Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam đối với sự phát triển khu kinh tế mở Chu Lai

Mở ĐầU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo bắt đầu từ Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986), đây là Đại hội của đổi mới, đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Qua gần 20 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên nhiều lĩnh vực, sức sản xuất phát triển khá nhanh, cơ sở vật chất được tăng cường, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Tuy vậy, sự phát tr

doc91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1502 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam đối với sự phát triển khu kinh tế mở Chu Lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iển của nền kinh tế nước ta chưa tương xứng với khả năng và yêu cầu; sức cạnh tranh còn yếu; các khu công nghiệp đã được xây dựng và đạt được kết quả bước đầu, nhưng chỉ ở những khu vực nhỏ, nặng về các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu và dịch vụ, chưa phát huy vai trò là động lực phát triển cho một vùng lãnh thổ hoặc cho cả nước. Trong chiến lược phát triển, vùng lãnh thổ miền Trung nói chung và khu vực Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi nói riêng là địa bàn rất quan trọng và đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Trong mấy năm gần đây miền Trung đã làm được nhiều việc để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, song vẫn còn chậm, chưa tạo chuyển biến mạnh mẽ, chưa đáp ứng được yêu cầu; miền Trung còn nhiều khó khăn rất lớn, là vùng kinh tế nghèo của cả nước (giá trị GDP đứng thứ 6 trong 8 vùng kinh tế của cả nước, thu nhập bình quân đầu người bằng 83% bình quân cả nước). Để vượt qua khó khăn cho tỉnh Quảng Nam nói riêng và miền Trung nói chung, việc xây dựng KKTM Chu Lai cùng với khu kinh tế Dung Quất được xem là giải pháp đột phá giúp miền Trung vượt qua đói nghèo và tụt hậu. Đặc khu kinh tế tại đây khi được xây dựng thành công sẽ có tác động đến xoá đói giảm nghèo, thúc đẩy kinh tế khu vực phát triển và lan toả ra các vùng xung quanh, thu hẹp khoảng cách phát triển với các vùng của đất nước. Trước những yêu cầu bức xúc nêu trên, tỉnh Quảng Nam đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 108/2003/QĐ-TTg ngày 05 tháng 06 năm 2003 về việc thành lập và ban hành quy chế hoạt động của Khu kinh tế mở Chu lai, tỉnh Quảng Nam. Khu kinh tế mở Chu Lai là không gian kinh tế riêng biệt, có môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi nhất theo các qui định hiện hành, bao gồm hạ tầng kỹ thuật - xã hội và chính sách, cơ chế quản lý thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh, phù hợp với cơ chế thị trường nhằm khuyến khích đầu tư và khuyến khích xuất khẩu. Khu kinh tế mở Chu Lai đi vào hoạt động, sẽ thu hút nhiều dự án đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp, chế biến, khu phi thuế quan, khu du lịch. Đây là thị trường đầy tiềm năng cho hoạt động của các Ngân hàng thương mại. Ngân hàng No&PTNT Việt Nam là một doanh nghiệp hạng đặc biệt, có mạng lưới rộng lớn trên toàn quốc, có đại lý tại hầu hết các nước trên thế giới. Hiện tại Ngân hàng No&PTNT Việt Nam có nguồn vốn tín dụng rất lớn, NHo&PTNT tỉnh Quảng Nam là chi nhánh phụ thuộc của NHNo&PTNT Việt Nam sẽ có đủ khả năng đầu tư (qua việc điều hoà nguồn vốn toàn ngành) vào các dự án lớn cũng như nhu cầu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào KKTM này. Song trong thực tiễn hoạt động mấy năm qua, giữa Ngân hàng Thương mại và các doanh nghiệp còn nhiều vướng mắc từ cơ chế, chính sách đến nguồn vốn và hiệu quả kinh tế - xã hội của các dự án nên đã ảnh hưởng đầu tư tín dụng của các Ngân hàng thương mại và cho sự thành công của khu kinh tế mở Chu Lai. Đề tài “Tín dụng của Ngân hàng No&PTNT tỉnh Quảng Nam đối với sự phát triển KKTM Chu Lai” nhằm góp phần giải quyết những vướng mắc nêu trên để đầu tư tín dụng mạnh hơn, đẩy nhanh sự phát triển của khu kinh tế động lực của Quảng Nam nói riêng và miền Trung nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến đề tài nghiên cứu đã có những công trình khoa học luận văn, luận án, các bài nghiên cứu đã được công bố về các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở cũng như hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng thương mại nói chung, NHNo&PTNT Việt Nam nói riêng, như: - "Đổi mới cơ chế quản lý tín dụng Ngân hàng ở Thái Bình" của Vũ Văn Hùng – Luận án PTS, khoa học kinh tế, H.1997. - "Tín dụng ngân hàng trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn Hà Nội", Luận án PTS kinh tế của Hoàng Việt Trung, H, 1996. - "Đổi mới quản lý hoạt động tín dụng Ngân hàng cấp cơ sở, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn" của Phạm Hồng Cờ - Luận án PTS, khoa học kinh tế, H.1996. - "Đổi mới chính sách tín dụng theo cơ chế thị trường nhằm góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta" của Đào Minh Tú – Luận án Tiến sỹ kinh tế, H.2001. - "Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH", Luận án TS kinh tế của Hà Huy Hùng, H 2003. - "Đổi mới cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam trong nền kinh tế thị trường", Luận án TS kinh tế của Võ Văn Lâm, H.2003. - "Những chiến lược lớn của Trung Quốc" của tác giả Hồ An Cương, Nxb Thông tấn, năm 2003. - "Trung Quốc xưa và nay" của tác giả Lê Giảng, Nxb Thanh niên, 1999. - "Toàn cầu hoá. Lối thoát của Trung Quốc là ở đâu" của tác giả Lưu Lực, Nxb Khoa học xã hội, 2002. - "Bí quyết hoá rồng" của tác giả Lý Quang Diệu, Nxb Trẻ, 2001. - Quyết định số 108/2003/QĐ-TTg, ngày 05 tháng 06 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ. - Qui chế hoạt động của KKTM Chu Lai của Thủ tướng Chính phủ (Được ban hành kèm theo quyết định 108/2003/QĐ-TTg). - "Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa, Hà Nội", Luận văn thạc sĩ của Lê Anh Hùng, H. 2004. - "Quản lý tín dụng đầu tư nhà nước ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ của Hoàng Văn Trà, H. 2003. - Các tài liệu về KKTM Chu Lai: Hồ sơ KKTM Chu Lai, Đề án xây dựng KKTM Chu Lai Năm 2002. - Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong nước phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam, Luận văn Tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Văn Lai, H. 1996. - Tiền tệ và tín dụng Ngân hàng của tác giả PGS.TS Lê Văn Tề, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1997. Ngoài ra còn có nhiều bài nghiên cứu đã đăng tải trên các tạp chí kinh tế và một số báo cáo tại các hội thảo khoa học của ngành Ngân hàng. Các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên chỉ đề cập những khía cạnh khác nhau về hoạt động tín dụng tại các Ngân hàng thương mại đối với cả nước hoặc từng địa phương, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT tại các khu công nghiệp, khu kinh tế mở trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là khu kinh tế mở Chu Lai là khu vực kinh tế tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội cho toàn bộ khu vực miền Trung. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Trên cơ sở phân tích, làm rõ đặc điểm của KKTM Chu Lai, nhu cầu về vốn đầu tư phát triển cho khu vực này và các khả năng, điều kiện, đầu tư tín dụng của Ngân hàng No&PTNT Quảng Nam, luận văn có mục đích xác định những định hướng cơ bản và kiến nghị hệ thống các giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh đầu tư tín dụng của Ngân hàng No&PTNT Quảng Nam nhằm phát triển KKTM Chu Lai, góp phần thực hiện mục tiêu như Quyết định của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành. Nhiệm vụ: - Phân tích, làm rõ về vai trò, vị trí, ý nghĩa của việc thành lập KKTM Chu Lai trong chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. - Phân tích nhu cầu về tín dụng đầu tư phát triển ở KKTM Chu Lai, các nhân tố tác động và các hình thức đầu tư tín dụng vào KKTM Chu Lai. - Trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động của Ngân hàng No&PTNT Quảng Nam, Luận văn đề xuất giải pháp nhằm mở rộng và phát triển hoạt động tín dụng Ngân hàng của Ngân hàng No&PTNT Quảng Nam tại KKTM mở Chu Lai trong thời gian tới. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng: Luận văn nghiên cứu các nhân tố tác động, các hình thức và giải pháp đầu tư tín dụng của Ngân hàng No&PTNT Quảng Nam vào KKTM Chu Lai. - Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu về đầu tư tín dụng cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất- kinh doanh thuộc khu vực thuế quan. - Thời gian khảo sát: Từ khi thành lập KKTM Chu Lai (2003) đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng phương pháp hệ thống; thống kê; so sánh; phân tích và tổng hợp; diễn giải và quy nạp để nghiên cứu đưa ra kết luận và kiến nghị về các vấn đề xem xét. Sử dụng số liệu thực tế để luận giải, chứng minh. 6. Những đóng góp mới của luận văn - Luận văn phân tích những cơ chế, chính sách mới, và những ưu đãi về đầu tư tại KKTM Chu Lai - Chỉ ra những nhân tố tác động và các hình thức đầu tư tín dụng của Ngân hàngNo&PTNT trong điều kiện có cạnh tranh với các Ngân hàng thương mại khác. - Xác định những định hướng cơ bản và kiến nghị các giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh đầu tư tín dụng của Ngân hàng No&PTNT Quảng Nam nhằm góp phần phát triển KKTM Chu Lai. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu làm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 KHU KINH Tế Mở CHU LAI Và VAI TRò ĐầU TƯ TíN DụNG CủA NGÂN HàNG nông nghiệp và phát triển nông thôn ĐốI Với PHáT TRIểN KHU KINH Tế NàY 1.1. MộT Số NéT KHáI QUáT Về KHU KINH Tế Mở CHU LAI 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của khu kinh tế mở Chu Lai * Khái niệm: KKTM Chu Lai là một khu vực có ranh giới địa lý xác định thuộc lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, nhưng có không gian kinh tế riêng biệt, có môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi nhất theo các qui định hiện hành, bao gồm hạ tầng kỹ thuật - xã hội và chính sách, cơ chế quản lý thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh, phù hợp cơ chế thị trường nhằm khuyến khích đầu tư và khuyến khích xuất khẩu [33, tr.1]. So với các KCN và các KCX, KKTM có điểm giống nhau: được áp dụng những chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư, các thủ tục hải quan, thuế khoá được nới lỏng và giảm nhẹ, cơ chế quản lý thông thoáng, quyền tự quyết của các doanh nghiệp được tôn trọng và phát huy ở mức độ cao. Những quy định này có khác biệt với các quy định chung và được Nhà nước cho phép áp dụng riêng. Điểm khác nhau ở chỗ, KKTM có nội dung hoạt động kinh tế rộng, đa dạng hơn, hay còn gọi là mô hình khu trong khu và bao gồm khu thương mại tự do, khu chế xuất, khu du lịch, khu đô thị …; có dân cư sinh sống; có một mô hình kinh tế - xã hội tổng hợp; thể chế, cơ chế quản lý thông thoáng hơn; Cơ quan quản lý KKTM là một cấp có thẩm quyền quản lý kinh tế đa ngành, đa lĩnh vực. * Đặc điểm: KKTM được nhà nước quy hoạch với chiến lược lâu dài, có vị trí địa lý thuận lợi và các điều kiện cho phát triển kinh tế như hệ thống sân bạy, bến cảng. Là nơi được nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng như điện, nước, hệ thống xử lý nước thải, an ninh và các lĩnh vực khác. Có nhiều chính sách ưu đãi về thuế, hải quan, đất đai, các chính sách tài chính, tín dụng, xuất nhập khẩu tuỳ thuộc vào từng quốc gia mà Chính phủ có quy định cụ thể. Đây cũng là nơi thực nghiệm, áp dụng các chính sách mới tạo bước đột phá trong nền kinh tế thị trường hiện đại, tích luỹ kinh nghiệm trong quá trình hội nhập với bên ngoài. Trong KKTM có các KCN, KCX, trong các khu này sẽ tập trung được nhiều nguồn vốn lớn, hoạt động với thời gian dài, là nơi thu hút nguồn vốn đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế trong đó chú trọng thu hút các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài. Đây là nơi sử dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến, thu hút nhiều lao động có trình độ, không chỉ phát triển về kinh tế mà còn mang lại nhiều lợi ích văn hoá - xã hội. * Vai trò của KKTM đối với sự phát triển kinh tế - xã hội: Việc xây dựng và phát triển KKTM Chu Lai có những vai trò quan trọng sau đây: 1. KKTM Chu Lai có thể được coi là mô hình thử nghiệm về hội nhập tương đối nhanh và toàn diện tại một khu vực trong khi chưa có điều kiện thực hiện ở bình diện quốc gia. 2. KKTM Chu Lai là mô hình mở hơn, đa năng hơn, quy mô lớn hơn và xử lý được những bất cập của KCN, KCX và sẽ tận dụng được nguồn lực từ bên ngoài nhằm phát huy nội lực bên trong, rút ngắn thời gian, chuẩn bị cho hội nhập WTO trong thời gian đến. 3. KKTM Chu Lai ra đời sẽ khai thác được lợi thế về điều tự nhiên sẽ tạo thêm động lực mới cho tỉnh Quảng Nam; đồng thời cùng với sự đầu tư phát triển thành phố Đà Nẵng và khu kinh tế Dung quất sẽ góp phần tạo ra động lực mạnh mẽ và sự lan toả nhanh trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của cả khu vực Miền Trung và Tây Nguyên. 4. Phát triển KKTM Chu Lai góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, đặc biệt thu hút lao động từ vùng nông thôn, từng bước chuyển lao động từ ngành nông nghiệp sang ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ. 5. Sự ra đời KKTM Chu Lai sẽ cho ra đời các khu đô thị mới, các khu dân cư được xây dựng hiện đại sẽ hình thành các thành phố tại Miền Trung từ đó sẽ giảm bớt khoảng cách phát triển giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền trong cả nước mà hiện nay đang có nhiều chênh lệch lớn. 6. KKTM Chu Lai sẽ có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển và ổn định kinh tế của đất nước.Việc phát triển các doanh nghiệp tại khu vực này sẽ có những đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, trong đó các doanh nghiệp sản xuất, chế biến công nghiệp, thương mại, dịch vụ có vai trò rất lớn trong tổng GDP của cả nước. 1.1.2. Mục tiêu, hoạt động và cơ chế chính sách đầu tư tại khu kinh tế mở Chu Lai - Mục tiêu hoạt động: Chính phủ đã xác định việc xây dụng KKTM Chu Lai và khu kinh tế Dung Quất là giải pháp đột phá giúp miền Trung vượt qua đói nghèo và tụt hậu, từ đó mục tiêu được đặt ra là: + Là nơi thực nghiệm và sáng tạo các thể chế, cơ chế chính sách mới, là một trong những khâu đột phá để bước vào nền kinh tế thị trường hiện đại. + Tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng cho mọi loại hình kinh doanh trong và ngoài nước phù hợp với thông lệ quốc tế, qua đó có thêm kinh nghiệm cho hội nhập thị trường quốc tế và khu vực. + Tìm mô hình động lực mới cho phát triển kinh tế, khắc phục những yếu kém và ách tắc trong chính sách và cơ chế quản lý kinh tế hiện hành trong khi chưa có điều kiện thực hiện trên phạm vi cả nước. + Tạo ra những sản phẩm có chất lượng và có khả năng cạnh tranh cao, đẩy mạnh xuất khẩu, và mở rộng thị trường thế giới. + Tạo công ăn việc làm, thúc đẩy việc đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. + Khai thác lợi thế của vùng ven biển có những ưu điểm thuận lợi về điều kiện tự nhiên và trong giao lưu quốc tế, thúc đẩy kinh tế khu vực miền Trung phát triển theo kịp với nhịp độ phát triển của cả nước [17, tr.7]. - Về nội dung hoạt động của Ban quản lý KKTM Chu Lai: Ban quản lý KKTM Chu Lai do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập nhằm thực hiện việc quản lý tập trung, thống nhất hoạt động trên các lĩnh vực đầu tư phát triển kinh tế tại Khu KTM Chu Lai. Ban quản lý KKTM Chu Lai là cơ quan quản lý Nhà nước có tư cách pháp nhân, có con dấu mang hình Quốc huy, có biên chế và kinh phí hoạt động do ngân sách Nhà nước cấp, là đầu mối kế hoạch được cân đối riêng vốn xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách Nhà nước + Xây dựng quy hoạch tổng thể và điều lệ hoạt động của Khu KTM Chu Lai, lập quy hoạch chi tiết, tổ chức phổ biến, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết và điều lệ hoạt động. + Xây dựng danh mục các dự án đầu tư và kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản hàng năm trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện. + Cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép đầu tư, giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, chứng chỉ xuất xứ hàng hoá tại KKTM Chu Lai và các chứng chỉ khác theo uỷ quyền của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. + Giao hoặc cho các nhà đầu tư thuê đất, mặt nước để thực hiện các dự án đầu tư. + Xây dựng các khung giá và lệ phí trình cơ quan có thẩm quyền xem xét. + Làm đầu mối giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình hình thành, triến khai và thực hiện các dự án đầu tư, kinh doanh và hoạt động tại KKTM Chu Lai. + Phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ quan liên quan trong công việc đảm bảo mọi hoạt động trong KKTM Chu Lai phù hợp với quy chế hoạt động của KKTM Chu Lai. + Thực hiện nhiệm vụ quản lý và sử dụng các nguồn thu ngân sách, được đầu tư trở lại trên địa bàn KKTM Chu Lai theo đúng quy định; quản lý dự án xây dựng bằng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước tại KKTM Chu Lai. + Tổ chức, triển khai, giới thiệu, đàm phán xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước. - Chủ thể tham gia và các chế độ ưu đãi về tài chính, đất đai, lao động và tổ chức kinh doanh: + Chủ thể tham gia: Các tổ chức, cá nhân Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư và hoạt động tại Khu KTM Chu Lai trong các lĩnh vực: đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng và đô thị; phát triển công nghiệp; phát triển đô thị, kinh doanh thương mại, dịch vụ, du lịch, giải trí, tài chính- ngân hàng; vận tải; bảo hiểm; giáo dục; đào tạo; y tế; nhà ở; xuất khẩu hàng hoá và mọi hoạt động sản xuất kinh doanh khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập. + Các chế độ ưu đãi: Ngoài những quyền được hưởng theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, các doanh nghiệp hoạt động trong KKTM Chu Lai được hưởng các quyền sau: * Về tài chính: áp dụng chính sách một giá đối với hàng hoá, dịch vụ và tiền thuê đất cho các cá nhân và doanh nghiệp, không phân biệt trong nước và nước ngoài. Các doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất, kinh doanh tại KKTM Chu Lai được Quỹ hỗ trợ phát triển cho vay vốn tín dụng của Nhà nước theo quy luật hiện hành. Các nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư kinh doanh dịch vụ viễn thông quốc tế theo lộ trình hội nhập quốc tế mà việt nam đã cam kết để phục vụ riêng cho KKTM Chu Lai với các mức phí do các nhà đầu tư tự quyết định. Thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng 10% cho cả đầu tư trong nước và nước ngoài. Miễn toàn bộ thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời hạn 8 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế, giảm 50% cho 9 năm tiếp theo. Riêng Khu phi thuế quan miễn 8 năm. Hàng hoá, dịch vụ sản xuất, lắp ráp, gia công, tiêu thụ trong Khu phi thuế quan, nhập khẩu từ nước ngoài vào Khu phi thuế quan được miễn thuế VAT, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt. Hàng hoá từ Khu phi thuế quan nhập khẩu vào nội địa hoặc từ nội địa xuất khẩu vào Khu phi thuế quan phải chịu thuế theo quy luật hiện hành. Hàng hoá từ Khu phi thuế quan có sử dụng nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu từ nước ngoài khi nhập khẩu vào nội địa chỉ nộp thuế nhập khẩu phần nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu cấu thành trong hàng hoá đó. Sử dụng các công trình kết cấu hạ tầng, diện tích công cộng và các dịch vụ chung cho KKTM Chu Lai như đường giao thông, bến cảng, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, điện chiếu sáng, cấp điện, cấp nước, thông tin liên lạc theo giá thoả thuận với các doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng. * Về đất đai: Giá cho thuê đất do ban quản lý KKTM Chu Lai quyết định theo từng dự án và từng giai đoạn phù hợp với thực tế và đảm bảo khuyến khích đầu tư trên cơ sở quy định khung giá của Nhà nước. Các ưu đãi về đất đai cụ thể như sau: Thời gian thuê đất tối đa là 70 năm. Miễn tiền thuê đất đã có kết cấu hạ tầng đến 31/12/2015 đối với các dự án đầu tư vào các Khu công nghiệp, Khu chế xuất, khu du lịch khởi công và đi vào hoạt động trước 31/12/2005. Miễn tiền thuê đất đã có kết cấu hạ tầng đến hết năm 2015 đối với 5 dự án đầu tiên đầu tư vào Khu phi thuế quan khởi công và đi vào hoạt động trước 31/12/2004. Miễn tiền thuê đất cho các doanh nghiệp đầu tư chung cư cao tối thiểu 7 tầng để cho công nhân thuê. Được chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trong thời hạn thuê đất, thuê lại đất theo quy định của pháp luật, phù hợp với mục đích sử dụng đất của dự án đã được đầu tư. Trong trường hợp sự thay đổi về mục đích đầu tư ban đầu của dự án thì việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất chỉ thực hiện sau khi cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trong thời hạn thuê đất, thuê lại đất tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam và tại các tổ chức tín dụng nước ngoài theo các quy định của pháp luật. Các đối tượng là người Việt Nam, Việt kiều, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam và các nhà đầu tư nước ngoài đuợc đầu tư kinh doanh bất động sản trong KKTM Chu Lai. Việt kiều, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam và các nhà đầu tư nước ngoài được mua nhà ở trong KKTM Chu Lai. * Về lao động: Nhà đầu tư được phép trực tiếp tuyển dụng và sử dụng lao động theo đúng Bộ Luật Lao động của Việt Nam. Ban Quản Lý KKTM Chu Lai giúp nhà đầu tư sơ tuyển. Ban Quản lý Khu KTM Chu Lai đảm bảo cung ứng đủ lao động cho nhà đầu tư theo từng giai đoạn của dự án và hỗ trợ cho nhà đầu tư chi phí đào tạo lao động người Quảng Nam đạt trình độ công nhân bậc II trở lên. Số lượng đào tạo dưới 500 lao động: hỗ trợ 20 % chi phí đào tạo. Số lượng đào tạo lao động từ 500 trở lên: hỗ trợ 30 % chi phí đào tạo. Số lao động trên nếu đào tạo tai các trung tâm, các trường dạy nghề của tỉnh Quảng Nam hoặc của KKTM Chu lai sẽ được hỗ trợ thêm 10 % chi phí đào tạo. * Về tổ chức kinh doanh: Người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài tìm hiểu thị trường và chuẩn bị đầu tư, tham gia làm việc, hoạt động đầu tư và kinh doanh tại KKTM Chu Lai và các thành viên là gia đình họ được cấp thị thực xuất nhập cảnh có giá trị nhiều lần với thời hạn phù hợp với thời hạn làm việc, hoạt động đầu tư tại KKTM Chu Lai. Ban quản lý Khu KTM Chu Lai đầu tư hạ tầng, chịu chi phí và tổ chức đền bù, giải toả mặt bằng cho các dự án đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu phi thuế quan và khu du lịch. * Các nguồn vốn phát triển: Khu kinh tế mở Chu Lai được phát triển bằng các nguồn vốn chủ yếu sau: Vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng quan trọng cấp thiết nhất cho sự vận hành của KKTM. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước. Vốn của doanh nghiệp và dân cư trong nước thông qua các dự án đầu tư trực tiếp và các hình thức phát hành trái phiếu công trình hoặc các đối tượng có nhu cầu sử dụng hạ tầng ứng trước một phần vốn. Mở rộng hình thức tín dụng đồng tài trợ. Các nguồn vốn nước ngoài. Khuyến khích ở mức cao nhất việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài kể cả việc áp dụng các hình thức đầu tư BOT, BO, BT; vốn của các của các tổ chức tín dụng, vốn của các tổ chức cá nhân, nước ngoài. Các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội của KKTM Chu Lai được đưa vào kêu gọi vốn ODA. 1.2. Tín dụng Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn- nguồn vốn quan trọng trong đầu tư phát triển khu kinh tế mở Chu Lai 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức của tín dụng Ngân hàng nói chung và của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận. Trong quan hệ giao dịch này thể hiện các nội dung sau: Trái chủ hay còn gọi là người cho vay chuyển giao cho người thụ trái hay còn gọi là người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái hiện vật như hàng hoá, máy móc, thiết bị bất động sản. - Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay. Xuất phát từ gốc từ latin, tín dụng là creditim - sự tín nhiệm; điều đó có nghĩa là trong quan hệ tín dụng người cho vay tin tưởng người đi vay sẽ hoàn trả vào một ngày nào đó trong tương lai mà hai bên đã thoả thuận. Mác viết: "Tiền chẳng qua chỉ rời khỏi tay người sở hữu trong một thời gian và chẳng qua chỉ tạm thời chuyển từ tay người sở hữu sang tay nhà tư bản hoạt động, cho nên tiền không phải được bỏ ra để thanh toán, cũng không phải tự đem bán đi, mà chỉ đem cho vay,tiền chỉ đem nhượng lại với điều kiện là, nó sẽ quay trở về điểm xuất phát một kỳ hạn nhất định"[22, tr 16]. - Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói cách khác ngưòi đi vay phải trả thêm phần lợi tức. Marx viết: “Đem tiền cho vay với tư cách là một việc có đặc điểm là sẽ quay trở về điểm xuất phát của nó, mà vẫn giữ được nguyên vẹn giá trị của nó và đồng thời lại lớn lên thêm trong quá trình vận động” [22, tr.28]. Quan hệ tín dụng có thể diễn tả theo mô hình sau: T Giá trị tín dụng Trái chủ (creditor) Người cho vay (lender) Thụ trái (debtor) Người đi vay (borrower) T+L Giá trị tín dụng + Lãi Trong hoạt động thực tiễn, quan hệ tín dụng được hình thành hết sức đa dạng, và có đủ tất cả các loại chủ thể tham gia vào các quan hệ tín dụng cụ thể, ví dụ: - Quan hệ giữa Nhà nước với các doanh nghiệp và công chúng thể hiện dưới hình thức Nhà nuớc phát hành các giấy nợ như công trái, trái phiếu đô thị, tín phiếu kho bạc; - Quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp với nhau thể hiện dưới hình thức bán chịu hàng hoá; - Quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp với công chúng, thể hiện dưới hình thức phát hành các loại trái phiếu, bán hàng trả góp; - Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân hàng với các doanh nghiệp và công chúng, thể hiện dưới hình thức nhận tiền gởi của khách hàng, cho vay khách hàng, tài trợ thuê mua..... - Quan hệ tín dụng giữa nhà nước với các tổ chức tài chính quốc tế, chính phủ các nước, thể hiện dưới hình thức vay nợ. Các tổ chức ngân hàng tham gia vào quan hệ tín dụng thể hiện với hai tư cách. Ngân hàng đóng vai trò thụ trái và hành vi này được gọi là đi vay (borrow) bao gồm nhận tiền gởi của khách hàng, phát hành trái phiếu để vay vốn trong xã hội, vay vốn của ngân hàng trung ương và các ngân hàng khác. Ngân hàng đóng vai trò trái chủ, và hành vi này được gọi là cho vay(loans). Vì tính chất phức tạp của hoạt động cho vay, vì thế khi nói đến tín dụng người ta thường đề cập đến cho vay và bỏ quên mặt thứ hai, đó là đi vay. Các hình thức tín dụng ngân hàng: Tín dụng ngân hàng là hình thức ngân hàng đứng ra huy động vốn bằng tiền và cấp tín dụng đối với các đối tượng khách hàng nêu trên là doanh nghiêp, hộ sản xuất. Hoạt động cấp tín dụng trong tín dụng ngân hàng bao gồm các hình thức sau: cho vay; chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá; bảo lãnh; cho thuê tài chính. * Cho vay: Căn cứ vào thời hạn cho vay được chia thành 3 loại: Cho vay ngắn hạn. Loại cho vay này có thời hạn đến 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp, hộ sản xuất và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Cho vay trung hạn là loại cho vay có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng, được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm, được cấp tín dụng để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà xưởng, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới... * Chiết khấu: Là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu, các giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng để nhận lấy khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lợi tức và phí hoa hồng (nếu có). * Bảo lãnh ngân hàng: Là cam kết bằng văn bản của các ngân hàng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên được bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên nhận bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh, Khách hàng phải nhận nợ và phải hoàn trả cho ngân hàng số tiền đã được ngân hàng trả thay. Bảo lãnh ngân hàng thông qua cam kết bù đắp những thiệt hại về phương diện tài chính cho người thụ hưởng bảo lãnh khi có thiệt hại xảy ra. Qua đó ngăn ngừa và hạn chế rủi ro phát sinh trong các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Bảo lãnh ngân hàng có tính độc lập tương đối so với các hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại, tài chính... Ngân hàng bảo lãnh phải thực hiện cam kết bảo lãnh theo đúng trách nhiệm của mình đã ghi trong thư bảo lãnh, không kể người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng vì lý do gì. Bảo lãnh ngân hàng có các loại hình sau đây: Bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh hoàn thanh toán, bảo lãnh đối ứng thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm. * Cho thuê tài chính: Là nghiệp vụ tín dụng trung, dài hạn, trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã được thoả thuận trong hợp đồng thuê, các bên không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng. Các nguyên tắc cho thuê tài chính: Tài sản cho thuê thuộc sở hữu hợp pháp của bên cho thuê, bên thuê chỉ có quyền sử dụng; Bên thuê phải quản lý, sử dụng tài sản đúng mục đích và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc sử dụng tài sản thuê; Bên thuê phải thanh toán tiền thuê cả gốc và chi phí đầy đủ đúng hạn; Tiền mua tài sản được bên cho thuê chuyển trả trực tiếp cho bên cung cấp tài sản. Cho thuê tài chính có các hình thức sau: Cho thuê tài chính có sự tham gia của hai bên, cho thuê có sự tham gia của ba bên, cho thuê hợp tác, bán và tái thuê, cho thuê giáp lưng, cho thuê trả góp. * Cho vay từng lần: Phương thức cho vay từng lần áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay vốn từng lần. Mỗi lần vay vốn, khách hàng và Ngân hàng Nông nghiệp nơi cho vay lập thủ tục vay vốn theo quy định và ký hợp đồng tín dụng. * Cho vay theo hạn mức tín dụng: Phương thức cho vay này áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên, sản xuất kinh doanh ổn định có uy tín trong quan hệ tín dụng. Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định hoặc theo nhu cầu sản xuất kinh doanh. Đối với khách hàng sản xuất, kinh doanh tổng hợp thì phương án sản xuất, kinh doanh của khách hàng là tổng hợp phương án sản xuất, kinh doanh của từng đối tượng, theo đó ngân hàng nơi cho vay xác định hạn mức tín dụng cho cả phương án sản xuất, kinh doanh tổng hợp. Trong phạm vi, thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng, mỗi lần rút vốn vay khách hàng và Ngân hàng Nông nghiệp nơi cho vay lập giấy nhận nợ kèm theo các chứng từ phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng. Ngân hàng Nông nghiệp nơi cho ._.vay phải quản lý chặt chẽ hạn mức tín dụng, bảo đảm mức dư nợ không vượt quá hạn mức tín dụng đã ký kết. Trong quá trình vay vốn, trả nợ, nếu việc sản xuất, kinh doanh có thay đổi và khách hàng có nhu cầu điều chỉnh hạn mức, khách hàng phải làm giấy đề nghị xác định lại hạn mức tín dụng; Ngân hàng Nông nghiệp nơi cho vay xem xét, nếu thấy hợp lý thì cùng khách hàng thoả thuận điều chính hạn mức tín dụng và bổ sung hợp đồng tín dụng. Trước 10 ngày khi hạn mức tín dụng cũ hết hiệu lực khách hàng gửi cho Ngân hàng Nông nghiệp nơi cho vay phương án sản xuất, kinh doanh kỳ tiếp theo. Căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, Ngân hàng Nông nghiệp nơi cho vay thẩm định để xác định hạn mức tín dụng và thời hạn của hạn mức tín dụng mới. Thời hạn cho vay được xác định trên hợp đồng tín dụng hoặc trên từng giấy nhận nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng, nguồn vốn của Ngân hàng Nông nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng; nếu khách hàng kinh doanh tổng hợp thì lựa chọn sản phẩm có chu kỳ kinh doanh dài nhất hoặc chiếm tỷ trọng chủ yếu để xác định thời hạn cho vay. Thời hạn cho vay trên từng giấy nhận nợ có thể không phù hợp với thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng. * Cho vay theo dự án đầu tư: Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án phục vụ đời sống. Trường hợp khách hàng đã dùng nguồn vốn huy động tạm thời khác để chi phí cho dự án được duyệt trong thời gian chưa vay được vốn ngân hàng, thì Ngân hàng Nông nghiệp nơi cho vay có thể xem xét cho vay bù đắp nguồn vốn đó. * Cho vay hợp vốn: Các ngân hàng cùng cho vay đối với một dự án hoặc phương án vay vốn, trong đó có một ngân hàng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các ngân hàng khác. * Cho vay trả góp: Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. 1.2.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong đầu tư phát triển khu kinh tế mở Chu Lai - Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất: Ngân hàng thông qua vai trò trung gian tài chính đã thực sự là cầu nối giữa người có tiền muốn cho vay với những người thiếu vốn cần vay để thoả mãn được nhu cầu sản xuất kinh doanh và các chi tiêu. Với chức năng là "người cho vay", ngân hàng phải có cơ cấu vốn tương đối ổn định với quy mô nhất định. Nguồn vốn này bao gồm nguồn vốn tự có của ngân hàng, nguồn vốn vay từ thị trường trong nước và nước ngoài; và bộ phận chủ yếu có tỷ trọng lớn quyết định đối với hoạt động của một ngân hàng là nguồn vốn huy động. Nguồn vốn này được hình thành từ nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp, tiền nhàn rỗi của các cá nhân trong xã hội... Tất cả được tập trung vào ngân hàng thông qua chiến lược tạo vốn của ngân hàng. Sự khơi dậy và động viên mọi nguồn vốn trong xã hội, thu hút mạnh vốn nước ngoài hình thành thị trường vốn và tiến tới thị trường chứng khoán là nền tảng cơ bản để tập trung vào vốn Ngân hàng thương mại. Với chức năng là "người đi vay", đòi hỏi ngân hàng phải tính toán để sử dụng vốn vay và có hiệu quả, để đảm bảo khả năng hoàn trả cả gốc lẫn lãi cho các chủ sở hữu. Như vậy, ngân hàng không thể cho vay tràn lan, cho mọi đối tượng có nhu cầu về vốn mà phải tập trung cho vay các doanh nghiệp, hộ sản xuất có hướng phát triển tốt, kết quả kinh doanh ổn định. Và như vậy đối với ngân hàng "một mặt cần phải có chính sách đầu tư theo định hướng cơ cấu kinh tế, mặt khác cần đổi mới căn bản cơ cấu đầu tư". Việc đầu tư tập trung là một quá trình tất yếu, bởi vì nó vừa đảm bảo hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng vừa tạo điều kiện giúp đỡ cho các doanh nghiệp sản xuất có nhu cầu vốn để bù đắp những thiếu hụt tạm thời hoặc các nhu cầu về vốn để duy trì và phát triển sản xuất. Góp phần tổ chức sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chiến lược duy trì vốn trong nước là một trong những khâu quan trọng trong chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Ngân hàng Trung ương và các Ngân hàng thương mại. Mặt khác sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia luôn phụ thuộc vào định hướng phát triển kinh tế, và các nguồn lực và cách thức tạo ra nguồn lực đó; một trong những nhân tố quan trọng cấu thành nguồn lực này là vốn. Do vậy, ngân hàng cần phải có chính sách tài chính - tiền tệ phù hợp tạo động lực thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. - Tín dụng đáp ứng nhu cầu về vốn để duy trì quá trình sản xuất kinh doanh liên tục, góp phần đầu tư và phát triển kinh tế: Trong hoạt động tín dụng, khả năng cho vay phụ thuộc chủ yếu vào nguồn vốn hiện có của ngân hàng, mà nguồn vốn này chủ yếu lại được hình thành từ khả năng tập trung huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, do đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển vốn nên đôi khi không có sự ăn khớp về thời gian và khối lượng giữa việc mua vật tư hàng hoá phục vụ nhu cầu sản xuất với vịêc tiêu thụ hàng hóa, một số doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh, mua sắm tài sản bằng nguồn vốn tích luỹ, song nguồn vốn tích luỹ này chưa đủ để thực hiện các mục đích đã định nên cũng tạm thời nhàn rỗi. Ngoài ra các nguồn vốn thuộc dự trữ quốc gia, nguồn vốn tiết kiệm trong dân cư.... đều là các tiềm năng đáng kể để ngân hàng thu hút vốn, tạo nguồn vốn để sẵn sàng đầu tư cho vay. Xét nhu cầu vay vốn, thực tế cho thấy: xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn chu chuyển vốn và sự không ăn khớp về thời gian và khối lượng giữa mua và bán vật tư hàng hóa phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, một số doanh nghiệp thiếu hụt về vốn. Mặt khác, theo quy luật chung, việc tái sản xuất mở rộng là không ngừng, nếu doanh nghiệp chỉ trông chờ vào nguồn vốn tiết kiệm và tích luỹ được để đầu tư thì không thực tế, khó có thể thực hiện được, rồi nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân trong xã hội, sự thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước, tất cả đều dẫn đến nhu cầu vay vốn để bù đắp phần thiếu hụt. Trên thực tế nếu xét trên phạm vi từng doanh nghiệp hoặc trên toàn bộ nền kinh tế thì khả năng về nguồn vốn cho vay và nhu cầu vay vốn đan xen vào nhau, mối quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể để có vốn nhàn rỗi chưa sử dụng và chủ thể thiếu hụt vốn có nhu cầu bù đắp gặp phải nhiều hạn chế; người có nhu cầu về vốn khó có khả năng tìm gặp người có vốn. Để giải quyết mâu thuẫn này đòi hỏi phải có hoạt động tín dụng của ngân hàng, nhằm tập trung toàn bộ vốn tiền tệ nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để cung cấp cho các chủ thể có nhu cầu bổ sung vốn tạm thời trong nền kinh tế. Điều này cho thấy ngân hàng vừa là "người đi vay" vừa là "người cho vay", tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục, tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư, mở rộng nguồn vốn thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, đẩy mạnh quá trình tái sản xuất, đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. Tín dụng ngân hàng có vai trò hết sức quan trong nền kinh tế thị trường. Ngoài việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, tín dụng ngân hàng còn là một trong những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng đã góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp nhanh chóng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh tiến bộ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sự thể hiện vai trò của mình với tư cách là người hỗ trợ, tín dụng ngân hàng được coi như một mắt xích không thể thiếu được đối với hoạt động của các doanh nghiệp và của cả toàn bộ nền kinh tế. Đặc biệt trong điều kiện Việt Nam hiện nay, cơ cấu kinh tế nhiều mặt còn chưa hợp lý, thất nghiệp ở mức độ cao, việc đầu tư vốn tín dụng sẽ góp phần sắp xếp lại sản xuất, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Qua hoạt động tín dụng sẽ khai thác sử dụng vốn có hiệu quả nguồn lao động, nguồn tài nguyên, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và góp phần giải quyết tốt các vấn đề xã hội để duy trì sản xuất kinh doanh liên tục, góp phần đầu tư và phát triển kinh tế. - Tín dụng ngân hàng có ý nghĩa quyết định đến thời cơ kinh doanh và chủ động trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: Bản chất vốn tín dụng là bổ sung nhu cầu vốn thiếu hụt tạm thời của các doanh nghiệp, nhưng sử dụng khoản vốn tín dụng bắt buộc phải trả một khoản lãi suất theo quy định và chịu sự ràng buộc bởi các quy định thuộc cơ chế tín dụng. Do vậy, các doanh nghiệp chỉ sử dụng việc vay vốn tín dụng vào thời điểm mà mình thiếu vốn và không còn nguồn hỗ trợ nào khác để thoả mãn mục đích kinh tế của mình. Như vậy, nếu không có nguồn vốn tín dụng thì doanh nghiệp không thể thực hiện được mục đích kinh tế của mình trong những điều kiện cụ thể, hay nói cách khác hơn là nhờ nguồn vốn tín dụng bổ sung kịp thời, các doanh nghiệp mới có cơ hội để khai thác và nắm bắt được thời cơ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. - Tín dụng là công cụ tài trợ, đầu tư cho các ngành kinh tế mũi nhọn, then chốt, hỗ trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển: Sự phát triển của các ngành kinh tế then chốt chính là yếu tố tạo sự bình ổn, tự chủ về kinh tế của mỗi quốc gia và cũng là nền tảng vững chắc để đẩy mạnh các ngành kinh tế mũi nhọn đạt được những ưu thế nhất định trên thị trường thế giới, tạo thế liên hoàn thúc đẩy, hỗ trợ, lôi cuốn các ngành kinh tế cùng nhau phát triển toàn diện. Nhất là trong bối cảnh nền kinh tế kém phát triển, khoa học kỹ thuật còn lạc hậu, nguồn vốn đầu tư còn thiếu hụt nghiêm trọng, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối nặng nề, hiệu quả thấp lại không ổn định như nước ta hiện nay thì việc sắp xếp lại sản xuất, xác lập từng bước cơ cấu kinh tế hợp lý theo định hướng phát triển kinh tế xã hội và những mục tiêu đã định. Nó đòi hỏi phải có hàng loạt các chính sách, biện pháp đồng thời và hợp lý mà trong đó tín dụng ngân hàng góp phần hết sức quan trọng. Tín dụng ngân hàng là công cụ tập trung huy động vốn để cho vay đầu tư đúng đối tượng, đúng nguyên tắc và có hiệu quả. Nó ưu tiên tập trung vốn cho các ngành kinh tế then chốt có tính quyết định trong nền kinh tế và hỗ trợ vốn cho các ngành trọng điểm, ngành mũi nhọn để có cơ hội tạo ra các bước nhảy quan trọng. Tín dụng ngân hàng còn vận dụng cơ cấu vốn hợp lý và chính sách lãi suất thích hợp để khuyến khích các ngành các lĩnh vực kinh tế chậm phát triển. Ngoài ra, thông qua chính sách tiền tệ, tín dụng còn góp phần ổn định giá cả có tác dụng tích cực thúc đẩy nhiều thành phần kinh tế phát triển. - Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm cho người lao động: Tín dụng đã góp phần không nhỏ trong việc ổn định tiền tệ, ổn định giá cả, làm tiền đề quan trọng để sản xuất lưu thông hàng hoá. Nền kinh tế phát triển trong một môi trường ổn định về tiền tệ là điều kiện nâng cao dần đời sống của các thành viên trong xã hội, là điều kiện thực hiện tốt hơn các chính sách xã hội. Mặt khác, trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức cho vay; tổ chức tín dụng dân cư, thành lập các quỹ xoá đói giảm nghèo, cho vay theo chương trình tín dụng của Chính phủ... vốn tín dụng không chỉ đáp ứng cho nhu cầu của các nhà doanh nghiệp mà còn phục vụ cho các tầng lớp dân cư trong xã hội. Từ đó tín dụng góp phần ổn định đời sống nhân dân, tạo công ăn việc làm, qua đó góp phần ổn định xã hội. 1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại khu kinh tế mở Chu Lai - Cầu về vốn đầu tư của các cơ sở sản xuất - kinh doanh tại KKTM Chu Lai: Đến nay KKTM Chu Lai đã có 124 dự án đăng ký đầu tư với tổng số vốn hơn 1,4 tỷ USD, trong đó có 79 dự án đã được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn lên đăng ký là 745 triệu USD và 45 dự án đang lập thủ tục đầu tư với tổng số vốn đăng ký đầu tư là 648 triệu USD. Trong tổng số 124 dự án dự án đăng ký có 40 dự án đầu tư nước ngoài đến từ 14 quốc gia trên toàn thế giới. Hiện tại KKTM Chu Lai đã có 38 dự án đi vào hoạt động với tổng số vốn đầu tư trên 168 triệu USD. Đặc biệt trong đó có một Ngân hàng nước ngoài mở Chi nhánh, đó là Cathay United Bank, Đài Loan. Đã có nhiều dự án lớn đang hoạt động có hiệu quả.Có nhiều dự án có triễn vọng tốt, thu hút được nhiều lao động và có ý nghĩa kinh tế - xã hội lớn đối với sự phát triển KKTM Chu Lai. Ngoài ra, có nhiều dự án trong và ngoài nước đang hoàn tất thủ tục để xây dựng trong năm 2007, đồng thời có một số dự án đang trong giai đoạn nghiên cứu khả thi như dự án sữa chữa máy bay hàng nặng của tập đoàn AAAWA (Bỉ) với tổng vốn trên 500 triệu USD, dự án khu biệt thự cao cấp (Pháp) dự án sản xuất kính nổi công suất 900 tấn/ngàycủa tập đoàn công nghiệp than, khoáng sản Việt Nam, dự án khu liên hiệp dệt may của tập đoàn đầu tư Nam Phi... Đây là những dự án có nhiều triển vọng, thu hút được nhiều lao động và có ý nghĩa kinh tế - xã hội lớn đối với sự phát triển của KKTM Chu Lai [1, tr.2-3]. Như vậy, để xác định được khả năng mở rộng tín dụng tại KKTM, cần nghiên cứu kỹ đến khả năng thu hút đầu tư trong thời điểm hiện tại cũng như khả năng trong tương lai, để đánh giá được mức độ thu hút đầu tư, có thể dựa vào các chỉ tiêu đánh giá sau: Quy mô đầu tư: Theo chỉ tiêu nầy cần xem xét số lượng các dự án đầu tư, vốn đầu tư của mỗi dự án, diện tích đất đất thuê, thời gian thuê của mỗi dự án, tổng giá trị sản phẩm sản xuất, mua bán, xuất nhập khẩu, số lượng lao động thu hút của mỗi dự án... Nguồn hình thành vốn đầu tư: Xác định theo tiêu chí này, gồm các dự án đầu tư bằng nguồn vốn trong nước, vốn nước ngoài, nguồn vốn liên doanh giưã trong và ngoài nước. Cơ cấu các ngành nghề thu hút: Chỉ tiêu này nhằm xem xét mức độ phù hợp giữa các lình vực, ngành nghề thực tế đã thu hút và các lĩnh vực, ngành nghề được ưu tiên trong thu hút đầu tư của KKTM, từ đó đề ra kế hoạch đầu tư tín dụng phù hợp. Phân theo các loại hình doanh nghiệp: Bao gồm Doanh nghiệp nhà nước, Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty tư nhân, Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh... - Khả năng cung vốn đầu tư của NHNo&PTNT: Trong mọi lĩnh vực, mọi tổ chức, để đạt được kết quả cao trong quản lý, kinh doanh ngoài các yếu tố khách quán, yếu tố nội bộ có tác động rất quan trọng. Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thì các yếu tố mạng lưới kinh doanh, nguồn vốn cho vay, các chính sách tín dụng, trình độ, năng lực của cán bộ viên chức và một số yếu tố khác có tác động rất lớn đến kết quả kinh doanh. Mạng lưới kinh doanh phải được bố trí phù hợp với yêu cầu kinh doanh, làm sao tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khách hàng giao dịch đồng thời phải đảm bảo an toàn cho khách hàng cũng như Ngân hàng. Nguồn vốn cho vay: Tiềm lực của một Ngân hàng phụ thuộc vào nguồn vốn để cho vay, khi ngân hàng có được nguồn vốn dồi dào thì sẽ chủ động được trong việc mở rộng tín dụng, đặc biệt trong KKTM có rất nhiều dự án lớn, cả vay vốn nội tệ và ngoại tệ nên khi ngân hàng tham gia phải có chủ động nguồn vốn để đầu tư, đặc biệt là nguồn vốn trung dài hạn. Do vậy, để mở rộng tín dụng chi nhánh phải bằng mọi biện pháp gia tăng nguồn vốn huy động, đặc biệt là nguồn vốn trung dài hạn. Đồng thời luôn xem công tác huy động vốn là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu, tránh các trường hợp tìm được các dự án có hiệu quả nhưng không đủ nguồn vốn cho vay. - Sự cạnh tranh của các NHTM: Hiện nay tại KKTM Chu Lai đã có đầy đủ các Ngân hàng thương mại quốc doanh, 2 Ngân hàng cổ phần và 1 Ngân hàng nước ngoài mở Chi nhánh hoạt động, bên cạnh đó có nhiều ngân hàng không mở Chi nhánh, đang hoạt động kinh doanh tại các nơi khác nhưng cũng tham gia đầu tư cho các doanh nghiệp hoạt động tại KKTM Chu Lai. Do vậy đã có sự cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng với nhau trên tất cả các mặt nghiệp vụ Ngân hàng, do vậy đòi hỏi mọi họat động Ngân hàng phải không ngừng được nâng cao để có thể đáp ứng tốt nhất cho yêu cầu của các doanh nghiệp. - Cơ chế, chính sách đầu tư cho vay: Các chính sách tín dụng được đề ra về thủ tục cho vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hạn mức tín dụng, các phương thức cho vay, tài sản đảm bảo tiền vay đến cách thức vận dụng của Ngân hàng vào thực tiễn có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng mở rộng tín dụng tại KKTM. Với chính sách tín dụng thông thoáng, sẽ tạo điều kiện cho khách hàng dễ tiếp cận nguồn vốn Ngân hàng. Tuy nhiên trong thực tiễn hoạt động kinh tế luôn có nhiều thay đổi, để đưa chính sách tín dụng sớm đi vào thực tiễn cần có sự vận dụng linh hoạt, kịp thời từ phía ngân hàng thì chính sách tín dụng mới đạt được hiệu quả. - Dịch vụ Ngân hàng: Hoạt động tín dụng có mối liên hệ chặt chẽ với các dịch vụ hỗ trợ liên quan về dịch vụ ngân hàng như dịch vụ thanh toán, kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế, kho quỹ, dịch vụ thẻ thanh toán, thẻ tín dụng... các dịch vụ này nếu thực hiện tốt sẽ tạo nhiều tiện ích cho khách hàng, trong giao dịch tạo ra một hệ thống các sản phẩm ngân hàng hoàn chỉnh, từ đó sẽ thu hút được nhiều khách hàng. Đồng thời các khoản thu từ các dịch vụ ngân hàng sẽ góp phần tạo ra nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng. Trong tương lai đây là khoản thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nghiệp vụ của Ngân hàng, hiện nay nguồn thu này trong hệ thống các ngân hàng Việt Nam rất thấp. 1.3. Kinh nghiệm hoạt động tín dụng của Ngân hàng phục vụ tại các khu kinh tế mở, khu công nghiệp một số nước 1.3.1. Kinh nghiệm của Singapore Là một đất nước nhỏ, không có tài nguyên thiên nhiên, không có thị trường nội địa, Singapore đã sớm mở cửa hội nhập với thế giới, đặc biệt là các nước phương Tây, nền kinh tế của đất nước này có tốc độ phát triển đến mức cả thế giới ngạc nhiên. Với mức thu nhập bình quân đầu người năm 1959 là 400USD đã lên 22.000USD vào năm 1999. Là một nước có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất trong khu vực Đông Nam á. Để đạt được những kết quả trên là nhờ những chính sách vĩ mô đúng đắn của nhà nước Singapore, trong đó việc thành lập các khu công nghiệp đã có vai trò quan trong trong sự phát triển của đất nước. Từ năm 1961, Chính phủ Singapore đã cho xây dựng cơ sở hạ tầng và các khu công nghiệp theo quy hoạch chu đáo, trong đó khu công nghiệp Jurong được đầu tư lớn nhất. Đến năm 1997 Singapore có gần 200 công ty sản xuất của Hoa Kỳ và đã được đầu tư với trị giá đầu tư trên 200 tỷ USD. Trong lĩnh vực Ngân hàng, Singapore chủ yếu phát triển các Ngân hàng trong nước, rất hạn chế cho các Ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh tại nước mình. Tại các KCN, Chính phủ cho phép các Ngân hàng trong nước mở chi nhánh để phục vụ cho các doanh nghiệp về tín dụng, thanh toán... Tại Singapore có 3 Ngân hàng lớn đó là Oversea- Chinese Banking Corporation, United Overseas bank và Overseas Union Bank. Để chuẩn bị cho hội nhập vào khu vực và thế giới, từ năm 1997 Nhà nước Singapore đã cho phép các Ngân hàng có 100% vốn nước ngoài mở nhiều chi nhánh và đặt các máy ATM, Chính phủ cho phép và động viên các Ngân hàng thuê người nước ngoài về làm chuyên gia, làm Giám đốc điều hành các Ngân hàng để có điều kiện phục vụ tốt hơn cho các yêu cầu kinh doanh [4, tr.75 - 82]. 1.3.2. Kinh nghiệm của Đài Loan Tại Đài Loan không thành lập ngân hàng riêng cho KCN, KCX và cũng không có cơ chế riêng cho hoạt động ngân hàng tại KCN, KCX. Mọi hoạt động ngân hàng đều phải tuân thủ như các ngân hàng nội địa. Tuy nhiên, thời kỳ đầu mới thành lập KCN, KCX, nước này đã phải lựa chọn một số ngân hàng mở Chi nhánh tại KCN, KCX phù hợp với yêu cầu của Chính phủ. Chính quyền Đài Loan chỉ cho những ngân hàng được phép mở chi nhánh tại KCN, KCX có đủ khả năng hỗ trợ cho các nhà đầu tư nước ngoài, cụ thể theo các tiêu chí sau: Phải là ngân hàng thông thạo nghiệp vụ thanh toán quốc tế và có đủ điều kiện để thực hiện nghiệp vụ này; Ngân hàng đó có bề dày kinh nghiệm trong hoạt động, có khả năng đáp ứng được nhiều dịch vụ phục vụ các doanh nghiệp. Căn cứ vào các tiêu chí trên, thời kỳ đầu Đài Loan đã chọn hai ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước được mở chi nhánh tại KCX Cao Hùng đó là NHTM Quốc tế và Ngân hàng giao thông. Mặc dù, NHTM Quốc tế có lịch sử hoạt động 300 năm và Ngân hàng giao thông có lịch sử 89 năm, nhưng khi thực hiện thanh toán quốc tế, thì không được nước ngoài thừa nhận. Về sau, khi được một ngân hàng quốc tế khác đứng ra bảo lãnh cho các ngân hàng này thì nghiệp vụ mở L/C, bảo lãnh của chi nhánh ngân hàng KCN, KCX mới được các ngân hàng nước ngoài chấp nhận. Các hoạt động chủ yếu của các chi nhánh ngân hàng tại KCN, KCX là thanh toán quốc tế, cho vay các nhà đầu tư. Việc cho vay các công ty nước ngoài tại,KCN, KCX, không đáng kể do đã có đủ vốn để thực hiện dự án. Riêng những công ty của Đài Loan, thời kỳ đầu còn thiếu vốn, các chi nhánh ngân hàng cho vay bằng ngoại tệ để nhập khẩu và bản tệ để trả lương công nhân. Khi các công ty này có hàng xuất khẩu họ ít vay ngân hàng. Ngoài ra, các chi nhánh ngân hàng KCN, KCX chuyên thực hiện dịch vụ mua bán, ngoại tệ, thanh toán thẻ tín dụng và các hình thức thanh toán khác. 1.3.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc Trung Quốc là một nước sau nhiều thập kỷ “Bế quan tỏa cảng”, không giao lưu ra bên ngoài, do vậy đã đẩy nền kinh tế Trung quốc đến bên bờ vực thẳm. Để vực nền kinh tế, từ cuối thập kỹ 70 Chính Phủ Trung Quốc đã từng bước xóa bỏ chiến lược phát triển kinh tế hướng nội đề ra chiến lược kinh tế mở, và đã xem chiến lược kinh tế mở cửa là sự sống còn của đất nước. Để thực hiện chiến lược kinh tế mở, Chính phủ Trung quốc đã từng bước nới lỏng chế độ quản lý đối ngoại, tích cực tranh thủ vốn đầu tư và kỹ thuật hiện đại của nước ngoài, Khuyến khích xuất khẩu - hướng ra thị trường quốc tế, thực thi chính sách tự do hóa mậu dịch. Kết quả đạt được trong quá trình thực hiện mở cửa là Trung Quốc đã thu hút được một lượng lớn kỹ thuật, chế độ quản lý sản xuất, kinh doanh hiện đại và vốn từ nước ngoài, bù đắp vào sự thiếu hụt vốn, kỹ thuật trong nước, thúc đẩy sự phát triển ngành nghề, tiến bộ kỹ thuật và đổi mới chế độ quản lý sản xuất, kinh doanh. Trong quá trình mở cửa, Trung Quốc đã xây dựng ba loại hình kinh tế mở cửa, đó là thành phố mở cửa, khu kinh tế mở cửa, đặc khu kinh tế. * Thành phố mở cửa là thành phố có những đặc khu kinh tế có các chính sách đặc biệt về kinh tế. Đến nay có có 14 thành phố mở cửa như Thượng Hải, Quảng Châu, Thiên Tân, Phúc Châu... * Khu kinh tế mở cửa đó là các vùng ven biển dần mở các khu vực kinh tế mở cửa đối ngoại như châu tam giác Chu Giang, châu tam giác Trường Giang và vùng tam giác Mân Giang. * Đặc khu kinh tế là các khu, thành phố đặc biệt, trong hoạt động kinh tế đối ngoại có các chính sách ưu đãi đặc biệt để thu hút các nhà kinh doanh nước ngoài đến buôn bán và đầu tư. Đến nay Trung Quốc có 5 đặc khu kinh tế là: Thâm Quyến, Chu Hải, Sán đầu, Hạ Môn và Hải Nam. Đặc khu kinh tế, thành phố đặc biệt của Trung Quốc không phải là đặc khu chính trị, cũng không phải là khu hành chính đặc biệt. Trong các đặc khu kinh tế có các khu công nghiệp, du lịch, dịch vụ với các chính sách ưu đãi đầu tư đặc biệt để thu hút đầu tư nước ngoài. Điển hình là sau 10 năm mở cửa Đặc khu kinh tế Chu Hải đã có 600 xí nghiệp “ ba loại vốn”, hơn 2700 xí nghiệp gia công, hơn 868 xí nghiệp liên doanh; đặc khu kinh tế Thâm quyến đã ký kết với nước ngoài 6.992 hợp đồng, các dự án đã đầu tư 5,5 tỉ USD, đã đưa vào hơn 500 hạng mục kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài. Để phục vụ cho các KKTM tại Trung Quốc, Nhà Nước đã cho mở các Ngân hàng tại đây để phục vụ cho các nhu cầu về tín dụng, thanh toán, tài trợ xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại hối... Hiện nay Trung Quốc có nhiều Ngân hàng mở Chi nhánh tại các Đặc khu kinh tế nhưng trong đó có 2 Ngân hàng lớn là Ngân hàng Trung Quốc và Ngân hàng nông nghiệp Trung Quốc, đây là hai Ngân hàng có mạng lưới lớn và có doanh số hoạt động lớn tại các đặc khu kinh tế. Đây là mô hình KKTM mà Việt Nam chúng ta đang áp dụng thử nghiệm tại Chu Lai [3, tr 271 - 282]; [20, tr.139 -141]. 1.3.4. Kinh nghiệm đối với Việt Nam So với lịch sử phát triển KKTM, KCN của các nước, các KKTM, KCN Việt Nam được hình thành và phát triển chậm hơn. Tuy nhiên, bước đầu đã khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Qua kinh nghiệm của các nước về hoạt động ngân hàng phục vụ các KCN, KKTM có thể vận dụng vào Việt Nam như sau: Việt Nam nên thành lập nhiều KKTM, KCN để thu hút đầu tư, từ đó chúng ta tranh thủ được vốn đầu tư, công nghệ - kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến của các nước phát triển và vận dụng đưa vào sử dụng cho Việt Nam. Để thúc đẩy sự phát triển các KKTM, KCN, cần thiết phải thành lập các chi nhánh ngân hàng tại khu vực này, các ngân hàng phải đảm bảo thực hiện kinh doanh các hoạt động tín dụng, kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế, nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc mở chi nhánh ngân hàng tại các KKTM, KCN nên cân nhắc và xem xét kỹ khả năng đến nhiều yếu tố như nguồn vốn, nguồn nhân lực, công nghệ..., nếu cho phép mở chi nhánh tràn lan, không đủ khả năng kinh doanh thì khó có thể phát triển trước sức ép cạnh tranh giữa các NHTM. Cần thiết phải ban hành một cơ chế cho vay đặc thù đối với các doanh nghiệp tại, KKTM, KCN, do hầu hết các vướng mắc của các doanh nghiệp có dự án đầu tư tại đây chính là vướng mắc của các doanh nghiệp bên ngoài KKTM, KCN. Thời gian qua, Chính phủ, NHNN đã có nhiều quy định, hướng dẫn để từng bước tháo gỡ những khó khăn trong cơ chế cho vay, cơ chế quản lý ngoại hối đối với các doanh nghiệp tại KKTM, KCN. Tuy nhiên, để đưa cơ chế sớm áp dụng vào thực tế, các NHTM cần tăng tính năng động, mạnh dạn trong vận động, tạo điều kiện để các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng. 1.3.5. Bài học có thể vận dụng vào khu kinh tế mở Chu Lai Chủ trương cho phép thành lập KKTM Chu Lai của Chính Phủ là hết sức đúng đắn, về cơ chế thì cần phải học Trung Quốc, nên có những ưu đãi đặc biệt cho KKTM để tranh thủ được nguồn vốn đầu tư và tiến bộ khoa học, công nghệ nước ngoài về cho đất nước. Cho phép thành lập các Ngân hàng thương mại kể cả Ngân hàng nước ngoài tại KKTM để huy động vốn, cho vay và thực hiện các nghiệp vụ Ngân hàng của một Ngân hàng hiện đại từ đó mới có đủ điều kiện phục vụ tốt cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Học tập Singapore về việc cho phép các doanh nghiệp thuê các chuyên gia, Giám đốc điều hành doanh nghiệp, ngân hàng là người nước ngoài để điều hành kinh doanh được hiệu quả, không nhất thiết phải là người Việt Nam vì qua họ chúng ta sẽ học được nhiều kiến thức, kinh nghiệm quản lý, điều hành tiên tiến. Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để cho các ngân hàng được kinh doanh bình đẳng, nhất là lĩnh vực quản lý ngoại hối từ đó không ngừng nâng cao chất lượng các dịch vụ ngân hàng và thu hút đầu tư. Các ngân hàng mở chi nhánh tại KKTM phải là những ngân hàng có đủ điều kiện về mọi mặt để đáp ứng được các yêu cầu của các doanh nghiệp trong KKTM về vốn, thanh toán quốc tế, và các dịch vụ ngân hàng hiện đại khác theo thông lệ quốc tế. Chương 2 THựC TRạNG ĐầU TƯ TíN DụNG của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn QUảNG NAM và chi nhánh chu laI TạI KHU KINH Tế Mở CHU LAI Từ NGàY THàNH LậP ĐếN NAY 2.1. NHữNG KếT QUả CHủ YếU TRONG HOạT động tín dụng của NGÂN HàNG NÔNG NGHIệP Và PHáT TRIểN NÔNG THÔN QUảNG NAM và chi nhánh chu lai 2.1.1. Về hoạt động tín dụng của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Quảng Nam Ngân hàng NHNo&PTNT Quảng Nam được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1997. Trên cơ sở tách ra từ Sở giao địch III Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam tại thành phố Đà Nẵng, theo Quyết định số 515/NHNo-02 ngày 16/12/1996 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. Ngay từ khi mới thành lập, chi nhánh NHNo&PTNT Quảng Nam đã chủ động khảo sát điều kiện kinh tế, xã hội; các tiềm năng về vốn của dân cư để thành lập các chi nhánh ngân hàng cơ sở, phòng giao dịch nhằm mở rộng qui mô kinh doanh, nhằm giữ vững khách hàng để có nguồn tiền gửi lớn và phát triển hoạt động kinh doanh đúng hướng, có hiệu quả góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Lúc đầu thành lập Ngân hàng chỉ có 14 chi nhánh cấp 3, 12 ngân hàng liên xã,đến nay, hệ thống mạng lưới của chi nhánh gồm 1 hội sở giao dịch, 29 chi nhánh cấp 2 phụ thuộc, 7 chi nhánh cấp 3 và 7 phòng giao dịch ở tất cả các huyện thị, KCN Điện Nam - Điện Ngọc, KKTM Chu Lai. - Công tác huy động vốn: Thực hiện phương châm “đi vay để cho vay”, thời gian qua NHNo &PTNT Quảng Nam đã có nhiều giải pháp để tăng cường huy động vốn thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Mặc dù có nhiều ngân hàng thương mại trên địa bàn với mức độ cạnh tranh gay gắt, nhưng NHNo&PTNT Quảng Nam với lợi thế về mạng lưới hoạt động, tăng cường quảng bá tiếp thị thương hiệu đến từng doanh nghiệp, từng đơn vị hành chính sự nghiệp và đến từng thôn xóm; đồng thời thường xuyên nắm bắt thông tin để điều chỉnh lãi suất một cách hợp lý, theo diễn biến của thị trường; luôn đưa ra nhưng thể thức huy động vốn mới, có chính sách khuyến mãi phù hợp với đặc điểm tâm lý, thị hiếu khách hàng... Do vậy, nguồn vốn huy động qua các năm đều có xu hướng năm sau cao hơn năm trước. Từ năm 2002 đến năm 2005 hoạt động Ngân hàng No&PTNT Quảng Nam có bước tăng trưởng ổn định, nguồn vốn huy động tại chỗ năm sau cao hơn năm trước, mức tăng bình quân trên 30 % năm (năm 2005 tăng 47% so với năm 2004). Trong đó, vốn huy động có kỳ hạn 12 tháng trở lên tăng dần qua các năm và chiếm tỷ lệ bình quân trên 40% trong tổng nguồn vốn huy động. Biểu 2.1: Tình hình huy động vốn qua các năm Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 Nguồn vốn huy động 1.036 1.093 1.234 1.301 1.543 + Tỷ lệ tăng trưởng (%) 5,52 12,91 5,36 18,71 - Tiền gửi dân cư 240 362 455 575 876 - Tiền gửi tổ chức kinh tế (TCKT) 105 97 103 178 219 - Tiền gửi kho bạc (KB) 691 634 676 548 449 - Tỷ trọng tiền gửi dân cư (%) 23,20 33,08 36,81 44,21 56,75 - Tỷ trọng tiền gửi TCKT (%) 10,08 8,89 8,39._.hông tin và được tư vấn về máy móc thiết bị, công nghệ, mức độ ảnh hưởng đến môi trường của dự án; liên quan đến Sở tài chính vật giá, Sở xây dựng giúp thông tin về tài chính, định giá tài sản thế chấp, xác định tính xác định của giá cả trong dự án vay vốn; liên quan đến sở kế hoạch đầu tư, quỹ hỗ trợ phát triển, ban quản lý các KCN giúp nắm bắt được các chủ trương chính sách của nhà nước liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp trong các KKTM Ngoài ra, Ngân hàng cần lưu ý tham khảo những thông tin từ các tạp chí chuyên ngành, tạp chí nghiên cứu thị trường, từ mạng Internet...để hỗ trợ đầy đủ nhất cho công tác thẩm định. - Tiếp cận, tư vấn, hổ trợ khách hàng: Hoạt động tín dụng NHNo&PTNT Quảng Nam và KKTM Chu Lai đang chịu sự cạnh tranh gây gắt của các NHTM khác, dù có nhiều biện pháp đưa ra nhưng kết quả đạt được chưa cao. Để khắc phục hạn chế này, NHNo& PTNT Quảng Nam và KKTM Chu Lai cần thực hiện một số biện pháp sau theo hướng tìm đến khách hàng để mở rộng tín dụng hiệu quả: + Thường xuyên tạo mối quan hệ với Ban quản lý quản lý KKTM Chu Lai, Công ty đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng KKTM Chu Lai và các cơ quan ban ngành để nắm bắt thông tin về các dự án đầu tư ngay từ giai đoạn làm các thủ tục đăng ký, xin giấy phép vào KKTM. Qua đó, ngân hàng nắm bắt được các thông tin ban đầu về doanh nghiệp như tình hình tài chính, quy mô dự án, nhu cầu vốn vay. Thông qua các cơ quan này, đăng ký làm viẹc trực tiếp với doanh nghiệp để tạo mối quan hệ ban đầu. Ngân hàng cần sơ lược giới thiệu về khả năng đáp ứng tín dụng, các thủ tục cho vay và các dịch vụ khác của ngân hàng, trên cơ sở đó đề mời khách hàng mở tài khoản giao dịch và đặt quan hệ tín dụng với doanh nghiệp qua NHNo&PTNT KKTM Chu Lai. + Thông qua câu lạc bộ doanh nghiệp Quảng Nam, các hội nghị khách hàng, ngân hàng có điều kiện nắm bắt được nhiều thông tin liên quan đến doanh nghiệp như tình hình đầu tư trên địa bàn, những thuận lợi, khó khăn, phát sinh trong hoạt động kinh doanh, cũng như những vướng mắc trong công tác giao dịch với ngân hàng. Từ đó, ngân hàng có những điều chỉnh hoạt động, nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của các doanh nghiệp. Qua các cuộc hội nghị này, ngân hàng có điều kiện tuyên truyền, quảng bá về hoạt động kinh doanh của mình, giải đáp được thắc mắc của các doanh nghiệp. + NHNo&PTNT Quảng Nam và KKTM thành lập và đưa lên trang Web của mình những thông tin về chính sách tín dụng, điều kiện, đối tượng cho vay, cơ chế lãi suất...và phải cập nhật liên tục những thông tin mới, góp phần đẩy mạnh công tác tiếp thị, phù hợp với xu hướng tra cứu thông tin của các doanh nghiệp hiện nay. + Ngân hàng bằng kinh nghiệm và những hiểu biết của mình, tăng cường đội ngũ cán bộ bám sát, giúp các doanh nghiệp xây dựng các dự án, phương án vay vốn. Nhờ vậy, tính hiệu quả của phương án vay vốn mới đảm bảo xác thực, hoặc đưa ra những phương án khác nhau để doanh nghiệp lựa chọn theo điều kiện thực tế của mình. Qua đó, ngân hàng có điều kiện nắm bắt được nhiều mặt của doanh nghiệp, có cơ sở thẩm định xác thực dự án vay vốn của khách hàng. + Ngân hàng No&PTNT Quảng Nam và KKTM Chu Lai cần nắm bắt được nhiều thông tin về thị trường “đầu vào”, “đầu ra”của các sản phẩm hàng hóa, tình hình tài chính của các doanh nghiệp, dự báo những điều chỉnh, thay đổi về cơ chế chính sách, những biến động về thị trường hàng hóa có thể trao đổi, cung cấp thường xuyên cho các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng giúp khách hàng có những điều chỉnh trong dự án vay vốn về một số phương diện như: thị trường, đối tác quan hệ, hạn chế thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra. Từ đó, tạo sự an tâm, tin tưởng vào ngân hàng, thiết lập được quan hệ lâu dài giữa ngân hàng và doanh nghiệp. + Tiếp cận các doanh nghiệp đến đầu tư tại KKTN Chu Lai để tư vấn, giúp đở, giải thích về quy trình thủ tục cấp phép đầu tư, các ưu đãi đầu tư, và các thủ tục khác liên quan đến các ban ngành tại địa phương, đặc biệt hướng dẫn hồ sơ, thủ tục giúp doanh nghiệp được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư nếu vay vốn tại Chi nhánh. + Đối với các doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động thanh toán quốc tế, Chi nhánh thông qua hệ thống các ngân hàng đại lý ở nước ngoài để nắm thông tin và tư vấn cho doanh nghiệp lựa chọn thị trường, xác định tư cách và khả năng của đối tác nước ngoài, lựa chọn ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng mở thư tín dụng phù hợp với hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam, và hướng dẫn giúp khách hàng làm các thủ tục cần thiết, đàm phán ký kết hợp đồng ngoại thương, lựa chọn phương thức thanh toán, điều kiện giao hàng có lợi nhất. + Trên cơ sở những thông tin thu nhập được, ngân hàng có thể trao đổi, cung cấp thường xuyên cho các doamh nghiệp có quan hệ tín dụng giúp khách hàng có những điều chỉnh trong dự án vay vốn về một số phương diện như: thị trường, đối tác quan hệ, hạn chế thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra. Từ đó, tạo sự an tâm, tin tưởng vào ngân hàng, thiết lập được quan hệ lâu dài giữa ngân hàng và doanh nghiệp. 3.2.4. Giải pháp nội bộ của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam và khu kinh tế mở Chu Lai - Hoàn thiện các dịch vụ ngân hàng: Không ngừng hoàn thiện các dịch vụ ngân hàng như chuyển tiền điện tử, thanh toán quốc tế, thanh toán tiền gửi ở nhiều nơi, dịch vụ cho khách hàng trong và ngoài nước, nhằm khơi tăng nguồn vốn, phát triển dịch vụ ngân hàng. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt của Ngân hàng làm tốt, sẽ thu hút các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư mở tài khoản tiền gửi, mở rộng thanh toán bằng séc cá nhân từ đó tăng qui mô tiền gửi thanh toán qua Ngân hàng. Đẩy mạnh công tác thanh toán qua ngân hàng, thu hút được nguồn vốn ngày càng nhiều với lãi suất thấp để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển nền kinh tế nói chung và đầu tư cho phát triển làng nghề nói riêng và mang lại hiệu quả cho ngân hàng. Mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ trong huy động vốn: Các tổ chức tín dụng cần áp dụng công nghệ tin học vào các hoạt động ngân hàng để cung cấp cho thị trường những sản phẩm mới,tạo nhiều tiện ích, đáp ứng nhu cầu của khách hàng gửi tiền thuận tiện, nhanh chóng, phù hợp với từng hình thức huy động. Thực hiện kéo dài thời gian giao dịch với khách hàng (có thể cả thứ bảy và chủ nhật). Mở thêm dịch vụ huy động tiền gửi và chi trả cho khách hàng tại nhà và tại công sở. Mục tiêu mở rộng huy động là nhằm thu hút tối đa nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế. Một mặt, để tăng cường nguồn vốn tín dụng đầu tư sinh lợi, trực tiếp phục vụ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; mặt khác tạo điều kiện mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt. Hai mặt này có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau và tăng hiệu quả vận động vốn tiền tệ trên địa bàn - Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng: Để phát triển các dịch vụ tiện ích cho khách hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của NHNo&PTNT, đòi hỏi phải đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ,phát triển sản phẩm dựa trên cơ sở công nghệ tiên tiến về nghiệp vụ bán lẽ, thanh toán và giao dịch. Không ngừng đổi mới công nghệ, trang bị thêm máy vi tính cùng các thiết bị đồng bộ, các phương tiện hiện đại như máy ATM, máy in sổ tiết kiệm... phương pháp giao dịch đảm bảo thuận tiện cho yêu cầu quản lý và phục vụ tại các đơn vị giao dịch trực tiếp với khách hàng. ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để thanh toán nhanh chóng, chính xác, kịp thời. Bằng cách: Triển khai dự án lắp đặt nhiều ATM hơn để mang lại sự thuận lợi và tiện ích nhiều hơn cho khách hàng. Không nên thu khách hàng khoản phí chuyển đổi hệ thống ATM để tạo sự tin cậy trong khách hàng. Cung ứng đầy đủ phương tiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng. Nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán đối với các đơn vị, tổ chức kinh tế và dân cư nói riêng và kinh tế nói chung. Phát triển và hoàn thiện môi trường pháp lý, hoà nhập với thông lệ quốc tế và làm cơ sở thúc đẩy hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. - Đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng nguồn nhân lực: Trong công tác nhân sự cần đặc biệt quan tâm, nhất là tuyển chọn cán bộ làm công tác tín dụng, cần tuyệt đối lựa chọn nhân viên đúng chuyên ngành đào tạo, có khả năng thực hiện tốt nghiệp vụ thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp, dự án vay vốn, có kiến thức cơ bản về các lĩnh vực như: Pháp luật, ngoại ngữ, tin học. Định kỳ hàng năm, có kế hoạch bồi dưỡng và cử nhân viên đi dự các lớp tập huấn nghiệp vụ để không ngừng nâng cao kiến thức của đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng kể cả cán bộ lãnh đạo phụ trách tín dụng. Trên cơ sở đó, đánh giá, phân loại cán bộ để bố trí sắp xếp lại công việc của từng cán bộ cho phù hợp với năng lực, sở trường của từng nhân viên. Qua sự sắp xếp này, Chi nhánh thực hiện quy hoạch, có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ phù hợp với tình hình thực tế tại Chi nhánh Chi nhánh kịp thời động viên cán bộ tín dụng giỏi, khuyến khích tinh thần học hỏi, nghiên cứu hoàn thành nhiệm vụ trong đội ngũ cán bộ, triệt để chuyển những cán bộ thiếu năng lực, thiếu đạo đức nghề nghiệp sang làm công tác khác. Định kỳ cần hoán đổi địa bàn, doanh nghiệp phụ trách của cán bộ tín dụng, hạn chế thấp nhất những tiêu cực nảy sinh trong quá trình cho vay, giúp cán bộ có điều kiện tiếp xúc với nhiều đối tượng doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế, lĩnh vực hoạt động khác nhau để không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn. . Phong cách giao dịch phải được coi là một nhiệm vụ đặc biệt: Văn minh lịch sự sẽ thu hút người gửi tiền. Nhất là trong điều kiện hội nhập, tính cạnh tranh càng gay gắt thì thái độ phục vụ càng phải mềm dẻo, tận tình, lịch sự, gây ấn tượng tốt đẹp với khách hàng mới thu hút được nhiều người gửi tiền. Để phong cách giao dịch thực sự văn minh lịch sự, tổ chức tín dụng cần xây dựng quy chế giao dịch văn minh lịch sự, quỹ tiết kiệm kiểu mẫu... lấy đó làm khuôn mẫu thực hiện và thường xuyên kiểm tra việc thực hiện, kịp thời uốn nắn những sai lệch Phân công, bố trí cán bộ tín dụng phụ trách theo từng loại hình doanh nghiệp, hộ sản xuất để tạo sự chuyên môn hoá. Xây dựng cơ chế luân chuyển để tránh sự trì trệ và đề phòng các mối quan hệ phát sinh không lành mạnh giữa cán bộ tín dụng với khách hàng. Cơ cấu cán bộ phải đảm bảo sự hợp lý về chuyên môn, kết hợp sự năng động, nhạy bén của đội ngũ cán bộ trẻ với kinh nghiệm của cán bộ lâu năm. Sắp xếp bộ máy tổ chức theo hướng tinh gọn, giảm bớt các khâu trung gian nhằm làm cho các quyết định quản lý được triển khai nhanh chóng, đồng bộ.. Sử dụng đội ngũ cán bộ từ ngân hàng tỉnh đến các chi nhánh ngân hàng cơ sở hợp lý, đúng người, đúng việc, bảo đảm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. Đồng thời tăng cường được khâu quản lý, kiểm tra giám sát, phát huy được tính tự giác, linh hoạt của mỗi cán bộ. Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Ban lãnh đạo ngân hàng phải cân nhắc thận trọng khi bố trí nhân sự để phát huy được thế mạnh và hạn chế được nhược điểm của mỗi người. Điều đó đòi hỏi ban lãnh đạo phải thường xuyên theo sát hoạt động của nhân viên để đánh giá về họ được chính xác. Ngoài ra, việc đề ra một chế độ đãi ngộ xứng đáng như về lương, thưởng đối với cán bộ tín dụng để động viên, khuyến khích kịp thời nhằm làm cho cán bộ, nhân viên không ngừng nâng cao tinh thần trách nhiệm, kích thích sự cố gắng phấn đấu trong công tác nghiệp vụ của mỗi người. - Một số giải pháp khác: Để thực hiện tốt hoạt động tín dụng tại chi nhánh, ngoài các giải pháp trong nghiệp vụ chuyên môn công tác thi đua có vai trò quan trọng đến việc tăng năng suất lao động và chất lượng dịch vụ. Phải có chế độ đãi ngộ với nhứng cá nhân, tập thể có đóng góp tích cực cho đơn vị.Thực hiện thưởng phạt công minh để công tác thi đua có tác dụng tích cực nếu không thì sẽ có tác dụng ngược lại. Luôn quan tâm đến đời sống của cán bộ viên chức như thăm hỏi, động viên đúng lúc, kịp thời trong những lúc khó khăn cũng như các ngày lễ, ngày nghỉ có ý nghĩa đối với viên chức. Luôn quan tâm đến công tác tiếp thị, khuyến mãi đối với khách hàng trong các đợt lễ, tết, trong từng đợt huy động vốn... 3.3. Một số kiến nghị các điều kiện để thực hiện giải pháp tín dụng 3.3.1. Kiến nghị với Nhà nước Chính phủ sớm ban hành một Nghị định riêng về khu kinh tế mở đầu tiên của Việt Nam. Nội dung cơ bản của khung pháp lý phải thể hiện tính chất vượt trội và tính chất mở không chỉ đối với nước ta mà còn đối với các quốc gia trên thế giới - KKTM Chu Lai phải trở thành một hộ kế hoạch được cân đối nguồn vốn đầu tư các công trình trọng điềm bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. - Khu kinh tế mở Chu lai phải là hộ ngân sách trực thuộc TW,và được thu hút các nguồn vốn khác có tính chất ngân sách,các nguồn vốn ODA. - Chính phủ cần quan tâm đến việc ban hành một hề thống chính sách đồng bộ cho KKTM như: chính sách về lao động, môi trường v.v.v và cần tổng kết mô hình hoạt động KKTM đầu tiên của Việt Nam và có những bổ sung sửa đổi cần thiết cho hoạt động của khu kinh tế mở này. - Chính phủ cần ban hành các văn bản thống nhất quy định cụ thể về việc xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất sẽ tạo điều kiện hợp pháp trong việc sử dụng quyền sử dụng đất làm tài sản đảm bảo trong giao dịch tín dụng. Quy định thống nhất đó góp phần khai thông những ách tắc đối với việc dùng quyền sử dụng đất làm tài sản đảm bảo tiền vay tại ngân hàng. - Chính phủ cần có những đề án cấp nhà nước về đầu tư công nghệ mới, từ đó định hướng cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận với những công nghệ tiên tiến, những tiến bộ khoa học - kỹ thuật để áp dụng vào Việt Nam. - Về tiêu thụ sản phẩm, nhà nước cần có những cơ quan chuyên trách để nghiên cứu thị trường tiêu thụ thế giới để có định hướng cho nhân dân và doanh nghiệp, vì bản thân doanh nghiệp, hộ sản xuất không đủ lực và điều kiện thực hiện điều này. - Chính phủ nên thành lập Quỹ bảo hiểm cho sản xuất nông nghiệp, chú ý đến bảo hiểm về vật nuôi, cây trồng. Bản thân các doanh nghiệp, các nông hộ khó có khả năng tự đơn phương khắc phục được rủi ro trên diện rộng. Do đó, thành lập Quỹ bảo hiểm trong sản xuất nông nghiệp nhất là với những nông sản hàng hoá xuất khẩu chủ lực, những nông sản hàng hoá thiết yếu là hết sức cần thiết. - Khi thiên tai xãy ra trên diện rộng, Chính phủ cần sớm có quyết định hỗ trợ thiệt hại liên quan đến vốn vay, để ngân hàng xử lý kịp thời; có chính sách xoá nợ cụ thể không khoanh nợ như hiện nay khi hết thời hạn khoanh chuyển sang nợ thông thường nếu tình trạng khắc phục sau khoanh nợ hạn chế sẽ dẫn đến chất lượng tín dụng kém, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. - Chính phủ sớm có chỉ đạo kiên quyết đối với mọi công dân, cũng như doanh nghiệp phải thực hiện tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt, hạn chế đến mức thấp nhất trong sử dụng tiền mặt để thanh toán lẫn nhau. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Ngân hàng nhà nước chỉ đạo hệ thống ngân hàng thương mại trong việc thực hiện nghiêm túc các chính sách tiền tệ, chính sách tín dụng, định hướng đầu tư trong từng thời kỳ, không để xảy ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến thiệt hại về kinh tế, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngân hàng nhà nước cần không ngừng bổ sung hoàn thiện chế độ, thể lệ cho vay đối với khách hàng, để các Ngân hàng thương mại đều thực hiện chung các qui định về tín dụng của Ngân hàng nhà nước. - Có biện pháp tích cực nhằm nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng (CIC). Thực hiện tốt biện pháp này của NHNN sẽ cải thiện được tình trạng thiếu thông tin hoặc thông tin không đầy đủ, chính xác, cập nhật, giúp cho các NHTM thực hiện tốt công tác cho vay, nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế được rủi ro. - Ngân hàng nhà nước chỉ đạo Ngân hàng thương mại đẩy mạnh việc đầu tư công nghệ ngân hàng, các phương tiện phục vụ cho công tác thanh toán không dùng tiện mặt để tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho mọi người dân, doanh nghiệp thanh toán được thuận lợi, không phải thanh toán với nhau bằng tiền mặt. - Ngân hàng nhà nước cần thường xuyên kiểm tra việc áp dụng mức lãi suất huy động và cho vay của hệ thống Ngân hàng thương mại để hạn chế việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng với nhau. Hiện nay mức chênh lệch lãi suất huy động và cho vay giữa các Ngân hàng rất cao, đưa đến thiệt hại về tài chính cho hoạt động Ngân hàng. 3.3.3. Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Ngân hàng No&PTNT Việt Nam phải đề ra chiến lược kinh doanh cho toàn ngành phù hợp với điều kiện của đất nước, đáp ứng được xu thế hội nhập quốc tế. Trong chiến lược chung phải đề ra từng chính sách lớn cho tưng lĩnh vực cụ thể như tin hoc, công nghệ, sản phẩm mới, mở rộng tín dụng trung, dài hạn, Tiết kiệm chi phí...cho toàn ngành. Chiến lược này phải được cụ thể hoá theo từng vùng, từng khu vực, từng thời kỳ cụ thể, bám sát định hướng phát triển kinh tế xã hội của Chính phủ. Chiến lược kinh doanh tín dụng được xây dựng hoàn thiện và đúng đắn sẽ giúp cho các chi nhánh có định hướng đầu tư đúng đắn, từ đó mở rộng thị phần, nâng cao chất lượng đầu tư và hạn chế rủi ro. Các quy định về công tác thẩm định cho vay cần nghiên cứu tham khảo, học hỏi các ngân hàng tiên tiến trong khu vực và trên thế giới và áp dụng linh hoạt, phù hợp với điều kiện hoạt động, trình độ cán bộ, đối tượng khách hàng, đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam. Cơ chế điều hành về lãi suất huy động của Ngân hàng No&PTNT Việt Nam cần mở, linh hoạt hơn để tạo điều kiện cho cơ cở sở chủ động trong hoạt động kinh doanh phù hợp với điều kiện của từng địa phương, từng doanh nghiệp. Ngân hàng No&PTNT Việt Nam cần sắp xếp lại mạng lưới hoạt động của các Chi nhánh sao cho hoạt động có hiệu quả, không để dẫn đến trình trạng cùng trong một hệ thống nhưng vẫn cạnh tranh lẫn nhau, dẫn đến gây thất thoát tài sản. Ngân hàng No&PTNT Việt Nam cần có cơ chế điều hành vốn toàn ngành làm sao để ưu tiên vốn cho những dự án phát huy được hiệu quả kinh tế cao, không nên dàn trãi nguồn vốn cũng như đầu tư vốn vào những địa phương, những doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả. Tránh trình trạng khi đã thẩm định được dự án có hiệu quả thì không có vốn và ngược lại khi không cần vốn thì lại được phân bổ dư thừa. Trong điều kiện mạng lưới chi nhánh của Ngân hàng No&PTNT Việt Nam quá nhiều và trãi rộng khắp nơi trên đất nước từ đó việc hiện đại hoá Ngân hàng rất khó khăn vì vậy chưa nhất thiết phải nối mạng giao dịch trực tuyến với 100% số chi nhánh trong hệ thống mà trước mắt cần triển khai kết nối dữ liệu về trung tâm điều hành những chi nhánh có doanh số hoạt động lớn để điều hành kinh doanh toàn ngành được hiệu quả. Cần nghiên cứu hình thức cho vay theo hạn mức tín dụng với những điều kiện thuận lợi nhất để đưa ra áp dụng rộng rãi. Hiện nay các chi nhánh đang sử dụng hình thức cho vay từng lần là chủ yếu do vậy thời gian làm thủ tục cho vay, thu nợ tốn rất nhiều thời gian không cần thiết của nhân viên ngân hàng. NHNo&PTNT Việt Nam cần tăng cường công tác đào tạo một cách toàn diện cho đội ngũ cán bộ trong hệ thống. Ngoài ra, cần có chính sách đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng, trang bị phương tiện làm việc, quy định phụ cấp trách nhiệm trong lương, chế độ công tác phí. Thực hiện tốt những biện pháp trên NHNo&PTNT Việt Nam sẽ xây dựng được một đội ngũ cán bộ vững vàng về nghiệp vụ, tâm huyết với nghề, tạo điều kiện nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. NHNo&PTNT Việt Nam cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn chuyên đề, hội thảo, để cán bộ quản lý cũng như viên chức học tập nghiên cứu nâng cao trình độ và học hỏi kinh nghiệm để không ngừng nâng cao kiến thức và nghiệp vụ chuyên môn. Kết luận Từ Đại hội lần thứ VI đến nay, Đảng ta luôn đề ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước là việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thương mại, kể cả thương mại điện tử, bưu chính- viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ... Để thực hiện được những nhiệm vụ của các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc của Đảng ta từ khi đổi mới đến nay, việc xây dựng các KKT, KCN, KCX là một yêu cầu quan trọng cho việc kêu gọi đầu tư, phát triển công nghiệp, dịch vụ để từng bước tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, đẩy mạnh xuất khẩu,không ngừng tăng thu nhập quốc dân, tạo công ăn việc làm cho nhân dân lao động từ nông thôn dôi ra trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình nhập quốc tế. Việc xây dựng Khu kinh tế mở Chu Lai là một chủ trương hết sức đúng đắn của Chính phủ. Đây là mô hình đầu tiên trong cả nước thử nghiệm trong nhiều lĩnh vực để rút ra những kinh nghiệm thực tiễn áp dụng cho cả nước. Để góp phần vào việc xây dựng thành công KKTM Chu Lai, ngoài các yếu tố về đều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, vai trò của hệ thống Ngân hàng thương mại có vị trí to lớn trong việc huy động vốn, đầu tư tín dụng, cung cấp các dịch vụ Ngân hàng để phục vụ cho các doanh nghiệp đến hoạt động tại KKTM Chu Lai. Trong đó Ngân hàng No&PTNTKKTM Chu Lai là chi nhánh đã được Ngân hàng No&PTNT Việt Nam cho xây dựng để phục vụ cho khu kinh tế này. Trong ba năm qua tuy gặp nhiều khó khăn trong bước đầu xây dưng nhưng chi nhánh đã đạt được nhều kết quả đáng khích lệ. Đến nay, các điều kiện về hoạt động Ngân hàng đã có thể đáp ứng cho các nhu cầu của các doanh nghiệp. Nội dung luận văn “Tín dụng của NHNo&PTNT Quảng Nam đối với sự phát triển KKTM Chu Lai ” đã được tập trung giải quyết và hoàn thành cơ bản các nhiệm vụ của đề tài đặt ra: Luận văn đã trình bày có hệ thống các nội dung lý luận về sự hình thành các KKT, KCX, KCN và các lý luận về vai trò đặc điểm của tín dụng, đó là cơ sở để phân tích, nhận định, đánh giá thực trạng của quá trình xây dựng, và thực tiễn đầu tư tín dụng tại KKTM Chu Lai từ khi thành lập đến nay. Luận văn đã đánh giá, phân tích thực trạng đầu tư, cũng như các chính sách ưu đãi cho KKTM Chu Lai, và thực trạng về các chính sách, chế độ, tín dụng trong thời gian qua, rút ra những thành tựu và những hạn chế, vướng mắc về cơ chế, môi trường đầu tư, những vấn đề đặt ra cho các Ngân hàng thương mại cần phải giải quyết trong thời gian đến.. Luận văn đã trình bày các cơ sở khoa học của công tác đầu tư tín dụng chung, trên cơ sở đó đưa ra những quan điểm, những giải pháp có tính hệ thống, đồng bộ, nhất quán, thiết thực trong đầu tư tín dụng, và các dịch vụ Ngân hàng khác có liên quan để áp dụng cho hệ thống Ngân hàng No&PTNT và cụ thể tại Ngân hàng No&PTNT KKTM Chu Lai. Do điều kiên, phạm vi nghiên cứu và khả năng có hạn, hơn nữa việc xây dựng KKTM cũng như hoạt động của Ngân hàng tại KKTM Chu Lai là lĩnh vực hết sức mới mẽ, do vậy luận văn chắc chắn còn nhiều thiếu sót không tránh khỏi. Học viên kính mong thầy hướng dẫn, Hội đồng khoa học quan tâm giúp đỡ để đề tài được hoàn chỉnh và được áp dụng vào thực tiễn được tốt hơn./. Danh mục tài liệu tham khảo Ban Quản lý Khu kinh tế mở Chu Lai (2006), Báo cáo số 06/KTM-TGDT tình hình triễn khai và phát triển KKTM Chu Lai. Phạm Hồng Cờ (1996), “Đổi mới quản lý hoạt động tín dụng ngân hàng cơ sở nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn”, Luận án phó tiến sĩ khoa học Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Hồ An Cương (2003), Những chiến lược lớn của Trung Quốc, Nxb Thông tấn, Hà Nội. Lý Quang Diệu (2001), Bí quyết hoá rồng, Nxb Trẻ, Hà Nội. Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (1997), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XVIII. Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban chấp hành Trung ương khoá VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (2/2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IX. Trần Đình Định (chủ biên), Đinh Văn Thanh, Nguyễn Văn Dũng (2006), Những quy định của pháp luật về hoạt động tín dụng, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Lê Giảng (1999), Trung Quốc xưa và nay, Nxb Thanh niên, Hà Nội. Nguyễn Mạnh Hùng (2005), Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Gia Lai, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Ngân hàng. Vũ Văn Hùng (1997), Đổi mới cơ chế quản lý tín dụng Ngân hàng ở Thái Bình, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Hà Huy Hùng (2003), Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Lê Anh Hùng (2004), Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa, Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Khu Kinh tế mở Chu Lai (2002), Các tài liệu về khu kinh tế mở Chu Lai. Nguyễn Văn Lai (1996), Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong nước phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Võ Văn Lâm (1999), Đổi mới cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh của Ngân hàng No&PTNT Việt Nam trong nền kinh tế thị trường, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Lưu Lực (2002), Toàn cầu hoá. Lối thoát của Trung Quốc là ở đâu?, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Ngân hàng No&PTNT Quảng Nam, Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của các năm 2001, 2000,2003, 2004, 2005. C.Mác (1978), Tư bản, Quyển III, Tập II, Nxb Sự thật, Hà Nội. Ngân hàng No&PTNT Việt Nam (1987-2005), Hệ thống hóa các văn bản định chế của Ngân hàng No&PTNT Việt Nam, Tập I - XVI. Ngân hàng No&PTNT Việt Nam (2006), Đầu tư phát triển kinh tế hộ, Nxb Lao động, Hà Nội. Ngân hàng No&PTNT Quảng Nam (2005), Đề án cơ cấu lại Ngân hàng Nông nghiệp &PTNT Quảng Nam. Ngân hàng Thương mại KKTM Chu Lai, Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh các năm 2003,2004, 2005. Ngân hàng No&PTNT KKTM Chu Lai (2002), Đề án thành lập Ngân hàng No&PTNT KKTM Chu Lai. Dương Bá Phượng (2001), Bảo tồn và phát triển làng nghề trong quá trình công nghiệp hoá, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (2004), Luật các tổ chức tín dụng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. PGS.TS Lê Văn Tề (1997), Tiền tệ và tín dụng Ngân hàng, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. PGS.TS Lê Văn Tề, Ngô Hướng, Đỗ Linh Hiệp, Hồ Diệu, Lê Thẩm Dương (2004), Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, Nxb Thống kê, Hà Nội. Tỉnh uỷ Quảng Nam (2006), Kết luận Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 3 về giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp - dịch vụ, Quảng Nam. Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định 108/2003/QĐ-TTg ngày 05 tháng 06 năm 2003 về việc thành lập khu kinh tế mở Chu Lai. Thủ tướng Chính phủ (2003), Qui chế hoạt động của KKTM Chu Lai được ban hành kèm theo quyết định 108/2003/QĐ -TTg ngày 05/06/2003. Hoàng Văn Trà (2003), Quản lý tín dụng đầu tư nhà nước ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Hoàng Việt Trung (1996), Tín dụng ngân hàng trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn Hà Nội, Luận án PTS Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Đào Minh Tú (2001), Đổi mới chính sách tín dụng theo cơ chế thị trường nhằm góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2002), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Nam đến 2015. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2004), Cơ chế ưu đãi khuyến khích đầu tư trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2006), Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TU khoá XVIII và giải pháp phát triển công nghiệp - dịch vụ 5 năm (2006-2010). Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2006), Định hướng chiến lược phát triển bền vững tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2006-2010 và đến năm 2020, Tam Kỳ.  Phụ lục Phụ lục 1 Tình hình thu hút vốn đầu tư vào Khu KTM Chu Lai Từ ngày thành lập đến 30/9/2006 STT Số dự án Chỉ tiêu đăng ký Ghi chú Vốn đầu tư (1000USD) Diện tích (ha) Lao động (người) Tổng cộng 130 1.430.597 2.335 3.269 I Phân theo nguồn vốn đầu tư 130 1.430.597 2.335 3.269 1 Đầu tư nước ngoài 43 636.007 1.018 2 Đầu tư trong nước 87 794.597 1.316 II Phân theo tiến độ đầu tư 130 1.430.597 2.335 1 Dự án đã làm thủ tục chọn địa điểm 46 658.475 1.542 2 Dự án đã cấp giấy phép đầu tư 84 772.122 793 III Phân theo lĩnh vực, ngành đầu tư 130 1.430.597 2.335 1 Công nghiệp 75 765.422 653 2 Du lịch 43 536.385 1.141 3 Thương mại dịch vụ 6 17.965 3,5 4 Nông lâm thủy sản 1 1.150 20 5 Hạ tầng 5 109.675 517 Phụ lục 2 Tình hình triển khai tiến độ thực hiện dự án, thủ tục đầu tư theo ngành, lĩnh vực Số TT Chỉ tiêu Số dự án Chỉ tiêu đăng ký Ghi chú Vốn đầu tư (1000USD) Diện tích (ha) Lao động (người) Tổng cộng 130 1.430.597 2.355 3.269 I Dự án đang làm thủ tục chọn địa điểm 46 658.475 1.542 1 Công nghiệp 13 110.985 106,56 2 Du lịch 28 437.815 918,71 3 Hạ tầng 5 109.679 517 4 Thương mại, du lịch - - II Dự án đã cấp giấy phép đầu tư 84 772.122 793,32 1 Dự án đang làm thủ tục đất đai, XDCB 46 616.421 564,15 - Công nghiệp 30 518.921 355,98 - Du lịch 12 94.700 205,67 - Hạ tầng - - - - Thương mại, dịch vụ 4 2.800 2,5 2 Dự án đang hoạt động SXKD 39 155.701 229,17 - Công nghiệp 32 135.516 191,07 - Du lịch 3 3.870 17,10 - Nông nghiệp, thủy sản 1 1.150 20 - Thương mại, dịch vụ 3 15.165 1 Phụ lục 3 Cơ cấu vốn đầu tư theo ngành STT Ngành, lĩnh vực Số dự án Vốn đầu tư Tỷ lệ % Tổng cộng 130 1.430.597 100 1 Công nghiệp 75 765.422 53,35 2 Du lịch 43 536.385 37,4 3 T.Mại, dịch vụ 6 17.965 1,25 4 Nông lâm, thủy sản 1 1.150 0,08 5 Hạ tầng 5 109.675 7,66 Nguồn: Báo cáo số:136/KTM- TGĐT của Ban quản lý KKTM Chu Lai ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluanvan dang hoanchinh.doc
  • docbia.doc
  • docDanh môc c.doc
Tài liệu liên quan