao tiếp, thẩm định, tư vấn, cho vay đối với mọi khách hàng có nhu cầu, với thái độ phục vụ chí công vô tư làm yên tâm và tạo sự tín nhiệm cao đối với khách hàng vay. - Với bề dày thành tích, thời gian hoạt động trên địa bàn, Ngân hàng No&PTNT huyện Núi Thành có truyền thống và kinh nghiệm am tường về các điều kiện kinh tế - xã hội tại địa phương; nắm được các mặt mạnh, yếu, các mũi nhọn về kinh tế, các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh có hiệu quả cần đầu tư và hạn chế, những lĩnh vực, ngành sản xuất, kinh doanh có nguy cơ rủi ro, hướng dẫn khách hàng trong việc định hướng đầu tư v.v... - Trụ sở kiên cố, khang trang, bề thế, sạch đẹp, lại đóng tại trung tâm huyện lỵ tạo được niềm tin trong nhân dân, là nơi để người dân nói chung, hộ, đơn vị sản xuất, kinh doanh nói riêng gửi tiền, thanh toán, vay vốn sản xuất, kinh doanh, cũng như thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác. - Hoạt động tín dụng nói riêng, hoạt động NHNo&PTNT nói chung của NHNo&PTNT huyện Núi Thành nằm trong guồng máy dưới sự hỗ trợ, chỉ đạo, tác động, điều phối chung của NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam và Ngân hàng No&PTNT VIệt Nam là một khối thống nhất càng tạo thêm sự vững chãi, bề thế, uy tín, uy lực của một thương hiệu NHTM tầm cở tại Việt Nam và khu vực. 1.3. Khuynh hướng vận động và biến đổi Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến gắn liền với nguyên lý về sự vận động, phát triển. Sự liên hệ, tác động qua lại của các sự vật, hiện tượng tất yếu dẫn ._. luật hiện hành nhưng chưa đến mức xử phạt hành chính Doanh nghiệp bị xử phạt vi phạm hành chính trong việc chấp hành các qui định của pháp luật hoặc người quản lý điều hành doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thực thi nhiệm vụ của doanh nghiệp đến mức bị truy cứu tráchh nhiệm hình sự. Căn cứ vào kết quả từ chỉ tiêu trên để phân loại A,B,C cho từng doanh nghiệp như sau: Doanh nghiệp xếp loại A Doanh nghiệp xếp loại B Doanh nghiệp xếp loại C Cả 5 chỉ tiêu đều xếp loại A Là doanh nghiệp không được xếp loại A hoặc C Chỉ cần xảy ra một trong các điều kiện sau: - Có từ 3 chỉ tiêu xếp loại C trở lên. - Chỉ tiêu 2 xếp loại C - Đối với khách hàng là hộ gia đình, cá nhân, chủ trang trại vay trên mức không phải đảm bảo tài sản. * Xếp loại: Căn cứ tình hình quan hệ tín dụng trong 2 năm gần nhất liền kề của hộ gia đình, cá nhân, chủ trang trại để phân loại khách hàng như sau: Khách hàng xếp loại A Khách hàng xếp loại B Khách hàng xếp loại C - Trả nợ đầy đủ, đúng hạn nợ gốc, lãi vay và phí (nếu có) - Không có phát sinh nợ quá hạn (gốc và lãi) - Không có vi phạm pháp luật - Có nợ quá hạn dưới 181 ngày (kể cả nợ quá hạn đã thu hết) - Không có vi phạm pháp luật - Có nợ khó đòi, nợ quá hạn trên 181 ngày. - Có vi phạm pháp luật Ngoài ra, trong lĩnh vực cho vay phát triển nông nghiệp các chi nhánh NHNo&PTNT nghiên cứu và vận dụng vào thực tế hợp lý và hiệu quả chỉ đạo của NHNo&PTNT Việt Nam tại công văn số 1507/ NHNo&PTNT - TD ngày 29/5/2003 đã nêu “Khi thực hiện cho vay hộ nông dân, chủ trang trại... đến 30 triệu đồng không áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản. chi nhánh không phải thông qua hội đồng tín dụng”. b. Hình thức cho vay có đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay Tình hình thực tế tại địa phương trong những năm qua, vấn đề vận dụng hình thức cho vay có đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay là hết sức cần thiết, nhất là trong lĩnh vực phát triển nền kinh tế mũi nhọn về nghề cá tại huyện nhà. Trong lĩnh vực này theo chủ trương của nhà nước là khuyến khích thực hiện đánh bắt xa bờ, trong khi theo thói quen và khả năng về tàu, lưới các phương tiện nghề cá khác của ngư dân hạn chế, nên việc thực hiện đánh bắt gần bờ chiếm đa số. Để vừa thực hiện chủ trương của nhà nước, vừa đưa nghề cá phát triển với quy mô ngày càng cao, hiệu quả hơn, nhiều ngư dân thực hiện đầu tư vào đóng mới tàu, mua sắm máy móc lớn hơn, đủ công suất phục vụ đánh bắt xa bờ, dài ngày. Tuy nhiên, khi vay vốn ngân hàng, tài sản thế chấp về nhà cửa là không đảm bảo, hầu hết ngư dân ở vùng quê biển, nhà cửa cũng không mấy khang trang, to lớn, giá trị đất ở thấp... Để khắc phục khó khăn đó, NHNo&PTNT cần phải tích cực tác động, phối hợp với các dự án đầu tư mà mình nghiên cứu, thẩm định khả năng có hiệu quả từ chủ đầu tư về kinh nghiệm, tay nghề v.v... để áp dụng hình thức cho vay bảo đảm bằng chính tàu, máy vay vốn để tham gia mua sắm. Theo qui định tại văn bảng 3251/ NHNo&PTNT-TD ngày 06 tháng 10/2003 thì: Mức cho vay tối đa bằng 75% so với giá trị tài sản hình thành từ vốn vay. Riêng giá trị quyền sử dụng đất, mức cho vay tối đa bằng 50%. Điều quan trọng đối với NHNo&PTNT là đảm bảo khả năng quản lý được tài sản hình thành. Trong thực tế tàu thuyền là phương tiện có đăng ký sở hữu. Vì vậy, ngân hàng phối hợp chặt chẽ với địa phương và thường xuyên theo dõi tình hình khai thác đánh bắt đối với các hộ có vay vốn. Qua theo dõi cho thấy khả năng đảm bảo nợ vay, hiệu quả tín dụng đem lại là khả quan, chỉ trừ những trường hợp bất khả kháng do thiên tai xảy ra. 3.2.2.2. Mở rộng các hình thức cấp tín dụng Tuỳ theo từng đối tượng khách hàng, mục đích và nhu cầu vốn vay, ngân hàng tiến hành xem xét đưa ra các hình thức cấp tín dụng phù hợp nhất. Các hình thức này xuất phát từ lợi ích của các bên: Khách hàng, ngân hàng và của cả nền kinh tế. Nếu áp dụng hình thức tín dụng phù hợp sẽ tạo điều kiện thuận lợi để nguồn vốn ngân hàng phát huy tác dụng, mang lại hiệu quả cho khách hàng trong đầu tư, hạn chế được rủi ro đối với người cho vay và thúc đẩy nền kinh tế phát triển hơn. Với việc đa dạng hoá các loại hình cấp tín dụng, chắc chắn sẽ làm cho ngân hàng linh hoạt hơn với việc sử dụng các phương thức cho vay, làm cho quá trình cho vay, tiếp nhận vốn được tích cực hơn. Qua đó, ngân hàng dể dàng tiếp cận được đối tượng vay vốn, theo đúng tính chất món vay, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. - Cho vay từng lần: Phương thức cho vay từng lần được áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay vốn từng lần. Mỗi lần vay vốn, khách hàng và NHNo&PTNT nơi cho vay lập thủ tục vay vốn theo quy định và ký hợp đồng tín dụng. Phương thức cho vay này, phù hợp với đại đa số hộ sản xuất, kinh doanh có nhu cầu vay vốn nói chung và hộ nông dân (sản xuất nông dân, lâm, ngư, diêm nghiệp) nói riêng. - Cho vay theo hạn mức tín dụng: Phương thức này áp dụng đối với khách hàng vay vốn ngắn hạn, có nhu cầu vay thường xuyên, kinh doanh ổn định. Phương thức này thuận tiện cho khách hàng vay vốn khi đảm bảo các điều kiện trên, giảm thiểu được các thủ tục vay. Trong quá trình vay vốn, trả nợ, nếu việc sản xuất kinh doanh có thay đổi và khách hàng có nhu cầu điều chỉnh hạn mức tín dụng, mà không cần làm hồ sơ xin vay lại. Trên đây là 2 phương thức cho vay phổ biến và cần vận dụng linh hoạt, hợp lý nhất tại chi nhánh NHNo&PTNT cơ sở. Ngoài ra, còn có các hình thức vay vốn như: - Cho vay theo dự án đầu tư: Là phương thức NHNo&PTNT cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống. Ngân hàng nơi cho vay cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng và thoả thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư dự án, phân định các kỳ hạn trả nợ. Ngân hàng thực hiện giải ngân theo tiến độ thực hiện dự án. - Phương thức cho vay lưu vụ: Chỉ áp dụng cho vay hộ gia đình, cá nhân ở vùng chuyên canh trồng lúa và ở các vùng xen canh trồng lúa với các cây trồng ngắn hạn khác. Với điều kiện hộ cá nhân phải có 2 vụ liền kề. - Phương thức cho vay hợp vốn, cho vay trả góp, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, cho vay theo hạn mức thấu chi. Thực tế rất ít phát sinh đối với hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT tại chi nhánh cơ sở. 3.2.2.3. Xác định đối tượng, ngành nghề mở rộng tín dụng - Xác định đối tượng cho vay: Đối tượng cho vay là mọi cá nhân, hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp... hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa phương huyện Núi Thành. Với phương châm xem đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn là mục tiêu hàng đầu. Ưu tiên về vốn đầu tư, cơ cấu vốn hợp lý giữa ngắn hạn và trung hạn, hướng đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tác động bằng vốn đầu tư nhằm khai thác tốt nhất sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp phục vụ cho kinh tế thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Tiếp tục xác định hộ sản xuất kinh doanh nói chung, hộ nông dân nói riêng là bạn đồng hành của NHNo&PTNT. - Lựa chọn các ngành, nghề cho vay: NHNo&PTNT nhằm mục tiêu phục vụ phát triển toàn diện các ngành nghề trên địa bàn. Tuy nhiên xác định cho vay, ưu tiên phát triển các ngành nghề mũi nhọn kinh tế đã được Đảng bộ và chính quyền cơ sở đề ra trong nghị quyết và kế hoạch 5 năm, 10 năm và có tính chất dài hạn, truyền thống tại huyện Núi Thành. + Cho vay nhằm phát triển ngành thủy sản: Trước hết là cho vay khai thác, đánh bắt thủy, hải sản. Trọng tâm là đầu tư vào mua sắm máy móc, thiết bị, đóng mới tàu, thuyền, khuyến khích hướng đánh bắt xa bờ, bảo vệ thềm lục địa. Cho vay thu mua, chế biến thuỷ, hải sản phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Tín dụng vào quá trình tiêu thụ còn chủ yếu cho vay xây dựng nhà máy có nhu cầu thiết thực và chế biến hợp lý, có hiệu quả. Tiếp tục cho vay mua nguyên liệu, chế biến đối với các hộ, các doanh nghiệp nhỏ có cơ sở thu mua, chế biến truyền thống. Vốn tín dụng tiếp tục giữ vững và thúc đẩy hậu cần nghề cá tại địa phương. Cho vay nuôi thuỷ, hải sản: tập trung chủ yếu là cho vay nuôi tôm nước lợ. Về lĩnh vực này, xác định cho vay chính là xây dựng và củng cố các ao, hồ nuôi, khuyến khích xây dựng áp dụng khoa hoc kỹ thuật nhằm nuôi tôm thâm canh thay cho quảng canh, tự phát. Đồng thời có phương án phòng, chống dịch bệnh tôm trong quá trình nuôi tôm. Cho vay mua nguyên liệu, thức ăn, tôm giống hướng người nuôi tôm chọn nguồn thức ăn tốt, giống ở những cơ sở được sở thuỷ sản cấp phép và đã qua kiểm dịch. Hiện nay vấn đề dẫn đến thất thu, thua lỗ của cá nhân và các tổ chức nuôi tôm là chưa thực hiện được việc phòng và chống dịch bệnh tôm. Vì vậy nó còn đòi hỏi sự hổ trợ giúp đỡ của chính quyền địa phương, từ sở thuỷ sản, các tổ chức khuyến ngư đối với việc hướng dẫn và triển khai các biện pháp khoa học kỹ thuật nhằm giúp nghề nuôi tôm khắc phục thực trạng này. + Cho vay nhằm tác động vào nông nghiệp theo hướng thay đổi cơ cấu trong sản xuất, chủ yếu khai thác vào việc nuôi và trồng ra các sản phẩm, hàng hoá có giá trị tiêu dùng cao trên thị trường. Thực tế tại địa phương ngành nông nghiệp phần lớn diện tích là trồng lúa, màu nhưng ruộng không nhiều, không phì nhiêu, màu mỡ nên năng suất thấp, sản phẩm phục vụ tiêu dùng là chính, có bán ra thị trường thì giá trị thu nhập thu lại không cao, do chi phí lớn. Vì vậy tín dụng, cùng với tổ chức khuyến nông, tư vấn cho hộ nông dân nên chú trọng vào kinh tế vườn, kinh tế trang trại, kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, thay đổi cơ cấu cây trồng có năng suất, có hiệu quả hơn như thay cho trồng lúa có thể là đậu, mè, hoa quả đáp ứng nhu cầu thị trường và các khu công nghiệp, khu kinh tế ngày càng phát triển. + Cho vay xây dựng và phát triển các doanh nghiệp khai thác nguồn nguyên liệu tại địa phương như khai thác cát thuỷ tinh, đá, sỏi, phục vụ trong ngành xây dựng. + Cho vay các cá nhân tổ chức, doanh nghiệp trên cơ sở xem xét hợp lý và có hiệu quả nhằm tạo điều kiện phát triển công nghiệp và dịch vụ vào khu kinh tế theo chủ trương của Đảng bộ và chính quyền địa phương huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. 3.2.2.4. Qui định về lãi suất tiền vay Hoạt động tín dụng ngân hàng thực chất là đi vay để cho vay. Việc xác định lãi suất cho vay của ngân hàng đối với khách hàng trên cơ sở tính toán các chi phí đầu tư vào như chi phí huy động vốn, chi phí hoạt động, mức dự phòng rủi ro trích lập và mức lợi nhuận kỳ vọng đạt được. Tuỳ theo năng lực tài chính cũng như chính sách khách hàng trong từng thời kỳ mà ngân hàng có một số chính sách ưu đãi về lãi suất để thu hút khách hàng. Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN được điều chỉnh qua mỗi thời kỳ tuỳ theo tình hình phát triển kinh tế của đất nước mỗi giai đoạn, mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của nhà nước, năng lực của các NHTM cũng như khả năng thích ứng của nền kinh tế. Hiện nay cơ chế lãi suất thoả thuận được đưa vào áp dụng, qua đó lợi ích của người cho vay và người đi vay gặp nhau trên cơ sở mức lãi suất cho vay phù hợp. Lãi suất cho vay được xác định theo công thức . Lãi suất cho vay = chi phí vốn cho vay + Mức lợi nhuận kỳ vọng. Chi phí vốn cho vay = chi phí huy động vốn + chi phí dự phòng rủi ro tín dụng + chi phí hoạt động. Chi phí huy động vốn được xác định trên cơ sở chi phí huy động vốn bình quân của các nguồn vốn huy động khác nhau. Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tuỳ thuộc vào kết quả chấm điểm khách hàng vay vốn, ngân hàng cấp trên ấn định tỉ lệ chi phí này đối với từng bậc điểm của khách hàng. Chi phí hoạt động bao gồm tiền lương trả cho nhân viên, chi phí văn phòng, chi phí đi lại... được xác định từ kế hoạch hàng năm và phân bổ tương ứng với tỷ lệ tăng trưởng ứng với tỉ lệ tăng trưởng dư nợ. Mức lợi nhuận kỳ vọng tuỳ thuộc vào từng đối tượng khách hàng, chính sách tín dụng của ngân hàng. Mức lợi nhuận này do ngân hàng cấp trên qui định từng thời điểm. Đối với những khách hàng thuộc đối tượng ưu đãi về lãi suất, mức lợi nhuận kỳ vọng cần được cho phép chi nhánh linh hoạt áp dụng căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng, lãi suất cạnh tranh của các NHTM khác nhằm giữ ổn định và tiến tới thu hút khách hàng. Có thể lãi suất kỳ vọng có thấp hơn qui định nhưng vẫn đảm bảo cho chi nhánh NHNo&PTNT có lãi, mặt khác khả năng thu hồi vốn tốt, đảm bảo an toàn tín dụng. Ngoài ra còn có điều kiện tăng các hoạt động khác để bù đắp như: thu hút được khách hàng mở tài khoản giao dịch, tăng được nguồn tiền gửi huy động, thu được phí giao dịch chuyển tiền và thanh toán v.v... 3.2.3. Nhóm giải pháp tiếp cận thông tin phục vụ hoạt động Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 3.2.3.1. Tiếp cận và tư vấn khách hàng NHNo&PTNT không chỉ nghiên cứu, tìm hiểu đối tượng, ngành nghề, các mũi nhọn kinh tế, nhu cầu thị trường để tiếp cận và thẩm định đầu tư mà còn phải chủ động thực hiện vai trò hướng dẫn, tư vấn đối với khách hàng về nhiều mặt. Hiện nay, các cá nhân hộ sản xuất, doanh nghiệp không phải ai cũng có đủ trình độ, kiến thức để lập các dự án, tính toán các chỉ tiêu cần thiết về chi phí, lợi nhuận để làm phương án vay vốn. Ngân hàng bằng kinh nghiệm và những hiểu biết của mình, cử cán bộ tiếp cận hồ sơ tính toán và giúp họ xây dựng các dự án, phương án vay vốn. Nhờ vậy mà cùng khách hàng tính toán hiệu quả của phương án hoặc đưa ra những phương án khác nhau qua dữ liệu tính toán để khách hàng xem xét, lựa chọn. Cũng như nhờ vào khả năng tập trung thông tin phòng ngừa rủi ro của NHNN, thông tin nội bộ NHNo&PTNT mà ngân hàng tư vấn cho khách hàng về các thông tin liên qua về tình hình tài chính, năng lực tổ chhức sản xuất kinh doanh, năng lực kỹ thuật công nghệ của các đối tác mà khách hàng sẽ quan hệ, trao đổi, mua bán v.v... mà có biện pháp ứng xử thích hợp. Ngoài ra, với sự tổng hợp thông tin thị trường và hiểu biết của mình, đội ngũ cán bộ ngân hàng còn có thể tư vấn cho khách hàng về sản xuất, thị trường trong và ngoài nước, dự kiến, định hướng phát triển đối với sản xuất sản phẩm, hàng hoá, cây trồng, vật nuôi sẽ đem lại hiệu quả nhất hoặc tư vấn cho khách hàng hạn chhế rủi ro đến mức thấp nhất khi những tình huống xấu xảy ra trong quá trình sản xuất, kinh doanh. 3.2.3.2. Tiếp cận thông tin phục vụ công tác thẩm định Trong công tác tín dụng, số lượng và chất lượng của thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc thẩm định dự án, phương án vay vốn. Tuy nhiên trong thực tế thông tin tín dụng vẫn chhưa được NHNo&PTNT khai thác triệt để. Do thiếu thông tin nên có thể bỏ qua những dự án có hiệu quả hoặc cho vay những dự án dễ xãy ra rủi ro tín dụng. Điều đó do ngân hàng vẫn chưa đánh giá hết tầm quan trọng của thông tin tín dụng nên chưa có các biện pháp thu thập, khai thác, xử lý một cách đầy đủ và hiệu quả nhất. Đôi khi không chủ động tìm hiểu các nguồn thông tin mà chỉ chờ nhận thông tin cung cấp từ phía khách hàng. Hầu hết các dự án vay vốn ngân hàng được lập bởi khách hàng thuê tư vấn lập, nó mang nặng ý muốn chủ quan để làm cho dự án có tính khả thi cao nhằm thuyết phục ngân hàng giải ngân. Vì vậy, khi thẩm định dự án đầu tư ngân hàng không chỉ dựa vào thông tin một chiều do khách hàng cung cấp gói gọn trong dự án mà phải tập trung nắm bắt, xử lý thông tin đa chiều về mọi lĩnh vực liên quan đến dự án. Về mặt ngân hàng thì hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro còn hạn chế, chưa cập nhập thường xuyên và đầy đủ, các bộ phận thu thập, lưu trữ và xử lý thông tin tại các chi nhánh chưa được quan tâm đúng mức. Chúng ta cần tập hợp thông tin phục vụ cho công tác thẩm định theo sơ đồ quản lý thông tin như sau: Sơ đồ 3.1: Thông tin phục vụ công tác thẩm định Tổng hợp thông tin phục vụ thẩm định Thông tin do khách hàng cung cấp Thông tin do ngân hàng tự thu thập được Các báo cáo tài chính Hồ sơ vay vốn Hồ sơ pháp lý Hồ sơ đảm bảo tiền vay Số hồ sơ tài liệu có liên quan Thông tin từ CIC CIH Thông tin Phi tài chính nhận biết qua tiếp xúc Thôn tin qua các cơ quan chức năng có liên quan Qua tạp chí tuyên truyền Thông tin do khách hàng cung cấp: Đây là nguồn thông tin chủ yếu phục vụ công tác thẩm định của ngân hàng, tuỳ theo khách hàng là cá nhân, hộ sản xuất hay doanh nghiệp mà các hồ sơ và báo cáo cung cấp cho ngân hàng theo những yêu cầu khác nhau. Ban đầu do khách hàng cần sớm được vay vốn nên cung cấp đầy đủ cho ngân hàng, tuy những tài liệu và thông tin cung cấp không phải lúc nào cũng chính xác, do đó ngân hàng phải chủ động về khai thác nguồn thông tin từ nhiều phía. - Thông tin do ngân hàng thu thập: Ngoài nguồn thông tin do khách hàng cung cấp, để tiến hành thẩm định một cách đầy đủ ngân hàng cần nắm bắt các thông tin qua những kênh khác như: + Nguồn thông tin từ hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro của NHNo&PTNT Việt Nam (CIH) và của NHNN Việt Nam (CIC). Mặc dù NHNo&PTNT Quảng Nam đã tham gia nối mạng với NHNo&PTNT Việt Nam nhưng hầu như chưa chú trọng khai thác nguồn thông tin này. Để khai thác tốt nguồn thông tin này NHNo&PTNT cần phải: Trang bị máy móc, thiết bị hiện đại, nối mạng liên kết giữa bộ phận tín dụng các chi nhánh với nhau để thu thập, xử lý thông tin kịp thời và nhanh chóng hơn; bố trí cán bộ chuyên trách công tác khai thác, lưu giữ, cập nhật, phân tích thông tin phục vụ cho công tác thẩm định. Để đảm bảo cập nhật những thông tin từ hệ thống này, NHNo&PTNT Việt Nam cần đổi mới qui trình, thủ tục cung cấp thông tin tại trụ sở chính theo hướng đơn giản về thủ tục, có thể cho phép khai thác trực tiếp trên mạng. + Một số thông tin phi tài chính từ khách hàng như khả năng tổ chức quản lý sản xuất, trình độ năng lực của chủ dự án, kinh nghiệm, truyền thống v.v... ngân hàng chỉ có thể thu thập qua giao tiếp trực tiếp với khách hàng và thông qua xã hội. + Thu thập thông tin qua các cơ quan chức năng như: phòng, sở tài chính, thuỷ sản, nông nghiệp v.v... cũng là những đầu mối thông tin quan trọng để nắm bắt đựơc vấn đề giá cả, khả năng tác động của dự án đến môi trường, xã hội, đến nông nghiệp, nông thôn v.v... + Ngoài ra NHNo&PTNT còn tham khảo cả những thông tin từ tạp chí, báo chí, tập san chuyên nghành,từ mạng internet về các mặt triển vọng sản phẩm, giá cả, tiềm năng, thị trường từng vùng, trong và ngoài nước v.v... 3.2.4. Nhóm giải pháp nội bộ 3.2.4.1. Giải pháp nhân sự Yếu tố con người bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đối với mọi hoạt động kể cả kinh tế, chính trị, xã hội đối với mọi vấn đề, mọi thời đại. Vì vậy giải pháp nhân sự là vô cùng quan trọng. + Yêu cầu về trình độ chuyên môn: Trước hết cán bộ làm công tác tín dụng NHNo&PTNT phải là những người có trình độ chuyên môn, hiểu biết về kinh tế thị trường, về nông nghiệp, nông thôn, về thẩm định cho vay, về tài chính, pháp luật, đặc biệt phải có kiến thức chuyên sâu về dự án đầu tư, phương án vay vốn một cách thuần thục, khoa học, có khả năng tư vấn trợ giúp khách hàng. Cán bộ tín dụng còn phải có khả năng thu thập và xử lý thông tin liên quan đến công tác thẩm định món vay, sử dụng thành thạo các phần mềm hổ trợ, phân tích tài chính dự án. Ngoài ra, tín dụng NHNo&PTNT không chỉ đơn thuần trong mối quan hệ với cán bộ tín dụng, mà các cán bộ khác như ngân quỹ, kế toán... cũng phải đồng bộ trong việc giải ngân tiền vay, theo dõi nợ vay, kế toán thu nợ v.v... phải chính xác, kịp thời tạo uy tín và sự tin tưởng tuyệt đối với khách hàng trong mọi quan hệ. + Yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp: Ngoài những yêu cầu cần thiết về trình độ chuyên môn đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải đặt đạo đức nghề nghiệp lên hàng đầu, tinh thần trách nhiệm, ý thức kỹ luật lập trường tư tưởng vững vàng, không bị cám dỗ, tiêu cực, vụ lợi trong quan hệ với khách hàng dẫn đến thất thoát tài sản nhà nước, mất uy tín của ngành. + Về lề lối làm việc, phong cách và thái độ ứng xử. Tổ chức NHNo&PTNT phải tạo được một lề lối làm việc khoa học từ cán bộ quản lý, lãnh đạo đến chuyên môn nghiệp vụ. Các cán bộ làm công tác chuyên môn phải có phong cách nhanh nhẹn, ân cần, thái độ ứng xử lịch thiệp, hoà nhã... trong giao tiếp, giải quyết công việc. Để có được đội ngũ cán bộ công tác đáp ứng các yêu cầu trên, đòi hỏi NHNo&PTNT chi nhánh cần: * Đặt những tiêu chí về chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và lề lối làm việc phong cách giao tiếp, thái độ ứng xử lên hàng đầu, đặc biệt đối với công tác tuyển chọn nhân viên mới. * Có kế hoạch đào tạo nâng cao, tập huấn nghiệp vụ, kiến thức pháp luật, thị trường cho đội ngũ cán bộ công nhân viên tại đơn vị. * Định kỳ 6 tháng, năm có kế hoạch kiểm tra kiến thức của đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên môn. * Đối với cán bộ tín dụng, định kỳ cần hoán đổi địa bàn để có điều kiện rà soát, kiểm tra chéo lẫn nhau. * NHNo&PTNT cơ sở cần kịp thời động viên cán bộ chuyên môn có kết quả công tác tốt hàng 6 tháng, năm. Đồng thời xử phạt, xem xét bố trí lại công tác đối với những cán bộ có kết quả công tác yếu kém, làm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Đặc biệt đối với cán bộ tiêu cực, vi phạm chế độ qui định của ngành, pháp luật của nhà nước cần phải tổ chức xử lý kỹ luật thích đáng. 3.2.4.2. Một số giải pháp khác - NHNo&PTNT Việt Nam cũng như NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam cần có kế hoạch xây dựng lại trụ sở NHNo&PTNT chi nhánh Núi Thành khang trang, hiện đại hơn nhằm nâng cao vị thế cạnh tranh của NHNo&PTNT trên địa bàn.Vì chi nhánh NHNo&PTNT cơ sở đã xây dựng quá lâu, ảnh hưởng bão lụt qua nhiều năm đã cũ kỹ và kém thẩm mỹ. - NHNo&PTNT cấp trên cần tăng cường trang thiết bị, công nghệ mới và hiện đại về trang trí văn phòng, vi tính nghiệp vụ v.v... tiến hành hạ thế điện tại chi nhánh để đảm bảo công suất cho các máy móc và thiết bị điện hoạt động. - NHNo&PTNT cấp trên cần cho phép NHNo&PTNT huyện Núi Thành được thanh toán liên hàng trực tiếp toàn quốc. Đồng thời kiểm tra, hệ thống hoá lại các chương trình phần mềm nghiệp vụ đang sử dụng tại các cơ sở. Thực tế các chương trình trong quá trình hoạt động hay bị lỗi, trục trặc trong quá trình giao dịch. - NHNo&PTNT Việt Nam cần có qui định chế độ phân bổ và thiết lập các quỹ, khen thưởng, phúc lợi đến chi nhánh huyện nhằm động viên kịp thời công tác chuyên môn, thành tích hoạt động đến tận người lao động của nghành NHNo&PTNT một cách kịp thời có hiệu quả nhất. - NHNo&PTNT cấp trên cũng cần có chính sách đãi ngộ cả về tham quan, du lịch trong và ngoài nước đối với cán bộ đạt thành tích cao trong công tác như: chiến sĩ thi đua, đạt các danh hiệu, bằng khen, người tốt việc tốt v.v... qua quá trình công tác. - NHNo&PTNT các cấp cần có chính sách khuyến khích về đơn giá tiền lương trong mức qui định, giảm điều tiết đơn giá tiền lương đối với những chi nhánh NHNo&PTNT gặp khó khăn về thiên tai, dịch bệnh... và những chi nhánh có môi trường cạnh tranh gay gắt như chi nhánh NHNo&PTNT chi nhánh huyện Núi Thành. - NHNo&PTNT một mặt bám sát chủ trương, đường lối mục tiêu, trọng điểm phát triển kinh tế, xã hội của huyện, tỉnh, cả nước trong từng giai đoạn, từng thời kỳ. Mặt khác tham mưu, đề xuất những dự án, phương án, những công trình có hiệu quả thiết thực, cũng như những khó khăn vướng mắc về tài chính, về thế chấp và xử lý tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh... để chính quyền địa phương, các ngành, các cấp hổ trợ trong quá trình cho vay vốn phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn tại địa phương. kết luận Vốn là chìa khóa, là điều kiện tiên quyết, cốt yếu để phát triển kinh tế nói chung và phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng, vì sự nghiệp "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Huyện Núi Thành tỉnh Quảng Nam là một huyện có nhiều tiềm năng, nhiều lợi thế nhưng cho đến nay vẫn là một huyệt nghèo, nông nghiệp kém phát triển, nông thôn còn lạc hậu. Thực trạng đó do nhiều nguyên nhân nhưng có nguyên nhân cơ bản đó là thiếu vốn để đầu tư phát triển và đầu tư vốn còn nhiều hạn chế. Giải quyết nguyên nhân đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực phấn đấu của nhiều cấp, nhiều ngành. Trong đó hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có vai trò to lớn. Trong những năm qua tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Núi Thành đã có những đóng góp nhất định vào phát triển nông nghiệp, nông thôn của huyện nhà. Cũng qua đó hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp từng bước được phát triển cả chiều sâu, lẫn bề rộng, khối lượng vốn huy động và đầu tư cho vay không ngừng tăng lên hàng năm. Đầu tư tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Núi Thành đã tác động tích cực đến các doanh nghiệp và dân cư trong phát triển đánh bắt, nuôi trồng thủy sản nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi, xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới bộ mặt nông thôn... Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Núi Thành còn nhiều hạn chế như: dịch vụ ngân hàng còn yếu, công nghệ chưa cao, chưa đa dạng, dư nợ trung và dài hạn chiếm tỷ lệ còn thấp... Vì vậy, tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông nghiệp nông thôn ở huyện Núi Thành là vấn đề cần được quan tâm, đặt ra nhằm làm cho công cụ tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp đóng vai trò tác động, thúc đẩy mạnh mẽ đến kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Dựa trên phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng, Nhà nước, tỉnh Đảng bộ Quảng Nam và huyện Đảng bộ Núi Thành đã đề ra theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đưa tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng mạnh trong kỳ kế hoạch từ 2006 - 2010, luận văn đã đề xuất một số quan điểm đồng thời đưa ra một hệ thống gồm 4 giải pháp nhằm thực hiện tốt việc huy động và cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn góp phần biến những mục tiêu Đảng và Nhà nước đề ra thành hiện thực, làm cho người dân nói chung và nông dân nông nghiệp Núi Thành nói riêng ngày càng phát triển trong xu thế tiến lên của cả nước. Do trình độ bản thân, cũng như quá trình nghiên cứu luận văn của tác giả sẽ còn nhiều hạn chế mong quý thầy cô và độc giả quan tâm đóng góp, bổ khuyết để được hoàn thiện hơn. Danh mục TàI LIệU THAM KHảO PTS. Nguyễn Văn Bích – KS. Chu Tiến Quang (1996), Chính sách kinh tế và vai trò của nó đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Vũ Bình (2004) “Giải pháp nâng cao chất lượng của hoạt động thông tin tín dụng”, Tạp chí khoa học và đào tạo Ngân hàng, (2). PGS.TS. Ngô Đức Cát, TS. Vũ Đình Thắng (2001), Giáo trình phân tích chính sách nông nghiệp, nông thôn, Nxb Thống kê, Hà Nội. TS. Dương Văn Chinh (2000), Lý thuyết tài chính, Nxb Tài chính, Hà Nội. TS. Phạm Hồng Cờ (1996), Đổi mới hoạt động quản lý tín dụng Ngân hàng cấp cơ sở nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn, Luận án PTS khoa học kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (02/2006), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX. Đảng bộ huyện Núi Thành (01/2006), Nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện Núi Thành lần thứ XIX, Tam Kỳ. Hoàng Bá Đồng (2002), Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại NHNo&PTNT& PTNT Hà Tĩnh, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Ngân hàng, Hà Nội. Trần Đình Định (chủ biên), PGS.TS Đinh Văn Thanh, T.S Nguyễn Văn Dũng (03/2006), Những quy định của pháp luật về hoạt động tín dụng, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Hội đồng nhân dân huyện Núi Thành, Các báo cáo tình hình thực hiện nghị quyết HĐND huyện Núi Thành về nhiệm vụ và phương hướng từ năm 2001 đến 2005. Nguyễn Mạnh Hùng (2005), Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Gia Lai, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Ngân hàng, Hà Nội. Hà Huy Hùng (2003), Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn Nghệ An, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Võ Văn Lâm (1999), Đổi mới hoạt động tín dụng nông nghiệp nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, Tập 25, Phần II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Các văn bản pháp quy về quy định cho vay vốn của từ 2000 đến 2006. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh các năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam, Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của các năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Núi Thành, Báo cáo tổng kết 15 năm cho vay hộ sản xuất tại (1990 - 2005). Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Núi Thành, Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh các năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005. Phòng Kinh tế huyện Núi Thành (2/2006), Báo cáo tổng kết ngành thuỷ sản huyện Núi Thành 5 năm (2001- 2005) và phương hướng nhiệm vụ năm 2006. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1997), Luật các tổ chức tín dụng, Hà Nội. Lê Văn Tề (chủ biên) (2004), Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, Nxb Thống kê, Hà Nội. Đinh Ngọc Thạch (1998), "Về việc xây dựng quy chế bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng", Tạp chí Ngân hàng, (16). Nguyễn Văn Thầy (2004), "Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Ngân hàng thương mại ở nước ta trong hội nhập kinh tế quốc tế", Tạp chí Ngân hàng, (3), tr.38-40. Thủ tướng Chính phủ (1999), Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/03/1999 về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, Công văn số 320/CV-NHNN14. Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số 108/2003/QĐ -TTg ngày 05 tháng 6 năm 2003 v/v thành lập và ban hành qui chế hoạt động của khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam. Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số 184/2003/QĐ -TTg ngày 08 tháng 9 năm 2003 v/v thành lập ban quản lý khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2004), Quyết định số 14/2004/QĐ - UB ngày 09 tháng 02 năm 2004 v/v ban hành qui chế tổ chức và hoạt động của ban quản lý khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2004), Quyết định số 30/2004/QĐ - UB V/v ban hành qui định về một số cơ chế ưu đãi đầu tư vào khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2463.doc
Tài liệu liên quan