mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua 20 năm đổi mới, sự phát triển KT-XH đất nước ta đạt được những thành tựu rực rỡ, kinh tế luôn đạt mức tăng trưởng cao, năm sau cao hơn năm trước và phát triển tương đối toàn diện; vốn đầu tư toàn xã hội tăng khá nhanh; cơ cấu kinh tế cả nước tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng CN và DV; nông nghiệp, nông thôn được xác định là mục tiêu trọng tâm trước mắt và đã đạt được một số kết quả bước đầu. Tuy nhiên, đi kèm với những thành tựu đó là nh
103 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1425 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn đối với phát triển kinh tế - Xã hội ở Đại Lộc, Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ững yếu kém, hạn chế như: Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm; “khoảng cách về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng doãng ra” [6, tr.63] và đang đặt ra hàng loạt vấn đề cần giải quyết, trong đó “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân” [6, tr.68] là vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách.
Nhìn chung các huyện ở nước ta hiện nay, nông nghiệp vẫn chiếm phần chủ yếu trong cơ cấu kinh tế. CN, DV tuy đã có những bước đi tạo nên những chuyển biến tích cực, nhưng so với yêu cầu phát triển chung vẫn còn rất xa. Trong khi đó, các công cụ đòn bẩy kinh tế như thuế, tài chính, tiền tệ, tín dụng ngân hàng... chưa đủ mạnh để phát huy hết vai trò của mình đối với sự phát triển KT-XH khu vực nông nghiệp nông thôn. Tại nhiều địa phương cơ chế chính sách đôi khi chưa thật sự tương thích với hoạt động của các công cụ này, vai trò của tín dụng ngân hàng đôi khi bị bỏ qua hoặc xem nhẹ...
Đại Lộc (Quảng Nam) là một huyện trung du, có đến 3/4 diện tích tự nhiên là đất rừng, núi. Qua 2 cuộc chiến tranh, vùng đất này bị tàn phá dữ dội, để lại di chứng nặng nề cả về mặt thiên nhiên, đất đai, con người, xã hội. Qua 20 năm đổi mới, Đảng bộ và nhân dân huyện Đại Lộc đã vượt lên trên những khó khăn mất mát để biến nơi đây thành một vùng đất đầy sôi động với nhiều chương trình dự án đã và đang xúc tiến mạnh mẽ thu hút đầu tư. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XIX đã xác định phấn đấu xây dựng huyện cơ bản trở thành huyện công nghiệp vào những năm 2010 – 2015. Để đạt được mục tiêu đó trước hết phải phát huy các nguồn nội lực ở huyện, kết hợp nội lực với ngoại lực để tạo ra hợp lực của sự phát triển KT-XH.
Một trong những nguồn lực cần huy động cho sự phát triển KT-XH ở huyện Đại Lộc là nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi trong dân cư trên địa bàn thông qua hệ thống tín dụng ngân hàng, kết hợp với nguồn vốn huy động được trong huyện với ngoài huyện, ngoài tỉnh, ngoài nước…Tuy vậy, trên thực tế ở nước ta nói chung, Đại Lộc nói riêng, việc nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với phát triển KT-XH huyện đang còn nhiều bất cập. Là người nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, gắn bó với địa bàn nông nghiệp, nông thôn, tác giả luận văn nhận thấy, trong giai đoạn hiện nay việc nghiên cứu để nhận thức đúng vị trí, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với phát triển KT-XH đang là vấn đề nóng, không chỉ của riêng ngành Ngân hàng, mà còn là của xã hội. Từ những lý do trên, tác giả chọn “Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn đối với phát triển kinh tế - xã hội ở Đại Lộc, Quảng Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Cao học Kinh tế chính trị, với lòng mong muốn góp phần làm rõ vị trí, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với chiến lược phát triển KT-XH, đề xuất những quan điểm, giải pháp đúng đắn sử dụng công cụ tín dụng ngân hàng và nâng cao vai trò của nó để tác động vào quá trình phát triển KT-XH, không chỉ trên địa bàn huyện Đại Lộc mà còn có thể áp dụng cho các huyện trung du, đồng bằng có điều kiện tương tự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về hoạt động tín dụng, vai trò của tín dụng cho phát triển KT-XH đã có nhiều công trình, bài viết được công bố và đăng tải. Tiêu biểu như:
- Đổi mới hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Luận văn Thạc sỹ Kinh tế (Chuyên ngành Quản lý kinh tế), Võ Văn Lâm, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1999.
- Tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn nhằm phát triển ngành nông nghiệp tại tỉnh Thanh Hoá. Luận văn Thạc sỹ kinh tế (Chuyên ngành Kinh tế phát triển), Đặng Ngọc Ba, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
- Giải pháp tín dụng ngân hàng góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Luận văn Thạc sỹ Kinh tế (Chuyên ngành Kinh tế tài chính – ngân hàng), Phan Xuân Sinh, Học viện Ngân hàng, 2006.
- Đẩy mạnh tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. PGS-TS Đỗ Tất Ngọc, Tạp chí Tài chính tiền tệ ( Số 1), 4.2005
Tuy nhiên, những công trình, tác phẩm đó được tiếp cận từ nhiều giác độ và mục đích khác nhau: đổi mới tín dụng để phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tín dụng cho kinh tế nông nghiệp nông thôn; tín dụng cho phát triển làng nghề; tín dụng với kinh tế tư nhân v.v.. Nhưng vấn đề tín dụng của NHNo&PTNT đối với phát triển KT-XH trên địa bàn huyện Đại Lộc thì chưa có công trình nào nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ vị trí, vai trò tín dụng của NHNo&PTNT đối với phát triển KT-XH trên địa bàn huyện. Đánh giá đúng đắn thực trạng quan hệ tín dụng giữa NHNo&PTNT với các chủ thể trên địa bàn để đề xuất các giải pháp tín dụng thúc đẩy phát triển KT-XH ở huyện Đại Lộc.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ về mặt lý luận vai trò tín dụng của NHNo&PTNT đối với phát triển KT-XH trên địa bàn huyện.
- Phân tích đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT đối với phát triển KT-XH ở Đại Lộc, Quảng Nam.
- Đề xuất các quan điểm sử dụng công cụ tín dụng và một số giải pháp phát huy vai trò tín dụng của NHNo&PTNT đối với phát triển KT-XH ở Đại Lộc, Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu quan hệ tín dụng giữa NHNo&PTNT với các chủ thể khác trong quá trình phát triển KT-XH ở Đại Lộc, Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn chủ yếu nghiên cứu quan hệ tín dụng giữa NHNo&PTNT với các chủ thể kinh tế trên địa bàn Đại Lộc, Quảng Nam.
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng từ 2001 đến 2005 và đề xuất các giải pháp cho giai đoạn 2006 - 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác Lênin vào nghiên cứu đề tài dưới góc độ kinh tế - chính trị thông qua phương pháp trừu tượng hoá. Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp: điều tra khảo sát, thu thập số liệu, tư liệu, phân tổ, phân tích để rút ra các kết luận cần thiết.
6. Đóng góp của đề tài nghiên cứu
- Luận giải vai trò của tín dụng NHNo&PTNT đối với phát triển KT-XH trên địa bàn huyện.
- Phân tích đánh giá đúng thực trạng hoạt động và vai trò của tín dụng NHNo&PTNT đối với sự phát triển KT-XH trên địa bàn Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của tín dụng NHNo&PTNT đối với sự phát triển KT-XH ở Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Tín dụng và vai trò của tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đối với phát triển kinh tế - xã hội ở huyện
1.1. Tín dụng trên địa bàn huyện
1.1.1. Khái niệm và bản chất tín dụng
Tín dụng có nguồn gốc từ thuật ngữ la tinh “Credittum”, có nghĩa gốc là sự tin tưởng, tín nhiệm, theo nghĩa thông thường được hiểu là tin tưởng và sử dụng. Trong KTCT học, tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hoá, là hình thức vận động của vốn vay, nó biểu thị mối quan hệ dựa trên nền tảng của lòng tin giữa một bên là sở hữu tài sản và một bên là có nhu cầu sử dụng tài sản đó.
Theo Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác - Lênin, “Tín dụng phản ánh quan hệ kinh tế giữa chủ thể sở hữu và các chủ thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế trên nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn cả gốc lẫn lợi tức” [9, tr.594].
Như vậy, về bản chất, tín dụng bao gồm các nội dung sau:
- Nhượng quyền sử dụng tài sản (bằng tiền hay tài sản có giá trị bằng tiền) chứ không nhượng quyền sở hữu tài sản.
- Phải hoàn trả theo thời hạn nhất định.
- Phải trả cả lợi tức (lãi).
C.Mác viết: “Tín dụng là hình thức xã hội của của cải” [17, tr.327]. Quan hệ tín dụng là một bộ phận của quan hệ sản xuất xã hội, do đó nó lệ thuộc vào bản chất cuả xã hội.
Dưới chế độ phong kiến, quan hệ giữa người cho vay với người đi vay phổ biến là cho vay nặng lãi. Lợi tức cho vay là rất cao, người cho vay thu toàn bộ sản phẩm thặng dư và có khi còn lấy vào phần sản phẩm tất yếu của người đi vay. Tư bản cho vay nặng lãi dựa trên quan hệ người cho vay bắt bí, bắt chẹt người đi vay, nhất là những người sản xuất nhỏ mỗi khi xảy ra thiên tai địch hoạ.
Trong nền sản xuất TBCN, tín dụng là hình thức vận động của tư bản cho vay, đảm bảo lợi ích của người đi vay, lợi tức chỉ là một bộ phận của lợi nhuận bình quân mà người đi vay đem trả cho người cho vay, nhằm mục đích phân phối lại tư bản, đưa tư bản nhàn rỗi vào hoạt động để tạo ra giá trị thặng dư đem lại lợi ích cho người đi vay và người cho vay.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN “Nhà nước quản lý tín dụng nhằm đảm bảo hài hoà lợi ích của chủ thể cho vay và đi vay với lợi ích chung của toàn xã hội” [36, tr.113]. Đặc điểm chung của quan hệ tín dụng hiện nay ở nước ta là có nhiều chủ thể cùng có quan hệ tín dụng với nhau nhằm thực hiện những mục tiêu kinh doanh với những nguồn lợi tức khác nhau. Do đó, các tổ chức tín dụng luôn có mối quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh, dưới sự bảo đảm của pháp luật. Trong môi trường đó, các tổ chức tín dụng của Nhà nước phải không ngừng lớn mạnh để nắm giữ và làm tốt vai trò chủ đạo đối với thị trường tài chính tiền tệ và tín dụng, đảm bảo định hướng XHCN trong quan hệ tín dụng toàn xã hội.
1.1.2. Đặc điểm và mối quan hệ của các hình thức tín dụng trên địa bàn huyện
1.1.2.1. Đặc điểm của các hình thức tín dụng trên địa bàn huyện
Địa bàn huyện ở nước ta hiện nay tuy là cùng cấp hành chính với quận thuộc thành phố, thị xã thuộc tỉnh, song về mặt kinh tế, huyện thuộc khu vực nông nghiệp, nông thôn, không có tính tập trung đông dân cư và có CN, DV phát triển như thị xã và quận.
Do kinh tế trên địa bàn huyện còn kém phát triển, nên hiện nay tín dụng cho vay nặng lãi vẫn tồn tại bên cạnh các hình tức khác là tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước và tín dụng tập thể.
- Tín dụng cho vay nặng lãi:
Là hình thức tín dụng xuất hiện từ giai đoạn của chế độ nô lệ và phát triển mạnh vào giai đoạn chế độ phong kiến. Tuy nhiên, ngày nay tín dụng nặng lãi vẫn còn tồn tại dai dẵng ở nhiều nước. ở nước ta, trong điều kiện tín dụng ngân hàng chưa đến với người dân kịp thời thì tín dụng cho vay nặng lãi vẫn tồn tại dưới nhiều hình thức như: “bốc nóng”, “biêu”, “hụi”, “họ”... Chính các hình thức này là nguyên nhân của rất nhiều vấn đề bức xúc của xã hội.
Đặc điểm của tín dụng cho vay nặng lãi:
Có lãi suất rất cao so với các loại tín dụng khác, thường vượt xa quá mức sản phẩm thặng dư;
Sự tồn tại của hình thức tín dụng cho vay nặng lãi là do nhu cầu sản xuất và tiêu dùng; gia đình gặp thiên tai địch hoạ hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh.
Hình thức cho vay gồm cả tiền, hiện vật, dịch vụ, việc trả nợ cũng có thể là tiền, hiện vật, dịch vụ.
Tác hại của tín dụng nặng lãi đã được C.Mác đánh giá:
Nó không làm cho phương thức sản xuất thay đổi, nhưng bám chặt các vòi của nó vào phương thức sản xuất này như giống ký sinh trùng và làm cho nền sản xuất trở nên bần cùng. Nó làm cho sản xuất trở nên khánh kiệt, rút hết sức lực của nền sản xuất và khiến cho việc tái sản xuất phải tiến hành trong những điều kiện ngày càng thảm hại [17, tr.357].
- Tín dụng thương mại:
Tín dụng thương mại là việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ của một bên cho bên còn lại, theo cách không trả tiền ngay mà được chịu nợ với kỳ hạn và lợi tức nhất định. Tín dụng thương mại có mặt ở tất cả các quy mô lớn nhỏ của quan hệ mua bán, từ những hợp đồng mua bán lớn giữa các doanh nghiệp với nhau, đến các hợp đồng cung ứng hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình. Từ lý do đó, tín dụng thương mại là hình thức tín dụng phổ biến và không thể thiếu trên mọi địa bàn trong nền kinh tế thị trường.
Tín dụng thương mại có đặc điểm:
Số vốn tiền tệ cho vay là giá trị hàng hoá bán được, tính thêm cả lãi suất của người sản xuất, kinh doanh, thực hiện trong quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
Giá trị hàng hoá cho vay là một bộ phận trong vốn lưu động của người vay;
Quan hệ tín dụng thương mại dựa trên cơ sở của sự tín nhiệm giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau, giữa các nhà sản xuất và người tiêu dùng.
Hình thức thực hiện tín dụng thương mại là giấy biên nhận cam kết nghĩa vụ trả nợ của bên mua cho bên bán theo kỳ hạn cụ thể. Những giấy biên nhận đó được gọi là hối phiếu thương mại hay thương phiếu.
- Tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng được thực hiện thông qua vai trò trung tâm của ngân hàng. Đây là hình thức tín dụng rất quan trọng trên địa bàn huyện, đáp ứng được phần lớn các nhu cầu về tín dụng cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân. Tín dụng ngân hàng gắn liền với trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường, do vậy quy mô và chất lượng phát triển của tín dụng ngân hàng chứng tỏ được trình độ phát triển của thị trường và nền kinh tế.
Tuỳ theo tiêu chí khảo sát, tín dụng ngân hàng được phân chia thành nhiều loại khác nhau. Nếu xét theo thời hạn thì có tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Xét theo đối tượng đầu tư thì có tín dụng vốn lưu động và tín dụng vốn cố định. Nhưng nếu xét theo loại hình sở hữu thì tín dụng ngân hàng gồm có tín dụng NHTMNN, tín dụng ngân hàng chính sách, tín dụng ngân hàng phát triển; Theo lĩnh vực kinh doanh có tín dụng của NHCT, NHNT, NHĐT&PT, NHNo&PTNT, NHTMCP, ngân hàng nước ngoài...
Hiện nay ở nước ta, với nhiều mức độ và hình thức thâm nhập khác nhau, trên địa bàn huyện hầu như đều có mặt tất cả các loại hình tín dụng ngân hàng nêu trên. Tuy nhiên, ở đại bộ phận huyện, kinh tế nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế, tín dụng của NHNo&PTNT vẫn luôn chiếm phần chủ yếu, đại diện cho NHTMNN, có vai trò chủ đạo, chủ lực đối với thị trường tài chính, tiền tệ, tín dụng và sự phát triển KT-XH ở khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Tín dụng của NHNo&PTNT trên địa bàn huyện có những đặc thù riêng, đó là:
Một là, đối tượng của tín dụng NHNo&PTNT trên địa bàn huyện chủ yếu là phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn, phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên, tính rũi ro cao, vòng quay tín dụng thấp, thời hạn cho vay dài (chủ yếu là trung và dài hạn).
Địa bàn huyện có kinh tế nông nghiệp chiếm phần chủ yếu, do vậy tín dụng của NHNo&PTNT trên địa bàn huyện, dù là dưới hình thức nào, đa phần cũng xuất phát chủ yếu từ nhu cầu sản xuất nông nghiệp, phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn hoặc tiêu dùng. Từ đó, sự vận động của tín dụng phụ thuộc rất lớn vào tính mùa vụ, điều kiện tự nhiên, thời hạn luân chuyển của vốn vì thế mà bị kéo dài, tính rủi ro cao.
Hai là, quy trình kỹ thuật tín dụng áp dụng phức tạp, chi phí lớn.
Đối tượng phục vụ của tín dụng của NHNo&PTNT trên địa bàn huyện chủ yếu là những đối tượng sinh học (cây, con) phục vụ cho nông nghiệp, có vòng đời sinh trưởng khác nhau. Yêu cầu của việc đầu tư tín dụng là phải nắm bắt được quá trình phát triển của cây trồng, con vật nuôi. Do vậy, công tác thẩm định để đầu tư đòi hỏi quy trình kỹ thuật phức tạp, áp dụng riêng cho từng loại đối tượng vay vốn. Chi phí thẩm định vì thế mà có thể rất cao.
Ba là, ý thức chấp hành kỷ cương pháp luật, trình độ sản xuất kinh doanh và năng lực hạch toán kinh tế của người vay trong quan hệ tín dụng trên địa bàn huyện là thấp.
Phần lớn chủ thể vay vốn trong quan hệ tín dụng trên địa bàn huyện chủ yếu là nông dân, đầu tư vào lĩnh vực chính là nông nghiệp, nông thôn. Trình độ hạch toán kinh tế của người vay, ý thức chấp hành kỷ cương pháp luật nói chung là thấp. Người vay vốn không ý thức được đầy đủ việc chấp hành các quy trình tín dụng, kỷ cương pháp luật, thiếu khả năng hạch toán kinh tế và trình độ kỹ thuật để có thể tự xây dựng được những dự án đầu tư hiệu quả, chỉ làm theo kinh nghiệm là chính. Từ đó ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả và rũi ro tín dụng.
Bốn là, tín dụng của NHNo&PTNT trên địa bàn huyện có tính đảm bảo bằng tài sản thấp, chủ yếu dựa trên chữ tín.
Do tín dụng của NHNo&PTNT trên địa bàn huyện có tính rũi ro cao nên muốn đảm bảo tính an toàn các chi nhánh NHNo&PTNT đều phải lấy thế chấp tài sản làm điều kiện quyết định để cho vay. Tuy nhiên, điều nghịch lý là tài sản thế chấp ở nông thôn thì thường có giá trị thấp, khó thanh lý khi quan hệ tín dụng bị phá vỡ. Từ lý do đó, thực chất quan hệ tín dụng trên địa bàn huyện đều phải chủ yếu dựa trên chữ tín để quyết định cho vay. Trong nhiều trường hợp có tài sản làm đảm bảo nhưng đó cũng chỉ là điều kiện chủ thể cho vay ràng buộc người vay tôn trọng hợp đồng, tìm nguồn khác trả nợ khi việc làm ăn thất bại, chứ không phải với mục đích thanh lý tài sản thế chấp để thu nợ. Thực tế cho thấy tỷ lệ thanh lý, phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi vốn vay thành công đạt được là rất thấp. Đây là một tính chất rất đặc thù của các hình thức tín dụng trên địa bàn huyện hiện nay.
- Tín dụng nhà nước:
Tín dụng nhà nước là quan hệ vay mượn có hoàn trả vốn và lãi theo thời hạn nhất định, giữa nhà nước với các tổ chức kinh tế, với các tầng lớp dân cư, với nước ngoài...
Trong hình thức này, nhà nước là người đi vay bằng cách phát hành công trái, trái phiếu có mục đích, tín phiếu kho bạc... nhằm bổ sung vào khoản ngân sách bị thiếu hụt, thực hiện các chương trình dự án lớn có tầm cỡ quốc gia. Mặt khác, nhà nước cũng có thể là người cho vay, trong các chương trình tài trợ vốn có mục đích – thông qua các trung gian tài chính, tín dụng của nhà nước – nhằm khắc phục thiên tai, xoá đói giảm nghèo...
ở nước ta tín dụng nhà nước do Chính phủ thực hiện huy động vốn hoặc Chính phủ cho phép chính quyền nhà nước cấp tỉnh, thành phố huy động vốn qua phát hành trái phiếu có sự bảo lãnh của Chính phủ. Chính quyền nhà nước cấp huyện trở xuống không được phép phát hành trái phiếu. Song chính quyền nhà nước cấp huyện và cấp xã lại có vai trò rất quan trọng trong việc huy động và sử dụng vốn tín dụng nhà nước trên địa bàn.
- Tín dụng tập thể:
Là hình thức tín dụng dựa trên nguyên tắc tự nguyện, hợp tác, giữa các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình, thành lập để cho vay giữa tổ chức và thành viên, kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng, theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và Luật Hợp tác xã. Mục đích chủ yếu của hình thức tín dụng tập thể là tương trợ để phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống.
ở nước ta, hình thức tín dụng tập thể từng được hình thành với các tên gọi: hợp tác xã tín dụng, quỹ tín dụng, quỹ tín dụng nhân dân... Tuy nhiên, qua quá trình biến động, đổ vỡ hàng loạt các quỹ tín dụng vào những năm 1988, 1989, theo Chỉ thị số 57/CT-TW, ngày 10/10/2000 của Bộ Chính trị và Nghị định số 48/2001/NĐ-CP, ngày 13/8/2001 của Chính Phủ, loại hình tín dụng tập thể đã được củng cố và hoàn thiện lại, chỉ với tên gọi là Quỹ tín dụng nhân dân. Hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân hiện nay gồm Quỹ tín dụng nhân dân trung ương với 24 chi nhánh và 898 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở [31, tr.105]. Thị phần hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân hiện nay còn tương đối nhỏ (dưới 2%), nhưng nó có vai trò rất quan trọng đối với nhu cầu về tín dụng ở những vùng tín dụng ngân hàng chưa thể vươn tới.
1.1.2.2. Mối quan hệ giữa các hình thức tín dụng trên địa bàn huyện
Các hình thức tín dụng trên địa bàn huyện hiện nay tồn tại đan xen lẫn nhau và có mối quan hệ hợp tác, cạnh tranh lẫn nhau. Trong các quan hệ phức tạp đó, để nền kinh tế phát triển đảm bảo đúng định hướng XHCN, đòi hỏi quan hệ tín dụng của thành phần kinh tế nhà nước, bao gồm tín dụng nhà nước, tín dụng NHCSXH và tín dụng NHTMNN phải đủ lớn mạnh và phát triển mới có thể nắm giữ được vai trò chủ đạo, chủ lực trong quan hệ tín dụng của toàn bộ nền kinh tế.
Quan hệ hợp tác và cạnh tranh của các hình thức tín dụng trên địa bàn huyện thể hiện như sau:
Đó là sự bổ sung, tạo điều kiện cho nhau để cùng tồn tại và phát triển, phát huy đến mức cao nhất vai trò tích cực của tín dụng đối với sự phát triển KT-XH. Đây là mối quan hệ được nhà nước khuyến khích phát triển. Tại Điều 16, khoản 1, Luật các tổ chức tín dụng quy định :“Các tổ chức hoạt động ngân hàng được hợp tác và cạnh tranh hợp pháp” [15, tr.102], trong đó quan hệ hợp tác chỉ có thể xảy ra đối với các hình thức tín dụng hợp pháp mà thôi. Riêng sự tồn tại của tín dụng nặng lãi không được luật pháp và xã hội thừa nhận, song thực tế nó vẫn lén lút tồn tại, bất chấp pháp luật và tác hại cũng rất khó lường.
Đồng thời với quan hệ hợp tác là sự cạnh tranh giữa các hình thức tín dụng để giành thị phần, với mục đích cuối cùng là lợi nhuận cho đơn vị mình. Theo đó, sự cạnh tranh chỉ xảy ra với các TCTD có cùng chung địa bàn hoạt động, cùng chung nhóm đối tượng khách hàng. Tuy nhiên, trên địa bàn huyện hiện nay sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng diễn ra không phải lúc nào cũng chỉ với các tổ chức tín dụng có mặt trên địa bàn, mà có thể xảy ra cả với các TCTD ngoài địa bàn, khi quy định về địa bàn hoạt động của các tổ chức tín dụng hiện nay còn có nhiều điểm khác biệt. Đơn cử là, đối với NHNo&PTNT thì địa bàn được phân định rõ, chi nhánh NHNo&PTNT chỉ cho vay các đối tượng khách hàng trên địa bàn của mình mà không có quyền tự ý cho vay đối với các khách hàng ngoài địa bàn, kể cả khách hàng nới khác đến đặt cơ sở SXKD trên địa bàn. Trong khi đó các NHTMCP, chi nhánh ngân hàng vốn nước ngoài thì không phải bị ràng buộc bởi “quy chế địa bàn”…
Quan hệ hợp tác và cạnh tranh của các hình thức tín dụng được biểu hiện ở các mặt sau:
- Quan hệ giữa tín dụng ngân hàng với tín dụng tập thể:
Trong điều kiện ngân hàng chưa thiết lập được quan hệ với khắp các hộ thì sự hiện hữu và phát triển của tín dụng tập thể là hết sức cần thiết, vừa ngăn ngừa sự tồn tại và tác hại của tín dụng nặng lãi, vừa có vai trò động lực kích thích sản xuất, kinh doanh và các nhu cầu đời sống, đặc biệt là trên địa bàn nông thôn. Tín dụng tập thể là cầu nối giữa ngân hàng với các hộ trên địa trong huy động và cho vay vốn. NHTM cho các tổ chức tín dụng tập thể vay để cho vay lại đối với các hộ trên địa bàn. Ngược lại, vốn nhà rỗi của các hộ, cơ sở kinh doanh trên địa bàn mà các tổ chức tín dụng tập thể huy động được, trong trường hợp vượt quá nhu cầu cho vay trên địa bàn thì các tổ chức tín dụng tập thể cho các NHTM vay để điều hoà vốn trên quy mô rộng lớn hơn. Thông qua mối quan hệ tín dụng giữa NHTM với các tổ chức tín dụng tấp thể, tín dụng NHTM đã tác động gián tiếp đến các hộ trên những vùng xa xôi hẻo lánh. Từ đó, tạo tiền đề để sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển.
- Quan hệ giữa tín dụng nhà nước với tín dụng ngân hàng và tín dụng tập thể:
Nhà nước huy động vốn thông qua tín dụng nhà nước để thực hiện các chương trình mục tiêu có tầm cỡ quốc gia, dưới các hình thức trái phiếu Chính phủ, trái phiếu kho bạc, công trái xây dựng Tổ quốc...
Trong quá trình chu chuyển, khi vốn tín dụng nhà nước huy động được chưa đưa ngay vào sử dụng, sẽ xuất hiện trạng thái “chờ”. Khi đó nguồn vốn này – hiện hữu trên tài tài khoản tại ngân hàng thương mại – sẽ tạo vốn cho ngân hàng thương mại sử dụng để cho vay đối với các chủ thể, kể cả các yêu cầu về vốn của tín dụng tập thể, nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển KT-XH trên địa bàn.
Vốn tín dụng nhà nước hiện nay phần lớn được huy động thông qua hệ thống Kho bạc Nhà nước, có tài khoản tiền gửi tại NHTM. Trong nhiều trường hợp đây là bộ phận vốn chiếm tỷ trọng đáng kể trong nguồn vốn tín dụng ngân hàng thương mại.
- Quan hệ hợp tác và cạnh tranh trong nội bộ của tín dụng các ngân hàng có trên địa bàn huyện:
Về lãi suất cho vay: Hiện nay cơ chế về lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đều phải chấp hành quy chế của NHNN về lãi suất cơ bản, đồng thời thực hiện đúng cam kết của Hiệp hội Ngân hàng. Trong đó, NHCSXH được áp dụng mức lãi suất thấp hơn mặt bằng chung, và có thể thấp hơn lãi suất cơ bản của NHNN để phục vụ đối tượng vay vốn là các đối tượng chính sách xã hội, người nghèo, sinh viên học sinh... Cần thấy đây là điều kiện vừa đảm bảo cho tính hợp tác, vừa đảm bảo cho sự cạnh tranh lành mạnh và hợp pháp giữa các tổ chức tín dụng với nhau.
Về phân vùng phục vụ: Đối tượng của tín dụng NHCSXH như đã phân tích trên, thuộc về các đối tượng chính sách xã hội, người nghèo, sinh viên, học sinh.... Còn đối tượng của NHNo&PTNT là các đối tượng còn lại.
Tuy nhiên, việc phân định nói trên, đôi lúc, đôi nơi vẫn còn tình trạng không rõ ràng, dẫn đến việc cho vay trùng lắp, chồng chéo. Khi đó, nếu không có sự hợp tác chặt chẽ giữa các tổ chức tín dụng trên địa bàn về thông tin khách hàng thì rũi ro là khó tránh khỏi.
Về tạo nguồn: Theo Thông tư 04/2003/TT-NHNN, ngày 24/2/2003 của Thống đốc NHNN về việc “hướng dẫn các tổ chức tín dụng nhà nước duy trì tiền gửi tại NHCSXH” quy định các ngân hàng thương mại nhà nước đều phải duy trì số dư tiền gửi tại NHCSXH để loại hình ngân hàng đặc biệt này đảm bảo duy trì hoạt động an toàn. Ngược lại, các phòng Giao dịch NHCSXH lại là một đầu mối mở tài khoản tại chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn, góp phần tạo nguồn vốn để NHNo&PTNT cho vay.
Cạnh tranh hợp pháp trong phạm vi nội bộ tín dụng ngân hàng trên địa bàn huyện hiện nay thể hiện ở các mặt: Thương hiệu, lãi suất, tiện ích và sản phẩm dịch vụ, thái độ phục vụ, văn hoá doanh nghiệp, chính sách khách hàng v.v.., được pháp luật nhà nước đảm bảo và chỉ khi đó cạnh tranh mới có những tác động tích cực đến sự phát triển KT-XH. Hoạt động cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng càng gay gắt thì khách hàng là người được hưởng lợi. Điều đó có thể có lợi nhất thời cho các chủ thể kinh tế liên quan mà đôi khi gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng tham gia thị trường, làm hạn chế vai trò đối với sự phát triển KT-XH trên địa bàn. Do vậy, để đảm bảo sự phát triển hài hoà, các tổ chức tín dụng cần phải xử lý tốt mối quan hệ giữa sự hợp tác và cạnh tranh hợp pháp.
Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay ở nước ta quan hệ cạnh tranh giữa các hình thức tín dụng là tất yếu và được Nhà nước đảm bảo tính lành mạnh và hợp pháp, nhằm tránh việc cạnh tranh có thể “gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng và lợi ích hợp pháp giữa các bên” [15, tr.102].
Theo Luật các tổ chức tín dụng 2004, hành vi cạnh tranh bất hợp pháp bao gồm: Khuyến mại bất hợp pháp, thông tin sai sự thật làm tổn hại lợi ích của tổ chức tín dụng khác và của khách hàng, đầu cơ lũng đoạn thị trường tiền tệ, vàng, ngoại tệ, v.v..
Hiện nay trước yêu cầu hội nhập, thời điểm Việt Nam gia nhập WTO đang đến gần, thì hoạt động của các tổ chức tín dụng trong nước sẽ phải đối mặt với thách thức to lớn của sự cạnh tranh quốc tế. Theo GS-TS Nguyễn Duy Gia, đó là “bước ngoặc lịch sử vĩ đại – bước vào giai đoạn sống còn, giai đoạn cạnh tranh khốc liệt” [8, tr.15].
Đến lúc đó, do đòi hỏi của hội nhập kinh tế quốc tế, nhà nước sẽ phải: Xoá bỏ các bảo hộ đối với hoạt động ngân hàng trong nước, nới lỏng các điều kiện hoạt động của ngân hàng nước ngoài, tuân thủ theo tiêu chuẩn và chuẩn mực quốc tế, tạo sân chơi bình đẳng, công khai, minh bạch trong hoạt động ngân hàng. Khi đó, các lợi thế hiện đang nghiêng về NHNo&PTNT, trên địa bàn huyện sẽ dần dần biến mất, thay vào đó là môi trường thông thoáng, thuận lợi chia đều cho tất cả các bên tham gia thị phần tín dụng. Để giữ được vai trò chủ đạo trên địa bàn huyện, NHNo&PTNT chỉ có một con đường là “cạnh tranh, phát triển và hội nhập” [8, tr.15], đòi hỏi sự đổi mới mạnh mẽ, tích cực của bản thân ngành Ngân hàng, đồng thời Nhà nước cần phải có những cơ chế chính sách để hỗ trợ, giúp sức như: tăng vốn điều lệ của NHNo&PTNT , các cơ chế bảo hộ sản xuất nông nghiệp, các chính sách đòn bẩy khuyến nông, khuyến lâm, ngư…
1.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và điều kiện đảm bảo phát huy vai trò của nó đối với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện
1.2.1. Vai trò của tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thông đối với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện
Kết quả phân tích các hình thức tín dụng trên đây cho thấy đại bộ phận huyện ở nước ta hiện nay NHNo&PTNT là loại hình tín dụng NHTMNN chiếm thị phần chủ yếu, thực hiện vai trò chủ đạo, chủ lực của kinh tế nhà nước trong phát triển nông nghiệp, nông thôn. Những vai trò đó thể hiện ở các mặt sau:
1.2.1.1. Đáp ứng nhu cầu về vốn cho mọi hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, hạn chế nạn cho vay nặng lãi
Là NHTMNN hoạt động chủ yếu trên địa bàn huyện, NHNo&PTNT phải đáp ứng yêu cầu về vốn tín dụng cho tất cả các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trên địa bàn.
NHNo&PTNT trên địa bàn huyện luôn có bộ máy tổ chức màng lưới rộng khắp, ngoài các chi nhánh cấp 2, còn có các chi nhánh cấp 3, phòng Giao dịch, các tổ cho vay lưu động… Sự phát triển về số lượng và chất lượng hoạt động của tổ chức mạng lưới đã giúp cho quan hệ của các chủ thể và ngân hàng được mở rộng và ngày càng được nâng cao.
NHNo&PTNT luôn luôn dẫn đầu về thị phần tín dụng và tiền gửi ở khu vực nông nghiệp nông thôn. Vào thời điểm 31/12/2005 có đến 9,4 triệu hộ có dư nợ vay vốn NHNo&PTNT tương ứng với 93 ngàn tỷ đồng, chiếm 75% tổng số hộ nông dân trong toàn quốc, tiền gửi dân cư tại NHNo&PTNT là 78.243 tỷ đồng [31, tr.10]. Bằng cách đó, NHNo&PTNT đã trở thành lực lượng chính để giải quyết tận gốc nạn cho vay nặng lãi ở khu vực nông thôn.
1.2.1.2. Giải phóng các nguồn lực, khai thác tốt các tiềm năng, tạo công ăn việc làm
Nước ta là nước đang phát triển, tiềm năng về đất đai, tài nguyên, lao động là rất lớn. Để xây dựng đất nước theo hướng CNH, HĐH đòi hỏi phải phát huy mạnh mẽ các nguồn lực, tiềm năng thế mạnh sẵn có, bằng các chính sách hợp lý. Trong đó, tín dụng của NHNo&PTNT phải được xem là công cụ đòn bẩy thích hợp, góp phần động viên các nguồn lực vào sản xuất.
Từ đồng vốn tín dụng của NHNo&PTNT đã tác động vào việc khai thác các nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, đất đai, thổ nhưỡng, lao động để tạo nên những sản phẩm hàng hoá, mang lại lợi ích thiết thực cho người sản xuất kinh doanh và người lao động địa phương.
Mặt khác, trên địa bàn huyện ở nước ta với lực lượng lao động dồi dào, hàng năm có từ 5 - 6 triệu người không có đủ việc làm dưới nhiều hình thái khác nhau, đã tạo nên một áp lực rất lớn về việc làm. Giải quyết vấn đề đó hoàn t._.oàn không đơn giản, nhất thiết phải vận dụng nhiều con đường, nhiều giải pháp đồng bộ thì mới mang lại hiệu quả. Trong số các giải pháp đó, việc vận dụng công cụ tín dụng ngân hàng, cụ thể là tín dụng của NHNo&PTNT mang lại những hiệu quả thiết thực.
1.2.1.3. Thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất, đẩy nhanh phát triển sản xuất hàng hoá
Từ sau các cuộc cải cách quan trọng, mang tính cách mạng trong sản xuất nông nghịêp, mở đầu là Chỉ thị 100/CT của Ban Bí thư và sau đó là Nghị quyết 10/NQ của Bộ Chính trị, nông nghiệp ở nước ta được “cởi trói”, hầu hết các hộ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện đều có ruộng đất nhận khoán để sản xuất, cùng với cơ chế khoán hợp lý đã tạo nên những bước phát triển vượt bậc.
Tuy nhiên theo yêu cầu phát triển, để hướng đến nền sản xuất hàng hoá, sản xuất nông nghiệp phải chuyển đổi cơ cấu giống và mùa vụ, quy hoạch các vùng chuyên canh, tăng quy mô sản xuất… Đó cũng là quá trình vừa mang tính tự phát, vừa mang tính tự giác dẫn đến tích tụ và tập trung ruộng đất. Nhiều hộ có năng lực tổ chức sản xuất lớn, có vốn đã tìm cách mở rộng quy mô sản xuất của mình. Cùng lúc đó, nhiều hộ thiếu điều kiện hơn đã nhượng lại quyền sử dụng đất cho các hộ có nhu cầu, để chọn ngành nghề kinh doanh phù hợp. Trong quá trình đó, vốn tín dụng của NHNo&PTNT đã được các nhà đầu tư sử dụng để mua lại quyền sử dụng đất, mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị, cải tiến quy trình sản xuất để tăng năng suất, đẩy mạnh sản xuất hàng hoá.
Khi quy mô sản xuất được mở rộng, việc tích tụ và tập trung ruộng đất càng lớn thì nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng cũng tăng cao tương ứng, càng đẩy mạnh được sản xuất, sản lượng hàng hoá cũng được tăng cao, mở rộng cho tiêu dùng và xuất khẩu.
Việc đổi mới cơ chế trong sản xuất nông nghiệp, áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại vào sản xuất, và nhất là việc sử dụng có hiệu quả công cụ tín dụng vào các chính sách phát triển đã mang lại những thành công rực rỡ trong sản xuất hàng hoá. Từ một nước phải nhập khẩu lương thực, những năm 80 (Thế kỷ XX), đến nay nước ta đã vươn lên trở thành nước có sản lượng xuất khẩu gạo vào hàng nhất, nhì của Thế giới.
1.2.1.4. Góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội ở địa phương
Với ưu thế về thị phần trên địa bàn huyện, tín dụng của NHNo&PTNT đã đáp ứng được phần lớn các nhu cầu tín dụng đối với tất cả các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình, đáp ứng tất cả các yêu cầu của sản xuất kinh doanh, thực hiện các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng, các dự án sử dụng nhiều lao động, ứng dụng được các công nghệ tiên tiến, tác động tích cực vào quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, đưa sánh sáng của các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội ở địa phương.
Các đường dẫn đưa vốn tín dụng NHNo&PTNT cho phát triển nông nghiệp, nông thôn là thông qua quan hệ tín dụng của: Các chủ đầu tư, chủ dự án với các chi nhánh NHNo&PTNT để thi công các công trình cải tạo, nâng cấp hoặc làm mới về đường sá, cầu cống, trường học, các công trình thuỷ lợi, giao thông nông thôn, lưới điện, các cơ sở công cộng; Các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, hộ gia đình vay vốn thực hiện các dự án phát triển làng nghề truyền thống, chế biến nông sản có dây chuyền sản xuất, trang thiết bị và công nghệ hiện đại; Các dự án phát triển kinh tế trang trại quy mô lớn, sử dụng nhiều lao động, có cơ sở nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất v.v..
1.2.1.5. Nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, tăng cường hạch toán kinh tế
Thực tiễn chứng minh đại bộ phận các chủ thể kinh tế trên địa bàn huyện hiện nay đều có quan hệ tín dụng với NHNo&PTNT. Vốn tín dụng ngân hàng là vốn có thời hạn, hoàn trả cả gốc và lãi, điều đó đòi hỏi các chủ thể vay vốn NHNo&PTNT phải tính toán cân nhắc sử dụng đồng vốn mang lại hiệu quả cao nhất để vừa hoàn vốn cả gốc và lãi cho ngân hàng, vừa mang lại lợi nhuận cho mình. Từ đó, cùng với quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi tất cả các chủ thể phải biết tính toán, hạch toán, tiết kiệm chi phí, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, tăng cường sức mạnh cạnh tranh, hạ giá thành sản phẩm. Kết quả tất yếu là năng lực SXKD, khả năng hạch toán kinh tế của các chủ thể kinh tế trên địa bàn huyện ngày càng được nâng cao.
Mặt khác, NHNo&PTNT không chỉ đầu tư trực tiếp bằng nguồn vốn tự có mà còn là trung gian tài chính, làm cầu nối, huy động các nguồn tiền vốn nhàn rỗi chưa sử dụng trên địa bàn (hoặc thông qua hoạt động điều tiết nguồn vốn huy động từ nới thừa sang nơi thiếu của NHNo&PTNT Việt Nam) để cho vay thực hiện các nhu cầu sản xuất, kinh doanh và đời sống trên địa bàn huyện.
1.2.1.6. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Do có vị trí quan trọng ở nông thôn, ngoài mục tiêu lợi nhuận, tín dụng của NHNo&PTNT còn phải hướng vào các mục tiêu chương trình phát triển của Nhà nước và địa phương để xác lập được cơ cấu kinh tế hợp lý, đảm bảo sự phát triển bền vững.
Vốn tín dụng của NHNo&PTNT trên địa bàn huyện còn tác động vào quá trình lựa chọn đầu tư, dịch chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác, dẫn đến bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận, giảm sự độc quyền, thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển. Về phần mình, để đưa vốn tín dụng của NHNo&PTNT vào SXKD, Ngân hàng luôn luôn phải tính toán, lựa chọn các ngành mang lại lợi nhuận cao, lựa chọn các doanh nghiệp, chủ thể kinh tế có năng lực quản lý và tổ chức SXKD hiệu quả để đầu tư. Chính điều này đã làm cho việc di chuyển vốn tín dụng của NHNo&PTNT thích ứng với cơ cấu ngành kinh tế, phát huy sự phát triển các ngành mũi nhọn.
Ngoài ra, tiến trình CNH, HĐH luôn đòi hỏi về vốn. Trong khi khả năng tích luỹ của các bộ phận trong nền kinh tế còn thấp, thị trường vốn chưa đủ mạnh thì vốn từ tín dụng của NHNo&PTNT trong nhiều trường hợp là chủ lực của hoạt động SXKD và đầu tư phát triển.
Tóm lại, bằng sự hiện diện đều khắp của mình trên địa bàn huyện, chủ yếu là khu vực nông nghiệp, nông thôn, tín dụng của NHNo&PTNT đã luôn là động lực tích cực của sự phát triển, trở thành thành tố không thể thiếu, đồng hành với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và sự phát triển KT-XH trên địa bàn huyện nói riêng.
1.2.2. Những điều kiện đảm bảo để phát huy vai trò của tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tín dụng ngân hàng nói chung và tín dụng của NHNo&PTNT luôn là động lực rất quan trọng cho sự phát triển đúng hướng và mạnh mẽ của KT-XH. Tuy nhiên, trong mối quan hệ biện chứng, hiển nhiên tín dụng của NHNo&PTNT vẫn phải chịu sự tác động trở lại từ các mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội trên địa bàn mà nó phục vụ.
Để tín dụng của NHNo&PTNT thể hiện đầy đủ các vai trò tích cực đối với phát triển KT-XH ở huyện đòi hỏi phải có những điều kiện cần thiết sau đây:
Một là, phải có cơ chế chính sách tín dụng phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế từng thời kỳ.
Tín dụng ngân hàng luôn luôn là một công cụ đắc lực phục vụ cho chính sách tiền tệ quốc gia. Chính sách tín dụng của NHNo&PTNT trên địa bàn huyện phải phụ thuộc vào cơ chế chính sách sử dụng công cụ tín dụng của Nhà nước và Chính quyền địa phương sở tại. Hay nói cách khác, mục tiêu định hướng của chính sách tín dụng chịu sự điều tiết của mục tiêu định hướng phát triển KT-XH của nhà nước và của địa phương sở tại.
Một trong những chính sách và giải pháp lớn để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010 do Đại hội Đảng toàn quốc Lần thứ X đề ra là: “thực hiện các nguyên tắc của thị trường, hình thành đồng bộ các loại thị trường và thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN” [6, tr.187].
Giải pháp thuộc chính sách tiền tệ tín dụng là phải “ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, góp phần tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an ninh hệ thống các ngân hàng và tổ chức tín dụng”. Và để “đảm bảo an ninh hệ thống các ngân hàng và tổ chức tín dụng”, Văn kiện Đại hội Đảng X tiếp tục chỉ rõ “Nâng cao chất lượng tín dụng, khả năng sinh lời, xử lý nhanh nợ đọng, giảm tỷ lệ nợ xấu xuống mức an toàn; tăng vốn tự có của ngân hàng thương mại đạt chuẩn mực quốc tế. Tạo điều kiện thuận lợi cho dân cư và doanh nghiệp tiếp cận với các sản phẩm và tiện ích ngân hàng”. “Xây dựng các ngân hàng thương mại nhà nước lớn mạnh về mọi mặt, đủ sức làm nòng cốt trong hệ thống ngân hàng thương mại trong cơ chế thị trường”, đảm bảo cho sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng [6, tr.249].
Ngoài ra còn có các điều kiện khác, như sự đảm bảo về an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, dư luận xã hội, khả năng phòng chống thiên tai, dịch bệnh của chính quyền và nhân dân, môi trường về giáo dục, y tế v.v…
Chính sách vĩ mô của Nhà nước về tín dụng cụ thể hoá đường lối của Đảng, tạo ra những điều kiện, môi trường pháp lý để đổi mới, cơ cấu lại hoạt động ngân hàng theo hướng hiện đại và hội nhập. Quyết định Số 67/1999/QĐ-TTg, ngày 30/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ “về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn” là một văn bản điển hình, cụ thể hoá các chính sách tín dụng nói trên, nhằm đẩy mạnh sự phát triển KT-XH khu vực nông nghiệp nông thôn, thông qua công cụ đòn bẩy tín dụng.
Như vậy, cơ chế chính sách của Đảng là phải “tạo điều kiện thuận lợi” để ngân hàng thương mại nhà nước phát triển và “đủ sức làm nòng cốt trong hệ thống ngân hàng thương mại”. Tuy nhiên, việc “tạo điều kiện thuận lợi” đó lại phụ thuộc rất lớn vào việc triển khai các cơ chế chính sách của các cấp chính quyền địa phương sở tại thuộc địa bàn mà chi nhánh NHNo&PTNT phục vụ.
Mặt khác, quan hệ tín dụng là quan hệ bị ràng buộc bởi những nghĩa vụ về kinh tế. Nhưng kinh tế và sự phát triển kinh tế lại là đối tượng quản lý và cũng là mục tiêu của các cơ chế chính sách phát triển. Nếu quan hệ đó bị phá vỡ, ít nhiều sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống kinh tế của một cá nhân, một bộ phận và có thể lan toả ra toàn bộ đời sống kinh tế và cả xã hội.
Thực tiễn cho thấy không phải địa phương nào chính quyền sở tại cũng nhìn nhận đầy đủ nội dung trên. Thậm chí ở nhiều nơi, nhiều cấp vẫn còn có tư tưởng đánh đồng vai trò của NHNo&PTNT hay của ngân hàng thương mại nhà nước như một doanh nghiệp kinh doanh bình thường lấy lợi nhuận làm mục tiêu chính.
Chỉ khi NHNo&PTNT được nhìn nhận đúng đắn vị trí của nó trong nền kinh tế để có những cơ chế chính sách hỗ trợ cần thiết thì tín dụng của NHNo&PTNT mới có điều kiện phát huy tốt được vai trò tích cực của mình đối với sự phát triển KT-XH trên địa bàn huyện. Trong trường hợp ngược lại, thì NHNo&PTNT sẽ khó khăn hơn trong hoạt động làm “bà đỡ” cho sự phát triển và như vậy KT-XH địa phương cũng khó có thể phát triển được một cách tối ưu và toàn diện.
Hai là, có bộ máy hành pháp đủ mạnh, giữ vững kỷ cương pháp luật của Nhà nước.
Trên cơ sở luật pháp, chính sách phù hợp, việc giữ vững kỷ cương pháp luật tại một địa phương được xem như những phép tắc tạo nên trật tự, đảm bảo tính nghiêm minh của quá trình thực thi pháp luật trên mọi bình diện của đời sống xã hội ở địa phương đó. Kỷ cương pháp luật trên địa bàn huyện không chỉ là điều kiện đảm bảo cho tín dụng của NHNo&PTNT mà còn đảm bảo cho tất cả các quan hệ kinh tế nói chung, góp phần vào sự phát triển bền vững của tất các các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội...
Tín dụng của NHNo&PTNT vừa là quan hệ kinh tế nhưng đồng thời cũng vừa là quan hệ dân sự có tính xã hội rất cao, giữa một bên là NHNo&PTNT và bên còn lại là đông đảo các tâng lớp dân cư, các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân trên địa bàn. Do đó, nếu kỷ cương pháp luật không được giữ vững, tình trạng trốn nợ, chối nợ trong quan hệ tín dụng xảy ra tràn lan thì hiện tượng xấu của dây chuyền tâm lý rất dễ bùng phát, khi đó tác hại của nó đối với KT-XH rất khó lường.
Để giữ vững kỷ cương pháp luật trên địa bàn huyện nhất thiết phải có bộ máy hành pháp đủ mạnh để đẩy mạnh các hoạt động giám sát và thực thi pháp luật, tăng cường công tác giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành luật pháp của người dân. Do đó, cần phải nâng cao năng lực công tác của các cơ quan bảo vệ pháp luật như viện kiểm sát, toà án, an ninh, hải quan... đồng thời đẩy mạnh hoạt động giám sát của các tổ chức mặt trận, đoàn thể.
Ba là, nhu cầu phát triển kinh tế và trình độ văn hoá kinh doanh trên địa bàn huyện.
Nhu cầu phát triển kinh tế của từng hộ, từng cơ sở kinh doanh là điều kiện cần để mở rộng phạm vi và tăng qui mô khối lượng tín dụng của NHNo&PTNT trên địa bàn huyện. Nhu cầu phát triển kinh tế càng cao thì đòi hỏi tín dụng của NHNo&PTNT phải phát triển tương ứng cả về quy mô và chất lượng thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu. Khi đó, sự “phát triển tương ứng” trở thành sự đảm bảo cho tín dụng của NHNo&PTNT phát huy tốt vai trò của mình đối với KT-XH địa phương.
Trình độ văn hoá kinh doanh của các chủ thể kinh tế thể hiện khả năng dự báo, nắm bắt tình hình giá cả thị trường để tính toán được các yếu tố chi phí đầu vào, xác định hiệu quả kinh doanh cho từng mặt hàng. Từ đó, quyết định mở rộng quy mô SXKD hoặc chuyển sang kinh doanh mặt hàng khác. Ngoài ra, văn hoá kinh doanh còn thể hiện ở trình độ hiểu biết và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh, năng lực xây dựng và điều hành kế hoạch, dự án SXKD, hạch toán kinh tế, trình độ am hiểu pháp luật, am hiểu về ngân hàng và đặc biệt là ý thức giữ gìn chữ tín trong quan hệ tín dụng với NHNo&PTNT.
Trình độ văn hoá kinh doanh của các chủ thể kinh tế có quan hệ tín dụng với NHNo&PTNT sẽ tác động một cách trực tiếp vào quá trình thực hiện các hợp đồng tín dụng đã ký kết. Chỉ khi các hợp đồng tín dụng được thực hiện nghiêm túc thì vai trò tích cực của tín dụng đối với sự phát triển KT-XH mới được thực hiện đầy đủ.
Bốn là, năng lực hoạt động của NHNo&PTNT.
V.I. Lênin nói “ Không có những ngân hàng lớn thì sẽ không thể thực hiện được CNXH” [16, tr.404]. Do vậy, để KT-XH phát triển, không thể không xây dựng những ngân hàng đủ mạnh.
Trong tiến trình phục vụ cho sự phát triển của KT-XH địa phương, năng lực hoạt động của NHNo&PTNT là một nhân tố quan trọng bậc nhất, là điều kiện tiên quyết hàng đầu để gắn kết với các điều kiện khác. Hoạt động của NHNo&PTNT thể hiện chủ yếu ở các mặt: Chính sách tín dụng, nguồn vốn và khả năng huy động nguồn vốn, các loại hình dịch vụ bổ trợ, hệ thống cơ cấu tổ chức tín dụng, năng lực của đội ngũ cán bộ.
- Chính sách tín dụng của NHNo&PTNT - theo Sổ tay tín dụng NHNo&PTNT, là “hệ thống các chủ trương, định hướng quy định chi phối hoạt động tín dụng do Hội đồng Quản trị của NHNo&PTNT Việt Nam đưa ra nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn để tài trợ cho các doanh nghiệp, các hộ gia đình và cá nhân trong phạm vi cho phép của những quy định của NHNo&PTNT Việt Nam”. NHNo&PTNT Việt Nam xác định rõ mục đích của chính sách tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam là nhằm “Xác định giới hạn cho các hoạt động tín dụng”, “giảm bớt rủi ro” và bảo đảm cho tính “khách quan” của các quyết định tín dụng [30, tr.57].
Như vậy, với chính sách tín dụng thông thoáng và ngày càng được cải tiến phù hợp với thị trường và thông lệ quốc tế như hiện nay, vốn tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam luôn luôn tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân được dễ dàng tiếp cận để phục vụ cho yêu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng.
Tuy nhiên, hiệu quả của các chính sách tín dụng đó lại phụ thuộc rất lớn vào năng lực của các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn. Trong từng giai đoạn khác nhau, tuỳ thuộc vào quan điểm và chiến lược, sách lược kinh doanh - phục vụ của chi nhánh, mục tiêu định hướng phát triển KT-XH của địa phương, sự vận dụng chính sách tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT sẽ có những quyết sách khác nhau nhằm bảo toàn và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, tácđộng tích cực vào sự phát triển của KT-XH trên địa bàn.
- Nguồn vốn và khả năng huy động nguồn vốn của NHNo&PTNT quyết định “đầu ra” cho tín dụng. Theo quy chế an toàn bắt buộc, nguồn vốn huy động là tiêu chí quy định cho tổng mức tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT. Do vậy, nguồn vốn và khả năng huy động nguồn vốn của NHNo&PTNT càng mạnh, thì khả năng cấp tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn, phục vụ cho các yêu cầu phát triển KT-XH trên địa bàn càng cao.
- Các loại hình dịch vụ của ngân hàng là những sản phẩm tiện ích đi kèm với hoạt động tín dụng, bổ trợ cho các quan hệ tín dụng của ngân hàng với khách hàng.
Trong xu thế hội nhập, các loại hình dịch vụ ngân hàng luôn có xu hướng phát triển mạnh mẽ và trở thành thước đo cho “đẳng cấp” của hoạt động ngân hàng. Ngân hàng càng văn minh hiện đại thì các loại hình sản phẩm dịch vụ càng phong phú, đa dạng và doanh thu của nó cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của ngân hàng.
- Hệ thống cơ cấu tổ chức mạng lưới hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam trên địa bàn huyện hiện nay vừa là điểm mạnh, phẩn bổ đều khắp trên tất cả các địa bàn nông nghiệp, nông thôn, nhưng cũng vừa bộc lộ những hạn chế về năng lực, chất lượng phục vụ. Do vậy, củng cố, phát huy tính tích cực của tổ chức mạng lưới, nâng cao năng lực và chất lượng phục vụ của hệ thống hiện có, mở rộng chân rết tại các khu vực vùng sâu vùng xa, từng bước xoá xã trắng trong quan hệ tín dụng NHNo&PTNT … là những giải pháp hữu hiệu tăng cường sức mạnh của NHNo&PTNT, đảm bảo vai trò của tín dụng NHNo&PTNT đối với sự phát triển toàn diện của KT-XH trên địa bàn huyện hiện nay.
- Năng lực của đội ngũ cán bộ viên chức NHNo&PTNT – yếu tố thuộc về nguồn nhân lực – quyết định năng lực nội sinh của NHNo&PTNT. Là ngành kinh tế tổng hợp, NHNo&PTNT có quan hệ với hầu hết các ngành kinh tế, các tầng lớp dân cư, các tổ chức chính trị xã hội có mặt trên địa bàn, đòi hỏi cán bộ viên chức NHNo&PTNT phải đảm bảo điều kiện về trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức và khả năng nghiên cứu tiếp cận với các tri thức hiện đại thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu hoạt động và xu hướng phát triển của KT-XH trên địa bàn.
Năng lực của cán bộ NHNo&PTNT, bao gồm năng lực của bộ máy cán bộ lãnh đạo và cán bộ tác nghiệp. Năng lực lãnh đạo thể hiện ở khả năng nắm bắt, tổng kết tình hình, đề ra và tổ chức chỉ đạo thực hiện sách lược, chiến lược phát triển phù hợp với quy luật. Năng lực của cán bộ tác nghiệp là khả năng thực hiện hoàn thành nhiệm vụ được giao, trình độ am hiểu địa bàn, vận dụng các cơ chế chính sách tín dụng để áp dụng vào công tác thực tiễn…
Điều quan trọng trong vấn đề năng lực của cán bộ NHNo&PTNT là phải được bảo đảm bằng phẩm chất tư cách đạo đức. Hay nói cách khác, phẩm chất tư cách đạo đức là một nội dung không thể tách rời trong vấn đề năng lực cán bộ, đặc biệt là đối với cán bộ ngân hàng. Chính vì thế, để nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ trước hết phải chú trọng đến việc tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, sau đó mới là việc đào tạo lý luận chính trị, chuyên môn…
Tóm lại, tín dụng của NHNo&PTNT chỉ có thể phát huy đầy đủ vai trò tích cực đối với sự phát triển KT-XH trên địa bàn huyện khi và chỉ khi đảm bảo hội đủ các điều kiện đảm bảo về các phương diện ngoại sinh thuộc KT-XH địa phương và nội sinh thuộc NHNo&PTNT.
Tuy nhiên, nếu như nhân tố về cơ chế chính sách sử dụng công cụ tín dụng mang tính định hướng, dẫn đường cho tín dụng, đáp ứng yêu cầu phát triển của KT-XH thì nhân tố năng lực hoạt động của chi nhánh NHNo&PTNT là nhân tố nội sinh, thuộc về bản thân NHNo&PTNT, tác động trở lại đối với sự phát triển của KT-XH.
Trong trường hợp chính sách sử dụng công cụ tín dụng kém hiệu quả thì năng lực hoạt động của NHNo&PTNT chỉ mang lại hiệu quả kinh doanh đơn thuần của ngân hàng. Trường hợp khi có chính sách sử dụng công cụ tín dụng tốt nhưng NHNo&PTNT lại hoạt động kém hiệu quả thì chính sách sử dụng công cụ tín dụng sẽ mất hết ý nghĩa tích cực của nó. Chỉ khi, đồng thời đảm bảo cả hai điều kiện thì mới đảm bảo được cả hai lợi ích, vừa nâng cao hiệu quả kinh doanh vừa nâng cao hiệu quả KT-XH của ngân hàng.
Các nhân tố còn lại (kỷ cương pháp luật, trình độ dân trí và các yếu tố khác) mang tính bổ trợ, giúp sức cho sự tác động của tín dụng của NHNo&PTNT vào sự phát triển của KT-XH trên địa bàn.
1.3. Kinh nghiệm ở một số địa phương về phát huy vai trò của tín dụng Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đối với phát triển kinh tế - xã hội ở huyện
1.3.1. Khái quát hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với phát triển kinh tế - xã hội ở một số huyện
1.3.1.1. ở một số huyện ngoài Quảng Nam
- Tại huyện Mường La, tỉnh Sơn La:
Đây là huyện có điều kiện tự nhiên, xã hội tương đối điển hình thuộc khu vực miền núi vùng Tây Bắc, là nơi có công trình thủy điện Sơn La đang xây dựng, với tổng vốn đầu tư khoảng 37 tỷ đồng, công suất thiết kế khoảng 2.000 MW.
Từ khi có quyết định đầu tư công trình thuỷ điện Sơn La, chi nhánh NHNo&PTNT huyện đã chủ động khảo sát các nhu cầu tín dụng đối với khoảng hơn 5.000 công nhân thường xuyên có mặt tại công trình và đã mở rộng các loại hình dịch vụ, thu hút tiền gửi, phục vụ cho vay tiêu dùng... Nhờ thế, chỉ trong năm 2004, lượng tiền gửi khách hàng đã tăng lên gấp 2,3 lần, đạt 15 tỷ đồng, vốn đầu tư cho hộ sản xuất tăng 1,6 lần, lên đến 19 tỷ đồng. Chi nhánh NHNo&PTNT huyện không chỉ là bạn đồng hành của nông dân địa phương mà còn là đối tác của hàng ngàn công nhân thuỷ điện trong việc phục vụ các dịch vụ tiện ích, huy động vốn...[10, tr.50-51-52]
- Tại huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình:
Quảng Trạch là một trong những huyện lớn của tỉnh Quảng Bình, có điều kiện tự nhiên, đất đai, dân số... gần như tương đương với huyện Đại Lộc. Trong tổng số 33 xã có 8 xã miền núi (Đại Lộc có tổng số 17 xã, trong đó 5 xã miền núi), tổng số hộ 45.000 tương ứng với 193.000 nhân khẩu (Đại Lộc là 37.000 hộ và 160.000 nhân khẩu).
Năm 1999, chi nhánh NHNo&PTNT huyện có tổng nguồn vốn huy động 33,9 tỷ đồng; tổng dư nợ 32,2 tỷ đồng, nợ xấu 9,5% tổng dư nợ [11, tr.12].
Trong 5 năm (1999-2004), chi nhánh NHNo&PTNT đã vận dụng sáng tạo, bám sát các chính sách chủ trương của Nhà nước để tháo gở khó khăn trong hoạt động tín dụng và phát huy mạnh mẽ vai trò của tín dụng NHNo&PTNT đối với phát triển KT-XH huyện. Đó là Quyết định số 67/CP, của Thủ tướng Chính phủ về ban hành các chính sách tín dụng phụv vụ nông nghiệp, nông thôn, Nghị quyết liên tịch 2308/NQ giữa Trung ương Hội nông dân với NHNo&PTNT Việt Nam và Nghị quyết Liên tịch 02/NQ giữa Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ với NHNo&PTNT Việt Nam về các biện pháp đưa vốn NHNo&PTNT đầu tư qua các hội đoàn thể, biến các chủ trương chính sách trở thành hiện thực.
Các giải pháp vận dụng Nghị quyết Liên tịch 2308/NQLT và 02/NQLT như sau:
Mở hội nghị triển khai các nghị quyết xuống tận xã; Tham mưu UBND huyện thành lập các Ban Chi đạo thực hiện Nghị quyết liên tịch cấp huyện và cấp xã; Giao khoán các chỉ tiêu tín dụng cho các chi nhánh cấp 3 và cả phòng tín dụng.
Bằng các giải pháp trên, sau 5 năm thực hiện đã thành lập được 162 tổ vay vốn, với 7.536 thành viên, giải ngân qua tổ 117 tỷ đồng. Đưa dư nợ qua tổ vay vốn lên 86 tỷ đồng, chiếm 74% tổng dư nợ của chi nhánh. Nợ xấu toàn chi nhánh năm 2004 rút xuống còn 0,96% (năm 1999 là 9,5%) [11. tr.15].
1.3.1.2. ở một số huyện thuộc tỉnh Quảng Nam
- Tại huyện Tiên Phước, Quảng Nam:
Là huyện trung du, cách thành phố Tam Kỳ 25 Km về phía tây. Trong 45.322 ha diện tích tự nhiên thì có đến 20.695 ha đất rừng, trong đó rừng tự nhiên là 3.228 ha và 17.467 ha rừng cây trồng kinh tế. Đất lúa và hoa màu chỉ chiếm 7.760 ha.
Trong những năm qua, vận dụng “Cơ chế tài chính khuyến khích phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2002-2005” theo Quyết định số 30/2002/QĐ-UB, ngày 24 tháng 5 năm 2002 và “Cơ chế hỗ trợ đầu tư phát triển chăn nuôi bò trên địa bàn tỉnh Quảng Nam (giai đoạn 2004-2007)”, theo Quyết định số 66/2004/QĐ-UB, ngày 20 tháng 8 năm 2004 của UBND tỉnh Quảng Nam, chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước đã mạnh dạn mở rộng đầu tư tín dụng cho kinh tế vườn, kinh tế trang trại, trồng cây công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc. Tính đến thời điểm 31/12/2005 trong tổng dư nợ NHNo&PTNT trên địa bàn là 30.384 triệu đồng thì dư nợ cho vay đối với kinh tế trang trại, kinh tế vườn là đã chiếm 22.764 triệu đồng, tỷ trọng 91,37% tổng dư nợ. Còn lại là dư nợ các ngành CN, TTCN, thương mại và dịch vụ 7.620 triệu đồng.
Với cơ chế hỗ trợ theo Quyết định 30/2002/QĐ-UB và Quyết định 66/2004/QĐ-UB, ngân sách tỉnh hỗ trợ 50% lãi vay thông qua chính sách sử dụng công cụ tín dụng là: năm 2003 là 589 triệu đồng, năm 2004 là 754 triệu đồng, 2005 là 769 triệu đồng. [19, tr.3]
- Tại Khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc, huyện Điện Bàn, Quảng Nam:
Điện bàn là huyện tiếp giáp về phía đông của Đại Lộc. Chi nhánh NHNo&PTNT KCN Điện Nam - Điện Ngọc có trụ sở đóng tại KCN, là địa bàn cạnh tranh khốc liệt với sự có mặt của hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần, thương mại nhà nước trong và ngoài địa bàn. Để tồn tại và phát triển, ngay từ khi thành lập chi nhánh NHNo&PTNT tại KCN này (2001), Lãnh đạo NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam đã có những quyết sách hợp lý như: Thực hiện chính sách tín dụng linh hoạt, có cơ chế mềm dẻo về lãi suất cho vay, thấp hơn lãi suất áp dụng tại các chi nhánh khác, phù hợp với mặt bằng chung về lãi suất của các NHTM khác có mặt tại KCN; Bố trí đội ngũ cán bộ trẻ, có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt. Tổng số CBVC chi nhánh là 11 người thì có đến 10 người có trình độ đại học trở lên, trong đó có 2 người (Ban Giám đốc) có trình độ thạc sỹ kinh tế). Tuổi đời bình quân của CBVC là rất trẻ, (bình quân khoảng 30 tuổi).
Từ đó, sau 5 năm thành lập, chi nhánh NHNo&PTNT KCN Điện Nam - Điện Ngọc đã vươn lên chiếm giữ thị phần tín dụng chủ yếu tại KCN. Tính đến 31/12/2005 chi nhánh NHNo&PTNT KCN Điện Nam - Điện Ngọc có dư nợ 83,5 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 58,55% tổng dư nợ của các chi nhánh NHTMNN ở KCN. Trong khi đó, chi nhánh NHĐT&PT KCN Điện Nam - Điện Ngọc có dư nợ 40,4 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 28,33% và chi nhánh NHCT KCN Điện Nam - Điện Ngọc có dư nợ 18,7 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 13,11% [20, tr.4].
1.3.2. Kinh nghiệm rút ra trong việc phát huy vai trò tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đối với phát triển kinh tế - xã hội qua thực tiễn ở một số huyện
- Từ huyện Mường La, Sơn La:
Mối quan hệ giữa KT-XH địa phương và tín dụng NHNo&PTNT đã được giải quyết một cách hợp lý, kịp thời và hiệu quả. NHNo&PTNT đã biết bám sát vào chủ trương lớn trong phát triển KT-XH địa phương, cụ thể là xây dựng công trình thuỷ điện, để tạo lập ngay từ đầu quan hệ tín dụng với công nhân, đưa vốn tín dụng và các dịch vụ NHNo&PTNT vào phục vụ cho số lượng lớn công nhân.
Khi đó, vốn tín dụng đã mang lại hiệu quả thiết thực cho đời sống cán bộ, công nhân đang làm việc tại địa phương, gián tiếp tác động tích cực vào quá trình thi công công trình mang tính trọng điểm quốc gia (Thuỷ điện Sơn La), đồng thời mang lại hiệu quả cho hoạt động tín dụng NHNo&PTNT.
- Từ huyện Quảng Trạch, Quảng Bình:
Đây là bài học kinh nghiệm từ việc vận dụng sáng tạo và tích cực các chủ trương chính sách sử dụng công cụ tín dụng của Nhà nước để áp dụng vào công tác chỉ đạo, điều hành và tác nghiệp tín dụng, tạo nên hiệu quả lớn.
Liên minh giữa NHNo&PTNT với các tổ chức chính trị xã hội (Hội Nông dân và Hội Liên hiệp Phụ nữ) tại địa phương, nếu thực hiện tốt sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp, tác động tích cực vào đời sống KT-XH địa phương và sự phát triển của tín dụng NHNo&PTNT. Từ hoạt động của các “tổ vay vốn” (kết quả của sự liên minh giữa NHNo&PTNT và tổ chức) đã không chỉ đưa đồng vốn tín dụng đầu tư khuyến khích phát triển sản xuất, mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực cho bà con nông dân, chị em phụ nữ mà còn giúp ích cho bà con được nắm bắt các chủ trương chính sách nhà nước, học cách làm ăn.
- Từ huyện Tiên Phước, Quảng Nam:
Các cơ chế khuyến khích hỗ trợ ban hành kèm theo Quyết định Số 30/2002/QĐ-UB và Số 66/2004/QĐ-UB của UBND tỉnh Quảng Nam là giải pháp hữu hiệu sử dụng công cụ đòn bẩy tín dụng vào mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp. Tuy nhiên, cơ chế chính sách đó chỉ có thể tác động tích cực vào thực tiễn của SX khi được NHNo&PTNT vận dụng nghiêm túc và đúng đắn.
Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước trong nhiều năm đã thực hiện tốt chủ trương chính sách hỗ trợ lãi suất của UBND tỉnh, tín dụng của NHNo&PTNT đã thực sự mang lại hiệu quả KT-XH cao, cơ cấu SX nông nghiệp trên địa bàn được chuyển biến tích cực, kinh tế trang trại phát triển, tỷ lệ giá trị sản lượng chăn nuôi ngày càng được nâng cao trong tổng sản phẩm SX nông nghiệp, tác động mạnh vào quá trình chuyển dịch cơ cấu SX nông nghiệp, góp phần thực hiện chiến lược phát triển KT-XH ở địa phương..
- Từ huyện Điện Bàn, Quảng Nam:
Chi nhánh NHNo&PTNT KCN Điện Nam - Điện Ngọc, huyện Điện Bàn hoạt động trên địa bàn với sự có mặt của rất nhiều NHTM khác, nhưng đơn vị đã vượt qua khó khăn và đã đáp ứng được yêu cầu phát triển của khu công nghiệp, góp phần quan trọng vào mục tiêu CNH, HĐH của địa phương là nhờ thực hiện tốt các giải pháp: Vận dụng và thực hiện chính sách tín dụng linh hoạt, phù hợp với điều kiện cạnh tranh; Bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo và tác nghiệp tín dụng trẻ, có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt, đáp ứng được mọi yêu cầu của hoạt động tín dụng.
Chương 2
Thực trạng hoạt động tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đối với phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam
2.1. Khái lược tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam từ 2001 đến nay
Đại Lộc là huyện thuộc phía bắc của tỉnh Quảng Nam, có hệ toạ độ địa lý nằm gọn trong vòng nội chí tuyến, tại múi giờ thứ 7, là vùng đất vừa có đồng bằng, vừa có rừng núi, mang tính chất trung du. Diện tích tự nhiên toàn huyện 585,55 Km2, dân số đến 31/12/2005 là 161.285 người [1, tr.5]. Cơ cấu lao động trong độ tuổi chiếm tỷ lệ 58,75% [26, tr.25].
Đây là vùng đất chịu hậu quả rất nặng sau hai cuộc kháng chiến. Hiện nay trên địa bàn huyện có đến 697 Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng đã được phong tặng, 1.597 người thuộc đối tượng chính sách hưởng chế độ BHXH do Nhà nước đài thọ [26, tr.9._.động triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Trước hết, phải làm tốt công tác phân loại khách hàng. Đây là một kỹ thuật bắt buộc trong quản lý tín dụng, nhằm xác lập hồ sơ để phân loại nhằm có những phương cách và mức độ đối xử khác nhau. Căn cứ để phân loại khách hàng phải là quá trình thực hiện quan hệ tín dụng với Ngân hàng, các tiêu chí về năng lực điều hành của bộ máy lãnh đạo, năng lực tài chính, nguồn cung cấp nguyên vật liệu, thị tường tiêu thụ v.v.. Chất lượng của công tác phân loại khách hàng sẽ tác động đến chất lượng quản lý tín dụng, đảm bảo cho việc xác lập chính sách tín dụng cụ thể đúng đắn, hạn chế khả năng mất vốn do chủ quan, thiếu hiểu biết về khách hàng.
Hai là, nâng cao chất lượng hoạt động phòng ngừa rủi ro. Bao gồm tăng cường chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng, thực hiện nghiêm túc quy định về đảm bảo nợ vay, đăng ký giao dịch bảo đảm, chấn chỉnh lại hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ.
Hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng phải được chấn chỉnh, trước hết là từ cơ sở. Cần trang bị lại nhận thức đầy đủ đối với đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin tín dụng về vai trò của việc cung cấp chính xác thông tin dữ liệu và tác hại khó lường của nó, nếu thông tin bị sai lệch. Phải chuyên môn hoá nghiệp vụ này và có chính sách cán bộ cần thiết, nâng cao tính chuyên nghiệp của hoạt động thông tin tín dụng, phòng ngừa rủi ro.
Trong điều kiện thách thức và cơ hội cùng tác động vào sự phát triển của KT-XH của cơ chế thị trường hiện nay, các quy trình đảm bảo nợ vay vẫn phải xác định là giải pháp hạn chế, phòng ngừa rủi ro hữu hiệu trong các hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT. Tuy nhiên, thực hiện nghiêm túc các quy định về tài sản làm bảo đảm nợ vay, đăng ký giao dịch bảo đảm v.v.. hoàn toàn không có nghĩa đây là yếu tố quyết định để cho vay, mà vấn đề quan trọng, quyết định cho thành - bại của tín dụng, tác động vào KT-XH, xét cho cùng, phải là hiệu quả KT-XH của dự án và năng lực thực hiện dự án của chủ đầu tư. Do vậy, phải có sự cập nhật thông tin đầy đủ về năng lực, tư cách của cá nhân và đơn vị vay vốn, cùng với thực hiện nghiêm túc các quy định về đảm bảo và quy định khác trong quá trình thẩm định, làm cơ sở quyết định đầu tư.
Công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ trong hoạt động tín dụng phải được đặt lên hàng đầu, nhằm ngăn chặn kịp thời những vi phạm có thể xảy ra, hạn chế rủi ro. Để làm được điều đó, trước hết phải tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ kiểm tra viên; đồng thời thực hiện nghiêm cơ chế hoạt động độc lập của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ. Phải chấm dứt ngay tình trạng một cán bộ vừa làm chuyên môn vừa phải kiêm nhiệm chức năng kiểm tra như hiện nay.
Rủi ro được xem là thuộc tính của các hoạt động kinh tế nói chung. Vấn đề là phải biết hạn chế đến mức thấp nhất khả năng và tần suất rủi ro trong công tác điều hành kinh tế. Hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT trên địa bàn huyện vốn có mối quan hệ hữu cơ với tất cả các cấp, ngành, các chủ thể kinh tế, các tầng lớp dân cư... Mỗi động thái dù tích cực hay tiêu cực của tín dụng NHNo&PTNT đều có những ảnh hưởng nhất định đến toàn bộ sự phát triển của KT-XH địa phương. Do vậy, hạn chế rủi ro cho tín dụng NHNo&PTNT không chỉ tạo điều kiện cho tín dụng NHNo&PTNT phát triển mà còn tác động mạnh mẽ đến sự phát triển bền vững của KT-XH trên địa bàn.
Kiến nghị để thực hiện giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng:
- Đối với NHNN Việt Nam và Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam:
Cần xây dựng Kho dữ liệu phòng ngừa rủi ro, hỗ trợ cho các NHTMNN truy cập cập nhật thông tin khách hàng. Xây dựng các trang Web chuyên sâu vào lĩnh vực thông tin khách hàng.
- Đối với NHNo&PTNT Việt Nam:
Có cơ chế ràng buộc và chính sách đãi ngộ hợp lý đối với CBVC làm nghiệp vụ kiểm tra, kiểm toán nội bộ. Bố trí đủ cán bộ để giải quyết triệt để tình trạng kiểm tra viên phải kiêm nhiệm nhiều việc như hiện nay.
- Đối với UBND huyện và các cơ quan hữu quan bảo vệ và thực thi pháp luật tại địa phương:
Cần có sự hỗ trợ và phối hợp chặt chẽ hơn nữa với NHNo&PTNT trong việc giữ vững kỷ cương pháp luật trong hoạt động tín dụng, nhất là tín dụng của NHNo&PTNT. Cương quyết xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật đối với các trường hợp cố tình chiếm dụng vốn Ngân hàng. Đây phải là công việc được duy trì thường xuyên, liên tục.
Tăng cường thời gian, cường độ làm việc của Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự huyện, chú trọng tập trung xử lý các vụ án tín dụng tồn đọng, người vay có khả năng trả nợ nhưng cố tình chiếm dụng vốn tín dụng của NHNo&PTNT, ảnh hưởng đến hoạt động chung của NHNo&PTNT, tác động xấu vào trật tự kỷ cương trong các hoạt động kinh tế tại địa phương.
Riêng đối với Toà án Nhân dân tỉnh: Trong những năm qua, Toà án nhân dân huyện được giao quyền xét xử các vụ án kinh tế trong đó có tín dụng ngân hàng. Nhờ có sự phối hợp chặt chẽ với NHNo&PTNT, hoạt động của Toà án Nhân dân huyện đã đóng góp rất lớn vào việc giữ vững kỷ cương pháp luật trong các quan hệ kinh tế nói chung và quan hệ tín dụng nói riêng, thuộc khu vực huyện.
Tuy nhiên, hiện nay Toà án Nhân dân cấp huyện đã không còn được giao quyền xét xử các vụ án kinh tế. Mọi phát sinh án tín dụng đều phải trình lên Toà án cấp tỉnh, từ đó các chi nhánh NHNo&PTNT gặp phải khó khăn hơn trong việc yêu cầu luật pháp can thiệp khi người vay cố tình chiếm dụng vốn ngân hàng.
Đề nghị Toà án Nhân dân cấp tỉnh uỷ quyền xét xử các vụ án tín dụng cho Toà án cấp huyện.
3.2.4. Nâng cao năng lực hoạt động của các chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trên địa bàn huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam
Tất cả các giải pháp lớn trên đây đều phải cùng lúc được triển khai mạnh mẽ, nhằm nâng cao vai trò của tín dụng NHNo&PTNT tác động vào sự phát triển của KT-XH trên địa bàn huyện Đại Lộc. Tuy nhiên, điều đó sẽ mất hết ý nghĩa thực tiễn nếu như các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn - chủ thể chính thực hiện các giải pháp - không đủ mạnh, kém năng lực hoạt động.
Để nâng cao năng lực hoạt động của các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn hiện nay, tác giả cho rằng cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau đây:
3.2.4.1. Đầu tư công nghệ, phương tiện hiện đại
“Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán” là một trong những giải pháp lớn mà “Đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” đã được Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt, nhằm hướng đến xây dựng Ngân hàng Việt Nam vững mạnh, phát triển trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và WTO. Theo đó, các NHTM cần phải: Hiện đại hoá hệ thống giao dịch, xúc tiến thương mại điện tử và phát triển dịch vụ trên cơ sở của công nghệ thông tin. Nâng cấp mạng diện rộng và hạ tầng công nghệ thông tin với các giải pháp phù hợp với trinh độ phát triển và chuẩn mực thông lệ quốc tế. Tăng cường hệ thống an toàn, bảo mật thông tin, dữ liệu và an ninh mạng [35].
Trong tình hình hiện nay các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn huyện nói chung mức đầu tư công nghệ, phương tiện vẫn còn tình trạng thấp kém, nếu không nói là lạc hậu so với yêu cầu phát triển. Điều đó đòi hỏi sự nhận thức đúng đắn và mức đầu tư thích đáng khẩn cấp vào lĩnh vực này.
Trước hết phải nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin hiện có: hệ thống phần mềm giao dịch, hệ thống an toàn, bảo mật thông tin, dữ liệu và an ninh mạng; lắp đặt máy rút tiền tự động ATM...
Trang bị máy móc, thiết bị hiện đại phục vụ các yêu cầu hoạt động, đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng phong phú của các chủ thể kinh tế và các tầng lớp dân cư trên địa bàn.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý là việc đầu tư công nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại, tăng cường năng lực hoạt động của các chi nhánh NHNo&PTNT, nhằm phục vụ các yêu cầu của phát triển KT-XH là khẩn cấp, thích đáng nhưng cũng phải xét đến tính hiệu quả của đồng vốn đầu tư. Việc đầu tư cần phải có đề án cụ thể, trong đó khảo sát đầy đủ thực trạng để đưa ra các phương án giải pháp đầu tư tối ưu và hiệu quả nhất.
3.2.4.2. Xây dựng nguồn nhân lực
Theo kết quả khảo sát trên chương 2, đội ngũ cán bộ viên chức tại các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn có tuổi đời bình quân cao (42,5 tuổi) và trình độ chuyên môn bất cập, phần lớn được đào tạo chắp vá, nhiều năm liền không được tuyển dụng bổ sung. Từ đó, khó có thể thích ứng tốt với môi trường cạnh tranh và hội nhập trong tương lai.
Do vậy, một yêu cầu cấp thiết đảm bảo cho hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT trên địa bàn huyện Đại Lộc an toàn và hiệu quả là phải nhanh chóng khắc phục tình trạng bất cập về trình độ chuyên ngành, thiếu hụt các kiến thức bổ trợ, năng lực thẩm định, điều hành kinh doanh của đội ngũ cán bộ viên chức. Cần phải “Tăng cường và đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ quản lý và chuyên môn cho cán bộ các cấp, đồng thời nâng cao đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm của cán bộ ngân hàng” [35].
Để làm được điều đó, trước hết phải được bổ sung ngay qua con đường tuyển dụng số lượng cán bộ thiếu hụt. ít nhất là 5 người cho chi nhánh NHNo&PTNT huyện Đại Lộc và 2 người cho chi nhánh NHNo&PTNT Vùng B, Đại Lộc, để có thể bố trí công việc, đưa tỷ lệ cán bộ tín dụng lên 50% như định hướng của NHNo&PTNT Việt Nam.
Tuy nhiên, vấn đề tuyển dụng hiện nay phụ thuộc vào chỉ tiêu định biên từ NHNo&PTNT Việt Nam, qua NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam nên các chi nhánh NHNo&PTNT không thể tự quyết định được mà phải được sự quan tâm tạo điều kiện, bổ sung chỉ tiêu định biên lao động từ các cấp lãnh đạo NHNo&PTNT Việt Nam và NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam.
Phải có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ viên chức NHNo&PTNT. Nội dung chương trình đào tạo phải kết hợp đào tạo chuyên môn với lý luận chính trị, chú trọng phát triển nguồn lao động có trình độ cao về công nghệ thông tin, có khả năng thích ứng nhanh với môi trường làm việc chịu áp lực cao trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập. Đào tạo phải gắn kết với công tác quy hoạch, bố trí, sắp xếp, sử dụng cán bộ và nhất thiết phải được rèn luyện từ thực tiễn.
Phải chú trọng đặc biệt đến đội ngũ cán bộ tín dụng, vì đây là lực lượng chủ chốt, mang tính quyết định cho công tác tín dụng. Cần phải thực hiện tốt công tác đào tạo chuyên môn với rèn luyện đạo đức, phẩm chất. Đồng thời, phải kết hợp công tác bố trí, sử dụng với việc đãi ngộ thích đáng cho đội ngũ cán bộ tín dụng.
Trong công tác tuyển dụng cán bộ phải “thực hiện nguyên tắc dân chủ và minh bạch” [35], chuẩn hoá điều kiện tuyển dụng, có chính sách khuyến khích con em trong ngành đủ điều kiện vào làm việc, để vừa thu hút được nhân tài, đáp ứng được yêu cầu công tác, vừa có thể kế thừa và phát huy truyền thống ngành, vừa thực hiện tốt chính sách cán bộ.
Công tác quy hoạch, đánh giá, phân loại, bố trí, sắp xếp sử dụng, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ tại các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn phải được thực hiện nghiêm túc theo quy định, trên nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch và hiệu quả. Cần phải lấy năng lực và phẩm chất đạo đức làm cơ sở cho công tác cán bộ.
Trong điều kiện khó khăn về số lượng cán bộ nhưng chưa thể bổ sung đủ theo yêu cầu hiện nay, để có thể đảm bảo hoạt động bình thường và phát triển, chỉ có thể phải tăng cường chế độ trách nhiệm, nâng cao năng suất lao động cho mỗi tập thể, phòng ban chuyên môn và cá nhân người lao động. Cần phải đẩy mạnh hoạt động thi đua, khen thưởng, có chính sách đãi ngộ thoả đáng những cá nhân có thành tích cao trong công tác và học tập.
3.2.4.3. Mở rộng và nâng cao năng lực hoạt động của mạng lưới tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Giải pháp “phát triển nguồn nhân lực” chỉ mang chỉ lại hiệu quả cao khi được đi kèm với giải pháp “nâng cao hiệu quả tổ chức của bộ máy” [35].
Tiếp tục mở rộng mạng lưới tín dụng trên địa bàn nhằm tạo điều kiện tốt nhất đưa vốn tín dụng phục vụ cho sản xuất và đời sống kinh tế, xã hội, khai thác tốt các nguồn lực, đưa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng về áp dụng tại các khu vực xa trung tâm. Trong đó chú ý các cụm công nghiệp đang hình thành tại Đại Hiệp, Đại Quang, Đại Lãnh, các xã xa trung tâm như Đại Hồng, Đại Chánh.
Tuy nhiên, việc mở rộng mạng lưới phải tính đến hiệu quả kinh doanh trước mắt và lâu dài, tránh tình trạng tràn lan, có thể gây suy yếu thương hiệu của NHNo&PTNT, hạn chế tính tích cực của tín dụng NHNo&PTNT đơi với KT-XH nơi mà chi nhánh NHNo&PTNT phục vụ.
Củng cố và nâng cao năng lực hoạt động của chi nhánh NHNo&PTNT Vùng A, Đại Lộc (chi nhánh cấp 3). Chấn chỉnh lại công tác giao khoán tài chính, giao khoán tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Vùng A, theo hướng vừa hiệu quả, vừa động viên được đội ngũ CBVC hoàn thành nhiệm vụ.
Tiếp tục đầu tư xây dựng, chỉnh trang, nâng cấp trụ sở làm việc tại cả 3 chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn để có thể chống chọi một cách an toàn với bão, lũ thường xuyên xảy ra. Từng bước đầu tư trang bị máy móc và các trang thiết bị hiện đại phục vụ kinh doanh như: máy phát điện công suất cao, máy vi tính, thiết bị lạnh v.v...
3.2.4.4. Đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ ngân hàng
Hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT cho phát triển KT-XH chỉ có thể phát huy được đầy đủ vai trò tích cực đó khi nó được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các sản phẩm dịch vụ khác. Và cũng chính việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng sẽ bổ trợ cho công tác tín dụng và từ đó nâng cao năng lực hoạt động của các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn.
Ngoài sản phẩm huy động vốn và cho vay, các chi nhánh NHNo&PTNT còn phải mở rộng các sản phẩm dịch vụ bổ trợ khác như: dịch vụ ngoại hối, dịch vụ thẻ, thanh toán điện tử, dịch vụ két sắt v.v... nhằm nâng cao tỷ lệ thu dịch vụ trong tổng thu của ngân hàng.
Điều đáng nói, các ngân hàng, tập đoàn tài chính hiện đại đều có số sản phẩm dịch vụ rất cao, hàng trăm, thậm chí hàng ngàn loại sản phẩm. Trong khi NHNo&PTNT Việt Nam hiện nay số lượng sản phẩm chưa quá 2 con số, các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn huyện cũng chỉ áp dụng vài sản phẩm truyền thống, chủ yếu là huy động và cho vay. Do vậy, để nâng cao năng lực hoạt động của NHNo&PTNT, bổ trợ cho tín dụng của NHNo&PTNT, đa dạng hoá các loại hình sản phẩm dịch vụ là một tất yếu.
3.2.4.5. Phát triển thương hiệu AGRIBANK
Agribank là tên giao dịch viết tắt của NHNo&PTNT Việt Nam.
Thương hiệu Agribank - Được hiểu là tên giao dịch gắn liền với bản sắc, uy tín, hình ảnh của NHNo&PTNT Việt Nam, mà những yếu tố đó đã ghi dấu ấn sâu sắc trong lòng khách hàng và các chủ thể KT-XH khác trên địa bàn, trong toàn bộ nền kinh tế quốc gia và quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường, xây dựng và phát triển thương hiệu là một hướng đi cần thiết cho mọi doanh nghiệp, nó đảm bảo cho sức cạnh tranh và là nền tảng cho sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. Từ lẽ đó, thương hiệu Agribank đang được toàn hệ thống tích cực xây dựng và phát triển, là những bước đi chiến lược, khẳng định vị trí, vai trò và triển vọng của NHNo&PTNT Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
Đối với các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn huyện, để vững mạnh càng phải tăng cường các giải pháp chung phát triển thương hiệu Agribank, đồng thời phải tích cực xây dựng sắc thái riêng phù hợp với phong tục tập quán địa phương, nhưng vẫn đảm bảo các tiêu chí chung của thương hiệu Agribank.
Để đạt được điều đó, các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn Đại Lộc cần phải:
Bảo đảm sự phát triển bền vững của bản thân các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn, gắn kết chặt chẽ các mặt hoạt động của NHNo&PTNT với sự phát triển của KT-XH địa phương, tạo nên sự đồng bộ cần thiết giữa chiến lược phát triển của Agribank với chiến lược phát triển của KT-XH trên địa bàn huyện.
Phải tiên phong đổi mới công nghệ. Xây dựng môi trường làm việc thoáng mát, yên bình và có đủ những tiện nghi cần thiết.
Phải xây dựng được nề nếp giao dịch và làm việc văn minh hiện đại...
3.2.4.6. Xây dựng văn hoá giao dịch, văn hoá tín dụng
Văn hoá giao dịch, văn hoá tín dụng là bộ phận của văn hoá kinh doanh ngân hàng, theo Th.S Lê thị Huyền Diệu, có thể hiểu đó “là hệ thống các chuẩn mực tinh thần hay vật chất, quy định mối quan hệ, thái độ và hành vi, ứng xử” của các cá nhân, tập thể là thành viên của NHNo&PTNT, hướng tới những giá trị tốt đẹp của NHNo&PTNT, được thể hiện qua chất lượng phục vụ trong giao dịch và trong hoạt động tín dụng [2, tr.30].
KT-XH địa phương càng phát triển thì đòi hỏi NHNo&PTNT phải xác lập rành rẽ văn hoá giao dịch, văn hoá tín dụng trong các hoạt động của mình mới có thể tương thích và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Để xây dựng văn hoá giao dịch, văn hoá tín dụng nhằm nâng cao năng lực hoạt động của các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn huyện, đối với công tác khách hàng cần phải:
Xây dựng đội ngũ CBCNV tinh tường nghiệp vụ, tận tuỵ và nhanh nhạy với công việc, hóm hỉnh, biết làm vui lòng khách, có phẩm chất đạo đức tốt, biết cách từ chối thuyết phục, không làm phật lòng khách.
Tạo không gian và tiện nghi thoải mái cho khách hàng trong khi giao dịch, làm việc hoặc chờ đợi. Nâng cao tối đa chất lượng của các dịch vụ, đáp ứng mọi yêu cầu dù khó khăn, đa dạng của khách. Trang bị phương tiện làm việc hiện đại, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của khách.
Giữ chữ tín trong tất cả các mặt nghiệp vụ. Gắn bó chia xẻ và phải thật sự là bạn đồng hành của khách hàng cả khi thành công lẫn khi thất bại. Trực tiếp hoặc gửi thư chúc mừng khách khi thắng lợi lớn trong làm ăn và chân thành động viên, chia xẻ khi khách hàng gặp phải rủi ro, thiên tai, bão lũ.
Đối với bộ máy làm việc nội bộ: Cần xây dựng phong cách làm việc cá nhân và tập thể sinh động, hiệu quả; Xây dựng và thực hiện tốt kỷ cương, quy chế chung và quy chế riêng phù hợp với tâm sinh lý của đa số; Tổ chức các hoạt động văn hoá tập thể cho đơn vị; Tổ chức tốt hội nghị công nhân viên chức, hội nghị khách hàng, các phong trào văn hoá văn nghệ, phong trào thanh niên; Bồi đắp và tuyên truyền cho ý nghĩa cao đẹp của biểu tượng Agribank..
3.2.4.7. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát
Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát không chỉ là giải pháp để phòng ngừa rủi ro trong tín dụng (mục 3.2.3) mà còn là một giải pháp nhằm nâng cao năng lực hoạt động của các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn. Đây là một giải pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong “Đề án Phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Theo đó, các NHTMNN cần phải “ xây dựng và triển khai khuôn khổ quy trình và phương pháp thanh tra, giám sát dựa trên cơ sở tổng hợp và rủi ro” [35].
Để làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, nâng cao năng lực hoạt động của các chi nhánh NHNo&PTNT, trước hết, cần phải tập trung xây dựng bộ máy chức năng kiểm tra, kiểm toán nội bộ đủ mạnh, độc lập, có đủ phẩm chất đạo đức và bản lĩnh nghề nghiệp. Phải tạo điều kiện thuận lợi và xây dựng cơ chế làm việc hiệu quả cho bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát nội bộ phải có chương trình kế hoạch cụ thể, thường xuyên bám sát cơ sở, am hiểu tình hình, lấy chức năng phòng ngừa và ngăn chặn làm nòng cốt. Tuy nhiên, khi phát hiện có sai phạm phải cương quyết xử lý hoặc đề xuất xử lý nghiêm minh.
Ngoài ra, để tăng cường hiệu quả công tác kiểm tra giám sát tại đơn vị còn phải tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các Đoàn thanh tra, kiểm tra, giám sát thuộc ngành Ngân hàng cấp trên hoặc thuộc bộ máy Chính quyền sở tại làm việc nghiêm minh, hiệu quả và nhất thiết phải có thái độ cầu thị, nghiêm khắc nhìn nhận sửa chữa, khắc phục mọi hạn chế, thiếu sót, sai phạm nếu có xảy ra tại đơn vị chi nhánh NHNo&PTNT.
Nâng cao năng lực hoạt động của các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn huyện là giải pháp vừa cấp bách vừa lâu dài, là xu thế tất yếu để xây dựng NHNo&PTNT Việt Nam phát triển vững mạnh ngay từ các chi nhánh cơ sở, để có thể giữ vững vai trò chủ đạo chủ lực cho thị trường tài chính tiền tệ ở nông thôn. Riêng trên địa bàn huyện Đại Lộc, điều quan trọng là sự vững mạnh của các chi nhánh NHNo&PTNT sẽ trực tiếp tác động vào việc phát huy vai trò của tín dụng NHNo&PTNT đối với sự phát triển KT-XH trên địa bàn huyện, nhắm đến mục tiêu xây dựng huyện Đại Lộc sớm trở thành huyện công nghiệp như Nghị quyết Đại hội Huyện Đảng bộ Lần thứ XIX đã đề ra.
Kiến nghị để thực hiện giải pháp nâng cao năng lực hoạt động của các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn huyện:
- Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
Theo quyết định số 888/NHNN-QĐ, ngày 16/6/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam V/v “ban hành quy chế về mở, thành lập, chấm dứt hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp của ngân hàng thương mại”, quy định một số điều kiện tiêu chuẩn để thành lập chi nhánh ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, xét trên bình diện vai trò chủ đạo, chủ lực đối với thị trường tài chính tiền tệ ở nông thôn, tác động tích cực vào sự phát triển KT-XH trên địa bàn huyện, việc thành lập chi nhánh NHNo&PTNT là cần thiết. Do vậy, đề nghị NHNN Việt Nam điều chỉnh quy chế, xem xét cho tiếp tục tồn tại cấp chi nhánh đối với NHNo&PTNT trên địa bàn cấp huyện, dù không đủ những tiêu chí mới theo quy định.
- Đối với NHNo&PTNT Việt Nam:
Cần xúc tiến mạnh tiến trình cổ phần hoá, tiến tới xây dựng NHNo&PTNT Việt Nam thành tập đoàn tài chính mạnh, nhằm mục đích tăng vốn tự có, mở rộng quy mô hoạt động, giúp đa dạng hoá sản phẩm, cải thiện sức cạnh tranh, tăng năng lực hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam,
Cần ban hành quy chế tuyển dụng cán bộ trong ngành NHNo&PTNT Việt Nam, trong đó quy chuẩn quy trình tuyển dụng và các điều kiện đầu vào cho từng loại nghiệp vụ chuyên môn nhất định.
Từ sau khi tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng (1997), chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam được thành lập có địa bàn rộng với nhiều chi nhánh phụ thuộc, số lượng cán bộ viên chức thiếu nghiêm trọng nhưng đã không được bổ sung đủ yêu cầu, gây nên tình trạng bức xúc về lao động kéo dài nhiều năm nay. Do vậy, đề nghị NHNo&PTNT Việt Nam tăng ngay chỉ tiêu định biên cho chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam để phân bổ về các chi nhánh cấp 2. Riêng các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn huyện Đại Lộc cần tăng khoảng 7 người để bố trí cho công tác tín dụng.
kết luận
Trên địa bàn huyện ở nước ta hiện nay, NHNo&PTNT Việt Nam là NHTMNN có vai trò chủ đạo, chủ lực và tín dụng của NHNo&PTNT cũng đang nắm giữ thị phần chủ yếu. Từ đó, việc nâng cao vai trò của tín dụng NHNo&PTNT đối với sự phát triển của KT-XH là một trong những vấn đề cấp bách không chỉ của hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam mà còn là vấn đề của xã hội, góp phần cho việc sử dụng đắc lực công cụ tín dụng, tác động vào nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực.
Trong Luận văn này tác giả đã tập trung nghiên cứu, giải quyết những nội dung cơ bản sau:
1. Luận giải, làm rõ vai trò của tín dụng ngân hàng nói chung và tín dụng của NHNo&PTNT nói riêng đối với sự phát triển của KT-XH trên địa bàn huyện ở nước ta hiện nay.
2. Trên cơ sở dữ liệu, chứng cứ thực tiễn, Luận văn đã phân tích đánh giá đúng thực trạng hoạt động tín dụng của các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn huyện Đại Lộc, Quảng Nam. Rút ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của nó để làm cơ sở đề ra định hướng và các giải pháp liên quan.
3. Khái quát định hướng phát triển KT-XH trên điạ bàn huyện Đại Lộc, đề xuất những quan điểm sử dụng công cụ tín dụng của NHNo&PTNT vào sự phát triển KT-XH trong thời gian tới và một số giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT đối với phát triển KT-XH trên địa bàn huyện Đại Lộc, đồng thời mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối với các bộ ngành trung ương, NHNN Việt Nam, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, NHNo&PTNT Việt Nam, các cấp lãnh đạo Đảng và Chính quyền địa phương sở tại, nhằm tạo điều kiện cần thiết và thuận lợi hơn để tín dụng của NHNo&PTNT phát huy tối đa vai trò tích cực của mình đối với sự phát triển KT-XH trên địa bàn mà nó phục vụ.
Trên tinh thần đó, Luận văn đã cơ bản hoàn thành các nhiệm vụ đã đề ra.
Tuy nhiên, vấn đề phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển KT-XH là một đề tài rộng, trong khuôn khổ xác định, Luận văn chỉ nghiên cứu tác động của tín dụng NHNo&PTNT đối với sự phát triển KT-XH trên địa bàn huyện Đại Lộc từ 2001 đến 2005, cùng với những hạn chế về năng lực cá nhân nên khó có thể tránh được những hạn chế, thiếu sót. Với tinh thần cầu thị, học hỏi, tác giả tha thiết mong mỏi được tiếp thu và biết ơn tất cả các ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các thầy cô và những người quan tâm đến đề tài để Luận văn này hoàn thiện hơn.
danh mục tài liệu tham khảo
1.
Ban Chấp hành Đảng Bộ huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam (2000), Địa chí Đại Lộc, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
2.
Lê thị Huyền Diệu (3/2000), “Văn hoá kinh doanh ngân hàng”, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, (15), tr.30-31-32-33.
3.
Đảng Bộ huyện Đại Lộc (2005), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Đại Lộc, Quảng Nam lần thứ XIX, Đại Lộc.
4.
Đảng Bộ tỉnh Quảng Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX, Tam Kỳ.
5.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7.
Trần Đình Định (chủ biên), Đinh Văn Thanh, Nguyễn Văn Dũng (2006), Những quy định của pháp luật về hoạt động tín dụng, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
8.
Nguyễn Duy Gia (2006), “Hệ thống Ngân hàng Việt Nam: Cạnh tranh – Phát triển – Hội nhập quốc tế – Xu hướng tất yếu của thời đại”, Tạp chí Ngân hàng, (8), tr.14-15-16.
9.
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác-Lê Nin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10.
Nguyễn Đức Hoàn (2005), “Vốn tín dụng ngân hàng thúc đẩy kinh tế – xã hội tỉnh Sơn La”, Tạp chí Ngân hàng, (5) tr.50-51-52.
11.
Văn Lạc (2005), “Qua 5 năm thực hiện hai Nghị quyết ở một ngân hàng”, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, (8), tr.12-15.
12.
Võ Văn Lâm (1999), Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng nông nghiệp nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Luận án Thạc sỹ khoa học kinh tế, chuyên ngành Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
13.
Nguyễn Văn Lê (2003), Tín dụng ngân hàng đối với phát triển kinh tế hộ vùng duyên hải Miền Trung của NHNo&PTNT Việt Nam, Luận án Tiến sỹ kinh tế, chuyên ngành tài chính - lưu thông tiền tệ và tín dụng, Học viện Ngân hàng, Hà Nội.
14.
Hoàng thị Bích Loan (2005), “Nâng cao sức cạnh tranh và phát triển bền vững của các ngân hàng thương mại nhà nước trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Ngân hàng, (9), tr.1-2-3-4-27.
15.
Luật các tổ chức tín dụng (đã được sửa đổi bổ sung năm 2004) (2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16.
V.I. Lênin (1976), Toàn tập Tiếng Việt, Tập 34, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
17.
C.Mác (1976), Tư bản, Tập I, quyển 3, Nxb Sự thật, Hà Nội.
18.
NHNo&PTNT huyện Đại Lộc và chi nhánh NHNo&PTNT Vùng B (2005), Báo cáo tổng kết hoạt động ngân hàng, báo cáo tín dụng 2001-2005, Đại Lộc.
19.
NHNo&PTNT huyện Tiên Phước (2005), Báo cáo tổng kết hoạt động ngân hàng 2005, Tiên Phước.
20.
NHNo&PTNT KCN Điện Nam - Điện Ngọc (2005), Báo cáo tổng kết hoạt động ngân hàng 2005, Điện Nam.
21.
Đỗ Tất Ngọc (4/2005), “Đẩy mạnh tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí tài chính tiền tệ, (1), tr.17-18.
22.
Phòng Thống kê huyện Đại Lộc (2002), Niên giám thống kê huyện Đại Lộc năm 2001, Đại Lộc.
23.
Phòng Thống kê huyện Đại Lộc (2003), Niên giám thống kê huyện Đại Lộc năm 2002 , Đại Lộc.
24.
Phòng Thống kê huyện Đại Lộc (2004), Niên giám thống kê huyện Đại Lộc năm 2003, Đại Lộc.
25.
Phòng Thống kê huyện Đại Lộc (2005), Niên giám thống kê huyện Đại Lộc năm 2004, Đại Lộc.
26.
Phòng Thống kê huyện Đại Lộc (2006), Niên giám thống kê huyện Đại Lộc năm 2005, Đại Lộc.
27.
Edward W. Reed, Edward K. Gill (1993), Ngân hàng thương mại, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.
28.
Robert Raymond (1992), Tiền tệ ngân hàng và tín dụng, Viện Khoa học ngân hàng, Ngân hàng nhà nước thành phố Hà Nội.
29.
Phan Xuân Sinh (2006), Giải pháp tín dụng ngân hàng đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở Nghệ An, Luận án Thạc sỹ kinh tế, Khoa kinh tế tài chính – ngân hàng, Học viện Ngân hàng, Hà Nội.
30.
Sổ tay tín dụng NHNo&PTNT Việt Nam (2004), Hà Nội.
31.
Lê Văn Sở (2006), “Hiệu quả và giải pháp 15 năm cho vay kinh tế hộ của NHNo&PTNT Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, (8), tr.7-8-9-10-11-12-13.
32.
Lê Văn Tề (chủ biên), Đặng Chí Chơn, Hồ Diệu, Ngô Hướng, Đỗ Linh Hiệp (1992), Tiền tệ và ngân hàng, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
33.
Lê Đức Thọ (2005), Hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại ở nước ta, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Chuyên ngành Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
34.
Thủ tướng Chính phủ (1999), Quyết định Số 67/1999/QĐ-TTg về một số chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn, ngày 30/3/1999, Hà Nội.
35.
Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định Số 112/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, ngày 24/5/2006, Hà Nội.
36.
Nguyễn Khắc Việt Trung (2004), “Bài học rút ra từ thành công của một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí Ngân hàng, (7), tr.40-41-42.
37.
Lê Khắc Trí (2005), “Các NHTM Việt Nam với việc xây dựng và phát triển thương hiệu”, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, (15), tr.18-19-31.
38.
Trần Đình Ty (2002), Quản lý nhà nước về tài chính tiền tệ, Nxb Lao động, Hà Nội.
39.
UBND huyện Đại Lộc, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội các năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005, Đại Lộc.
40.
UBND huyện Đại Lộc (2005), Văn bản Số 53/BC-UB, ngày 12/12/2005, Báo cáo tổng quát về những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn huyện Đại Lộc giai đoạn 2006-2010, Đại Lộc.
41.
UBND huyện Đại Lộc (2004), Văn bản Số 240/UB-VP, ngày 20/9/2004, Về việc tăng cường các biện pháp xử lý nợ vay ngân hàng, lành mạnh hoá hoạt động tín dụng tại địa phương, Đại Lộc.
42.
UBND huyện Đại Lộc (2006), Văn bản Số 143/UBND-VP, ngày 13/7/2006, Về việc tăng trưởng vốn tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng, lành mạnh hoá hoạt động ngân hàng, Đại Lộc.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2585.doc