Tài liệu Tìm kiếm giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty thương mại thuốc lá: ... Ebook Tìm kiếm giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty thương mại thuốc lá
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1632 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tìm kiếm giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty thương mại thuốc lá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trêng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n
Khoa mARKETING
-------------&-----------
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
§Ò tµi
T×M KIÕM GI¶I PH¸P N¢NG CAO HIÖU QU¶ KINH DOANH cña c«ng ty th¬ng m¹i thuèc l¸
Hä vµ tªn sinh viªn
: Ph¹m b¸ Hoµng
Gi¶ng viªn híng dÉn
: NguyÔn ThÞ T©m
Hµ Néi 2008
Trêng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n
Khoa mARKETING
-------------&-----------
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
§Ò tµi
T×M KIÕM GI¶I PH¸P N¢NG CAO HIÖU QU¶ KINH DOANH cña c«ng ty th¬ng m¹i thuèc l¸
Hä vµ tªn sinh viªn
: Ph¹m b¸ Hoµng
Chuyªn ngµnh
: Marketing
Líp
: Marketing 46B
Khãa
: 46
HÖ
: ChÝnh quy
Gi¶ng viªn híng dÉn
: NguyÔn ThÞ T©m
Hµ Néi 2008
MỤC LỤC
Chương 1: Đặc trưng của hoạt động kinh doanh và tiêu dùng thuốc lá.
Đặc trưng của hoạt động kinh doanh thuốc lá.
Đặc trưng của khách hàng và thị trường.
Khách hàng hút thuốc lá hiện nay chủ yếu là nam giới, đặc biệt ở các nước mà tư tưởng nam giới là người chủ trong gia đình thì tỷ lệ này là rất lá ở tất cả các lứa tuổi thuộc mọi nghành nghề, trình độ. Trong đó có cả những khách hàng nhận thức được tác hại của hút thuốc. Ở các khu cao như các nước Việt Nam, Trung Quốc, Nhật bản. Tuy nhiên hiện nay tỷ lệ nữ giới hút thuốc cũng ngày một tăng đặc biệt ở các nước có nền kinh tế phát triển như Châu Âu khi mà người phụ nữ tự chủ được về kinh tế cũng như các quyền lợi.
Khách hàng hút thuốc vực thị trường khác nhau thì cơ cấu khách hàng có sự khác nhau nhưng nhìn chung khách hàng hút thuốc lá trong độ tuổi từ 18-55 (đây là lứa tuổi chủ động về hành vi và thu nhập).
Quy mô thị trường tiêu thụ thuốc lá là rất lớn trải dài trên một khu vực địa lý rộng lớn. Mặt khác mật độ tiêu dùng thuốc là cũng tương đối dày. Thuốc lá được coi là mặt hàng tiêu dùng thông thường và người tiêu dùng thuốc lá trải khắp trong cộng đồng dân cư.
Việc hút thuốc lá của người dân là do những nguyên nhân:
Do chưa nhận thức được tác hại của thuốc lá.
Do việc muốn thể hiện mình nhiều thanh thiếu niên cho rằng việc hút thuốc lá thể hiện bản lĩnh và phong cách của họ.
Do ảnh hưởng của thời tiết nhiều khu vực có thời tiết lạnh và họ hút thuốc nhằm làm cho cơ thể ấm lên.
Do ảnh hưởng của công việc, nhiều gười làm việc căng thẳng họ cảm thấy hút thuốc lá làm họ bớt căng thẳng hơn.
Do thói quen đã hình thành từ lâu và không bỏ được nữa.
Đặc trưng của sản xuất.
Công nghệ sản xuất.
Đến thế kỷ XVIII, XIX các nước Âu - Mỹ hoàn thành cách mạng công nghiệp. Các phát minh khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy sản xuất công nghiệp. Ngành công nghiệp thuốc lá ra đời và thu được lợi nhuận to lớn hơn trước.Năm 1881, James Bonsack, một người Virginia (Mỹ), phát minh ra chiếc máy có thể sản xuất 120.000 điếu thuốc/ngày. James “Buck” Duke, người mà 21 năm sau trở thành chủ tịch đầu tiên của công ty B.A.T (Công ty Thuốc lá Anh - Mỹ), đã mua 2 máy và công ty sản xuất thuốc lá sợi của gia đình ông đã chuyển sang sản xuất thuốc lá điếu. Thuốc lá điếu dần dần thay thế cho các loại thuốc lá dùng tẩu, loại nhai và thuốc lá bột để hít. Cuối thế kỷ XIX, suốt thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn độc quyền. Các công ty nhỏ lần lượt phá sản hoặc bị hút vào các công ty lớn - các tập đoàn sản xuất độc quyền - có nhiều vốn, áp dụng khoa học, kỹ thuật tiên tiến, năng suất cao, chất lượng sản phẩm cao, để dần dần chiếm lĩnh thị trường.
Ngành công nghiệp thuốc lá diễn ra quá trình tập trung hóa như các ngành sản xuất khác. Các tập đoàn thuốc lá đa quốc gia như B.A.T, Philip Morris (Mỹ), Japan Tobacco International (Nhật), Imperial và Gallaher (Anh), Tập đoàn Altadis Franco - Spanish (Pháp - Tây Ban Nha)... hiện đang chi phối thị trường thế giới về trồng thuốc lá, phối chế, sản xuất thuốc sợi, thuốc điếu, các máy móc chuyên dùng và tất cả các phụ liệu cho sản xuất thuốc lá.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, các quốc gia giành được độc lập cũng chú ý phát triển ngành công nghiệp thuốc lá, như Trung Quốc, Indonesia, Triều Tiên, ấn Độ, Philippines, Ai Cập, Pakistan, Việt Nam...
1.1.2.2.Nguyên vật liệu.
Cây thuốc lá hoang dại đã có cách đây khoảng 4.000 năm, trùng với văn minh của người da đỏ vùng Trung và Nam Mỹ. Lịch sử chính thức của việc sản xuất thuốc lá được đánh dấu vào ngày 12/10/1492 do chuyến thám hiểm tìm ra châu Mỹ của Christopher Columbus, ông đã phát hiện thấy người bản xứ ở quần đảo Antil vừa nhảy múa, vừa hút một loại lá cuộn tròn gọi là Tabaccos. Hàng ngàn năm trước Công nguyên, người da đỏ đã trồng thuốc lá trên vùng đất mênh mông ở Nam Mỹ, Trung Mỹ, quần đảo Antil và một số nơi khác. Thuốc lá được đưa vào châu Âu khoảng năm 1496-1498 do Roman Pano (nhà truyền đạo Tây Ban Nha) sau khi đi châu Mỹ về. Năm 1556, Andre Teve cũng lấy hạt thuốc lá từ Brazil đem về trồng ở Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Jean Nicot, Đại sứ Pháp ở Lisbon dã dâng lên nữ hoàng Pháp Featerina Mechssi những cây thuốc lá đầu tiên. Theo ông thuốc lá có thể xua đuổi bệnh đau đầu, bằng cách cho người bệnh ngửi bột thuốc.
Thuốc lá được trồng ở Nga vào năm 1697 do Petro Valeski sau cuộc viếng thăm Anh và một số quốc gia khác đem về. Vua Sulemam cho trồng thuốc lá ở Bungari vào khoảng năm 1687.Tại Đức từ năm 1640 đã có nhà máy sản xuất thuốc lá điếu ở Nordeburg và vào năm 1788 đã có xưởng sản xuất xì gà tại Hamburg.
Tại các nước châu á, Thái Bình Dương, thuốc lá được trồng vào thế kỷ 18. Ngành kỹ thuật trồng trọt, công nghệ sinh học đã phát triển rất nhanh chóng để sản xuất đa dạng các loại nguyên liệu thuốc lá đáp ứng cho công nghiệp chế biến, nhu cầu thị hiếu đa dạng về thuốc điếu và đặc biệt để xuất khẩu.Trong thời gian dài, thuốc lá được gọi rất nhiều tên như La Herba Sanena (cây làm thuốc), Herba Panacea (cây thuốc trị mọi bệnh), L’Herbe etrange (cây làm thuốc dị thường), L’Herbe d’Ambassadeur (cây kỷ niệm tên Đại sứ ở Lisbon). Sau đó các tên mất dần chỉ còn lại tên gọi Nicotiana để kỷ niệm tên Jean Nicot, người có công truyền bá trồng thuốc lá ở châu Âu. Ngày nay nhiều nước có tên gọi thuốc lá giống nhau là Tabacco (Anh, Mỹ), Tabak (Đức, Nga), Trutrun (Thổ Nhĩ Kỳ, Bungari), Tutun (Rumania)... Còn tên khoa học của cây thuốc lá vàng là Nicotiana Tabacum L. Thuốc lá được trồng rộng rãi ở các điều kiện tự nhiên khác nhau, tiêu chí khác hẳn thời nguyên thủy. Phạm vi phân bổ vùng trồng từ 40 vĩ độ Nam đến 60 vĩ độ Bắc, nhưng tập trung nhiều ở vĩ độ Bắc. Thuốc lá có tính di truyền phong phú, tính thích ứng rộng rãi, dưới sự tác động trực tiếp của con người, ngày nay thuốc lá có nhiều đặc trưng phẩm chất, ngoại hình khác nhau. Có thể kể đến loại thuốc lá vàng sấy có hương vị độc đáo là Virginia (Hoa Kỳ, Zimbabwe...), thuốc lá Oriental - đặc sản của vùng Địa trung Hải, xì gà nổi tiếng của Cuba và Sumatra (Indonesia).
Việc hút thuốc lá lan nhanh sang các nước châu Âu. Năm 1561, Jean Nicot, đại sứ Pháp ở Lisbone, đã giới thiệu bột thuốc lá với bà hoàng Catherine de Medici, người bị chứng đau nửa đầu. Bột thuốc lá gây ra hắt hơi, cơn đau của bà hoàng dịu đi. Điều đó làm giới quý tộc Pháp ngạc nhiên, nhưng lại khởi đầu cho việc dùng thuốc lá như một cách sống hợp thời trang thú vị trong giới qúi tộc. Để tỏ lòng ngưỡng mộ Nicot, thuốc lá còn được gọi là Nicotine.
Người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã mở đường cho cuộc “Phát kiến địa lý”, dẫn đến sự mở rộng phạm vi buôn bán thế giới và sự phát triển nhanh chóng của thương nghiệp và công nghiệp. Các nước Hà Lan, Anh, Pháp, Bỉ cũng đua nhau đi tìm kiếm thị trường buôn bán trên thế giới. Thuốc lá là một trong những hàng hóa quan trọng được các nước châu Âu mang tới châu á, châu Phi.
Đến năm 1592, một thế kỷ sau khi Colombus phát hiện ra châu Mỹ, thuốc lá đã được trồng ở Bỉ, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ và Anh. Sau đó lan ra Philippines, ấn Độ, Java, Nhật, Tây Phi, Trung Quốc và các lái buôn đã mang thuốc lá đến tận Mông Cổ và Sibêri.
Đặc trưng của phân phối.
Phân phối sản phẩm là đường đi của sản phẩm từ người sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng. Việc phân phối sản phẩm như thế nào thường phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó yếu tố đặc trưng của sản phẩm của ngành giữ một vai trò hết sức quan trọng, nó chi phối tới việc thiết kế hình thành kênh phân phối của các công ty.
Ngành kinh doanh thuốc lá là một ngành có những đặc điểm:
Sản phẩm kinh doanh là sản phẩm mà khách hàng sãn sàn tìm mua khi có nhu cầu
Chính phủ các quốc gia tìm nhiều biện pháp để hạn chế sản xuất và tiêu dùng nó.
Đây là ngành kinh doanh không được phép quảng cáo truyền thông rộng rãi
Đây là sản phẩm được tiêu dùng thường xuyên, phạm vi thị trường rộng lớn, mật độ thị trường dày.
Sản phẩm có thể tích nhỏ, trọng lượng bé, giá trị trên một đơn vị sản phẩm là nhỏ.
Sản phẩm được tiêu chuẩn hoá cao.
Chính những đặc điểm này quyết định đến những đặc trưng của việc phân phối thuốc lá đó là:
Sử dụng phương thức phân phối rộng rãi: Tức doanh nghiệp đưa sản phẩm của mình đến càng nhiều nhà bán buôn và bán lẻ càng tốt.
Phân phối thường có nhiều cấp độ trung gian bởi: Nhà máy sản xuất thường được xây dựng ở các vùng nguyên liệu do đó có thể xa thị trường tiêu dùng, hơn nữa sản phẩm có giá trị nhỏ được tiêu dùng trên một thị trường rộng lớn nên cần sử dụng nhiều trung gian để giảm bớt chi phí trong phân phối. Mặt khác sản phẩm được tiêu chuẩn hoá cao nên việc phân phối qua nhiều trung gian không ảnh hưỏng đáng kể.
Các công ty thuốc lá hiện nay thường áp dụng mô hình phân phối:
MH1: MH2:
NHÀ SẢN XUẤT
NGƯÒI BÁN BUÔN
NGƯỜI BÁN LẺ
NGƯÒI TIÊU DÙNG
NHÀ SẢN XUẤT
ĐẠI LÝ
NGƯÒI BÁN BUÔN
NGƯỜ BÁN LẺ
NGƯỜI TIÊU DÙNG
1.2. Những áp lực đối với hoạt động kinh doanh thuốc lá.
Từ chính sách của các nước.
Các quốc gia trên thế giới nhìn chung đều có những chính sách giảm việc sản xuất và tiêu thụ thuốc lá. Tuỳ ở mỗi quốc gia thì chính sách này có sự khác nhau, nhưng nhìn chung chính sách của các nước sử dụng các biện pháp sau:
Áp dụng mức thuế cao đối với việc sản xuất và tiêu thụ thuốc lá.
Nghiêm cấm các hình thức quảng cáo đối với thuốc lá.
Quy định chặt chẽ về sản xuất và kinh doanh thuốc lá.
Quy định những nơi không được phép hút thuốc lá.
Công ước khung quốc tế.
Mục tiêu của Công ước:
Nhằm bảo vệ các thế hệ hiện nay và tương lai khỏi các hậu quả tàn phá về sức khoẻ, xã hội, môi trường và kinh tế của việc tiêu thụ thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc.
Giới thiệu về công ước khung
Văn bản này đã được đưa ra tại phiên họp toàn thể cuối cùng của vòng đàm phán thứ sáu Cơ quan Đàm phán Liên Chính phủ vào ngày 1 tháng 3 năm 2003. Hội nghị đã đồng ý rằng văn bản này và được thông qua tại Đại Hội đồng Y tế Thế giới lần thứ 56 vào tháng 5 năm 2003.
Quyết tâm dành ưu tiên cho quyền bảo vệ sức khoẻ công cộng.
Nhận thức rằng sự lan rộng của nạn dịch thuốc lá là một vấn đề toàn cầu với những hậu quả nghiêm trọng đối với sức khoẻ công cộng, đòi hỏi phải có sự hợp tác quốc tế và sự tham gia rộng rãi nhất của tất cả các nước trong một nỗ lực quốc tế hữu hiệu, phù hợp và toàn diện để đối phó với nạn dịch này.
Phản ánh mối lo ngại của cộng đồng quốc tế về các hậu quả tàn phá trên qui mô toàn thế giới về sức khoẻ, xã hội, kinh tế và môi trường do việc tiêu thụ thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc gây ra.
Hết sức lo ngại về sự gia tăng trong tiêu thụ và sản xuất thuốc lá và các sản phẩm thuốc lá khác trên toàn cầu, đặc biệt tại các nước đang phát triển, cũng như trước gánh nặng mà tình trạng này gây ra đối với các gia đình, người nghèo và các hệ thống y tế quốc gia.
Nhận thức rằng các bằng chứng khoa học đã chứng minh một cách rõ ràng rằng việc sử dụng thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc là nguyên nhân dẫn đến tử vong, bệnh tật và tàn phế và rằng có một khoảng cách về thời gian từ khi bắt đầu phơi nhiễm với khói thuốc và những sử dụng khác của sản phẩm thuốc lá đến khi có các biểu hiện về các bệnh tật liên quan đến thuốc lá.
Cũng nhận thức rõ rằng thuốc lá và một số sản phẩm khác chứa thuốc lá được chế tạo một cách tinh xảo nhằm mục đích tạo ra và duy trì sự phụ thuộc vào thuốc lá và rằng nhiều hợp chất chứa trong thuốc lá và khói do thuốc lá sinh ra có hoạt tính dược lý, độc hại, gây biến đổi gen và gây ung thư, và rằng riêng sự phụ thuộc vào thuốc lá đã được xếp loại là một tình trạng rối loạn trong các phân loại về bệnh tật của quốc tế .
Công nhận rằng có bằng chứng khoa học rõ ràng cho thấy việc phụ nữ có thai phơi nhiễm với khói thuốc sẽ gây hại đối với sức khoẻ và điều kiện phát triển của trẻ em,
Lo ngại sâu sắc về sự gia tăng trong việc hút thuốc lá và các hình thức sử dụng thuốc lá khác ở trẻ em và thiếu niên toàn cầu, đặc biệt là việc hút thuốc ở các lứa tuổi ngày càng trẻ.
Báo động về tình trạng gia tăng hút thuốc và các hình thức sử dụng thuốc lá khác trong phụ nữ và thiếu nữ trên toàn thế giới và nhận thức rõ nhu cầu phải có sự tham gia đầy đủ của phụ nữ tại tất cả các cấp của quá trình hình thành và thực hiện chính sách và nhu cầu phải có các chiến lược chú trọng tới vấn đề giới trong kiểm soát thuốc lá.
Lo ngại sâu sắc về mức độ cao về hút thuốc lá và sử dụng thuốc lá dưới các dạng khác trong những người bản xứ.
Lo ngại sâu sắc về tác động của tất cả các hình thức quảng cáo, khuyến mãi và tài trợ nhằm khuyến khích sử dụng các sản phẩm thuốc lá.
Nhận thức rằng cần phải có hành động hợp tác nhằm xóa bỏ tất cả các hình thức buôn bán bất hợp pháp thuốc lá và các sản phẩm thuốc lá khác, bao gồm buôn lậu, sản xuất bất hợp pháp và sản xuất thuốc lá giả.
Nhận thức rõ rằng việc kiểm soát thuốc lá ở tất cả các cấp và đặc biệt là tại các nước đang phát triển và tại các nước có nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đòi hỏi phải có đủ các nguồn lực tài chính và kỹ thuật tương xứng với các nhu cầu hiện tại và nhu cầu dự báo cho các hoạt động kiểm soát thuốc lá,.
Nhận rõ sự cần thiết xây dựng những cơ chế phù hợp nhằm giải quyết các hệ luỵ lâu dài về kinh tế và xã hội của các chiến lược giảm cầu thuốc lá thành công.
Quan tâm đến những khó khăn về kinh tế và xã hội mà các chương trình kiểm soát thuốc lá có thể gây ra trong thời gian trung hạn và dài hạn tại một số nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế trong thời kỳ quá độ và nhận thức rõ nhu cầu được hỗ trợ về tài chính, và kỹ thuật của các nước này trong các chiến lược phát triển quốc gia bền vững.
ý thức rõ về việc làm có giá trị mà nhiều Quốc gia đang tiến hành để kiểm soát thuốc lá và ca ngợi vai trò lãnh đạo của TCYTTG cũng như nỗ lực của các tổ chức và cơ quan khác trong hệ thống Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế các tổ chức liên chính phủ khu vực khác trong việc xây dựng các biện pháp kiểm soát thuốc lá.
Nhấn mạnh sự đóng góp quan trọng đặc biệt của của các tổ chức phi chính phủ và các thành viên khác trong xã hội dân sự không gắn kết với ngành công nghiệp thuốc lá bao gồm các hội chuyên môn y tế, các tổ chức phụ nữ, thanh niên, các nhóm về môi trường và người tiêu dùng và các cơ sở y tế và các viện nghiên cứu vào các nỗ lực kiểm soát thuốc lá quốc gia và quốc tế, và tầm quan trọng thiết yếu của sự tham gia của các tổ chức này trong các nỗ lực kiểm soát thuốc lá quốc gia và quốc tế.
Nhận thức nhu cầu phải cảnh giác đối với bất kỳ cố gắng nào của ngành công nghiệp thuốc lá nhằm làm suy yếu hoặc phá hoại các cố gắng kiểm soát thuốc lá và nhu cầu cần được thông tin về các hoạt động của ngành công nghiệp thuốc lá mà những hoạt động này có tác động tiêu cực đối với các nỗ lực kiểm soát thuốc lá.
Nhắc lại Điều 12 của Công ước Quốc tế về Quyền Kinh tế, Văn hoá và Xã hội do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 16 tháng 12 năm 1966 khẳng định quyền của tất cả mọi người được hưởng mức độ sức khoẻ về thể lực và tâm thần cao nhất mà họ có thể đạt được.
Khẳng định lại Lời nói đầu trong Hiến chương của TCYTTG, nêu rõ việc đạt được mức độ cao nhất về sức khoẻ là một trong những quyền cơ bản của mỗi người, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, chính kiến, điều kiện kinh tế hoặc xã hội.
Quyết tâm tăng cường các biện pháp kiểm soát thuốc lá dựa trên việc xem xét các điều kiện phù hợp hiện tại về khoa học, kỹ thuật và kinh tế.
Nhắc lại Công ước về Loại bỏ Mọi Hình thức Phân biệt đối xử chống Phụ nữ do ĐHĐ Liên Hợp Quốc thông qua ngày 18 tháng 12 năm 1979 quy định rằng các Quốc gia tham gia Công ước này sẽ tiến hành các biện pháp thích hợp để loại bỏ sự phân biệt đối xử chống phụ nữ trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ.
Nhắc lại thêm rằng Công ước về Quyền Trẻ em do ĐHĐ Liên Hợp Quốc thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1989, quy định rằng các Quốc gia tham gia Công ước này công nhận quyền của trẻ em được hưởng mức độ sức khoẻ cao nhất có thể có được.
Nội dung công ước
Điều 1: Sử dụng các thuật ngữ đối với các mục đích của Công ước này:
"Buôn bán trái phép" có nghĩa là bất kỳ việc hành nghề hoặc một hành vi nào bị luật pháp cấm mà có liên quan đến việc sản xuất, chuyên chở, nhận , sở hữu, phân phối, bán hoặc mua bao gồm bất kỳ việc hành nghề hoặc hành vi nào nhằm tạo điều kiện cho các hoạt động trên.
“Tổ chức hội nhập kinh tế khu vực” có nghĩa là một tổ chức bao gồm các quốc gia có chủ quyền và đối với tổ chức này các Quốc gia Thành viên đã chuyển giao năng lực trong một loạt các vấn đề bao gồm thẩm quyền đưa ra những quyết định ràng buộc đối với các Quốc gia Thành viên liên quan đến những vấn đề đó.
"Quảng cáo và khuyến mãi thuốc lá" có nghĩa là bất kỳ một hình thức thông tin, khuyến cáo hay hành động thương mại nào với mục đích, hiệu quả hoặc có thể gây hiệu quả trực tiếp hoặc gián tiếp trong việc khuyến mãi một sản phẩm thuốc lá hoặc sử dụng thuốc lá.
"Kiểm soát thuốc lá" có nghĩa là một loạt các chiến lược giảm cung, cầu, và tác hại của thuốc lá nhằm tăng cường sức khoẻ cho nhân dân bằng cách loại trừ hoặc giảm tiêu thụ các sản phẩm thuốc lá hoặc giảm phơi nhiễm với khói thuốc lá.
"Công nghiệp thuốc lá" có nghĩa là các cơ sở sản xuất , các đại lý phân phối bán buôn và các nhà nhập khẩu các sản phẩm thuốc lá.
"Các sản phẩm thuốc lá" có nghĩa là các sản phẩm được hoàn toàn hoặc phần nào tạo ra từ vật liệu lá thuốc được sản xuất để dùng cho việc hút, mút, nhai hoặc hít.
"Tài trợ của các hãng thuốc lá" có nghĩa là bất kỳ hình thức đóng góp trực tiếp hay gián tiếp nào vào bất kỳ sự kiện, hoạt động hoặc cá nhân nào với mục đích, hiệu quả hoặc có thể gây hiệu quả để khuyến mại cho một sản phẩm thuốc lá hoặc sử dụng thuốc lá một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Điều 2: Mối quan hệ giữa Công ước này và các hiệp ước và các văn kiện pháp lý khác
Để bảo vệ tốt hơn cho sức khoẻ con người, các Bên được khuyến khích thi hành các biện pháp khác ngoài các biện pháp được yêu cầu trong Công ước này và các nghị định thư có liên quan, và không có qui định nào trong các văn kiện này ngăn cản một Bên áp đặt những yêu cầu chặt chẽ hơn nhất quán với các điều khoản của các văn kiện đó và phù hợp với luật pháp quốc tế.
Các điều khoản của Công ước này và các nghị định thư có liên quan hoàn toàn không ảnh hưởng đến quyền của các Bên tham gia vào các hiệp định song phương hoặc đa phương, bao gồm cả các hiệp định khu vực hoặc tiểu khu vực, về các vấn đề phù hợp hoặc bổ sung cho Công ước và các nghị định thư có liên quan, với điều kiện là các hiệp định đó tương xứng với nghĩa vụ của các Bên theo Công ước và các nghị định thư có liên quan. Các Bên liên quan sẽ truyền đạt các hiệp định như vậy với Hội nghị các Bên thông qua Ban Thư ký.
C ác phong trào phòng chống thuốc lá trên thế giới.
Hiện nay có nhiều phong trào phòng chống thuốc lá trên thế giới tiêu biêu là:
Thế giới chọn ngày 31-5 hàng năm là ngày không hút thuốc lá. Năm 1987, các thành viên của Tổ chức Y tế Thế giới đã đề ra Ngày Thế giới không Thuốc lá nhằm thu hút sự chú ý của tất cả mọi người đến nạn dịch thuốc lá và các bệnh tật, sự chết có thể phòng ngừa do thuốc lá gây ra.
Hàng năm tổ chức y tế thế gới đề ra khẩu hiệu chống thuốc lá trong năm:
- 1990 “Thanh thiếu niên không thuốc lá”- 1991 “Giao thông và nơi công cộng không thuốc lá”- 1992 “Nơi làm việc không thuốc lá: an toàn hơn và khoẻ mạnh hơn”- 1993 “Các dịch vụ Y tế không thuốc lá”- 1994 “Truyền thông và thuốc lá: truyền thông điệp về thuốc lá tới mọi người”- 1995 “Chi phí cho thuốc lá nhiều hơn là bạn tưởng”- 1996 Thể thao và nghệ thuật không thuốc lá” - 1997 “ Đoàn kết vì một thế giới không thuốc lá”- 1998 “ Hãy từ bỏ thuốc lá”- 2000 “Thuốc lá gây chết người, đừng bị lừa bịp”- 2001 “Hút thuốc thụ động gây chết người, hãy giữ bầu không khí trong sạch không có khói thuốc lá”- 2002 “ Thể thao không thuốc lá”- 2004 "Thuốc lá và đói nghèo"
- 2008 “ Thanh niên không hút thuốc”
Các sản phẩm thay thế.
Hút thuốc lá có hại cho sức khoẻ hiện đang là cảnh báo của toàn xã hội trước tình trạng lạm dụng quá mức thuốc lá điếu. Thậm chí ngành thuốc lá cũng đồng tình với những quy định của Bộ Y tế về việc ghi các cảnh báo độc hại do hút thuốc lá để người tiêu dùng sử dụng quyền tự do lựa chọn của mình. Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ thì càng có điều kiện để phát triển các sản phẩm thay thế thuốc lá. Trên thế giới có một số sản phẩm thay thế thuốc lá như kẹo nicotine, nước uống, miếng dán có nicotine, thuốc lá điện tử... và hiện nay đã có một số sản phẩm thuốc lá điếu được sản xuất ra không phải từ lá thuốc, loại thuốc lá này không có nicotine. Tất cả các sản phẩm nêu trên đều là loại sản phẩm dùng để hỗ trợ cai nghiện thuốc lá và bước đầu đã cho những kết quả khả quan với những người cai nghiện. Các sản phẩm này cũng là một thách thức đối với các Doanh nghiệp đang sản xuất và kinh doanh thuốc lá hiện nay ở nước ta.
Thuốc lá nhập lậu.
Do thói quen tiêu dùng và tính gây nghiện của Nicotin, thuốc lá là mặt hàng có lợi nhuận siêu ngạch so với nhiều mặt hàng tiêu dùng khác. Nguồn thu từ thuốc lá luôn được các quốc gia coi trọng và đóng vai trò trọng yếu đối với nền kinh tế bất chấp những tuyên truyền ngày càng rộng rãi và mạnh mẽ về chống hút thuốc. Tuy nhiên, cũng vì lợi nhuận siêu ngạch mà buôn lậu thuốc lá hiện nay cũng là vấn nạn của các quốc gia. Nếu tính năm 1995, thuốc lá điếu qua kênh buôn lậu với số lượng khoảng 300-400 tỷ điếu, chiếm 30% tổng lượng thuốc lá điếu được nhập khẩu trên toàn thế giới, và con số này đang ngày càng tăng nhanh do lợi nhuận siêu ngạch mà thuốc lá đem lại. Hiện nay, buôn lậu thuốc lá thường đạt 6,0 - 8,5% tổng lượng thuốc lá điếu trên thị trường toàn thế giới. Để hạn chế tiêu dùng thuốc, những biện pháp thường được nhiều quốc gia áp dụng là tăng giá, tăng thuế, tăng cường tuyên truyền tác hại của thuốc lá.... Trước hết, việc tăng giá và thuế thuốc lá: về quản lý Nhà nước, đây được coi là một thắng lợi kép (Win-win situation). Vì vừa làm tăng nguồn thu ngân sách quốc gia, vừa đánh vào kinh tế người hút, nhằm làm giảm thói quen hút thuốc lá. Tuy nhiên, tăng giá đến mức nào và tại sao tất cả các quốc gia đều phải cân nhắc đến đau đầu khi muốn tận dụng thăng lợi kép này. Nguyên nhân ở chỗ thuế càng cao bao nhiêu thì nguồn thu cho ngân sách càng cao bấy nhiêu và điều này lại làm tăng thêm tính hấp dẫn đối với buôn lậu, kích thích buôn lậu phát triển. Trong thực tế, đã có nhiều quốc gia áp dụng mức bán thuốc lá rất cao, đánh thuế mạnh nhưng buôn lậu không giảm như các quốc gia phía bán cầu Bắc. Có quốc gia lại áp dụng giá thuế thấp nhưng buôn lậu vẫn phát triển như các quốc gia vùng Địa Trung Hải.
Từ thực tế trên, cần nhìn nhận rằng có một nguyên nhân kích thích buôn lậu thuốc lá là lợi nhuận lớn. Trong thực tế, phần thuế trong giá của một số thương hiệu thuốc lá nổi tiếng có thể chiếm 50-60% giá bán. Đây là mức chênh lệch hấp dẫn các tổ chức buôn lậu thế giới. Nhưng nguyên nhân lớn hơn là tình trạng tham nhũng của các cán bộ có liên quan. Một số quốc gia bị đánh giá là có tình trạng buôn lậu thuốc lá phát triển do tham nhũng là Banglades, Campuchia, Colombia. Latvia, Myanmar, Pakistan. Những nước này có lượng thuốc lá buôn lậu đạt 30-50% lượng tiêu thụ
Tình hình sản xuất và kinh doanh thuốc lá trên thế giới thời qua.
Sản xuất và tiêu thụ thuốc lá hàng năm trên toàn thế giới khoảng 5.500 - 5000 tỷ điếu thuốc lá (275 - 280 tỷ bao) .
Bảng 1.1: Sản lượng thuốc lá sản xuất của 20 quốc gia hàng đầu thế giới
Quốc gia
Thứ tự
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
% sovới tổng số năm 2002
Trung Quốc
1
1.674,7
1.644,0
1668,2
1.699,5
1.722,3
30,4
Mỹ
2
674,7
610,2
594,3
562,3
534,5
9,4
Nga
3
210,7
283,1
341,4
374,0
381,8
6,7
Nhật Bản
4
269,8
269,0
260,0
258,9
251,0
4,4
Indonesia
5
232,2
233,2
237,1
236,6
214,8
3,8
Đức
6
181,0
204,6
206,8
213,8
212,5
3,8
Anh
7
163,5
134,6
126,1
126,1
133,0
2,3
Thổ Nhĩ Kỳ
8
119,3
119,4
122,2
124,1
127,4
2,3
Hà Lan
9
116,3
122,0
123,1
120,4
126,3
2,2
Brazil
10
183,1
122,0
118,7
118,7
122,0
2,2
Nam Triều Tiên
11
101,0
96,2
98,8
97,7
93,8
1,7
Ấn Độ
12
98,0
97,0
97,0
86,3
90,0
1,6
Philipin
13
67,1
68,6
73,2
79,0
81,0
1,4
Ukraina
14
58,8
53,7
57,9
69,4
80,9
1,4
Ai Cập
15
56,5
59
62,1
74,9
79,7
1,4
Ba Lan
16
96,7
94,6
83,3
80,6
79,3
1,4
Việt Nam
17
43,9
42,8
50,9
63,3
68,5
1,1
Tây Ban Nha
18
79,5
73,2
71,6
62,3
62,8
1,1
Pakistan
19
48,2
51,6
48,5
58,1
60,1
1,1
Mê hi cô
20
47,2
47,2
47,2
46,9
46,9
0,8
Tổng
4.522,2
4.424,6
4.448,4
4.552,9
4.521,7
79,88
Toàn thế giới
5.621,6
5.499,9
5.376,1
5.650,2
5.660,8
100
(Nguồn: Tobaco: Suply and Diman 2003)
Bảng 1.2. Sản lượng thuốc lá tiêu thụ của 20 quốc gia hàng đầu thế giới
Quốc gia
Thứ tự
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
% so với tổng số năm 2002
Trung Quốc
1
1.655,1
1.666,0
1.687,8
1.689,0
1.697,4
30,7
Mỹ
2
465,0
435,0
430,0
425,0
420,0
7,6
Nga
3
260,0
270,0
280,0
320,0
340,0
6,1
Nhật Bản
4
336,6
332,2
324,5
319,3
312,6
5,7
Indonesia
5
215,1
216,2
221,1
214,4
194,8
3,5
Đức
6
152,8
153,9
153,8
155,5
155,6
2,8
Thổ Nhĩ Kỳ
7
109,3
115,5
115,5
116,0
115,5
2,1
Brazil
8
105,0
105,1
104,4
109,8
105,5
1,9
Italia
9
93,5
95,3
100,5
101,5
102,4
1,9
Tây Ban Nha
10
89,9
89,9
91,6
93,1
94,3
1,7
Nam Triều Tiên
11
106,6
95,5
104,9
98,9
91,2
1,6
Ukraina
12
87,0
88,0
89,0
90,0
90,0
1,6
Ba Lan
13
92,7
90,4
90,0
89,4
89,4
1,6
Ấn Độ
14
96,8
96,0
95,9
85,4
89,0
1,6
Philipin
15
70,2
71,6
72,7
81,2
84,0
1,5
Pháp
16
83,8
83,7
82,5
83,5
80,5
1,5
Anh
17
84,0
84,0
81,5
79,0
76,0
1,4
Việt Nam
18
47,0
48,0
54,0
62,0
68,0
1,2
Ai Cập
19
55,5
59,1
61,8
63,7
65,1
1,2
Pakistan
20
51,7
55,4
52,2
60,2
61,8
1,1
Tổng
2.602,5
3.584,8
2.665,9
2.647,9
2.635,7
47,6
Toàn thế giới
5.621,6
5.499,9
5.576,1
5.650,2
5.660,8
100
( Nguồn: Tobaco: Suply and Diman 2003)
Qua bảng trên ta thấy:
Việc sản suất và tiêu dùng phát triển mạnh ở khu vực Châu Á. Trong 20 nước sản xuất hàng đầu thì có khoảng 8 nước thuộc Châu Á chiếm khoảng 50% sản lượng tiêu thụ. Đặc biệt là Trung Quốc chiếm gần 1/3 sản lượng sản xuất và tiêu thụ toàn thế giới
So sánh 20 quốc gia, có thể thấy một số thay đổi như Hà Lan và Mexicoo có tên trong danh sách 20 quốc gia sản xuất lớn nhất, nhưng thay 2 quốc gia này trong danh sách 20 quốc gia tiêu thụ nhiều nhất lại là Italia và Pháp. Tây Ban Nha đứng thứ 18 trong danh sách sản xuất, nhưng lại ở vị trí thứ 10 trong tiêu thụ. Nước Anh sản xuất đứng thứ 7 nhưng tiêu thụ ở vị trí thứ 17. Việt Nam sản xuất ở vị trí thứ 17, tiêu thụ ở vị trí thứ 18, giữa sản xuất và tiêu thụ không có biến động về vị trí. Như vậy sản xuất và tiêu thụ ở các quốc gia không tương ứng.
Giai đoạn 1992 - 2002, mức tiêu thụ thuốc lá điếu tăng khoảng 1,007 lên trong suốt 10 năm, nghĩa là mức tăng hàng năm trung bình khoảng 0,7%.
Chương 2: Đặc điểm của hoạt động kinh doanh thuốc lá tại thị trường Việt Nam.
2.1. Đặc điểm của khách hàng và thị trường.
2.1.1. Khách hàng.
Ở Việt Nam người hút thuốc phần lớn là nam giới hút thuốc ở độ tuổi từ 21-50 tuổi chiếm gần 50%, đây là độ tuổi chủ động về hành vi, thu nhập và chi tiêu:
Bảng 2.1: Tỷ lệ nam giới hút thuốc theo độ tuổi.
Độ tuổi nam giới hút thuốc lá
Tỷ lệ%
Từ 18 - 20 tuổi
Từ 21 - 30 tuổi
Từ 31 - 40 tuổi
Từ 41 - 50 tuổi
Từ 51 tuổi trở lên
1,9
24,8
36,0
27,3
10,0
( Nguồn: Tổng Công ty thuốc lá Việt Nam)
Nam giới hút thuốc lá có nghề nghiệp đa dạng, đủ loại, đủ các cấp độ và ngành nghề khác nhau ở Việt Nam hiện nay. Tập trung vào một số ngành nghề như: Buôn bán nhỏ, công nhân viên, thợ thủ công, lái xe ô tô, nông dân… Bên cạnh đó, cũng có một số bộ phận chưa có việc làm cũng hút thuốc lá. Ngoài ra giới lãnh đạo, quản lý hiện nay cũng hút thuốc lá.
Bảng 2.2: Phân bố nam giới hút thuốc theo ngành nghề
Nghề nghiệp đang làm
Tỷ lệ (%)
1. Buôn bán nhỏ
11,4
2. Cán bộ lãnh đạo, quản lý
5,9
3. Nhân viên, viên chức
3,7
4. Công nhân
7,7
5. Giáo viên, huấn luyện viên
2,2
6. Lái xe
6,1
7. Chủ cơ sở tư nhân
5,9
8. Chạy xe thồ, xe ôm
6,8
9. Thợ các loại
25,0
10. Nông dân, ngư dân
3,5
11. Lao động phổ thông, lao động tự do
5,8
12. Sinh viên, học sinh
1,6
13. Hưu trí, mất sức
2,5
14. Thất nghiệp
6,6
15. Nghề nghiệp khác
4,9
(Nguồn: Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam)
Nếu chia theo trình độ học vấn thì phần lớn nam giới hút thuốc lá có trình độ học vấn tốt nghiệp phổ thông trung học trở xuống.
Bảng 2.3: Phân bố nam giới hút thuốc lá chia theo trình độ học vấn.
Trình độ học vấn
Tỷ lệ (%)
1. Từ phổ thông cơ sở trở xuống (cấp II)
49,2
2. Phổ thông trung học
36,3
3. Trung học chuyên nghiệp
3,3
4. Cao đẳng
1,2
5. Đại học trở lên
10,0
(Nguồn: Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam )
Nếu chia theo mức thu nhập thì khoảng 2/3 nam giới hút thuốc lá có mức thu nhập bình quân từ 500.000 – 2.000.000đ/tháng. Một bộ phận khác có thu nhập trên 2.000.000đ/tháng. Ngoài ra những nam giới có mức thu nhập dưới 500.000đ/tháng hoặc thấp hơn cũng hút thuốc lá tập trung vào nông dân, người lao động tự do, về hưu, thất nghiệp…
Bảng 2.4: Phân bố nam giới hút thuốc lá theo thu nhập
Thu nhập bình quân
Tỷ lệ (%)
1. Dưới 500.000đ/tháng
24,7
2. Từ 500.000đ - 1.000.000đ/tháng
44,5
3. Từ trên 1.000.000đ - 2.000.000đ/tháng
22,3
4. Từ trên 2.000.000đ - 3.000.000đ/tháng
4,6
5. Trên 3.000.000đ/tháng
3,9
(Nguồn: Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam)
2.1.2. Thị trường.
Thị trường nông thôn:
Thị trường nông thôn tiêu thụ khoảng 60% tổng số sản lượng tiêu thụ thuốc lá trên thi trường. Do thu nhập thấp, tiêu thụ thuốc lá tại thị trường nông thôn là sản phẩm thuốc lá không đầu lọc và sản phẩm thuốc lá đầu lọc cấp thấp. Với mức giá từ 800 đồng đến 2000đ/bao. Loại thuốc lá này tiêu thụ chiếm khoảng 90% tổng số tiêu thụ tại thị trường nông thôn.
Các loại thuốc lá cấp trung bình (mức giá 2000 – 6000đ/bao) tiêu thụ ít hơn (5-7%) và các loại thuốc lá trung cao cấp (mức giá 6000đ/bao trở lên) được._. tiêu thụ nhất tại thị trường nông thôn.
Thị trường các đô thị (thị trấn, thị tứ, thị xã, thành phố):
Thị trường các đô thị Việt Nam tiêu thụ khoảng 40% tổng sản lượng tiêu thụ trên thị trường. Xu hướng tiêu dùng chuyển dần tiêu thụ thuốc lá cấp thấp sang cấp cao. Do thu nhập của người dân ở đây ngày càng tăng.
Các loại thuốc lá cao cấp được phối chế từ nguyên liệu thuốc lá vàng (gout Anh) như Vinataba, “555” Craven A, White horse, Virginia gold, Sài Gòn, Dunhill, Cotap…và các loại thuốc lá điếu được sản xuất từ nguyên liệu tổng hợp Virginia, Burbley, Oriental (gout Mỹ) như Marlboro ngày càng được người tiêu dùng chấp nhận và tiêu thụ tăng lên.
Xuất khẩu thuốc lá:
Xuất khẩu nguyên liệu:
Hàng năm ngành thuốc lá xuất khẩu được một số nguyên liệu (lá thuốc lá, sợi thuốc lá). Tuy nhiên xuất khẩu nguyên liệu không ổn định. Vì nguyên liệu thuốc lá ở Việt Nam chất lượng không cao do đầu tư cho trồng thuốc lá thấp, thổ nhưỡng, khí hậu không phải là vùng để tạo ra nguyên liệu có chất lượng tốt. Giá xuất khẩu tuy không cao, nhưng đem lại lợi nhuận cho nông dân và ngành thuốc lá.
Năm 2003 toàn ngành xuất khẩu được: 6.836 tấn nguyên liệu.
Trong đó:
Tổng Công ty: 6771 tấn
Các đơn vị khác: 65 tấn
Với giá trị: 13.873.385USD.
- Xuất khẩu thuốc lá điếu:
Xuất khẩu thuốc lá điếu có lợi nhuận cao hơn xuất khẩu thuốc lá nguyên liệu. Nhưng xuất khẩu thuốc lá điếu phải đối đầu với sự cạnh tranh gay gắt về chất lượng, uy tín sản phẩm với các tập đoàn thuốc lá mạnh trên thế giới. Đồng thời, các nước trên thế giới đều cấm, hạn chế, đánh thuế cao đối với mặt hàng thuốc lá. Vì vậy xuất khẩu thuốc lá điếu là rất khó khăn.
Những năm trước đây, Việt Nam xuất khẩu sang Liên Xô, các nước Đông Âu theo Hiệp định thư. Năm 1986, nước xuất khẩu đạt mức cao nhất, với sản lượng 291,5 triệu bao. Sau khi Liên Xô và hệ thống XHCN tan rã, việc xuất khẩu theo hiệp định thư không còn. Xuất khẩu thuốc lá điếu khó khăn. Từ năm 1990, sản lượng xuất khẩu thuốc lá bao sang thị trường này giảm mạnh. Năm 1992, chỉ xuất được 03 triệu bao thuốc lá. Một số nhà máy Trung ương và địa phương xuất thuốc lá điếu qua con đường tiểu ngạch (chủ yếu sang Trung Quốc) với mức khoảng vài triệu bao thuốc lá đầu lọc/năm.
Thời gian gần đây, Tổng Công ty thuốc lá Việt Nam đã tập trung đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Tăng cường công tác chào hàng, tiếp thị, cử cán bộ đi khảo sát thị trường nước ngoài. Nên đã mở ra thị trường xuất khẩu thuốc lá điếu, đó là Châu Phi, Trung Đông. Năm 2002, xuất khẩu được gần 100 triệu bao thuốc lá các loại, giá trị 10 triệu USD. Năm 2003, xuất khẩu được 172.220.000 bao, giá trị 14.105.697USD. Dự kiến 2004, xuất khẩu đạt 250 triệu bao trở lên, với giá trị 30 triệu USD
2.2. Môi trường ảnh hưởng.
2.2.1. Phân tích ảnh hưởng của luật pháp – chính sách đến sản xuất và tiêu thụ thuốc lá.
Thuốc lá là một trong những nguyên nhân gây ra nhiều loại bệnh nguy hiểm đối với con người như ung thư phổi, nhồi máu cơ tim, xơ vữa động mạch và các bệnh về hô hấp... Theo số liệu điều tra năm 1997, ở Việt Nam tỷ lệ nam giới hút thuốc lá là 50% và nữ giới là 3,4%, ước tính 10% dân số (khoảng trên 7 triệu người chết do các bệnh có liên quan đến thuốc lá, trong đó 3,7 triệu người chết ở tuổi trung niên). Theo dự báo của tổ chức Y tế Thế giới, đến năm 2020 số người chết trên thế giới vì thuốc lá sẽ nhiều hơn số người chết vì HIV/AIDS, lao, tai nạn giao thông đường bộ. Ngoài những tác hại đối với sức khoẻ con người thì hút thuốc lá còn gây ra những tổn thất lớn về kinh tế của từng gia đình và toàn xã hội. Vì vậy mà Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều Nghị quyết, Nghị định, chỉ thị... về phòng chống tác hại của thuốc lá và các chính sách giảm sản xuất, sử dụng các sản phẩm thuốc lá như:
Nghị định số 194/CP ngày 31/12/1994 của Chính Phủ và thông tư số 37/VHTT ngày 1/7/1995 hướng dẫn thi hành Nghị định quy định cấm quảng cáo thuốc lá trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 12/5/1999 của Thủ tướng Chính Phủ quy định về tổ chức sắp xếp ngành hàng thuốc lá.
Quyết định 175/1999/QĐ-TTg ngày 25/8/1999 của Thủ tướng Chính Phủ về việc dán tem thuốc lá sản xuất trong nước.
Quyết định số 178/1999/QĐ-TTg ngày 30/8/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế ghi nhãn hàng hoá lưu thông trong nước và hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
Nghị quyết số 12/2000/NQ-CP ngày 14/8/2000 về “Chính sách quốc gia phòng, chống tác hại của thuốc lá” trong giai đoạn 2000 – 2010.
Nghị định của Chính Phủ số 76/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 về hoạt động sản xuất và kinh doanh thuốc lá.
Quyết định số 08/2002/QĐ-BVGCP ngày 24/1/2002 của Ban vật giá Chính phủ về giá bán tối thiểu thuốc bao sản xuất trong nước.
2.2.1.1. Các chính sách nhằm giảm sử dụng các sản phẩm thuốc lá.
Đẩy mạnh thông tin, giáo dục và truyền thông:
Thường xuyên tuyên truyền về tác hại của thuốc lá trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tổ chức các chiến dịch truyền thông về phòng chống tác hại của thuốc lá trên báo, đài phát thanh, truyền hình và trong các cuộc mít tinh, diễu hành trong các dịp lễ, tết.
Tổ chức các hoạt động hưởng ứng tuần lễ quốc gia không hút thuốc lá hàng năm từ ngày 25 đến ngày 31 tháng 5. Nội dung hoạt động tập trung vào việc tuyên truyền về tác hại của thuốc lá.
Viết tài liệu tuyên truyền, giáo dục và truyền thông phòng chống tác hại của thuốc lá.
Ban hành các quy định, tài liệu giảng dạy về phòng chống tác hại của thuốc lá và triển khai giảng dạy và tổ chức các cuộc vận động phòng chống tác hại của thuốc lá trong hệ thống các trường học.
Xây dựng chương trình giáo dục sức khoẻ từ xa về phòng chống tác hại của thuốc lá.
Tuyên truyền phòng chống tác hại của thuốc lá, lồng ghép với các hoạt động giáo dục sức khỏe tại địa phương, đặc biệt với lứa tuổi thanh thiếu niên và
thông qua các hoạt động giáo dục trong trường học.
Gắn các hoạt động phòng chống tác hại của thuốc lá với cuộc vận đông “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” ở cộng đồng.
Tuyên truyền và tư vấn cho bệnh nhân, người nhà bệnh nhân và nhân dân về tác hại của thuốc lá và cách cai nghiện thuốc lá.
Tổ chức hội thảo khoa học trong nước và các hội thảo quốc tế tại Việt Nam về phòng chống tác hại của thuốc lá.
Quản lý chặt chẽ quảng cáo, khuyến mại và các hình thức tài trợ:
Cấm quảng cáo thuốc lá dưới mọi hình thức, kể cả việc sử dụng tên, nhãn hiệu và biểu tượng của các sản phẩm thuốc lá với các sản phẩm và các dịch vụ không liên quan đến thuốc lá.
Kiểm tra thường xuyên việc thực hiện cấm quảng cáo, tiếp thị, tặng quà đối với các sản phẩm thuốc lá.
Nghiêm cấm tổ chức các hoạt động tiếp thị, kể cả việc sử dụng hệ thống tiếp viên để chào hàng, in nhãn, mác quảng cáo trên các phương tiện vận chuyển. Thực hiện nghiêm pháp luật về Thương mại, trong đó quy định cấm khuyến mại bằng thuốc lá và các hình thức tiếp thị tương tự đối với trẻ em dưới 16 tuổi.
Cấm các tổ chức trong nước nhận tài trợ để tổ chức các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể thao có gắn với việc quảng cáo thuốc lá.
Quy định lời cảnh báo về tác hại của thuốc lá đối với sức khoẻ:
Lời cảnh báo đối với sức khoẻ phải được in rõ ràng, dễ thấy trên tất cả các bao bì của các sản phẩm thuốc lá. Nội dung lời cảnh báo phải gây ấn tượng mạnh, ngắn gọn, tiến tới việc phải in nồng độ các chất độc hại trên tất cả các bao bì của các sản phẩm thuốc lá (đặc biệt là nồng độ nicôtin, hắc ín). Bên cạnh đó quy định in cảnh báo sức khoẻ trên vỏ bao thuốc lá thực hiện có lộ trình theo Công ước khung (FCTC), in lời cảnh báo trên bao thuốc lá chiếm khoảng 30% diện tích vỏ bao thuốc lá với nội dung: “Hút thuốc lá có thể gây ung thư phổi”.
Thuế và giá đối với thuốc lá:
Thuốc lá là mặt hàng độc hại, không khuyến khích tiêu dùng do đó chính sách thuế đối với sản phẩm thuốc lá luôn luôn là thuế tiêu thụ đặc biệt và ở mức cao và hiện nay thống nhất một mức thuế 55% (năm 2008 là 65%) đối với tất cả các loại thuốc nhằm hạn chế và tiến tới giảm lượng người hút thông qua cơ chế giá. Nhà nước có biện pháp điều tiết giá cả thuốc lá, chống bán hạ giá thuốc lá.
Hỗ trợ cai nghiện thuốc lá:
Khuyến khích, tổ chức và hỗ trợ các biện pháp cai nghiện thuốc lá, nghiên cứu các phương pháp cai nghiện phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Tăng cường đào tạo, tập huấn cho các nhân viên y tế về các phương pháp cai nghiện thuốc lá phù hợp cho mọi đối tượng.
Có các biện pháp nhằm nâng cao vai trò của bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội trong việc khuyến khích cai nghiện thuốc lá.
Quy định những nơi không được hút thuốc lá:
Không được hút thuốc lá trong các cuộc họp, trụ sở cơ quan, các cơ sở y tế, trường học, nhà trẻ, rạp chiếu bóng, nhà hát, trên các phương tiện giao thông công cộng, những nơi tập trung đông người. Quy định những nơi được phép hút thuốc lá.
Khuyến khích, vận động nhân dân không hút thuốc lá trong các lễ hội, cuộc vui gia đình, đám cưới, đám tang…
2.2.1.2. Các chính sách nhằm giảm cung cấp các sản phẩm thuốc lá
Quản lý chặt chẽ việc sản xuất thuốc lá:
Nhà nước độc quyền về sản xuất thuốc lá. Chỉ có những Doanh nghiệp nhà nước, các liên doanh với nước ngoài đã được cấp giấy phép và có đủ điều kiện quy định mới được sản xuất thuốc lá. Các Doanh nghiệp không được phép đầu tư mở rộng hoặc đầu tư mới vượt quá tổng năng lực sản xuất thuốc lá điếu hiện tại của toàn ngành thuốc lá.
Ngừng các dự án mới về hợp tác, sản xuất, gia công hoặc liên doanh với nước ngoài sản xuất thuốc lá điếu, không tăng thêm nhãn mác thuốc lá nước ngoài.
Bảo đảm các tiêu chuẩn chất lượng thuốc lá theo các tiêu chuẩn của Việt Nam. Từng bước giảm nồng độ nicôtin và hắc ín xuống bằng mức ở các nước phát triển trong các sản phẩm thuốc lá điếu sản xuất ở Việt Nam.
Kiểm soát chặt chẽ việc in ấn nhãn mác và bao bì thuốc lá nhằm ngăn chặn tình trạng sản xuất thuốc lá giả, thuốc lá nhái nhãn mác gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ người tiêu dùng.
Bảo đảm cho công nhân ngành công nghiệp thuốc lá được làm việc trong môi trường đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép.
Quản lý kinh doanh thuốc lá điếu:
Thuốc lá là mặt hàng hạn chế kinh doanh theo quy định tại Nghị định số 11/1999/NĐ-CP ngày 3 tháng 3 năm 1999 của Chính phủ, nhà nước thực hiện kiểm soát lưu thông, tiêu thụ thuốc lá trên thị trường, từng bước quản lý việc bán buôn và bán lẻ trên thị trường. Để làm được đại lý cấp I của Công ty Thương Mại Thuốc Lá thì các Doanh nghiệp phải có giấy phép kinh doanh thuốc lá do Bộ Thương mại cấp.
Quy định cấm bán thuốc lá cho người dưới 18 tuổi.
Tăng cường các biện pháp ngăn chặn và sử lý nghiêm việc sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm thuốc lá giả và thuốc lá nhái nhãn mác.
Chống buôn lậu các sản phẩm thuốc lá:
Đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
Xây dựng phong trào toàn dân tự giác tham gia phòng chống buôn lậu, vận chuyển, kinh doanh và tiêu thụ thuốc lá nhập lậu. Có các hình thức khuyến khích về vật chất để động viên phong trào chống buôn lậu và kinh doanh thuốc lá nhập lậu.
Tăng cường các giải pháp về kinh tế, tạo công ăn việc làm có thu nhập ổn định cho các cư dân biên giới, để người dân tự nguyện không tham gia vận chuyển và tiếp tay cho việc buôn lậu thuốc lá.
2.2.1.3. Mở rộng hợp tác quốc tế trong phòng, chống tác hại của thuốc lá
Đẩy mạnh trao đổi kinh nghiệm với các nước trên thế giới, trước hết là các nước trong khu vực trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách, chiến lược nhằm làm giảm nhu cầu sử dụng và giảm mức cung cấp các sản phẩm thuốc lá.
Tranh thủ sự hỗ trợ về chuyên môn, kỹ thuật và tài chính của các nhà tài trợ song phương, đa phương của các nước và các tổ chức phi Chính phủ cho chính sách quốc gia phòng, chống tác hại của thuốc lá.
Với tất cả những quy định trên nó là một rào cản rất lớn với các Doanh nghiệp trong ngành kinh doanh thuốc lá nói chung và với Công ty Thương Mại Thuốc Lá nói riêng. Các chính sách này kìm hãm sự phát triển của ngành thuốc lá nhằm để bảo vệ sức khoẻ cho người dân và hướng tới một nền công nghiệp thuốc lá ít độc hại hơn đối với môi trường và người tiêu dùng.
2.2.2. Công nghệ.
Ngành công nghiệp sản xuất thuốc lá của Việt Nam trước năm 1975 là sự ra đời của 2 hãng thuốc lá MIC (1929) và J.Bastos (1936) ở Sài Gòn sử dụng công nghệ của Anh và Tây Đức (cũ). Còn ở miền Bắc trước năm 1954 không có công nghiệp thuốc lá, năm 1956 Nhà máy Thuốc lá Thăng Long được xây dựng tại Thủ đô Hà Nội sử dụng công nghệ và thiết bị của Trung Quốc, Đông Đức, Tiệp Khắc (cũ). Đây là nhà máy khai sinh của ngành công nghiệp thuốc lá XHCN Việt Nam.
Sau khi hoà bình lập lại máy móc, thiết bị, công nghệ của các nhà máy thuốc lá đã cũ và lạc hậu, không đồng đều, công nghệ chắp vá. Trước tình hình đó và chủ chương công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành công nghiệp nói chung và công nghiệp thuốc lá nói riêng của đại hội lần thứ VIII của Đảng. Ngành công nghiệp thuốc lá Việt Nam từng bước hiện đại hóa thiết bị máy móc, công nghệ, sửa chữa nâng cấp hệ thống máy móc cũ, cân đối điều chuyển thiết bị giữa các nhà máy, tự thiết kế chế tạo một số máy phụ trợ... đồng thời đầu tư có trọng điểm vào những khâu cần thiết. Chính vì vậy mà hiện nay công nghiệp thuốc lá của Việt Nam được đánh giá là có công nghệ không lạc hậu so với trình độ phát triển của ngành sản xuất thuốc lá trong khu vực, năng lực đồng bộ với các thiết bị hiện có trong dây chuyền, không quá cao so với khả năng và trình độ công nghệ và tay nghề, đảm bảo các yêu cầu về môi trường, các thiết bị chuyên ngành do các hãng sản xuất có kinh nghiệm và uy tín ở các nước công nghiệp phát triển cung cấp.
Đến nay nước ta có 17 nhà máy sản xuất thuốc lá với năng lực sản xuất khoảng 100 tỷ điếu/năm và xếp thứ 16 thế giới về sản lượng sản xuất (năm 2003). Tuy nhiên hiện nay việc đầu tư tăng công xuất bị cấm, việc đổi mới, thay thế thiết bị gặp nhiều khó khăn do phải xin phép Bộ Công Nghiệp nên việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản xuất và hiện đại hóa máy móc thiết bị còn hạn chế và rất khó thực hiện.
2.2.3. Phân tích ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên - xã hội đến sự phát triển ngành thuốc lá
Với mỗi Doanh nghiệp việc sản xuất kinh doanh ít nhiều đều chịu ảnh hưởng của các điều kiện tự nhiên và xã hội. Việc tiêu thụ thuốc lá chịu ảnh hưởng nhiều của thời tiết khí hậu, đặc biệt có sự phân hoá giữa mùa hè và mùa đông. Mùa hè thời tiết nắng nóng, oi bức cơ thể mệt mỏi nên việc hút thuốc lá của người tiêu dùng hạn chế (kể cả với người nghiện nặng thì lượng hút cũng giảm hẳn). Ngược lại khi mùa nóng qua đi và thời tiết mát mẻ, se lạnh thì việc hút thuốc tạo cảm giác sảng khoái, ấm cúng nên lượng tiêu thụ tăng mạnh (thường tăng hơn 20% so mùa nắng nóng). Do vậy việc điều tiết lượng hàng giữa các mùa cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tăng trưởng tiêu thụ và thị phần của Công ty.
Hút thuốc lá có hại cho sức khoẻ nên ngay từ khi còn nhỏ thì các bậc phụ huynh đã giáo dục, ngăn cản con em mình tiếp xúc với thuốc lá. Bên cạnh đó hình ảnh người phụ nữ hút thuốc lá bị coi là không đứng đắn với phụ nữ á đông nên lượng nữ giới hút thuốc lá rất khiêm tốn. Đây cũng là một điều bất lợi với ngành sản xuất và kinh doanh thuốc lá. Tuy nhiên hiện nay trong bối cảnh tình hình kinh tế – xã hội phát triển như vũ bão thì nếp sống, phong tục tập quán có sự giao thoa giữa các nền văn hoá, có sự thay đổi nhanh chóng trong lối sống, quan niệm xã hội nên việc nhiều thanh niên mới lớn hiện nay kể cả nữ giới hút thuốc lá là điều dễ hiểu vì họ muốn tự khẳng định mình, cảm thấy mình tự tin và lớn hơn, sành điệu hơn... nó là điều kiện thuận lợi cho việc tăng trưởng và phát triển của ngành sản xuất và kinh doanh thuốc lá.
Trong quá trình sản xuất và tiêu dùng thuốc lá đã thải ra lượng chất thải rắn và khí gây ảnh hưởng xấu tới môi trường và ảnh hưởng đến sức khoẻ người dân do vậy hiện nay Chính phủ quy định kiểm soát chặt chẽ việc sản xuất, thải khí độc hại ra môi trường và bắt buộc một số nhà máy sản xuất thuốc lá nằm trong nội thành phải di chuyển đi nơi khác. Nhà máy thuốc lá Sài Gòn đang di chuyển và nhà máy thuốc lá Thăng Long đang trong quá trình chuẩn bị để di dời (không được chậm hơn năm 2010) do vậy việc không đáp ứng đủ lượng hàng cho Công ty Thương Mại Thuốc Lá (đặc biệt trong hai tháng đầu năm 2007) đã ảnh hưởng lớn đến sản lượng tiêu thụ của Công ty.
2.2.3.1. Quy mô dân số
Hiện nay dân số nước ta khoảng trên 84 triệu người với tỷ lệ tăng dân số >1%/năm. Dân số là yếu tố thường xuyên trực tiếp tác động đến nhu cầu tiêu dùng hàng hóa nói chung và thuốc lá nói riêng, dân số càng đông thì nhu cầu càng lớn, tuy nhiên nó còn chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán, lối sống…Theo số liệu thống kê về tỷ lệ dân số của tổ chức y tế thế giới, mức tiêu thụ bình quân thuốc lá tính cho những người trên 15 tuổi năm 2000 là 1.050 điếu/người và năm 2005 xấp xỉ 1.000 điếu/người (giảm 50 điếu/người/năm). So với mức tiêu thụ thuốc lá bình quân của các nước trên thế giới thì mức tiêu thụ ở Việt Nam còn khá thấp năm 2003 mức tiêu thụ bình quân là 950 điếu/người/năm, giới nữ hầu như không hút thuốc lá.
2.2.3.2. Điều kiện kinh tế
Những chính sách kinh tế của Nhà Nước trong những năm gần đây đã thực sự tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, góp phần làm cho kinh tế nước ta có sự tăng trưởng và phát triển nhanh chóng hoà nhập cùng với sự phát triển của khu vực và thế giới. Trong 10 năm trở lại đây mức tăng trưởng kinh tế trong nước luôn tăng trưởng qua các năm. Giai đoạn 1997-1999 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, do vậy tốc độ tăng trưởng có bị chậm lại. Tuy nhiên những năm gần đây, mức tăng trưởng GDP của nước ta luôn ở mức cao và mang tính ổn định hơn. Ước tính 6 tháng đầu năm 2007 này GDP tăng 7,87% tăng cao hơn so cùng kỳ năm 2005, 2006. Dự kiến từ nay đến năm 2010 bình quân GDP tăng khoảng 8,5%/năm.
Bảng 2.13: Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nước qua các năm từ 1997-2006
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
GDP (%)
8,8
5,8
4,8
6,8
6,9
7,1
7,3
7,8
8,4
8,1
(Nguồn: Tổng Cục Thống Kê)
Khi thu thập được cải thiện thì người dân cũng điều chỉnh dần nhu cầu của mình từ sản phẩm có chất lượng kém, không có thương hiệu, mẫu mã bao bì không hấp dẫn... sang các sản phẩm có chất lượng cao hơn và có thương hiệu nổi tiếng hơn. Việc một bộ phận dân cư khi có thu nhập cao hơn đã chuyển từ tiêu dùng các mác thuốc cấp thấp lên tiêu dùng các mác thuốc trung cao cấp là điều hiển nhiên. Và sản phẩm thuốc lá Vinataba luôn là sự lựa chọn hàng đầu của các khách hàng này vì chất lượng thuốc lá Vinataba luôn ổn định, giá cả hợp lý, tính sẵn có cao (từ Hà Tĩnh trở ra Bắc) nên sự tăng trưởng về sản lượng và thị phần của sản phẩm Vinataba tăng đều qua các năm và là điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chương trình marketing có hiệu quả của Công ty.
2.2.3.3. Tình trạng thuốc lá nhập lậu
Số lượng thuốc lá nhập lậu vào Việt Nam hàng năm chưa có nguồn công bố chính thức nào khác ngoài số liệu mà Bộ Thương Mại báo cáo vào khoảng 300 triệu bao/năm, chủ yếu là nhập lậu ở các tỉnh phía Nam với các mác thuốc như Jet, Hero... Trong tương lai, cùng với các biện pháp tăng cường chống buôn lậu của Chính phủ và nỗ lực của ngành thuốc lá trong việc nâng cao trình độ công nghệ sản xuất thuốc lá điếu có khả năng thay thế thuốc lá ngoại nhập lậu thì đây cũng là một thị trường tiềm năng của ngành thuốc lá trong nước.
2.2.3.4. Hội nhập kinh tế quốc tế
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà Nước đang đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã chính thức hội nhập vào AFTA năm 2006. Bên cạnh đó, Hiệp định Thương Mại Việt Mỹ cũng được 2 nước phê chuẩn và đưa vào áp dụng. Những yếu tố này sẽ có những tác động lớn đối với nền kinh tế Việt Nam.
Một mặt, quá trình hội nhập sẽ đặt các Doanh nghiệp trong nước vào thế buộc phải tự đổi mới, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và có thể tồn tại. Việc mở cửa thị trường cho các loại hàng hoá nước ngoài sẽ buộc hàng hóa trong nước phải không ngừng nâng cao chất lượng, thay đổi mẫu mã, bao bì, hạ giá thành… để phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, cạnh tranh với hàng ngoại nhập. Đây là một yêu cầu khó khăn cũng là động lực cho các Doanh nghiệp trong nước phát triển.
Hiện nay nước ta đã gia nhập WTO, theo đó nước ta phải bãi bỏ điều luật cấm nhập khẩu thuốc lá điếu và từng bước mở cửa thị trường thuốc lá, cho phép các thành phần kinh tế tham gia nhập khẩu và phân phối thuốc lá điếu. Việc nhập khẩu và tiêu thụ thuốc lá điếu ngoại nhập hiện nay do Tổng Công ty Thuốc Lá Việt Nam thực hiện và chưa cho phép các đầu mối khác tham gia. Trong khi đó nền công nghiệp sản xuất thuốc lá của nước ta còn lạc hậu và chưa theo kịp được với các nước phát triển, các tập đoàn thuốc lá lớn trên thế giới thì việc liên doanh liên kết để sản xuất ở trong nước các mác thuốc lá thay thế hàng nhập khẩu là yêu cầu cấp thiết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
2.3. Tình hình sản xuất và tiêu thụ thuốc lá tại thị trường Việt Nam thời gian qua.
2.3.1. Tình hình sản xuất.
Hiện nay, tại Việt Nam có 17 nhà máy sản xuất thuốc lá điếu. Trong đó:
11 nhà máy thuộc Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam
Nhà máy Thuốc lá Sài Gòn.
Nhà máy Thuốc lá Thăng Long.
Nhà máy Thuốc lá Bắc Sơn.
Nhà máy Thuốc lá Thanh Hóa.
Nhà máy Thuốc lá Long An.
Nhà máy Thuốc lá Bến Tre.
Nhà máy Thuốc lá Cửu Long.
Nhà máy Thuốc lá Đồng Tháp.
Nhà máy Thuốc lá An Giang.
Công ty Thuốc lá Đà Nẵng.
Công ty Liên doanh Thuốc lá Vinasa
6 nhà máy trực thuộc các địa phương.
Công ty Thuốc lá Hải Phòng
Tổng Công ty Khánh Việt.
Công ty Thuốc lá Đồng Nai.
Công ty Thuốc lá Bến Thành.
Công ty 27/7
Công ty Thuốc lá & XNK Bình Dương.
Các nhà máy thuốc lá này đều có công xuất tối thiểu >50 triệu bao/năm (theo quy định của Chính Phủ) và năng lực toàn ngành thuốc lá Việt Nam hiện nay khoảng 5 tỷ bao thuốc lá các loại hay khoảng 100 tỷ điếu/năm.
Như vậy, ta có thể thấy việc sản suất thuốc lá tại Việt Nam hiện nay với năng suất 5 tỷ bao không những đủ để đáp ứng được với cầu thị trường về thuốc lá khi việc tiêu thụ thuốc lá tại Việt Nam hiện nay là vào khoảng 4.5 tỷ bao một năm mà còn có thể xuất khẩu thuốc lá ra các thị trường nước ngoài. Việc cung hơi vượt so với cầu và cùng với đó là tình trạng thuốc lá nhập lậu hàng năm được nhập vào Việt Nam là vào khoảng 500 triệu bao/năm cho thấy tình hình cạnh tranh trên thị trường thuốc lá tại Việt Nam hiện nay là khá gay gắt.
2.3.2. Tình hình tiêu thụ.
Bảng 2.5: sản lượng tiêu thụ thuốc lá tại thị trường Việt Nam
Năm
Sản lượng tiêu thụ (triệu bao)
Tốc độ tăng trưởng (%)
1995
2.041
-----
1996
2.143
105
1997
2.092
98
1998
2.177
104
1999
2.140
98
2000
2.542
118
2001
3.164
124
2002
3.426
108
2003
3.867
112,8
2004
4.010
103.7
2005
4.120
102.7
2006
4.388
106.5
2007
4.678
106.6
(nguồn: hiệp hội Thuốc Lá Việt Nam)
Theo bảng 1.1, ta có thể thấy việc tiêu thụ thuốc lá tại Việt Nam hiện nay là cao, và tốc độ tăng trưởng vẫn tiếp tục tăng trong các năm qua. Điều này cho thấy, hiện tại nhu cầu về thuốc lá của người dân vẫn cao và chưa có xu hướng giảm. Qua bảng ta có thể thấy từ năm 1999 đến năm 2003 sản lượng tiêu thụ tăng khá nhanh sau đó từ năm 2003 đến nay sản lượng tiêu thụ tuy vẫn tăng nhưng đã có xu hướng tăng chậm hơn.
2.4. Một số xu hướng.
2.4.1. Dân số
Dân số là yếu tố tác động đến nhu cầu tiêu dùng thuốc lá điếu. Hiện nay dân số Việt Nam khoảng 80 triệu người với các chính sách về dân số, kế hoạch hoá gia đình của Chính phủ, dự kiến tốc độ tăng dân số bình quân trong các năm tới vào khoảng 1,1 triệu người/năm, tỷ lệ tăng 1,5%/năm. Theo điều tra, hiện nay tỷ lệ hút thuốc lá ở nam giới là 50%, ở nữ giới là 3,4%.
2.4.2. Tăng trưởng kinh tế và thu nhập dân cư
Nhờ có chính sách và cơ chế đổi mới kinh tế, nền kinh tế Việt Nam đã có mức tăng trưởng liên tục. Dự kiến đến 2010 bình quân tăng trưởng kinh tế khoảng 7,5%/năm. Thu nhập quốc dân đầu người là 800USD/năm/người.
2.4.3. Phong trào chống hút thuốc lá trên thế giới và Việt Nam
Hút thuốc đến năm 2010 xuống còn 20% ở nam giới và 2% ở nữ giới. Hiện nay phong trào chống hút thuốc lá đang được Tổ chức y tế thế giới (WHO) phối hợp cùng các tổ chức quốc tế về tài chính như Ngân hàng thế giới (WB), quĩ tiền tệ quốc tế (IMF) phát động mạnh mẽ, gây áp lực lên nhiều quốc gia và đã có những kết qua bước đầu.
Ở Việt Nam, Chính phủ đã có nhiều quyết định, nghị quyết nhằm giảm thiểu tác hại của thuốc lá. Đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền chống hút thuốc lá trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo, đài, truyền hình…) và hàng năm đều phát động tuần lễ chống hút thuốc lá vào 31/5.
2.4.4. Xu hướng tiêu dùng sản phẩm thuốc lá
Hút thuốc lá có hại cho sức khoẻ, phong trào chống hút thuốc lá của toàn thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang phát triển mạnh mẽ. Sản lượng tiêu thụ thuốc lá trên toàn thế giới trong thời gian dài vừa qua không tăng. Mặc dù dân số trên thế giới tiếp tục tăng.
Xu hướng tiêu dùng sản phẩm thuốc lá ở Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới:
- Người tiêu dùng sẽ không hút thuốc lá không đầu lọc. Vì thuốc lá không đầu lọc không lọc được các chất độc hại khi hút. Chủ yếu là không lọc được Tar (nhựa hắc ín) trong khói thuốc lá.
- Người tiêu dùng sẽ hút thuốc lá đầu lọc và thuốc lá trung cao cấp nhiều hơn. Do thu nhập ngày càng cao hơn và giảm độc hại.
- Gout sản phẩm thuốc lá cũng thay đổi đáng kể. Hiện nay, các gout phổ biến ở Việt Nam là gout Virginia và gout địa phương. Trong những năm tới khẩu vị thuốc lá điếu sẽ thay đổi theo hướng những nhãn hiệu thuốc điếu có mùi vị thơm ngon sẽ được đa số người hút chấp nhận và thích thú. Gout người tiêu dùng sử dụng sẽ nhẹ hơn. Dự kiến đến năm 2012 gout địa phương sẽ giảm dần, gout Anh (Virginia) tăng nhanh.
2.4.5. Thuốc lá nhập lậu
Hiện nay, sản lượng thuốc lá nhập lậu vào Việt Nam khoảng 400 triệu bao/năm.Tuy nhiên, trong thời gian tới, việc chống tham nhũng được tăng cường, đồng thời ngành sản xuất thuốc lá đã và đang đổi mới công nghệ, sẽ sản xuất được những sản phẩm có chất lượng cao hơn, giá cả hợp lý. Kết hợp với những biện pháp của Chính phủ về chống nhập lậu thuốc lá và gian lận thương mại. Chắc chắn lượng thuốc lá nhập lậu vào Việt Nam trong các năm tới sẽ giảm
Chương3: Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty.
3.1. Giới thiệu tổng quan về công ty
3.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
3.1.1.1..Giới thiệu chung:
Tên đơn vị: CÔNG TY THƯƠNG MẠI THUỐC LÁ
Ngày thành lập: Ngày 01 tháng 01 năm 2001
Địa chỉ: 89b – Nguyễn Khuyến – Đống Đa – Hà Nội
Cơ quan quản lý cấp trên: tổng công ty Thuốc Lá Việt Nam
Đơn vị trực thuộc: Chi nhánh công ty Thương Mại Thuốc Lá tại thành phố Hồ Chí Minh.
Ngành nghề kinh doanh:
- Mua bán thuốc lá điếu các loại.
- Kinh doanh sản phẩm: nước lọc, chè, rượu
Công ty Thương Mại Thuốc Lá có nhiệm vụ chủ yếu là tiêu thụ mác thuốc lá Vinataba, một sản phẩm chủ lực của tổng công ty Thuốc Lá Việt Nam. Cùng với sự phát triển của toàn ngành thuốc lá, công ty Thương Mại Thuốc Lá đă khẳng định vai trò là một mắt xích quan trọng trong phân phối mác thuốc Vinataba ra thị trường trong nước. Do là công ty con của tổng công ty Thuốc Lá Việt Nam nên công ty chịu mọi sự chỉ đạo trực tiếp từ tổng công ty về giá bán, chi phí khuyến mại và hỗ trợ, công tác tổ chức nhân sự…
Ngoài nhiệm vụ tiêu thụ mác thuốc Vinataba, công ty còn có thêm nhiệm vụ tiêu thụ mác thuốc lá Marlboro, nước lọc tinh khiết Vinawa (sản phẩm nước tinh khiết Vinawa được đưa vao kinh doanh vào năm 2005), Ngọc Trà, rượu vang Romatic(2 sản phẩm Ngọc trà và rươu vang romatic đến năm 2008 mới bắt đầu kinh doanh). Và thực hiện việc thu thập thông tin thị trường về các sản phẩm mình kinh doanh để báo cáo về công ty.
3.1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển:
Công ty Thương Mại Thuốc Lá tiền thân là công ty Vịch Vụ Và Vật Tư Thuốc Lá, được thành lập theo quyết định số 1990/QĐ/TCCB ngày 20/7/1996 của bộ trưởng Bộ Công Nghiệp nhẹ, trực thuộc tổng công ty Thuốc Lá Việt Nam. Sau khi tổng công ty Thuốc Lá Việt Nam ra quyết định phê chuẩn điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty Dịch Vụ Và Vật Tư Thuốc Lá có trụ sở chính tại Hà Nội số 10 Yết Kiêu, quận Hoàn Kiếm Hà Nội và chi nhánh công ty tại thành phố Hồ Chí Minh số 362-364 Nguyễn Thị Minh Khai, quận 3. Đến ngày 01/01/2001, công ty Dịch Vụ Và Vật Tư Thuốc Lá chính thức đổi tên thành công ty Thương Mại Thuốc Lá theo Quyết định số 23/TLVN-QĐ-TC ngày 17/11/2000 của chủ tịch hội đồng quản trị tổng công ty Thuốc Lá Việt Nam.
Ngày 26/12/2005, bộ trưởng bộ Công Nghiệp đẵ ký quyết định số 4201/QĐ-BCN, chuyển công ty Thương Mại Thuốc Lá thành công ty hạch toán phụ thuộc công ty mẹ – tổng công ty Thuốc Lá Việt Nam. Trụ sở chính của công ty đặt tại toà nhà số 79 Bà Triệu, phường Nguyễn Du, Hai Bà Trưng Hà Nội, hiện nay ở số 89B Nguyễn Khuyến, quận Đống Đa Hà Nội và chi nhánh công ty tại thành phố Hồ Chí Minh số 362-364 Nguyễn Thị Minh Khai, quận 3. Việc thành lập công ty Thương Mại Thuốc Lá chịu sự quản lý, điều hành trực tiếp của tổng công ty Thuốc Lá Việt Nam nhằm đáp ứng nhiệm vụ tập trung quản lý tiêu thụ sản phẩm thuốc lá Vinataba (mác thuốc lá chính của tổng công ty Thuốc Lá Việt Nam) tránh sự cạnh tranh giữa các nhà máy sản xuất trong cùng Tổng Công ty và thực hiện việc chuyên môn hoá từng lĩnh vực kinh doanh.
3.1.2. Cơ cấu tổ chức quản lý:
Bộ máy quản lý của công ty Thương Mại Thuốc Lá được bố trí theo mô hình của hình 3.1.
Hình 3.1: Sơ đồ tổ chức bộ máy
Ban
Giám đốc
Phòng
Thị trường
Phòng
Kinh doanh
Phòng
T/chức - HC
Phòng
T/chính - KT
Chi nhánh
tại TP HCM
Ban
T/chính - KT
Ban
T/chức - HC
Ban
Kinh doanh
Ban
Thị trường
(Nguồn: Phòng Tổ Chức - Hành Chính công ty Thương Mại Thuốc Lá).
Các phòng ban của công ty đều có chức năng và nhiệm vụ riêng và các phòng ban này đều có mối liên hệ mật thiết với nhau. Ngoài ra công ty sử dụng hình thức quản lý theo chiều dọc, tức là các phòng của công ty quản lý, liên hệ trực tiếp với các ban tại chi nhánh. Tất cả được đặt dưới sự quản lý chung của giám đốc.
3.1.3. Nguồn lực của công ty:
3.1.3.1. Nguồn nhân lực:
Bảng 3.2: Số lượng lao động của công ty Thươ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33109.doc