MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Lễ hội là hoạt động phán ánh rõ nét nhất những sinh hoạt văn hoá của một công đồng cư dân trong một không gian cụ thể và là môi trường tốt nhất để lưu giữ những giá trị truyền thống qua các thời đại. Mỗi vùng quê Việt Nam đều nằm trong dòng chảy văn hoá thống nhất nhưng nó vẫn mang nét riêng biệt, đặc trưng của con người nơi đó tạo nên một bức tranh văn hoá lễ hội Việt Nam phong phú và đa dạng.
Hà Nam là một vùng đất cổ và là vùng gần trung tâm ĐBSH hiện nay. Do
137 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2174 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Tìm hiểu về lễ hội chùa Đọi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vậy lễ hội nơi đây mang đậm nét văn hoá chung của vùng hoà quyện với những nét riêng của văn hoá cư dân vùng trũng quanh năm ngập úng tạo nên một sắc thái văn hoá độc đáo. Nói đến lễ hội ở Hà Nam ta không thể không nhắc đến lễ hội chùa Long Đọi Sơn như một trung tâm hội tụ văn hoá truyền thống của cư dân vùng này.
Chùa Long Đọi Sơn còn có tên là Diên Linh Tự không chỉ là biểu tượng của Hà Nam (núi Đọi-sông Châu), là một danh thắng trấn Sơn Nam xưa mà lễ hội chùa Đọi và những lễ hội khác trong vùng còn là nơi lưu giữ những gía trị văn hoá truyền thống, là dịp để con người gửi gắm bao ước mơ khát vọng về một cuộc sống bình an và hạnh phúc. Tìm về chùa Đọi và lễ hội chùa Đọi là chúng ta tìm đến chìa khoá để giải mã phần nào đó con người và truyền thống văn hoá nơi đây.
Nghiên cứu về chùa Đọi và lễ hội chùa Đọi chúng tôi nhằm làm rõ vai trò và vị trí của nó trong đời sống văn hoá của cư dân trong vùng. Đây không chỉ là nơi để cho mọi người về đây hành hương lễ Phật, nơi các con nhang đệ tử tìm về chốn tùng lâm đất tổ, trung tâm Phật giáo xưa kia mà còn là nơi để du khách có thể tham quan vãng cảnh chùa, tìm hiểu di tích, lịch sử, chiêm ngưỡng ngôi chùa bề thế hay để thưởng thức vẻ đẹp sơn thuỷ hữu tình của thiên nhiên hoà quyện nơi đây. Lễ hội chùa Đọi ngoài là ngày giỗ của vị cao tăng đắc đạo nơi đây (Hoà thượng Thích Chiếu Thường) còn là nơi tưởng niệm những người có công với đất nước, có công xây dựng ngôi chùa như Lý Thường Kiệt, Nguyên phi Ỷ Lan, Lý Nhân Tông, mẫu Liễu Hạnh…Đây vừa là nơi thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta vừa là môi trường giáo dục truyền thống văn hoá dân tộc cho thế hệ trẻ.
Lễ hội chùa Đọi như một sự hội tụ văn hoá đặc trưng của Hà Nam-vùng chiêm trũng quanh năm ngập úng. Lễ hội nơi đây không duy yếu tố tâm linh mà còn là cách ứng xử của con người với tự nhiên và xã hội. Trong điều kiện hoàn cảnh đó họ phải đoàn kết nhau lại chống chọi với thiên tai và địch hoạ. Từ đó tinh thần đoàn kết đã trở thành sức mạnh giúp con người nơi đây chiến đấu và chiến thắng.
Nghiên cứu về chùa Đọi và lễ hội chùa Đọi chúng tôi nhằm mục đích góp phần khắc hoạ toàn cảnh về đời sống vật chất cũng như đời sống văn hoá tinh thần của người dân nơi đây. Đó chính là động lực to lớn, là sức mạnh tinh thần của nhân dân Đọi Sơn trong công cuộc xây dựng đất nước. Đồng thời Đọi Sơn còn là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng, một trung tâm tôn giáo của trấn Sơn Nam xưa. Nghiên cứu về di tích và lễ hội chùa Đọi như một biểu tượng tiêu biểu nhất của văn hoá nơi đây, góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp của lễ hội vùng này đang bị biến đổi mạnh mẽ trong đời sống xã hội hiện đại. Đồng thời qua đó phát huy giá trị văn hoá và thắng cảnh của khu di tích lịch sử nổi tiếng này nhằm phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân trong vùng và hoạt động du lịch của địa phương trong sự nghiệp phát triển kinh tế hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Quần thể di tích và lễ hội chùa Long Đọi Sơn là một thắng cảnh đẹp và là một lễ hội lớn trong vùng. Do vậy, đã từ lâu nó đã được nhiều người biết đến.
Trong sách Đại Việt sử kí toàn thư-bộ chính sử thời phong kiến có chép về sự tích vua Lê Đại Hành cày ruộng tịch điền dưới chân núi Đọi, sách Việt Sử lược, Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Nam thống nhất chí có nói đến ngày, tháng xây dựng ngôi chùa và ngọn bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh cao 13 tầng, những nhân vật quan trọng trong quá trình xây dựng chúng. Đặc biệt hiện nay tại chùa còn lưu giữ một tấm bia đá lớn trong đó có bài văn bia của Binh bộ viên ngoại lang Nguyễn Công Bật soạn vào năm 1122 theo lệnh của vua Lý Nhân Tông nhân ngày khánh thành cây bảo tháp. Tấm bia cho ta biết rất nhiều về lịch sử, danh thắng và vị thế của chùa Đọi, kiến trúc chùa Đọi, về cây bảo tháp và về vua Lý Nhân Tông. Năm 1992 Bảo tàng tổng hợp Hà Nam Ninh đã có hồ sơ về di tích này.
Từ ngày Hà Nam tái lập tỉnh (1997) núi Đọi, sông Châu được chọn là biểu tượng của văn hoá Hà Nam, đã có một số công trình nghiên cứu về di tích Đọi Sơn như: Danh thắng chùa Đọi, Truyện dân gian trấn Sơn Nam xưa của tác giả Lương Hiền, Lịch sử chùa Đọi của Duy Phương đã giới thiệu về lịch sử chùa Đọi, danh thắng Long Đọi Sơn và những truyền thuyết quanh nó. Gần đây trong Những phát hiện mới của Khảo cổ học thì chùa Đọi đuợc nhắc đến như một địa danh có bề dầy lịch sử và là nơi lưu giữ nhiều di vật cổ và quý giá. Bên cạnh đó còn có nhiều bài viết nghiên cứu sưu tầm của các tác giả đăng trên Tạp chí Sông Châu: GS Trần Quốc Vượng có bài: Địa linh nhân kiệt Hà Nam, Núi Đọi–sông Châu-biểu tượng của Hà Nam quê tôi (số 19-1/2000); Chùa Đọi Sơn của Trần Đăng Ngọc (số 1-1997); Hà Nam ngũ sắc của Lương Hiền, Kí ức Sông Châu của Phương Thuỷ ( số 1-1997) và một số bài viết khác. Ngoài ra, trên Website của Hà Nam cũng có trang giới thiệu về di tích chùa Đọi…..
Tuy nhiên các nhà nghiên cứu đi trước mới đề cập và đề cao danh thắng, di tích cũng như bề dày lịch sử của chùa Long Đọi Sơn. Như vậy, nó mới chỉ là một mặt của giá trị văn hoá tổng thể nơi đây. Mảng nghiên cứu về lễ hội chùa Long Đọi Sơn vẫn còn bỏ trống. Lễ hội chùa Đọi là một hoạt động mang đậm bản sắc văn hoá của người dân nơi đây trong ứng xử với tự nhiên và xã hội, nó là chìa khoá để giải mã văn hoá truyền thống của vùng. Do vậy trong khuôn khổ của khoá luận này mục đích của chúng tôi là đi sâu vào tìm hiểu lễ hội chùa Đọi cùng với việc so sánh một số lễ hội khác của Đọi Sơn để thấy được sự phong phú và đa dạng trong đời sống văn hoá và tín ngưỡng của người dân nơi đây. Đồng thời qua đó ta thấy được quá trình biến đổi, xu hướng biến đổi và hội nhập của lễ hội chùa Đọi trong truyền thống và hiện đại. Chúng tôi cố gắng để có cái nhìn toàn vẹn và đầy đủ nhất về tổng thể văn hoá của trấn Sơn Nam thượng xưa.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện khoá luận này chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau trong phương pháp nghiên cứu chung của ngành khoa học xã hội và những phương pháp nghiên cứu đặc thù của chuyên ngành dân tộc học. Đó bao gồm những phương pháp như: khảo sát thực địa, điều tra hồi cố, quan sát trực tiếp, phỏng vấn sâu, xử lí tài liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu.
Ngoài việc tham khảo những công trình nghiên cứu khoa học về chùa Đọi và di tích chùa Đọi như đã nêu trên, trong khoá luận này chúng tôi đặc biệt sử dụng nguồn tài liệu thu thập được trong quá trình đi điền dã thực địa hơn một tháng tại xã Đọi Sơn như nguồn tài liệu quan trọng chủ yếu. Đó chính là những văn bia, hoành phi, câu đối, truyền thuyết và những lời kể của các cụ già cao tuổi ở địa phương…May mắn cho chúng tôi là người con của quê hương từ nhỏ rất hay đi xem lễ hội chùa Đọi và trong thời gian làm khoá luận này được tham dự lễ hội chùa Đọi tổ chức vào 19,20,21 tháng 3 âm lịch ( vào 27, 28,29 tháng 4). Do vậy chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để tái hiện lại một cách sinh động và đầy đủ nhất về lễ hội chùa Đọi đồng thời nêu bật văn hoá truyền thống cũng như sự biến đổi của lễ hội chùa Đọi trong đời sống xã hội hiện đại.
4. Bố cục của khoá luận.
Ngoài những phần dẫn luận, kết luận, mục lục sách, báo tham khảo, phụ lục… khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Đọi Sơn và di tích chùa Đọi.
Chương 2 : Lễ hội chùa Đọi.
Chương 3: Lễ hội chùa Đọi trong đời sống của cư dân trong vùng
CHƯƠNG 1:
ĐỌI SƠN VÀ DI TÍCH CHÙA ĐỌI
1.1. Đọi Sơn.
1.1.1. Vài nét về Hà Nam.
Sơn Nam là vùng địa danh chỉ vùng núi phía nam núi Ngũ Lĩnh (Phú Thọ- thời Hùng Vương), phía nam thành Cổ Loa (thời An Dương Vương), phía nam Kinh Bắc, nam Long Biên, nam Thăng Long, Hà Nội. Sách Lịch triều hiến chương loại chí có ghi:
“Sơn Nam đời cổ là nước Lạc Long. Đời Tần thuộc về quận Nam Hải, Hán đặt là quận Giao Chỉ. Tuỳ theo như thế. Đường đổi là Giao Châu. Nhà Đinh, Lê đặt là đạo hay đặt là lộ, là phủ. Những nơi là Đỗ Động, Đường Lâm, Phù Liệt, Đăng Châu đều là đất Sơn Nam cả. Triều Lý đổi gọi là các lộ, nhà Trần đổi thành những lộ: Thiên Trường, Kiến Xương, Ứng Thiên, Lý Nhân, Tân Hưng, Khoái Phủ,Trường An, Long Hưng, Đại Hoàng, An Tiêm. Triều nhà Lê cũng theo như thế. Trong năm Quang Thuận (1466) đặt là thừa tuyên Thiên Trường thống trị các phủ, huyện. Đến khi định bản đồ, mới đổi thành thừa tuyên Sơn Nam, có 9 phủ 36 huyện.
Trấn Sơn Nam, phía Tây ven theo núi, phía Đông gần biển lớn, Kinh Bắc, Hải Dương ở về phía Bắc, Thanh Hoá ở về phía Nam. Địa thế trấn này rộng, xa, người nhiều, cảnh tốt, là bậc thứ nhất trong 4 thừa tuyên. Hai đạo thượng, hạ phong vật khác nhau. Đạo Thượng lịch sự hơn nhưng có vẻ đơn bạc, đạo Hạ thì quê kệch nhưng có phần thật thà. Văn vật thì thượng lộ thịnh hơn, của cải thì hạ lộ nhiều hơn; tóm lại đều là đất tụ khí tinh hoa, tục gọi là văn nhã, thực là cái bình phong phiên chắn của trung đô và kho tàng của nhà vua”.
Như vậy Hà Nam là phủ Lý Nhân xưa (1 trong 9 phủ của trấn Sơn Nam và thuộc trấn Sơn Nam thượng) với diện tích 849,5 km2, dân số là 811.126 người với mật độ 941người/km2 gồm 5 huyện là Duy Tiên, Kim Bảng, Lí Nhân, Thanh Liêm, Bình Lục và thị xã Phủ Lý là thủ phủ của Hà Nam. Địa thế đất này rất linh thiêng, phong cảnh hữu tình lại là mảnh đất ngàn năm văn vật. Trải qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển, những gì còn lại ở nơi đây hiện nay đủ để khẳng định Hà Nam là mảnh đất địa linh nhân kiệt (dẫn lời của GS Trần Quốc Vượng).
Hà Nam–một vùng đất của nền văn minh Việt cổ có từ thời Hùng Vương vào thế kỉ III trước công nguyên. Những ngôi mộ quan tài hình thuyền, những di vật cổ như trống đồng Ngọc Lũ … đã chứng minh điều đó. Sự thay đổi các thể chế chính trị đã kéo theo sự thay đổi hành chính nơi đây. Từ thời Hùng Vương đến năm 1741 dù có thay đổi thế nào, được gọi là trấn, lộ, phủ thì Hà Nam vẫn thuộc trấn Sơn Nam. Dưới thời Minh Mạng, Hà Nam được tách ra thành một tỉnh mới là tỉnh Hà Nam. Đến năm 1890 Hà Nam lại được nhập vào tỉnh Hà Nội, đến 1923 Hà Nam lại được tách ra thành một tỉnh riêng. Năm 1965 Hà Nam được sát nhập với tỉnh Nam Định thành lập ra tỉnh Nam Hà. Đến năm 1976 Nam Hà sát nhập với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Đến năm 1992 tỉnh Hà Nam Ninh lại tách ra thành tỉnh Nam Hà và Ninh Bình, Hà Nam thuộc tỉnh Nam Hà. Năm 1997 tỉnh Nam Hà lại tách thành Nam Định và Hà Nam và ngày nay Hà Nam cơ bản lại trở về địa giới hành chính vốn có ban đầu của nó.
Đây là một vùng đồng chiêm trũng quanh năm ngập úng lấy nông nghiệp làm nền kinh tế chủ đạo nên kinh tế Hà Nam không có gì nổi bật. Tuy là một mảnh đất nghèo nhưng người Hà Nam hiếu học, họ đã xây dựng một nền văn hoá bề dầy mang đậm bản sắc văn hoá của con người nơi đây. Đây không chỉ là những giá trị văn hoá truyền thống mà trong xã hội ngày nay nó đã trở thành một động lực to lớn giúp Hà Nam xây dựng và phát triển vươn lên.
1.1.2. Đọi Sơn – một danh lam thắng cảnh trấn Nam Sơn.
1.1.2.1. Vị thế của Đọi Sơn.
Đọi Sơn là một xã nằm phía Đông Nam của huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Phía Bắc giáp xã Yên Nam, phía Tây Bắc giáp xã Tiên Ngoại, phía Tây giáp xã Tiên Hiệp, phía Nam giáp xã Châu Sơn, Tiên Phong, phía Đông giáp sông Châu Giang và xã Văn Lý (huyện Lý Nhân-Hà Nam).
Hiện nay, xã Đọi Sơn về hành chính gồm 7 thôn hợp thành. Đó là các thôn Đọi Nhất, Đọi Nhì, Đọi Tam, Đọi Trung, Đọi Lĩnh, Đọi Tín và Sơn Hà sống tập trung xung quanh núi Đọi. Đó là khối cộng đồng dân cư đã sinh sống ở đây rất lâu đời và họ có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau trong sản xuất kinh tế đặc biệt là trong các hoạt động văn hoá, tín ngưỡng.
Trung tâm xã Đọi Sơn có một quả núi cao khoảng 80m với diện tích 23,9 ha mọc giữa đồng bằng bát ngát lúa ngô. Đây là một kì quan mà thiên nhiên đã ban tặng cho người dân nơi đây. Chính cảnh đẹp đó đã thu hút và là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thơ, nhiều danh nhân đã từng đặt chân đến nơi này. Năm 1476 vua Lê Thánh Tông–người đứng đầu phái Tao đàn nhị thập bát tú một lần dừng chân tại chùa Long Đọi Sơn đã có cảm nhận:
Lên cao tầm mắt nhìn bao quát
Muôn dặm cây xanh một dải mờ.
(Đề bia chùa Đọi)
Đọi Sơn không chỉ có phong cảnh đẹp sơn thuỷ hữu tình mà còn nằm trên một thế đất thiêng theo quan niệm phong thuỷ của người xưa. Do vậy đã từ lâu trong vùng đã truyền tụng câu ca dao:
Đầu gối núi Đọi
Chân dọi Tuần Vường
Phát tích đế vương
Lưu truyền van đại.
Tuần Vường là ngã ba sông Hồng, sông Ninh Giang, và sông Đáy (gần cống Hữu Bị-Lý Nhân hiện nay). Ngày xưa khi chưa có đê đập thì đây là vùng có dòng nước xoáy cực kì nguy hiểm, nơi người ta thường nói là chỗ ở của Hà Bá Long Vương cai quản thuỷ quốc. Đó cũng là vực nước sâu nhất của sông Hồng mà từ xưa đã có câu:
Nhất cao là núi Tản Viên
Nhất sâu là vũng Thuỷ Tiên Tuần Vường.
Sông Châu trước đây gọi là sông Kinh nối giữa sông Nhị Hà (sông Hồng) và sông Sinh Quyết (sông Đáy). Ngày xưa khi dòng Nhị Hà còn và chưa có bờ như bây giờ và dòng Châu Giang chưa đổi thì nó là một con sông ôm sát chân núi Đọi. Chẳng vậy mà khi vua Lí Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long bằng đường thuỷ, nhân dân Đọi Tam tổ chức múa trống, múa rồng chào mừng nhà vua đi qua. Vào thời Trần nó là con đường huyết mạch nối giữa Thăng Long với hành cung nhà Trần ở Tức Mặc. Ngày nay Châu Giang đã đổi dòng chỉ còn lại rất nhỏ và đã lùi xa chân núi tiến về phía đông. Tuy nhiên với vẻ đẹp mà thiên nhiên ban tặng cho nó, sông Châu đã được chọn làm biểu tượng của Hà Nam: núi Đọi–sông Châu.
Hiện nay đường thuỷ qua đây không còn tấp nập như xưa nhưng Đọi Sơn lại rất phát triển về giao thông đường bộ. Trên địa bàn xã có hai trục tỉnh lộ là 9710 và 9711 là trục giao thông huyết mạch nối Đọi Sơn với các xã trong huyện và với các vùng trong tỉnh và các tỉnh lân cận. Đây là một lợi thế quan trọng trong việc thúc đẩy và giao lưu kinh tế-văn hoá của Đọi Sơn.
Là một xã thuộc ĐBBB lại rất gần các con sông lớn nên đây là một vùng đất phù xa màu mỡ. Trong diện tích 611,48 ha đất tự nhiên thì đất nông nghiệp ở đây là 356,4 ha chiếm 58,28%. Đây là điều kiện thuận lợi cho Đọi Sơn phát triển nông nghiệp.Tuy có núi nhưng là núi nhỏ đá lẫn đất nên chỉ có thể trồng được chè xanh và một số cây gỗ nhỏ.
Khí hậu ở Đọi Sơn thuận lợi cho trồng trọt và cuộc sống con người. Ngay từ thế kỉ XII khi vua Lý Nhân Tông cho xây dựng và mở mang chùa Đọi Sơn và tháp Sùng Thiện Diên Linh nơi đây đã nhận thấy “mùa xuân thì trời thường mưa để nhuần thấm cho muôn dân”. Đọi Sơn mang đặc trưng của vùng ĐBBB là khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm ướt. Nhiệt độ trung bình hàng năm khá cao khoảng từ 23-240C, lượng mưa là 1900mm, độ ẩm 85%, giờ nắng là từ 1300-1500h/năm và khá ổn định.
Với điều kiện như vậy, Đọi Sơn được thiên nhiên ưu đãi nhiều. Nơi đây có khí hậu ôn hoà, tài nguyên phong phú, cảnh sắc tươi đẹp là một điều kiện thuận lợi cho sự phát triển về mọi mặt. Tuy nhiên, thiên nhiên cũng không quá ưu ái đối với vùng đất này. Là vùng trũng nhất của ĐBSH lại rất gần các con sông lớn nên trước đây nó là rốn nước trong mùa lũ, khi hệ thống đê điều chưa được kiên cố như bây giờ thì vùng liên tục bị lụt lội hoành hành. Những năm trở lại đây vùng này không còn xảy ra tình trạng ấy. Dòng Châu Giang đã hi sinh tự cắt mình ở đoạn đầu qua Duy Tiên để ngăn lũ ở cửa Tuần Vường nên đoạn sông dưới đó mới có tên Tắc Giang là vậy.
1.1.2.2. Lịch sử Đọi Sơn.
Đọi Sơn là một địa danh xuất hiện từ bao giờ? Tên chính thức của xã này là Đọi sơn hay là Đội Sơn? Đọi Sơn là một xã lấy tên núi đặt làm tên gọi cho mình. Có rất nhiều cách giải thích khác nhau về tên gọi đó.
Ở xung quanh chân núi Đọi có 9 cái giếng tự nhiên đã xuất hiện từ lâu. Nước giếng này rất trong và không bao giờ cạn, theo truyền thuyết dân gian đó là 9 mắt rồng thiêng. Phía Bắc núi có một cái hang rất rộng ăn sâu vào trong lòng núi trông rất giống miệng con rồng nên nhân dân nơi đây gọi là Hàm Rồng. Lại thêm sự tích vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long (năm Canh Tuất-1010) theo con đường thuỷ qua sông Châu Giang để ra Phố Hiến về Thăng Long. Được tin, nhân dân Đọi Tam chuẩn bị một màn độc đáo đón chào đoàn thuyền của nhà vua đi qua. Khi đoàn thuyền của nhà vua đến gần vùng núi Đọi bỗng nhiên thấy xuất hiện một đoàn múa rồng, múa trống. Một con rồng lớn với cờ quạt phấp phới, hàng trăm chiếc trống to nhỏ các loại ầm ầm như tiếng sấm dậy đất trời. Đoàn múa rước đi từ chân núi uốn lượn lên đỉnh núi cao đón chào nhà vua đi qua. Cảnh tượng đó trông giống như một con rồng khổng lồ đang đội núi bay lên, nhân đó nhà vua đổi tên núi thành Long Đội Sơn (tức là rồng đội núi-ý muốn ban phúc cho nhân dân vùng này có sức mạnh phi thường như rồng đội núi bay lên ấm no hạnh phúc). Do vậy xã Đọi Sơn đã từng mang tên là xã Đội Sơn. Tên Đội Sơn chỉ có thể xuấn hiện vào đầu thế kỉ XI.
Tuy nhiên, người dân ở đây từ xưa đến nay vẫn thường gọi là xã Đọi Sơn, núi Đọi, chùa Đọi. Vậy thì từ Đọi xuất phát từ đâu và có từ bao giờ? Theo cách giải thích của các cụ già cao tuổi trong vùng thì Đọi ở đây là một từ Việt cổ chỉ chiếc bát như người Việt ở nhiều vùng quê ĐBSH hiện nay vẫn còn dùng. Người ta thường nói ăn mấy đọi cơm thay cho việc nói ăn mấy bát cơm. Nói như vậy cũng có cái lý của các cụ. Nhìn từ xa núi Đọi có ba trái núi nằm kế tiếp nhau như 3 chiếc bát úp liền kề. Do vậy từ Long Đọi Sơn có thể hiểu như những chiếc bát úp những con rồng. Đó cũng là một cách giải thích địa danh vùng này rất thú vị.
Còn theo như ý kiến của PGS. TS Hoàng Lương thì có cách giải thích khác về từ Đọi. Chữ Đọi có thể bắt nguồn từ tiếng Thái và có thể ở nơi đây có dấu tích sinh sống của người Thái hay sự giao lưu văn hoá Việt-Thái. Chữ Đọi trong tiếng Thái có nghĩa là đồi. Điều này có liên quan gì đến tục thờ Cao Sơn Đại Vương- một vị thần núi làm thành hoàng làng chung của 6 làng Đọi. Theo trí nhớ của các cụ cao tuổi trong vùng thì trong lễ hội đền Đức Thánh Cả là ngày hội làng chung của 6 làng Đọi, ngày xưa được tổ chức rất long trọng có những người đóng giả Hổ và ăn vận giả theo trang phục Mường cùng tham gia đoàn rước lễ. Tuy nhiên hiện nay thì tục này không còn nữa nhưng đó là một tục lệ có từ lâu đời truyền lại mà trong lần tổ chức vào năm 1946 vẫn duy trì. Đây cũng là một giả thiết cần được chú ý.
Dù là Đội Sơn hay là Đọi Sơn thì đối với người dân nơi đây cũng không có gì khác biệt và hiện nay họ hay dùng cả hai cách gọi trên. Tuy nhiên, từ cổ đến nay nhân dân vùng này vẫn thường gọi là Đọi Sơn, trong các văn bản chính thức về mặt hành chính thì vẫn dùng tên gọi là xã Đọi Sơn, chùa Long Đọi Sơn, núi Đọi Sơn.
Xã Đọi Sơn thuộc tổng Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, phủ Lý Nhân, trấn Sơn Nam xưa. Đây là vùng đất cổ nơi sinh sống của cư dân là chủ nhân của nền văn hoá Đông Sơn được khẳng định qua những di vật còn để lại ở nơi đây như những ngôi mộ quan tài hình thuyền, mộ kè đá và mộ giát tre được phát hiện ở những khu vực xung quanh núi Đọi. Đồng thời xung quanh núi Đọi và núi Điệp (thuộc xã Yên Nam) còn phát hiện thấy rất nhiều ngôi mộ mang phong cách kiến trúc của mộ Hán. Do vậy ta có thể suy luận rằng từ rất sớm nơi này là nơi cư trú của người Việt cổ và vào một thời kì nào đấy trong lịch sử thuộc Hán, Đọi Sơn có thể là một trị sở hay một khu thương mại sầm uất trên bờ sông Kinh xưa.
Đến trước Cách mạng tháng Tám–1945, xã Đọi Sơn thuộc tổng Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Tổng Đọi Sơn lúc đó gồm 8 làng xã: xã Đọi Sơn, làng Trung Tín, làng Đọi Lĩnh, làng Đọi Trung, xã Câu Tử, xã Thọ Cầu, xã Lê Xá, xã Dưỡng Mông. Lúc đó Đọi Sơn chỉ có 3 thôn: Đọi Nhất, Đọi Nhì, Đọi Tam. Sau này làng Trung Tín, Đọi Lĩnh, Đọi Trung sát nhập vào xã Đọi Sơn. Cách đây 180 năm, thôn Đọi Tam do sự phát triển về mặt dân cư nên đã chuyển một bộ phận dân cư thành lập thôn Sơn Hà. Khoảng gần 100 năm trở lại đây thôn Đọi Trung và Đọi Lĩnh tách một bộ phận dân cư thành lập thêm hai thôn trại là trại Trung và trại Lĩnh, nhưng sau đó hai thôn này lại sát nhập lại như cũ. Từ đó, đơn vị hành chính này ổn định cho đến ngày nay.
Trong kháng chiến chống Pháp, khi giặc về Đọi Sơn định lập đồn bốt nơi đây, nhân dân Đọi Sơn thực hiện chính sách tiêu thổ kháng chiến, phá huỷ những nơi mà địch có thể lấy để đóng đồn bốt như chùa Long Đọi Sơn, đền Đức Thánh Cả… do vậy địch không thể ở lại Đọi Sơn mà phải quay về đóng bốt ở núi Điệp (xã Yên Nam) cách đó 2km. Nhân dân Đọi Sơn đã đóng góp một phần công sức vào thắng lợi của đất nước qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Ngày nay trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước, Đọi Sơn đang từng bước chuyển mình tìm cách thoát khỏi đói nghèo và lạc hậu, đưa nền kinh tế của xã đi lên, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm bản sắc dân tộc
1.1.2.3 . Dân cư.
Truyền thuyết trong dân gian kể rằng: Vào thời Hùng Vương thứ 18 có một vị nhân thần là tướng đồng thời là em họ của thánh Tản Viên, người đã có công rất lớn trong việc giúp vua Hùng chống lại Thuỷ Tinh và giặc Thục Phán được vua Hùng phong là Cao Sơn Đại Vương. Khi đất nước thanh bình, Cao Sơn Đại Vương chu du thiên hạ xuống mảnh đất trấn Sơn Nam. Đến vùng Đọi Sơn, ông thấy phong cảnh nơi đây đẹp, địa thế linh thiêng, nhân dân hiền lành nhưng thưa thớt. Ông bèn dừng chân nơi đây cùng 6 người con của mình giúp dân khai khẩn trồng trọt và lập ra 6 làng Đọi là: Đọi Nhất, Đọi Nhì, Đọi Tam, Đọi Trung, Đọi Lĩnh, Đọi Tín. Để tưởng nhớ công ơn của Cao Sơn Đại Vương và các người con của ông, nhân dân nơi đây đã tôn ông làm Đức Thánh Cả và 6 người con của ông là thành hoàng của 6 làng. Từ đó về sau, vùng Đọi Sơn dân cư ngày càng trù phú.
Vào năm 1983 trong khi đắp nền nhà, nhân dân nơi đây đã đào được 11 ngôi mộ cổ. Trong 11 ngôi mộ ấy có 3 ngôi mộ quan tài hình thuyền làm bằng thân cây khoét rỗng, 2 ngôi mộ kè đá, 4 ngôi mộ có áo quan làm bằng những thanh tre ken lại như tấm giát giường và 2 ngôi mộ không rõ cấu trúc có thể là những ngôi mộ chôn trực tiếp không có áo quan. Hiện vật tìm thấy trong những ngôi mộ cổ này chủ yếu là những công cụ hay vũ khí là đồ đồng thời Đông Sơn. Bên cạnh đó còn có tiền Bán Lạng và đỉnh đồng 3 chân mang phong cách của thời Đông Hán (25-220 SCN). Trong 11 ngôi mộ đó có 5 ngôi mộ không có hiện vật. Điều đó chứng tỏ rằng từ thời đó Đọi Sơn đã là một vùng dân cư đông đúc, kinh tế phát triển và bước đầu có sự phân hoá giàu nghèo.
Đọi Sơn là một xã có diện tích tự nhiên không rộng chỉ có 611,48 ha nhưng có tới 1601 hộ định cư sinh sống với 6368 nhân khẩu, do vậy mật độ dân số rất đông lên tới 1007người/km2. Đây cũng là tình hình phân bố dân cư chung của một xã nông nghiệp vùng ĐBSH. Nhận thức được những khó khăn do mật độ dân số quá đông đem lại nên từ lâu Đọi Sơn luôn vận động để giảm tốc độ tăng dân số đưa nền kinh tế đi lên. Hiện nay Đọi Sơn đang duy trì được mức tăng dân số thấp và dần ổn định ở mức 0,8%.
Trong tổng dân số là 6368 người của xã thì số người trong độ tuổi lao động là 3630 người chiếm 57%. Đây là nguồn lao động dồi dào cho Đọi Sơn phát triển đi lên trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, những khó khăn của vùng đồng chiêm trũng vẫn còn bám lấy cuộc sống của người dân Đọi Sơn.
Mặc dù đời sống vật chất đạm bạc nhưng người dân nơi đây chất phác và rất hiếu khách. Hàng năm cứ vào mùa lễ hội chùa Long Đọi Sơn tháng 3 hay hội làng của 6 làng vào tháng 7 hoặc lễ hội làng nghề vào tháng Giêng của làng trống Đọi Tam, khách thập phương về đây dự hội sẽ được đón tiếp nồng nhiệt bởi người dân nơi đây làm cho lễ hội trong vùng càng sôi động.
Tích tụ từ ngàn năm bởi nền văn minh vật chất sông Hồng, bằng bàn tay tài hoa và trí óc sáng tạo với tâm trong sáng, người dân Đọi Sơn đã xây dựng nên những sắc thái văn hoá mang đậm bản sắc của quê hương mình trong tổng thể văn hoá chung của vùng ĐBBB.
1.1.2.4. Đời sống kinh tế.
Nằm trong ĐBSH được bồi đắp phù sa bởi nhiều con sông lớn như sông Hồng, sông Đáy, sông Châu, Đọi Sơn là một xã nông nghiệp trù phú, quanh năm được bao phủ bởi một màu xanh của lúa, ngô và hoa màu. Bãi dâu ven sông Châu quanh năm tươi tốt đã nổi tiếng với nghề trồng dâu nuôi tằm cổ truyền. Nghề này ngay từ thế kỉ I SCN đã phát triển mạnh và được lưu truyền cho đến ngày nay ở xã Tiên Phong kế bên (Trước đây xã này thuộc tổng Đọi Sơn). Bà tổ nghề trồng dâu nuôi tằm là Nguyệt Nga công chúa–một danh tướng dưới thời Hai Bà Trưng nhưng là người con của mảnh đất nơi đây. Trong thời gian làm quan dưới thời Hai Bà, bà thường về quê căn dặn nhân dân chăm chỉ nghề nông và trồng dâu nuôi tằm. Tơ kén làm ra được bán cho làng dệt lụa Nha Xá nổi tiếng cách đó không xa mà đã được Lê Quý Đôn nhận xét: Lụa Nha Xá bền, đẹp mà nổi tiếng. Ở Tiên Phong có chợ nổi tiếng là chợ Dâu họp trọn 30 ngày một tháng do nghề trồng dâu nuôi tằm phát triển mạnh nên nhu cầu trao đổi lá dâu rất nhiều. Xưa kia Đọi Sơn cũng là một vùng chuyên trồng và cung cấp lá dâu cho Tiên Phong trên vùng đất bãi bồi ven sông của quê hương mình.
Nông nghiệp Đọi Sơn được hình thành trên vùng đất phù xa màu mỡ là một điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển. Không phải ngẫu nhiên mà ngay những năm đầu của nền độc lập dân tộc, vào năm Đinh Hợi (987) vua Lê Đại Hành đã chọn mảnh đất vùng chân núi Đọi để cày ruộng tịch điền mở đầu cho việc các triều đại phong kiến Việt Nam quan tâm và khuyến khích phát triển nông nghiệp.
Tuy nhiên, trong điều kiện đất chật người đông như hiện nay thì diện tích đất canh tác nông nghiệp của Đọi Sơn không nhiều. Chỉ với 356,4 ha đất nông nghiệp nên bình quân ruộng chia cho người dân nơi đây chỉ được 1,2sào/người. Với số ruộng ít ỏi như vậy, để nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân là một việc không dễ dàng đặc biệt trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở một xã thuần nông như Đọi Sơn hiện nay. Với bản chất cần cù lại rất năng động nên người dân nơi đây đã khai thác một cách tốt nhất vốn đất ít ỏi để đảm bảo nhu cầu về lương thực và để phát triển kinh tế. Ngoài lúa là cây lương thực chính Đọi Sơn còn có khoảng 20% đất bãi trồng hoa màu và bên sườn núi Đọi còn trồng chè xanh và sắn. Đất chật người đông, đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp nên với người dân nơi đây khi cày ruộng không cày được hũ vàng hũ bạc nhưng đối với họ chỗ nào cũng là ruộng kim ngân.
Hiện nay, Đọi Sơn vẫn lấy nông nghiệp làm ngành kinh tế chủ đạo. Trong xã có khoảng 800 hộ gia đình thuần nông có mức thu nhập khoảng 2,5 triệu đồng/năm. Đây là một mức thu nhập không cao trong thời đại hiện nay vì là vùng đồng trũng quanh năm ngập úng nên năng suất rất bấp bênh. Bên cạnh đó Đọi Sơn có hệ thống sông ngòi, mương máng, ao hồ dầy đặc là một điều kiện thuận lợi để phát triển thuỷ sản và cũng là một lối thoát hữu hiệu cho nhiều gia đình trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện nay.
Người dân nơi đây nhận thức rất rõ rằng không thể phát triển quê hương tiến kịp tốc độ phát triển chung của đất nước trong giai đoạn hiện nay mà chỉ dựa vào sản xuất nông nghiệp. Do vậy họ đã học hỏi và tiếp thu nhiều nghề thủ công khác nhằm tạo thêm thu nhập trong lúc nông nhàn. Hiện tại trong xã có khoảng 450 hộ gia đình làm thêm nghề phụ như nghề mây giang đan, thêu ren, thợ nề, thợ mộc, sản xuất vật liệu xây dựng…đặc biệt là làng Đọi Tam có nghề bưng trống truyền thống. Với sự tham gia của nghề thủ công nên thu nhập của những hộ gia đình này cao hơn hẳn bình quân 4,5-5triệu đồng/năm. Riêng nghề làm trống ở Đọi Tam có thể cho thu nhập cao từ 10-50 triệu đồng/năm.
Nghề bưng trống ở thôn Đọi Tam đã xuất hiện từ rất lâu. Tương truyền vào thế kỉ X có 2 anh em họ Nguyễn là Nguyễn Đức Năng và Nguyễn Đức Đạt không rõ là người ở đâu đi qua vùng Đọi Sơn thấy phong cảnh nơi đây đẹp, nhân dân Đọi Tam hiền lành, trong vùng lại có nhiều cây mít. Hai anh em có nghề bưng trống quyết định ở lại đây hành nghề và truyền nghề trống cho trai làng Đọi Tam. Từ ngày có nghề trống không khí làng Đọi Tam rộn rã hẳn lên. Một hôm nhân dân Đọi Tam nghe tin vua Lê Đại Hành về đây cày ruộng tịch điền để khuyến khích phát triển nông nghiệp, hai anh em ông Năng quyết định làm một chiếc trống to đặc biệt để đón vua. Chiếc trống hoàn thành vào mùa xuân năm 987. Tiếng trống vang như tiếng sấm nên người ta gọi ông là trạng Sấm. Sau khi ông mất nhân dân Đọi Tam tôn ông làm ông tổ làng trống và lập miếu thờ ông ở chân núi Đọi, hướng nhìn ra cánh đồng. Năm 1010 được tin vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long đi qua Đọi Sơn, dân làng Đọi Tam đã tổ chức một đoàn múa rồng, múa trống rước lên núi Đọi như một con rồng khổng lồ đội núi bay lên để đón chào đoàn thuyền nhà vua, đựơc vua khen tặng và cho người về kinh đô làm trống, lập ra phố Hàng Trống ngày nay. Để tưởng nhớ công đức của hai ông nên cứ hàng năm vào ngày mồng 7 tháng Giêng âm lịch nhân dân Đọi Tam lại mở hội làng để tôn vinh nghề trống của làng mình.
Trải qua hàng nghìn năm tồn tại và phát triển, nghề làm trống và nghệ nhân trống Đọi Tam đã có mặt ở rất nhiều nơi trên đất nước ta. Trong những giai đoạn thăng trầm, làng nghề tưởng như bị tan vỡ nhưng với tâm huyết và sự cố gắng của dân làng nên nghề này đã trụ vững và phát triển như ngày nay. Với dàn trống hội gồm 200 quả to nhỏ trong dịp lễ hội kỉ niệm 990 năm Thăng Long-Hà Nội, làng trống Đọi Tam đã nổi tiếng trong và ngoài nước, có rất nhiều đơn đặt hàng khắp nơi về đến tận thôn. Nhân dân Đọi Tam đang có được vinh dự lớn được chọn là nơi sản xuất 1000 quả trống lớn nhỏ nhân dịp lễ hội kỉ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội. Năm 2004 làng trống Đọi Tam được UBND tỉnh Hà Nam công nhận là làng nghề thủ công truyền thống.
Hiện nay, trong làng Đọi Tam hầu như gia đình nào cũng tham gia sản xuất trống. Nhiều gia đình có xưởng sản xuất trống được trang bị máy móc hiện đại đặc biệt là khâu sản xuất tang trống. Đây là một nghề thủ công truyền thống nhưng có sự chuyên môn hoá sâu sắc đến từng công đoạn như thuộc da, làm tang, bưng trống. Thu nhập của người dân từ nghề này cũng khá cao từ 5 triệu đến 50 triệu đồng/năm. Đời sống kinh tế ở Đọi Tam trên mặt bằng chung là khá giả. Điều đó được khẳng định thêm trên phương diện văn hoá tinh thần. Đọi Tam là một thôn nhưng hàng năm thôn này đều tham gia tổ chức 3 lễ hội lớn: Lễ hội chùa Đọi, lễ hội làng (lễ hội đền Đức Thánh Cả) và lễ hội làng nghề trống với qui mô bao giờ cũng linh đình, sôi động và phong phú nhất so với các làng khác trong xã.
Tuy nhiên, đây là một nghề truyền thống mà chỉ có riêng ở làng Đọi Tam chứ các làng lân cận khác như Đọi Nhất, Đọi Nhì …không thấy một gia đình nào tham gia. Đó là một hiện tượng mà người ta gọi là bí kíp làng nghề hay một lí do nào khác mà nghề trống không phổ biến rộng rãi thì chưa rõ cần phải tìm hiểu thêm.
Ngoài trồn._.g lúa và làm nghề thủ công khác thì trong xã có khoảng trên 200 hộ gia đình tham gia kinh doanh dịch vụ kết hợp với sản xuất nông nghiệp nên cũng cho thu nhập khá từ 5-10 triệu đồng/năm. Đây chủ yếu là những gia đình kinh doanh tổng hợp nằm dọc theo tuyến tỉnh lộ 7910 nhưng không có gia đình nào buôn bán lớn.
Ngày nay, mặt bằng kinh tế chung của Đọi Sơn đang ngày một khởi sắc.Tuy không có gì nổi bật nhưng Đọi Sơn cũng là một xã có nền kinh tế phát triển khá trong huyện Duy Tiên, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao rõ rệt. Cơ sở vật chất, hạ tầng được phát triển, nhà cửa của nhân dân đã xây dựng kiên cố, nhiều nhà cao tầng đã mọc lên tạo nên một diện mạo mới cho Đọi Sơn. Toàn xã hiện có 650 xe máy, 1400 ti vi, 250 điện thoại … Những con số đó đã chứng minh sự phát triển kinh tế-văn hoá và dân trí ở đây. Là một xã nông nghiệp đặc biệt là trong giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ như hiện nay, Đọi Sơn gặp không ít khó khăn, nhân dân nơi đây đang cố gắng từng bước khắc phục khó khăn đó để hội nhập cùng với tiến trình phát triển chung của đất nước.
1.1.2.5. Văn hoá-Xã hội.
Đọi Sơn là một vùng đất cổ. Họ là chủ nhân của nền văn hoá Đông Sơn rực rỡ. Trải qua hàng ngàn năm tồn tại và biến đổi nền văn hoá đó đã tích tụ và lắng đọng để hình thành nên những giá trị văn hoá truyền thống vừa mang dáng nét chung của văn hoá cư dân vùng ĐBSH vừa mang nét riêng biệt của người dân vùng rốn nước.
Hà Nam là một tỉnh thuộc ĐBSH nhưng lại là địa bàn trũng nhất nên xưa kia khi hệ thống đê điều chưa hoàn chỉnh thì hầu như năm nào nơi đây cũng bị úng lụt, đời sống nhân dân bị đe doạ. Khi mà sức con người chưa thắng nổi thiên nhiên họ đã phản ứng lại điều đó bằng các hoạt động mang tính chất tôn giáo thể hiện rõ trong đời sống tâm linh, trong hoạt động lễ hội nơi đây như tục thờ thành hoàng làng, tục thờ thần nông nghiệp và tục thờ thần nước.
Có thể nói rằng khắp vùng Hà Nam không có nơi nào mà lễ hội lại diễn ra thường xuyên và độc đáo như ở Đọi Sơn. Xuân thu nhị kì họ đều tổ chức lễ hội mang đặc thù của cư dân nông nghiệp vùng chiêm trũng quanh năm sống ngâm da, chết ngâm xương. Đó là những giá trị văn hoá truyền thống đã trở thành một phần máu thịt của họ.
Đọi Sơn như một ngôi làng lớn lấy núi Đọi làm trung tâm và người dân 7 thôn sống quây quần bên ngọn núi đó. Núi Đọi không chỉ là trung tâm về mặt địa lý hành chính mà còn là trung tâm văn hoá tâm linh của cả cộng đồng vì trên núi có một ngôi chùa cổ và dưới chân núi có ngôi đền Thánh linh thiêng là cơ sở thờ tự chung của cả 7 làng từ xưa đến nay.
Toàn xã có trên 20 cơ sở thờ tự trong đó gồm 2 ngôi chùa (chùa Long Đọi Sơn trên núi và chùa Hạ ở làng Đọi Tam), 6 ngôi đình của 6 làng (vì thôn Sơn Hà mới tách từ thôn Đọi Tam nên không có đình riêng), còn lại là lăng, miếu, đền, phủ. Trong mỗi làng đều có cơ sở thờ tự riêng là các miếu, đền bản thổ thể hiện ranh giới nhưng dân trong toàn xã lại có những ngày thờ tự, lễ hội chung được tổ chức hàng năm đựơc lưu truyền từ ngàn xưa. Đó là lễ hội chùa Đọi (tổ chức vào 19,20,21 tháng 3 âm lịch), lễ hội đền Đức Thánh Cả (ngày10,11,12 tháng 7 âm lịch). Lễ hội đền Đức Thánh Cả là ngày hội của cả 6 làng. Những ngày đó Đọi Sơn tưng bừng không khí lễ hội làng để tưởng nhớ công ơn cha con thần Cao Sơn Đại Vương. Đồng thời lúc này đang vào mùa mưa bão nhân dân Đọi Sơn tổ chức lễ hội cầu mong thần linh che chở cho nhân dân trong vùng tránh được lụt lội- điều khủng khiếp nhất của người dân vùng trũng để có một mùa màng bội thu, đời sống no ấm.
Người xưa thường có câu để chỉ tính chất khép kín của làng quê Bắc Bộ:
Trống làng nào làng ấy đánh
Thánh làng nào làng ấy thờ.
Tuy nhiên chùa và đình làng ở Đọi Sơn lại là cơ sở thờ tự chung. Do vậy lễ hội ở đây rất độc đáo tuy không phải là duy nhất. Sự tôn thờ Cao Sơn Đại Vương ở đây cũng có điều đặc biệt vì cư dân một vùng đồng bằng lấy một vị sơn thần làm thánh chung. Đó là tín ngưỡng thờ thần núi của cư dân Việt cổ đồng thời là tục thờ thánh Tản Viên và tướng lĩnh của ông mong Thánh phù hộ cho dân trong vùng tránh được lũ lụt, bảo vệ mùa màng.
Đặc biệt riêng làng Đọi Tam ngoài việc tham gia trong hoạt động của hai lễ hội chung lớn trên, họ còn tổ chức ngày hội riêng của làng trống vào mồng 7 tháng Giêng hàng năm để tưởng nhớ công ơn của người đã đem nghề về cho dân làng. Trong ngày lễ đó, lễ vật mà nhân dân Đọi Tam cúng tế không thể thiếu được hai món đó là bánh dày và chè kho. Đây không phải là món đặc sản của địa phương nhưng trong ngày đó lại là những lễ vật bắt buộc đối với từng gia đình làm trống.
Lễ hội làng trống Đọi Tam được tổ chức rất lớn với hoạt động rước sách linh đình và nhiều trò chơi dân gian được diễn ra trong đó có nhiều hoạt động mang đặc trưng nghề trống như cuộc thi bưng trống dành cho người dân làng nghề và trò bịt mắt đánh trống dành cho người đi hội. Trong đình làng Đọi Tam hiện nay có một chiếc trống đại mà nó chỉ được sử dụng trong dịp lễ hội hay việc quan trọng trong làng hoặc ngày kị của ông tổ (17-4). Trước khi có chiếc trống lớn trong dàn trống hội Thăng Long kỉ niệm 990 năm (đường kính cao 2.05m cao 2.75m và là chiếc trống lớn thứ 2 thế giới sau Trung Quốc) thì đây là một chiếc trống cổ và lớn nhất cả nước được làm từ năm 1989 với đường kính mặt trống là 1.5m, chiều cao 1.8m.
Ngoài những lễ hội và các hoạt động văn hoá cổ truyền ra thì xã Đọi Sơn cũng thường tổ chức những hoạt động giao lưu văn hoá, thể dục thể thao hiện đại để tạo nên một sự giao thoa hài hoà giữa các giá trị văn hoá truyền thống và hiện đại trong đời sống mới. Bên cạnh đó Đọi Sơn còn chú trọng đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền lối sống lành mạnh để vừa bảo lưu được những giá trị văn hoá tinh thần truyền thống kết hợp với những giá trị văn hoá hiện đại, biến nó thành một sức mạnh thời đại, làm động lực cho mảnh đất Đọi Sơn phát triển toàn diện đi lên trong cuộc sống hôm nay
1.2. Di tích chùa Đọi
1.2.1. Vị thế ngôi chùa Long Đọi Sơn.
Chùa Long Đọi Sơn có tên chữ là Diên Linh Tự là một ngôi chùa xây dựng ngay trên đỉnh núi Đọi Sơn xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Ngôi chùa nằm ở toạ độ 20035/ vĩ độ Bắc, 105058/ kinh độ Đông nay thuộc địa phận hành chính thôn Đọi Nhất. Núi Đọi gồm 3 quả núi cao gần 80m nổi giữa đồng bằng trù phú nằm cách sông Châu 500m về phía Tây. Nhìn từ phía Bắc núi tựa dáng rồng phục. Nhìn từ phía Tây hai ngọn núi hai bên nhô ra như hai chiếc tay ngai, ngọn ở giữa lùi lại như một chiếc án. Theo quan niệm địa lí xưa thì núi Đọi nằm ở thế Cửu Long-một thế đất đẹp và linh thiêng.
Toàn bộ ngôi chùa được xây dựng trên đỉnh núi Đọi Sơn trong khuôn viên 2 ha vườn rừng. Chính diện của chùa quay về hướng Nam theo quan niệm của nhà Phật đó là hướng đức Phật quay về nghe nỗi thống khổ của nhân gian mà cứu nhân độ thế. Phía Bắc hướng về Thăng Long đất kinh kì, đứng trước là núi Điệp như một tiền đồn chống giặc phương Bắc ngày xưa và như một tiền cảnh đón chào khách du lịch ngày nay. Phía Đông là thị xã Hưng Yên đất Phố Hiến xưa. Gần sát chân núi là dòng sông Châu. Phía Tây hướng về chùa Hương Tích và con đường huyết mạch Bắc Nam 1A. Toàn cảnh núi Đọi trông từ xa giống như một con rồng rất lớn nằm phục giữa đồng bằng đầu nhô cao hướng về phía Thăng Long. Ngoài ra, Đọi Sơn còn là một vùng núi non tiên cảnh từ xưa đã được biết đến như một sự kì lạ của tạo hoá và con người nơi đây:
Giữa cánh đồng bằng một trái non
Kìa chùa Long Đọi đứng chon von
Công trình kiến trúc khen ai khéo
Phong cảnh xưa nay dậy tiếng đồn.
(khuyết danh)
1.2.2. Lịch sử chùa Long Đọi Sơn.
Chùa thoạt đầu là nơi truyền bá và tu luyện theo lí tưởng Tứ diệu đế và Thập nhị nhân duyên của Phật giáo, sau đó nó biến thành nơi thờ Phật, mỗi thời thêm nhiều vị Phật được đúc tượng và được đưa lên thờ trên các bệ cao theo một trật tự nhất định….rồi thêm các nhà sư có công với xã hội…..không ít ngôi chùa đã trở thành nơi tiền Phật hậu Mẫu.
Phật giáo là một tôn giáo lớn xuất phát từ Ấn Độ và được truyền bá vào nước ta khá sớm với trung tâm là Luy Lâu (Thuận Thành-Bắc Ninh). Đạo Phật được du nhập vào nước ta một cách hoà bình, tự thân nó biến đổi và hoà nhập với tín ngưỡng dân gian bản địa nên nó nhanh chóng có chỗ đứng vững và trở thành một tôn giáo quan trọng trong đời sống tâm linh người Việt. Do vậy, trước thế kỉ X ở nước ta đã có rất nhiều nơi dựng chùa thờ Phật mặc dù đó mới chỉ là những am thiền nhỏ. Đạo Phật là tôn giáo có xu hướng thoát tục lên cõi niết bàn nên thường chọn những nơi yên tĩnh, hoà mình vào núi non cây cỏ, sống thanh tịnh và xa lánh cuộc đời trần tục.
Phật giáo được truyền bá vào vùng Sơn Nam (Hà Nam) từ rất sớm. Không biết từ bao giờ nhưng từ những năm 40 phủ Đọi Sơn đã có chùa và trên núi có am thiền nhỏ. Quân Tô Định đã đồn trú trên núi. Nghĩa quan của bà Cao Thị Liên (21-43) ở Thạch Tổ-Thanh Liêm đã nhiều lần đem quân đến đánh và hiện nay còn di tích mả Tàu nhiều đời để lại. Do vậy từ những năm đầu sau công nguyên ở vùng Đọi Sơn, Phật giáo đã có mặt nơi đây mặc dù chưa phổ biến.
Đến đời nhà Lý, đạo Phật đã phát triển mạnh và trở thành quốc giáo. Sau khi dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, Lý Thái Tổ đã cho xây dựng và phát triển chùa chiền ở kinh đô đồng thời ra lệnh cho các hương ấp khắp nơi “ nơi nào có chùa quán đã đổ nát đều phải sửa chữa lại”. Nhân dân Đọi Sơn đã cho tu sửa am thiền thành sơ thiền bằng tre, gỗ. Đến năm 1054 vua Lý Thánh Tông cùng Vương phi Ỷ Lan thăm thú đầu xuân thấy cảnh sắc nơi đây rất đẹp lại thêm những di tích lịch sử (vua Lê Hoàn cày ruộng tịch điền và là nơi Lý Thái Tổ dời đô đi qua) nên vua cùng vương phi quyết định cho xây dựng chùa Đọi với quy mô lớn, giao cho tể tướng Dương Đại Gia chỉ huy xây dựng và mời thiền sư Đàm Cứu Chỉ đang trụ trì một ngôi chùa ở Tiên Du-Bắc Ninh về trụ trì cùng tể tướng tham gia xây dựng chùa. Qua đây ta có thể hình dung được quy mô và vị thế của chùa Đọi dưới thời Lý. Đến giai đoạn này chùa Long Đọi Sơn là một trung tâm Phật giáo lớn của trấn Sơn Nam xưa.
Tiếp đó vào năm 1118 vua Lý Nhân Tông đã ra lệnh cho xây dựng và mở mang chùa Đọi to đẹp hơn và cho xây dựng bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh cao 13 tầng. Sách Đại Nam thống nhất chí có ghi: “Ở xã Đọi Sơn đông nam huyện Duy Tiên….đời vua Lý Nhân Tông dựng chùa và cho xây bảo tháp Diên Linh”, sách Lịch triều hiến chương loại chí cũng chép tương tự. Việt sử lược còn cho biết cụ thể hơn: “Năm Nhâm Dần hiệu Thiên Phù Duệ Vũ năm thứ 3(1122), mùa xuân, tháng 2, Bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh được xây dựng xong”. Xây dựng xong chùa tháp vua Lý cho mở hội mừng mấy ngày liền và giao cho Binh bộ viên ngoại lang Nguyễn Công Bật soạn văn bia kỉ niệm ngày khánh thành ngôi chùa và ngọn bảo tháp đề niên hiệu “Thiên Phù Duệ Vũ”(1121). Hiện nay tấm bia đá này vẫn còn và là nguồn cung cấp nhiều thông tin quý giá.
Chùa Đọi Sơn và cây bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh đứng vững được trên 300 năm. Đầu thế kỉ XV khi giặc Minh sang xâm lược nước ta ngôi chùa bị phá huỷ và cây bảo tháp cao 13 tầng cũng bị đánh sập hoàn toàn, các tượng đá cũng bị huỷ hoại. Năm 1467 vua Lê Thánh Tông một lần đi du xuân có lên thăm núi Đọi, đã phong cho núi Đọi là Nam thiên đệ tam động (Đệ nhất là động Hương Tích, đệ nhị là động Bích Đào) và có đề thơ trên đó (ở mặt sau của tấm bia đá Sùng Thiện Diên Linh):
Lý triều quái đản bia không tại
Minh tặc hung tàn tự dĩ canh.
Nghĩa là: Hoang đường vua Lý bia còn đó
Tàn bạo quân Minh chùa tháp khác xưa.
Từ đó ngôi chùa bị hoang phế gần 200 năm. Cuối thế kỉ XVI (1591) đời Mạc Mậu Hợp, ngôi chùa này được chính quyền phong kiến và nhân dân trong vùng xây dựng lại với công lao to lớn của Đại đức Thích Hải Triều “Dựng lại bia đổ, bắc lại xà nhà và làm lại những chỗ tường bị hư hỏng khiến cho hơn 500 năm, một nơi thắng cảnh trong chốn tùng lâm lại đựơc mới mẻ”. Tuy ngôi chùa được khôi phục nhưng cây bảo tháp thì không đựơc dựng lại. Dưới thời nhà Nguyễn, chùa Đọi Sơn có sửa lại thượng điện, tiền đường, nhà tổ, gác hương, nghi môn…ngôi chùa đã dần được khôi phục và mở rộng, đúc tượng Di Lặc nặng 1000kg bằng đồng. Đến đời sư tổ thứ 5 là Thích Chiếu Thường trụ trì đã xây dựng hoàn chỉnh ngôi chùa 125 gian. Hoà thượng là người có pháp tăng quảng đại, có nhỡn thông cao cường, một đêm nhìn thấy một bóng nữ nhân nhưng không có hình từ phía hang động vào chùa ăn mày cửa Phật. Sư tổ liền sai tiểu sang cúng chúng sinh rồi bí mật rình ở phía sau, bỗng cửa hang lộ ra những chiếc chĩnh. Nhà sư chỉ kịp viết vội chữ Tam Bảo lên những chiếc chĩnh. Nữ nhân đó trở về thấy chữ nhà Phật nên không dám đóng cửa hang liền nộp lên nhầ chùa và xin ăn mày lộc Phật mãi mãi.
Đó là những chiếc chĩnh vàng của bọn giặc Minh. Chúng sang cướp nước ta, vơ vét của cải rồi tìm thầy địa lí chọn đất xây mả để của và chôn theo một cô gái đẹp còn trinh để làm thần giữa của. Thời gian đã quá lâu, nữ thần giữa của không còn linh ứng nữa và chết biến thành con ma đói đêm đêm vào chùa để xin ăn. Sư tổ dùng những chĩnh vàng đó để xây dựng chùa, hoàn thành những ván in sách và lưu hành những bộ kinh: Kinh Di Đà, kinh Dược Sư, kinh A Hàm, kinh Bảo Huấn, kinh Hộ Pháp, kinh Nhật Tụng. Lúc đó chùa là một trong số ít những ngôi chùa lớn trong nước và trở thành trường Bắc Kỳ Phật Giáo, là nơi tùng lâm chốn tổ, giáo dục tăng ni trong 3 tháng hè gọi là trường Hạ.
Đến năm 1947 do chủ trương tiêu thổ kháng chiến, chùa lại bị phá một lần nữa. Sau ngày hoà bình lập lại vào năm 1957 tăng ni phật tử và nhân dân trong vùng đã sửa chữa và tôn tạo di tích, từng bước khôi phục lại diện mạo và không gian chùa. Hiện nay trong chùa vẫn còn lưu giữa nhiều di vật quý đặc biệt là những di vật có niên đại từ thời Lý. Do lịch sử và ảnh hưởng của ngôi chùa này đối với đời sống tôn giáo không chỉ với nhân dân trong vùng mà còn cả các bà con của khu vực lân cận, ngày 10-4-1992 Bộ Văn hoá thông tin đã có quyết định 519/CP công nhận chùa Long Đọi Sơn là di tích lịch sử văn hoá quốc gia cần được bảo vệ và tôn tạo. Hiện nay, nhà nước đã cấp kinh phí cho chùa xây dựng đúng 125 gian nhằm khôi phục diện mạo vốn có xưa kia của nó.
Hiện nay, với những gì đã và đang có, Chùa Long Đọi Sơn không chỉ là niềm tự hào của người dân Đọi Sơn mà cả vùng trấn Sơn Nam xưa (Hà Nam ngày nay).
Kiến trúc và quy mô của chùa Long Đọi Sơn.
Trải qua thăng trầm của lịch sử, kiến trúc và quy mô của chùa Long Đọi Sơn hiện nay đã biến đổi nhiều so với nguyên thuỷ của nó. Qua bài văn trên tấm bia đá Sùng Thiện Diên Linh còn lại ta có thể thấy được quy mô to lớn và kiến trúc của chùa Long Đọi Sơn lúc ban đầu: “Mặt chùa trông ra sông Kinh, gió lặng mặt sông như lụa biếc dải ra, lưng chùa quay về núi Điệp, mưa tan dáng núi như gấm xanh thêm sóng. Bên hữu khống chế bình nguyên trông tới luỹ Càn Hưng, bên tả men theo sông nhỏ quanh Hán Thuỷ để ra khơi …chuyển gỗ rừng hết sức thần kì, sai thợ mộc giỏi để trổ tài khéo léo. Lấy đá Mân làm đấu, dùng đá Vũ dựng hiên, xây 13 tầng chọc trời, 40 của hứng gió. Vách chạm rồng ổ, chùa treo chuông đồng. Tầng trên đặt hộp vàng Xá lị, toả tường quang cho đời thịnh sau này, đỉnh nóc xây tiên khách bưng mâm, hứng móc ngọc dưới bầu trời tạnh ráo. Tầng dưới chia 8 tướng khôi ngô đứng hộ vệ có thần nhân cầm kiếm, chính giữa đặt tượng Đà Bảo Như Lai… treo phướn vàng rực rỡ, cám lọng tía long lanh. Sân thềm có bậc, lang vũ hai bên. Rồi bên tả chùa dựng cung tứ giác, ngậm hai mân trấn đất, đội 8 tướng chầu trời….Bên hữu chùa dựng nhà khám nhọn vuông… tầng dưới xây đài lăng Hán, treo đỉnh khí Thú Sơn, buộc chày kình Bích Hải… xây tường bảo vệ, dựng hiên phô trương, bắc cầu mở rộng đường thông, trồng bách thành hàng hai dãy…”
Ngôi chùa đã bị phá huỷ và xây dựng lại nhiều lần nên không còn giữ được nhiều kiến trúc như ban đầu. Trước năm 1945 chùa được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc với hơn 100 gian bao gồm một chùa chính với nhà bái đường, thiên hương và thượng điện. Hai bên có hai dãy hành làng thờ 18 vị La Hán. Từ ngõ chùa vào có hai dãy nhà đắp sự tích Thập điện, phía sau là nhà tổ, nhà khách. Trước của chùa có một nhà bia trong đó có lưu giữ tấm bia đá Sùng Thiện Diên Linh. Ngôi chùa Đọi đã từ lâu được viện Viễn Đông Bác Cổ của Pháp liệt vào hạng các cổ tích danh thắng cần bảo vệ.
Sau quá trình bị tàn phá chùa được xây dựng lại, kiến trúc không gian chùa có bị xê dịch. Chính diện chùa vẫn quay về hướng nam. Hình ảnh đầu tiên mà ta nhìn thấy khi lên chùa là toà Tam Quan 5 gian mới được xây dựng năm 2004 mang phong cách triều Nguyễn với kiểu kiến trúc chồng diêm 8 mái hoàn toàn làm bằng gỗ lim. Tiếp sau là một bàn cờ người rộng 50m2 dùng làm nơi đấu cờ khi mở hội. Phía trên bàn cờ hai bên là hai cổng của Tam quan cũ, ở giữa trước đây là toà Tam quan nhưng sau này nó là nhà bia theo kiểu kiến trúc chồng diêm 8 mái. Phía trên nhà bia, leo qua 24 bậc đá tới sân chùa thoáng tĩnh đặt tượng đài Quan Âm. Hai bên sân chùa dọc theo hành lang là hai dãy nhà đồng tội đắp cảnh Thập điện Diêm Vương với thế giới của 10 cửa ngục như nhắc nhở con người ta luôn làm điều thiện, tránh điều ác để không bị rơi vào thế giới địa ngục khủng khiếp đó sau khi đã sang thế giới bên kia.
Lại mấy bậc đá nữa là dẫn chúng ta đến ngôi chùa chính. Đầu tiên là toà Tam Bảo gồm 7 gian bái đường và 3 gian thượng điện thờ các vị Đức Phật, đức Di Lặc,và đức Hộ Pháp theo một trật tự quy định của nhà Phật. Hệ thống vì kèo của ngôi chùa được làm theo kiểu chồng đấu giá chiêng, chân cột kê đá cổ bồng, cột được làm bằng gỗ lim và đá. Cửa chùa cũng được lắp hoàn toàn bằng gỗ lim.
Phía sau toà Tam bảo là hai dãy hành lang song song thờ tượng Thập bát La Hán với 18 tư thế và sắc thái khác nhau thể hiện những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống đời thường một cách sinh động. Sau chùa chính và trước cửa nhà hậu điện trước đây là vườn hoa nay là một hố sâu chừng 2m nơi đoàn khảo cổ đào thám sát để xác định móng tháp Sùng Thiện Diên Linh. Hậu điện nối thông với hành lang hai dãy nhà thờ các vị La Hán theo kiểu chữ U. Hậu điện thờ Đức Thánh Ông (vua Lý Nhân Tông), Quận công Lý Thường Kiệt cùng ngồi chung trên ban Đức Thánh. Tiếp đó theo về hướng Đông là nơi thờ tượng Nam Hải bồ tát nghìn tay nghìn mắt, Quan Âm Tống Tử, Vương phi Ỷ Lan, Đức Át Nan, Đức Địa Tạng và một số bia hậu của những nhà cúng tiền của để xây dựng chùa.
Bên trái chùa song song với thượng điện là 5 gian nhà tổ nơi thờ 10 đời sư tổ, 1 thượng toạ, một sư cụ, một sư thầy đã viên tịch nơi đây. Nhà tổ được xây dựng có cột bằng đá vuông, có tường gạch và lợp ngói ta. Đồng thời nhà tổ cũng là khu giảng đường nơi các sư sãi học tập. Đối diện với nhà tổ là nhà khách là nơi tiếp khách thập phương về lễ chùa. Nhà tổ, nhà khách, thiền chủ, tăng phòng… là một quần thể kiến trúc theo hình chữ U. Phía Tây cùng nơi dốc thoải của núi là khu vườn tháp đặt lăng mộ của nhiều nhà sư trụ trì cũng như tăng ni nơi đây.
Bên phải chùa là một am phủ 3 gian thờ mẫu Liễu Hạnh (Mẫu nhân gian). Đây cũng là nơi thường xuyên tổ chức hầu bóng của nhân dân và khách thập phương về đây lễ Phật, cầu xin Mẫu phù hộ và che chở.
Với hệ thống thờ tự như vậy chùa Đọi Sơn mang đậm nét kiến trúc của chùa Việt Nam truyền thống là kiểu kiến trúc không gian tiền Phật hậu Thánh. Từ truyền thống đến hiện đại chùa Long Đọi Sơn đã bao đổi thay. Ngày nay mặc dù ngôi chùa không còn giữ nhiều nét kiến trúc cổ độc đáo nhưng đây vẫn là ngôi chùa lớn, là ngôi trường Bắc Kì Phật Giáo với cảnh sách thiên nhiên tươi đẹp, con người thân thiện, sinh hoạt văn hoá phong phú trong ngày lễ hội được tổ chức hàng năm vào 19,20,21 tháng 3 âm lịch hàng năm như một lời mời thân thiện và lôi cuốn khác thập phương về đây tham dự lễ hội cầu Phật phù hộ và thăm quan thắng cảnh sông núi nơi đây.
1.2.4. Những di tích và di vật quý ở chùa Long Đọi Sơn.
Chùa Đọi không chỉ là một thắng cảnh đẹp nổi tiếng của trấn Sơn Nam thượng đã làm nức lòng tao nhân mặc khách nhiều thế kỷ khi du ngoạn nơi đây mà còn là ngôi chùa cổ kính đó còn lưu giữ nhiều dấu ấn lịch sử có chỗ đã minh bạch nhưng có chỗ vẫn là điều bí ẩn. Hiện nay tại ngôi chùa và khu vực xung quanh còn lưu giữa được nhiều dấu tích lịch sử và văn hoá.
1.2.4.1. Những chiếc giếng cổ.
Theo truyền thuyết thì núi Đọi là một trái núi thiêng được nâng lên bởi 9 con rồng (cửu long). Từ 9 con mắt rồng đó có 9 cái giếng ở xung quanh núi Đọi bắt nguồn từ một cái hang lớn gọi là Hàm Rồng (cửu tỉnh). Trên thực tế thì xung quanh núi Đọi hiện nay rải rác có 9 chiếc giếng nước cổ xếp hoàn toàn bằng đá. Những chiếc giếng này khá rộng đường kính trung bình độ 3m không sâu lắm nhưng nước rất trong và quanh năm không bao giờ cạn dù thời tiết thế nào đi chăng nữa. Từ lâu nó là nơi cung cấp nước ăn cho người dân nơi đây và hiện nay họ vẫn dùng nước giếng này trong sinh hoạt hàng ngày. Qua thời gian 2 chiếc đã bị lấp đi và 7 chiếc còn lại đang được bảo vệ. Truyền thuyết về thế đất linh thiêng là vậy nhưng qua đây nó cũng biểu hiện rất rõ văn hoá truyền thống của làng người Việt với biểu tượng cây đa, giếng nước, sân đình.Với đặc thù địa hình nên những chiếc giếng này được hoàn toàn xếp bằng đá chứ không phải là xây bằng gạch như thường thấy ở các làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ.
1.2.4.2. Di tích ruộng Tịch Điền.
Đọi Sơn được coi là thế đất phát tích đế vương. Nơi đây, ngay trong những buổi đầu độc lập, vua Lê Đại Hành đã cày ruộng tịch điền ở chân núi Đọi. Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép: “Đinh Hợi/Thiên Phúc năm thứ 8, mùa xuân, vua lần đầu tiên đi cày ruộng tịch điền ở chân núi Đọi được một hũ nhỏ vàng, lại cày ở núi Ban Hải được một hũ nhỏ bạc nhân đó đặt tên là ruộng kim ngân”. Đây là ông vua đầu tiên của nhà nước phong kiến Việt Nam đi cày ruộng tịch điền để khuyến khích phát triển nông nghiệp. Trong đền vua Lê ở Hoa Lư-Ninh Bình còn giữ được câu đối ca ngợi Lê Hoàn cày ruộng:
Thuỵ vân, cam vũ thiên hữu ngưỡng
Tạc tỉnh, canh điền đế lực chi.
Nghĩa là: Mây lành mưa ngọt ơn tiên đế,
Đào giếng, cày ruộng sức của vua.
Hiện nay khu ruộng tịch điền này vẫn còn dấu tích, nhân dân trong vùng quen gọi là ruộng làng Lê chạy dài suốt từ đình làng Đọi Tam đến chân núi Đọi Nhất. Giữa khu ruộng rộng còn dấu vết của một nền nhà vuông vắn rộng 6 sào cao hơn các ruộng xung quanh 30cm gọi là nhà hiến nơi dâng của ngon vật lạ của nhân dân trong vùng khi vua đến đây cày ruộng. Cách nhà Hiến 200m về phía Đông Nam còn có dấu vết của một nền nhà vuông vắn nữa rộng độ 3 mẫu cao hơn xung quanh 40cm mà nhân dân quen gọi là Dinh ngoài. Cách Dinh ngoài 50m về phía Đông là Dinh trong nằm sát chân núi cũng rộng khoảng 3 mẫu. Giữa Dinh ngoài và Dinh trong có một nơi gọi là Tàu ngựa nơi nhốt ngựa của nhà vua.
1.2.4.3. Các di vật thời Lý.
Chùa Đọi là một ngôi chùa mang đậm dấu ấn của vương tôn triều Lý trong quá trình xây dựng và hiện nay nó còn lưu giữ rất nhiều di vật quý từ thời Lý để lại.
*. Bia đá Sùng Thiện Diên Linh.
Hiện nay trong nhà bia của chùa còn lưu giữ một tấm bia đá lớn khắc bài văn nhân dịp khánh thành cây bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh. Qua bài văn trên bia này chúng ta có thể biết được quy mô và phong cách kiến trúc của ngôi chùa và cây bảo tháp 13 tầng đó. Tấm bia hình chữ nhật cao 2,88m, rộng 1,80m, dày 0,50m hai mặt kín chữ. Mặt trước là bài văn bia do Nguyễn Công Bật soạn, mặt sau là những bút tích hậu thế khắc thêm vào. Đây là tấm bia rất đẹp. Trán, diềm và cạnh bia đều lấy hình rồng làm đối tượng trang trí. Những con rồng ở đây tuy kích thước và bố cục có khác nhau nhưng đó là một sự kết hợp hài hoà đến từng chi tiết tạo ra sự thống nhất và linh hoạt. Hai diềm bia hai bên có khắc hình rồng chạy nối tiếp nhau. Ở trán tấm bia lớn này có khắc hình hai con rồng chầu vào giữa nhưng không phải là chầu vào hình mặt trăng như thường thấy mà là hai con rồng chầu vào dòng chữ khắc nổi trên bia đề: “ĐẠI VIỆT QUỐC ĐƯƠNG GIA ĐỆ TỨ, SÙNG THIỆN DIÊN LINH THÁP BI”. Bệ bia là một khối đá lớn hình chữ nhật dài 2m40, rộng 1m50, cao 50cm được chia làm hai phần: Một phần nằm tiếp xúc với đất là khối đá vuông, phần trên chạm khắc sóng nước. Sóng nước có 2 lớp, lớp trên cao, lớp dưới thấp. Tấm bia chia bệ làm 2 phần mỗi phần đều chạm một đôi rồng nước đang quấn lấy nhau. Mỗi con rồng có 4 chân, đầu rồng có bờm. Rồng ở đây được đôi bàn tay khéo léo của người thợ đá chạm trổ một cách tinh xảo và sinh động. Hình tượng rồng đội bia (4 con) thay cho rùa đội bia là một hình tượng độc đáo chỉ nơi đây mới có. Nó vừa thể hiện thế đất thiêng của ngôi chùa này vừa thể hiện tín ngưỡng trong nghi lễ nông nghiệp của vùng trấn Sơn Nam quanh năm ngập úng. Rồng ở đây là những con rồng nước, là chúa tể trấn ngự cửa Tuần Vường. Tục thờ rồng ở đây mang ý nghĩa cầu mong cho vùng này tránh đựoc lũ lụt, mùa màng tươi tốt, nhân dân yên ổn làm ăn sinh sống.
* Tượng Kim Cương.
Di vật từ thời nhà Lý còn để lại đến ngày nay nhiều nhất là những pho tượng Kim Cương. Hiện nay tại chùa còn có 6 pho tượng Kim Cương được tạc bằng đá tảng trong đó có những pho bị mất đầu, gẫy chân hay bị hư hại một số bộ phận được đắp lại bằng xi măng. Theo Phật học thì tượng Kim Cương bao giờ cũng có 8 vị. Đó là những thần tướng nhà trời đi hộ vệ Đức Phật gọi là Bát vị Kim Cương. Trong bài văn trên tấm bia đá Sùng Thiện Diên Linh có ghi rõ: “Tầng dưới chia 8 tướng khôi ngô, đứng hộ vệ có thần nhân cầm kiếm”. Từ đây ta có thể biết rằng 8 pho tượng này lúc đầu được đặt quanh ngôi bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh. Trong di tích thời Lý để lại thì số tượng Kim Cương ở đây nhiều nhất và hoàn chỉnh nhất.
Các pho tượng Kim Cương ở chùa Đọi có kích thước xấp xỉ nhau, cao bằng người thật. Tượng được tạc bằng đá khối, phục trang theo lối võ quan có lá chắn che trước ngực, áo giáp được trang trí tỉ mỉ bằng những hình hoa, hình xoắn. Trên toàn thân còn được trang trí những bông hoa nhỏ nhiều cánh mà chúng ta rất hay gặp trong hoa văn thời Lý. Tại cán gươm có trang trí hoa văn hình hoa cúc dây.
Tượng tạc nổi theo kiểu phù điêu về phía trước còn phía sau lưng ẩn luôn vào tảng đá. Tượng đứng thẳng, hai chân dạng ra theo thế đứng vững chãi của một người lính, hai tay khuỳnh ra cầm gươm chống trước bụng. Đầu đội mũ, bộ mặt được diễn tả tròn trịa, nhẹ nhõm như những con người bình thường chứ không phải là một khuôn mặt dữ tợn, mắt xếch, môi mím chặt, gò má cao như những tượng võ tướng thời xưa mà ta thường gặp trong các di tích cổ.
Qua 6 pho tượng Kim Cương này chúng ta biết thêm nhiều về trang phục, con người và phong cách nghệ thuật thời Lý. Đó là sự giao hoà giữ con người và con người, con người với thiên nhiên trong một xã hội đã có sự phân chia giai cấp. Đồng thời đó cũng là bộ phận không thể thiếu được, càng tôn lên vẻ đẹp uy nghiêm, hùng vĩ của cây tháp chọc trời cao 13 tầng Sùng Thiện Diên Linh. Hiện nay cây bảo tháp không còn nữa nên 6 pho tượng này được đặt ở trong hai dãy nhà Đồng tội để du khách có thể tham quan và chiêm ngưỡng một cách thuận tiện.
* Tượng đầu người mình chim.
Trong số di vật điêu khắc bằng đá được phát hiện ở chùa Đọi có 4 pho tượng đầu người mình chim mang hình tượng thần thoại nghệ thuật Ân Độ-ChămPa gọi là tượng chim thần Kinari, hai pho tượng đã bị mất chỉ còn lại 2 tiêu bản.
Tượng được tạc từ đá ráp cao 40cm rộng 30cm hình thành nên một pho tượng nửa trên là người, nửa dưới là chim mà ngón chân và đuôi nhiều lông được thể hiện rất rõ. Trên đầu tượng tóc tết thành hình cầu, vắt ngang trán là một chiếc khăn rủ xuống ngang vai. Trên hai cánh chim là những đường cong khắc chìm vòng quanh vành ngoài, bên trong có những đường xoáy trôn ốc được cách điệu thành hình hoa lá chạm nổi, hai tay đang đánh não hạt ở phía đằng trước ngực.
Phong cách nghệ thuật của tượng mang nhiều yếu tố hiện thực.Vẻ mặt trầm tư vừa có vẻ đẹp dịu dàng vừa rạng rỡ, đôi lông mày dài, cặp mắt hơi xếch, môi thoáng có nụ cười, bộ tóc búi gọn tạo thành một búi tóc rất đẹp trên đỉnh đầu. Toàn bộ pho tượng thần thoại này được thể hiện khá công phu, độc đáo, kì dị nhưng rất thoải mái. Đây là loại tượng có vai trò làm vật trang trí trên các đầu cột thường gặp trong kiến trúc triều Lý mang dáng dấp là một nhạc công. Đó là một tác phẩm thể hiện sự giao thoa văn hoá giữa nền kiến trúc điêu khắc cổ Đông Sơn và kiến trúc, nghệ thuật Chămpa.
1.2.4.4. Pho tượng Di Lặc bằng đồng
Chùa Đọi Sơn trước đây có nhiều pho tượng Phật nhưng do chiến tranh và thời gian phá huỷ nhiều nên đến nay không còn lại là bao nhiêu. Hiện nay chùa còn một pho tượng Di Lặc bằng đồng được đúc vào năm 1864.
Toàn bộ pho tượng được đặt ở tư thế ngồi thoải mái, chân phải chống lên, chân trái xếp vào lòng, áo mặc nhưng chỉ xỏ vừa hai ống tay và để hở cả ngực và bụng. Đây là một người to béo bệ vệ thể hiện sự no đủ vui tươi của thế giới trần tục. Tượng Di Lặc là biểu tượng cho một tương lai tươi sáng. Thành công của pho tượng này là thể hiện được một cách sinh động ý đồ tư tưởng qua hình tượng nghệ thuật. Đó cũng là một nét đặc trưng của Phật giáo Việt Nam là tôn giáo nhập thế và có sự dung điệu với tín ngưỡng dân gian bản địa.
Ngoài ra, khu phía tây chùa còn có khu vườn tháp gồm hơn 200 ngôi mộ của các vị sư tổ, tăng ni đã viên tịch tại đây. Có lẽ đây là quần thể kiến trúc ít bị phá huỷ nhất trong chiến tranh và còn giữ nguyên được kiến trúc xây dựng qua các triều đại đặc biệt là kiến trúc mộ tháp dưới triều Nguyễn. Tất cả mọi ngôi mộ đều quay về hướng Tây-nơi Tây Phương cực lạc và cũng là nơi các nhà tu hành gửi linh hồn mình sau khi siêu thoát cuộc đời trần tục. Đây là nơi đáng để tham quan khi du khách đã về đến chùa Đọi.
Ngoài những di vật và những di tích kể trên, chùa Đọi còn lưu giữ nhiều di vật quý như: những mảnh gốm trang trí hình vũ nữ đang múa hay khắc trọn hình một con rồng có từ thời Lý, một chiếc chuông cổ và một chiếc khánh cổ được treo dưới nhà tổ hay nhưng chiếc lư hương bằng đồng chạm nổi lưỡng long chầu nguyệt, hệ thống tượng thập bát La Hán, tượng Phật, tượng Thánh rất phong phú và đa dạng trong tiền đường và hậu điện có cả tượng mới và cũ.
1.2.5. Những nhân vật được thờ tự trong chùa Long Đọi Sơn.
Việt Nam không phải là quê hương của bất kì một tôn giáo lớn nào nhưng lại là nơi tiếp thu và dung hoà nhiều tôn giáo lớn trên thế giới với tín ngưỡng dân gian bản địa tạo nên một màu sắc tôn giáo độc đáo và đa dạng.Do vậy, một hiện tượng thường thấy là trong bất cứ một ngôi chùa nào đó ở miền Bắc Việt Nam hiện nay không đơn thuần chỉ thờ Phật mà bên cạnh đó còn có phủ thờ Mẫu, ban thờ Đức Thánh, Đức Hoàng Hậu. Chùa Long Đọi Sơn cũng là một ngôi c._.thường mỗi khi bệ hạ dùng võ vậy.
Nhân dân hoà hợp, trăm họ yên vui, mùa xuân ra mắt, dâng ngọc kính ngà, mùa thu vào chầu, trình bày chức vị. Họp các nước chư hầu mà yến thưởng, xây bảo đai ba cấp cho quần tiên. Lợp ngói bạc sáng chói trời xanh, đặt toà sen phô bày tướng báu. Trên nóc phượng hoàng đứng thẳng, xung quanh rồng lớn đua vờn. Lọng trang sức thất trân, đai trang hoàng bách bảo. Đó là: Thềm trên cao nhất, thánh thượng ngự chơi, bậc giữa tầm thường, cung tần chầu chực. Nhạc quan đứng sắp dưới sân đều cùng nhảy múa. Ráng sức thiên tài làm nên điệu khúc, vỗ về phiên thuộc xa tới ấp phong. Lưng trời tiếng át mây bay, hoà sáo vang thêm ân sáng. Đó là đức cao nhất về sửa sang ân giáo của bệ hạ.
Làm chủ của trời đất, xét huyền cơ của tạo hoá. Vận trí biến thông, hiển mưu đầy khắp. Tinh tường âm hưởng nước ngoài, phiên dịch yếu đoan mọi nghệ. Chế ra khúc múa tuyệt vời, tỏ rõ điềm vui đời thịnh. Lại chế khúc “tiên tửu xuống mây” véo von tiếng hát ca ngợi công lớn tiền vương và khúc “sao băng rời chỗ” uyển chuyển dáng hình, chúc tụng ơn giáo hoá. Đó là sự lo toan nhiệm màu của bệ hạ vậy.
Đức cùng trời đất, nên năm sao chói sáng, ơn tới cá chim thì muôn vật dâng điềm. Mười chín rồng thần quang phục thềm quỳnh điện báu, một nghìn con voi trắng hộ trì vườn cấm ao tiên. Tỏ rõ sự dài lâu của ngôi báu, hợp phù ưu thịnh của phúc lành. Cho nên, trời hiện điềm thiêng, rừng phô vật lạ. Nên voi thần xuất hiện, hình thù to đẹp, trán hiệu thần quang. Nghiệm văn thái sạch trong có bậc, bành thông minh chiếu gọi khôn cùng. Vua đặt cho tên “Thần tượng siêu quần” ưu đàm đưa thơm, xá lị hiện ngọc, cây cỏ dâng phúc, thần báo vật điềm. Nêu nên sự ban phúc khôn cùng, chỉ rõ sự truyền ngôi vô hạn, cỏ thơm mọc hai đợt, hươu trắng đến sáu lần. Nai tuyết lại một con, hoẵng đen về một cặp. Thừa mệnh thượng đế, giữ lâu phúc trời. Dồn dập tỏ điềm hay, song song phô vẻ lạ. Rùa nghìn chấm năm màu, sen hai gương một nhánh. ơn thấm suốt nguồn, vật dâng điềm lạ. Cảm ứng sự yên tĩnh của muôn dân, gợi bao sự hưng vong của xã tắc. Nên: Vành trăng tán ở tầng trời, ánh vàng rọi từ khe tối, tỏ rõ sự sáng soi là hữu hạn, nói lên sự tế đoán là vô cùng. Điềm trời phúc báo, khe tốt dâng điềm. Một cây cay tía, nảy nắm mầm thiêng. Giống như các nước bảo vệ triều đình, cũng tự khắp trời phù trì nguyên thuỷ. Thời qua chín chục, tiết đến mồng năm. Chuột sinh lông trắng, thông biến lọng nghiêng. Giống như tổ hạc mà dâng điềm lạ, coi ra Hằng Nga để tỏ phúc lành. Hợp với sức thanh bình của bốn bể, hoà cùng sự yên ấm của muôn dân, sẻ trắng, cửa vàng tụ tập, rồng xanh cò trắng dâng trình. Giãi tỏ dung nghi trong sạch, nổi lên “duy nhất duy tinh” đổi thay chất cũ chân thường , thay được “hay nhân hay thứ”. Triệu dao chìm ngựa ký sinh ra, móng mền nhẹ, trâu đen xuất hiện. Đàn nhạn hợp mà phương xa thần phục, mãnh hổ vờn mà khắp chốn sợ oai. Bươm bướm thành đôi, tuyết lành đầy đọng. Mưa tuyết dạt bay đầy thước, tượng trưng thời đại thái bình. Mượt mà như lông phượng khác thường rực rỡ như đàn có thành dãy. Đàn quạ trắng đua bay, đàn ngỗng trời tranh liệng. Tỏ rõ sự tinh cần báo đáp, cảm thông lòng huần hậu thảo hiền. Đọc Phật kinh trọn gói mà không ai sánh kịp, chúc thánh thượng muôn năm mà quy định lệ thường. Cau quả ngậm châu, cành dương dưới ngọc. Điềm lành quanh quất chốn cửu long, át xa châu báu, triệu tốt sinh sôi đầy các ngả, vượt tới phương xa.
Ôi ! Vâng chịu phúc dày trời đất, kết thừa mệnh lớn tổ tông, hơn hai mươi năm trị nước, hàng trăm nghìn nước sợ oai. Mưa nắng hợp thời, trăng sao đúng độ. Người thường nghĩ: Việc làm ruộng là căn bản trước tiên nên chính sự ắt nhờ vào đó. Tuy hàng năm vẫn phải thân hành, nhưng ý chí chưa từng trễ nải. Ngày tháng năm muàg hạ, niên hiệu Hội Trường Đại Khánh thứ chín ( 1118), nhà vua cữa xe ngựa phi tiên, đáp thuyền rộng diệu bảo. Nắng đẹp sóng im, triều lui mây tạnh. Qua dòng Hà Lô, thấy bến Long Lĩnh. Tuy thế núi chênh vênh nhưng đỉnh vun bằng phẳng. Vua bèn truyền lệnh buộc dây thuyền, xuống chiếu cho các quan hộ giá mà bảo họ rằng:
Trẫm muốn dựng một ngôi chùa ở đỉnh núi này có được chăng?
Tả hữu bước ra tâu rằng: “ Chúng thần nghe các cụ già trong làng kể lại. ở núi này cứ đến mùa xuân thì trời thường mưa để nhuần thấm cho muôn dân. Vậy bệ hạ nên dựng chùa để chóng thành thiện quả và xin bêh hạ đặt tên núi này là Long Đội”.
Nhà vua chuẩn ý, bèn hạ lệnh cho viên quan coi việc bói toán, xác định phương hướng. Mặt chùa trong ra sông Kinh, gió lặng mặt sông như lụa biếc dải, lưng chùa quay về núi Điệp, mưa tan dáng núi như gấm xanh thêm sóng. Bên hữu khống chế bình nguyên trông tới luỹ Càn Hưng, bên tả men theo sông nhỏ quanh Hán Thuỷ để ra khơi. Xuống chiếu cho thợ thuyền năng dây nẩy mực. Thi của cải làm sáng thêm công đức, khiến quan coi rừng gắng sức để giảm bớt dân tư. Chuyển gỗ rừng hết sức thần kì, sai thợ mộc giỏi trổ tài để làm việc khéo léo. Lấy đá Mân làm đấu, dùng đá Vũ dựng hiên. Xây mười ba tầng trọc chời, bốn mươi cửa hứng gió. Vách trạm rồng ổ, xà treo chuông đồng. Tầng trên đặt hộp vàng Xá Lị, toả tường quang cho đời thịnh sau này. Đỉnh nóc xây tiên khách bưng mâm hứng móc ngọc dưới bầu trời tạnh ráo. Tầng dưới chia tám tướng khôi ngô đứng hộ vệ có thần nhân cầm kiếm. Chính giữa đặt tượng Đa Bảo Như Lai sức thề nguyện sâu rộng dù hiến cả thân mình. Nghe kệ sen giúp đỡ oai thiêng, lắng kinh Phật chia đôi toà báu. Treo phướn vàng rực rỡ, cắm lọng tía long lanh. Sân thêm có bậc, lang vũ hai bên. Rồi bên tả chùa dựng cung tứ gtiác, ngậm hai mân trấn đất, đội tám tướng chầu trời. Nêu cao khí tượng cho danh sơn, truyền rộng thánh sơn cho hậu thế. Bên hữu chùa dựng nhà khám nhọn vuông, trong đặt Tân đầu hoà thượng là người bị Phật đày ra Ma Lệ Sơn. Nhận lời răn của Phật Như Lai vì chúng sinh mà chứng phúc. Tầng dưới xây đài Lăng Hán, đỉnh treo khí Thú Sơn, buộc chày kình Bích Hải. Khi đánh thì âm vang cả tầng trời, khi nghe thì lưỡi kiếm thôi vung nơi bể khổ. Xây tầng cao để ngăn giữ, dựng giải vũ để phô trương. Bắc cầu mở rộng đường thông, trồng bách thành hàng hai dãy. Kết tinh thành tôn sùng diệu quả mong cho lịch số lâu dài. Hết kiểu lạ xây dựng lầu cao, kì vọng tuổi vua thọ mãi.
Cho nên nhà vua đặt tên tháp ấy là Sùng Thiện Diên Linh.
Tháp này xây dựng từ niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ 9 (1118) đến mùa thu niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ (1121) thì hoàn thành. Nhân lúc rảnh mà dựng xây, gặp được mùa mà thiết lập. Trải qua ba vụ cầy, bốn mùa lúa chín sau mới hoàn thành. Đến khi làm lễ khánh thành, sai phụng thường chỉnh đốn kiệu xe khiến cho phong bá quét sạch bụi bặm, khói trầm đàn như mây tỏ khắp sơn khê, bóng cờ phướn như dáng phô bầy khắp ngả. Chuông trống vang ầm, khánh tiêu inh ỏi. Phía trước xe mây Tam Bảo, đằng sau kiệu báu Thánh Hoàng. Dốc nghiêng xanh tía sáu cung, về hết già trẻ muôn nước. Điện hoa vắt ngang phái trước, chùa Phật mở rộng bên trong. Hội tăng ni trai khiết, diễn gác đế chân kinh. Hoàng đế nghiêm trang đọc kệ, đoạn cúi đàu tạ lễ, cung nga khép nép nghe kinh xong dâng sữa múa ca. Thổi cơm chay trắng muốt, thiết khách đói qua đường, phát tiền quý ùn ùn cấp cho dân nghèo khắp chốn. U hiển đều về, thiên long cùng đến đem lực công cùng đến, phúc đức vô lường. Ca ngợi hoàng cương vũng bền như trời đất, cầu mong bảo vận vằng vặc như trăng sao. Sớm sinh thái tử, nối mãi mệnh trời. Mong gốc mành ngàn thủa, cầu xã tắc muôn năm. Cỏ lướt nhiều phương, quỳ nghiêng muôn nước, thần nhân yêu mến, tổ khảo khuông phù, thần đạo giúp ngầm, trời người nâng đỡ.
Thái Tổ, Thái Tông và Thánh Tông hoàng đế định xong bốn bể, nhẹ gót lên tiên, nhờ quả phúc này mà ngụ mãi toà sen, Hoàng tỷ Phù Thánh Linh Nhân chán cõi hoàn trần, ngự chơi mây khói, gội lương nhân này mà siêu sinh tịnh độ. Nói chung là các vương phi của các vua chư hầu, là những người hiền thục u trinh điều hoà nội trị. Nâng thêm tiết tháo hiền hoà, tỏ rõ tấm lòng thục thuận. Đợi sao trời xuống, cùng thổi luật đồng. Sau cùng xin nguyện nhân dân giàu có, bốn biển an ninh, thống nhất sơn hà, hoa di thông suốt. Năm hành tuần tự, thóc lúa trĩu bông. Biên cương im khói lửa, trong nước bặt tai ương. Thần, thẹn xem hàng nhạc, lam dự rừng nho, ghi chép sự việc hoàn thành nhờ bởi thánh minh khéo léo. Còn cái công huân nghiêng trời lệch đất của bệ hạ thì dẫu có tài như Uyên, Vân học rộng như Ban cũng khó lòng ghi lại được muôn một vậy. Lại nghĩ phụ rau quỳ, sau hoắc nhỏ nhoi, nhờ dược ánh mặt trời, mặt trăng soi tưới. Nghìn năm một thủa, dốc hết lòng trung. Gượng cầm ngòi bút đánh bạo trình bày.
Minh rằng:
Rất diệu mà rất tĩnh
Không dáng cũng không
hình
Gượng đặt tên cho nó
“Cực nhỏ” và “cực tinh”
Đạm bạo riêng tồn tại
Trước thủa trời đất sinh
Muốn nhuộm đen chẳng
được
Đem mài vẫn nguyên lành
Diệu thay cái tâm ấy
Thuần tuý và tinh anh
Xưa bên trời Tây Trúc
Giáng sinh ở Kim tiên
Mười danh hiệu đầy đủ
Chán cõi tục hư ảo
Như bọt nổi băng tan
Ánh cầu vồng rực sáng
Người giữ có về ngàn
Nét mặt vàng mờ bóng
Tấm thân tẩm dầu lan
Gỗ chiên đàn làm củi
Khói bay lên hỏa đàn
Lửa thiêu vừa lụi tắt
Kết xá lị muôn vàn
Đầy hòm và đầy chậu
Hoặc năm sắc rõ ràng
Hoặc hiện thành chín vẻ
Lung linh và chói chang
Rộng mở lời thề nguyền
Tu hành đủ lục độ
Tham cứu sâu đạo thiền
Trí tuệ đuổi hư nguỵ
Dựng giáo lý diệu huyền
Đưa đạo về chân tính
Như núi lặng non yên
Khắp ba cõi chiêm ngưỡng
Mười phương về hợp duyên
Người vâng mệnh đức Phật
Tế độ vũng non thuyền
Nơi nơi đều thờ phụng
Người tu hành siêng năng
Đến nay vua nước Việt
Truyền giữ càng ân cần
Hướng về núi Long Đội
Nguyện theo ý tiền nhân
Xây điện tháp hùng vĩ
Vượt mây cao mấy tầng
Đỉnh tháp đặt xá lị
Mong điềm sinh thánh quân
Hào quang toả phép lạ
Sông núi vẻ thanh tân
Mây giáng cùng hoà hợp
Cách biệt cõi hồng trần
Đức vua ban tên hiệu
Tháp Sùng Thiện Diên Linh
Cầu mong dài tuổi thọ
Được tháng tốt ngày lành
Cùng hợp nhau khánh chúc
Quả phúc đã viên thành
Khắp thiên cung rộng lớn
Khắp âm giới dương gian
Quốc vương cả bốn hướng
Cùng kéo về rộn ràng
Tranh hùng xưng danh tướng
Mang năm lớp hòm vàng
Xe rồng êm chuyển bánh
Tháp báu đặt nghiêm trang
Từ đó và mãi mãi
Năm tháng tỏ đèn nhang
Viếng chùa xe tấp nập
Như mây tụ non xanh
Quyết giữ lòng trong sạch
Bước tiếp lên đài cao
Rì rầm kinh tụng niệm
Người, trời hào vẻ thanh
Trống chiêng khua gióng rỏi
Hương trầm khói toả quanh
Gấm vóc khoe xuân sắc
Phúc lành khắp chúng sinh
Gồng cùm và tù ngục
Phá bỏ đời thanh bình
Tôi được giao chép việc
Tài mọn thêm thẹn thùng
Ba đông học chưa trọn
Mà ơn vua vô cùng
Xin mở tung của ngõ
Cho bốn biển hoà chung
Ngợi ca đức năm thánh
Dài lâu cùng núi sông.
Dựng bia ngày 6 tháng 7năm Tân Sửu, niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ hai (20-8-1121)
Nguyễn Công Bật giữ chức Triều liệt, Hình bộ thượng thư, Binh bộ viên ngoại lang Đồng chi phiên công viện chính sự vâng sắc chỉ soạn văn bia.
Lý Bảo Cung giữ chức hữu thị lang, Thượng thư công bộ, Viên ngoại lang đồng chi thẩm hình viện sự, thượng kinh xa uý, tử kim ngư vâng sắc chỉ viết chữ bài văn bia.
Ở mặt sau của tấm bia Sùng Thiện Diên Linh có khắc một bài thơ của Lê Thánh Tông và hai đoạn văn, 1 đoạn ghi việc Thái hậu Phù Thánh Linh Nhân (tức Ỷ Lan) cúng ruộng, 1 đoạn ghi việc trùng tu và dựng lại chùa dưới thời nhà Mạc. Toàn văn như sau:
1. Đoạn 1:
Phiên âm:
Hoàng Việt Lý triều đệ tứ hoàng tỷ Phù Thánh Linh Nhân Thái hậu cung điền tại Thượng Hồng phủ, Cẩm Giàng huyện, Cẩm Trục, Thu Lãng nhị xã, Mạn-để xứ khu nhất, tương liên thất thập nhị mẫu, đông cận Đường Tiên, tây cận Đường bạn, nam cận dân điền, bắc cận Phan Côn, dĩ di hương đăng, vĩnh vi vạn đại. Nhị bản xã lục đình thập phương đẳng. Nhược hậu hữu hà nhân thủ tam bảo điền dĩvi sinh lệ tư sự. Nguyện hoàng thiên thập bátlong thần tâu chi, diệt chi. Kì giá điền cung nhập tam bảo dĩ hữu khả khất phụng đắc miễn tô thuế.
Thiên Phù Duệ Vũ nhị niên, Tân Sửu thất nguyệt sơ lục nhật.
Dịch nghĩa:
Thân sinh ra vua thứ tư triều Lý của nước Hoàng Việt là thái hậu Phù Thánh Linh Nhân cúng một khu ruộng ở khu Mạn thuộc hai xã Cẩm Trục và Thu Lãng huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng gồm 72 mẫu liền nhau. Phía đông giáp Đường Tiên, phía Tây giáp Đường Bạn, phía nam giáp ruộng của dân, phía Bắc giáp Phan Côn, để làm ruộng đền nhang lưu mãi muôn đời. Sau này nếu kẻ nào trong hai xã 6 thôn hoặc người tứ xứ chiếm ruộng tam bảo làm của riêng thì xin hoàng thiên và thập bát long thần tru diệt. Những ruộng này đem cúng vào của Tam bảo đã có tờ khai xin được miễn tô thuế.
Ngày 6 tháng 7 năm Tân Sửu niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ hai (tức ngày 28/8/1121)
Đoạn 2:
Phiên âm:
Hoàng Việt Mạc triều đệ ngũ đế, Hoàng trụ tứ niên, Tân Mão, ngũ nguyệt đoan dương tiết, cai Duy Tân huyện bộ chỉ huy Vân Quảng Bá, đồng ty quan Phú triều bá, cai quan lam cầu bá, cập Đội Sơn nhất nhị tam giáp, Đội Trung, Đội Lĩnh. Trung tín đẳng xã cộng thụ đảo bi, giá đồi lương, bổ khuyết tượng, sáng môn, xế tường, kinh ngũ bách niên dư chi tùng lâm thắng cảnh nghiễm nhiên tái nhất tân hĩ.
Dịch nghĩa:
Ngày mồng 5 tháng 5 năm Tân Mão, niên hiệu Hưng Trị thứ 4 đời vua thứ 5 triều Mạc (tức ngày 25/6/1591) cai huyện bộ chỉ huy huyện Duy Tân là Vân Quảng Bá cùng với ty quan là Phú Triều Bá, cai quan Lam Cầu Bá và giáp nhất, giáp nhì, giáp ba xã Đội Sơn, Đội Trung, Đội Lĩnh, Trung Tín cùng góp sức dựng lại bia đổ, bắc lại xà nhà và những chõ tượng hư hỏng, làm cửa xây tường, khiến cho hơn 500 năm sau một nơi thắng cảnh trong chốn tùng lâm lại được mới mẻ. Do đó mà ghi lại.
Đoạn 3.
Phiên âm:
Dư bái yết sơn lăng, lộ kinh sơn tả, toại đăng lãm yên, tiếu lí triều sự đản chi quân thần, ta quốc bộ tằng kinh ư binh tiễn, lưu nhất luật vu hữu. Âm văn:
Thiên nhận tằng loan cổ hoá thành
Phan duyên thạch đắng khấu thiền huynh
Lý triều quái đản bi không tại
Minh tậc hung tàn tự dĩ canh
Lộ thiểu nhân tông đài giấp lục
Sơn đa xuân vũ hiển ngân thanh
Đăng cao nhãn giới vô cùng trứ
Vạn lý mang mang bảo thụ bình.
Thiên Nam động chủ lưu đề, Quang Thuận bát niên, trấn điện tướng quân, thần Lê Văn phụng tả.
Dịch nghĩa:
Ta đi bái yết sơn lăng, đường qua bên tả núi này, bèn lên chơi chùa. Cười vua tôi nhà Lý tôn sùng điều quái đản, thương đất nước trải nhiều phen binh lửa. Nên có đề một bài thơ dưới đây:
Thành hoá chon von núi một đây
Leo qua đèo đá viếng am mây
Chuyện kì vua Lý bia trơ đó
Tội ác giặc Minh vết phá đây
Đường vắng chân người rêu biếc phủ
Xuân nhiều mưa núi ngấn xanh dầy
Lên cao tầm mắt nhìn bao quát
Muôn dặm mênh mông cỏ lẫn cây.
Thiên Nam động chủ lưu đề, năm Quang Thuận thứ 8 ( 1476) kẻ bề tôi là Lê Văn giữ chức trấn điện tướng quân vâng mệnh viết chữ.
Văn bia 2:
LONG ĐỌI SƠN TỰ BI KÍ
Cái văn: Long sơn tự, duy tiên hạt nhất danh lam dã, ngô tăng môn nhất tông nhân dã. Sơn dĩ tự danh tự dĩ sơn thắng. Lý triều sáng tạo, phạn vũ hữư bi. Lê hoàng du lãm ngự Minh hữu thi bất dĩ minh nhi dẫn, bất dĩ Mạc nhi hưng. Sơn vô suy di, tự hữu linh hiển, gia chi phật giáo phổ lưu nhật thịnh, nhân tâm hướng mộ nhạt đốc. Số thiên niên lai, hưng, phế, cự thuỵ chi đại thiệu nhân đại phúc quả, đại đại hữu nhân. Tiền giả ngô sơn môn lịch thế sắc tứ hoà thượng chí đệ lục tổ. Nhất phiên tụ tập phạn lang la liệt sở đắc sơn tàng chi đồng khải, đồng cổ, kim hiện trữ tại Hà thành Bác Cổ trường, đại ngô thất thế bát thế tăng tổ tuỳ khuyết, tuỳ bổ tự xá như cố. Nhiên nhi quốc gia công nhận chi cổ tích tắc vi dã. Niên tích nguyệt cửu, vận hoán tinh di, tự vũ hủ lâu, Phật tượng triết huỷ, đồng xá, hành lang, tăng đường, chung lâu nhất đai đồi hoại. Thiên toạ chủ Vũ Phúc Hựu trù kế trùng tu công phí thâm cựu, viên hiệp lục đình kì lí trung ngôn vu bản huyện Tiên Xá xã sắc thụ chánh bát phẩm xung Bắc Kì nghị viên dinh công viết tính. Y công thị nhất huyện danh hao diệc thiểm cựu thức giã. Công nghị nhiên chủ kì sự, thân hướng tỉnh toà trần thuyết Thừa sứ hiến Pha Lỗ li biệt hiệu Tất La nghĩa đại nhân, thanh tư chính phủ phái Bác Cổ quan triệu hồi xét nghiệm. Linh triều thần bi, kim cương thạch tượng dữ bác cổ sở di trước kí vi cổ tích mông quốc gia lượng cấp khố ngân ngũ bách nguyên quan chuẩn pháp hành khuyến thập phương chư quân tử thử xuất lương hằng tập dịch thành cừu tu lưu vi hải, trình công kế sư tức nhật trùng doanh. Dĩ Hoàng Khải Định canh thân bát nguyệt nhật khởi công chí giáp tí niên tam nguyệt nhật công thoan. Khánh thành nhật tỉnh hiến Tây Nam quan lợi đại nhân giá hội quán nhân tấu tập, thiện tín hành hương, thiên hoa trú hạ pháp vũ phổ triệm, uông uông hồ thế giới chi tự tại thiên, hạo hạo hồ trần trung chi cực lạc quốc. Cổ minh vân: Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh, thuỷ bất tại sâu hữu long tắc linh, tư sơn nhi hữu tư tự kì bất vị chi sơn chi tiên thuỷ chi long hồ. Cửu Long hiến trạng, cửu tỉnh minh thoan cổ trung giác mộng, kinh kê điểm ngoan, giang sơn danh thắng chi khu, ba la tế độ chi phúc, khi kim nhi hậu vĩnh liệt ư á Đông chi bác kì kì linh tích quang đại nhi hà ư? Đăng tư sơn giả lãm cổ tự , thiên nhiên chi đại cảnh trí, tụng quốc gia chi ân cấp chi đại công đức tự đương kí nghị viên Đinh công chi nhất thiện tâm, hoa nhất thiện từ kim trường dữ Long Sơn thạch tịnh truyền yên. Hữu năng kế chi thuật chi thị, thiểm sở hậu vọng dã, thị kí.
Toạ chủ Vũ Phúc Hựu cẩn chí.
Bảo Đại tam niên lục nguyệt sơ thập nhật lập bi.
Dịch nghĩa:
BÀI BIA KÍ CHÙA NÚI LONG ĐỌI
Từng nghe: Chùa núi Long Đọi là một danh lam của hạt Duy Tiên, sư trụ trì cũng là những người có tông phái. Núi lấy tên chùa, chùa lấy vẻ đẹp của núi. Triều Lý xây dựng, trong chùa còn có bia ghi lại. Vua Lê tới thăm có làm bài minh bằng thơ. Chùa không vì giặc Minh mà bị phá huỷ, không vì nhà Mạc mà hưng thịnh. Núi không thay đổi, chùa luôn hiển linh, thêm vào Phật giáo mỗi ngày một phổ biến thịnh vượng, nhân dân hướng mộ mỗi ngày một nhiều. Mấy ngàn năm nay chùa có lúc hưng, lúc phế nhưng đời nào cũng có người làm việc đại thiện nhân đại phúc quả. Trước đây chùa ta, trải các triều, sắc ban cho hoà thượng tới tổ đời thứ 6. Một lần tu bổ rộng khắp trong chùa dẫ phát hiện ra dưới lòng núi có trống đồng ….nay hiện để ở tại trường Bác Cổ ở Hà Nội. Tăng tổ đời thứ 7 thứ 8 lại tiếp tục tu bổ những nơi hỏng hóc. Chùa chiền lại như cũ. Tuy nhiên nhà nước vẫn chưa công nhận đây là một cổ tích. Năm tháng lâu ngày, vật đổi sao dời, chùa bị dột nát, mối mọt, tượng Phật bị gẫy nát. Các nơi nhà động hành lang, tăng đường gác chuông đều bị hư hại. Toạ chủ là Nguyễn Phúc Hựu trù tính việc trùng tu, phí tổn rất lớn, bèn bàn với các vị kì hào lí dịch trong lục đình tới xin ý kiến ông họ Đinh tên là Tính người xã Tiên Xá trong huyện, sắc thụ là Chánh bát phẩm, là một nghị viên Bắc Kì. Ông này là một vị hào kiệt có tiếng ở huyện, toạ chủ vốn là người quuen biết. Ông bèn nhất trí chủ trì công việc, tự mình xuống dưới tỉnh trình bày với quan thừa sứ hiến Ba Lỗ Li biệt hiệu là Tất La Nghĩa đại nhân. Thanh tư chính phủ phái quan ở trường Bác Cổ triệu hồi xét nghiệm tất cả các thứ như bia, tượng kim cương và những vật lưu giữu tại trường Bác Cổ đều cho thấy đây là một cổ tích. Thế là được nhà nước cấp cho số tiền là 500 đồng , chuẩn cho tiến hành quyên góp các bậc quân tử thập phương có hằng tâm hằng sản tụ ít thành nhiều. Sau đó trình bày kế hoạch công việc tiến hành trùng tu. Khởi công từ tháng 8 năm Canh Thân niên hiệu Khải Định tới tháng 3 năm Giáp Tý thì hoàn thành. Ngày khánh thành quan tỉnh là Tây nam quan lợi đại nhân cũng về dự hội, mọi người tụ hội đông vui, họ thắp hương dâng hoa, đúng như một thế giới mênh mông, một quốc gia cực lạc vậy. Người xưa nói: Núi không cao có tiên tất nổi tiếng, sông không sâu có rồng tất linh thiêng. Núi này có chùa há chẳng phải có tiên trên núi, rồng dưới sông sao? Chín rồng khoe vẻ, chín giếng khoe thanh, trống chuông tỉnh mộng, kinh kệ bớt ngu, rõ ràng đây là nơi danh thắng núi sông rộng mở phúc tế độ mà nay và mai sau mãi mãi là nơi có tiếng của Á Đông. Linh tích này rạng rỡ vĩ đại là vì sao? Vì ngôi chùa cổ trên núi là một đại cảnh trí của tự nhiên. Vì quốc gia rất quan tâm ban phát tiền của, vì ông nghị viên họ Đinh có tấm lòng thiện. Cho nên tôi viết thiên từ này để truyền lại dài lâu với đá núi Long Đọi với hi vọng có thể kế tiếp, thuật lại cho đời sau. Bởi vậy làm bài kí.
Toạ chủ Vũ Phúc Hựu kính cẩn ghi lại.
Lập bia ngày 10 tháng 6 niên hiệu Bảo Đại thứ 3.
Phụ lục 4.
DANH SÁCH NHỮNG ĐỜI SƯ TRỤ TRÌ CHÙA ĐỌI.
TT
Pháp danh
(họ tên)
Năm sinh
Năm mất
Năm
trụ trì
Quê quán
Ngày giỗ
1
Đàm Cứu Chỉ
995
1067
1054
Tiên Du-
Bắc Ninh
2
Thích Hải Triều
1521
1591
15-7
3
Thích Tịch Khoan
1658
1613
Đọi Sơn –
Duy Tiên
Hà Nam
14-11
4
Thích Chiếu Tính
1629
Đọi Sơn-
Duy Tiên
Hà Nam
22-3
5
Thích Chấn Đức
1646
Tiên Lữ
Khoái Châu Hưng Yên
22-5
6
Thích Chiếu Thường
1765
1840
Đọi Sơn
Duy Tiên
Hà Nam
21-3
7
Thích Thanh Tùng
(Tạ Thanh Tùng)
Đọi Sơn
Duy Tiên
Hà Nam
22-8
8
Thích Bảo Thụ
(Trần Bảo Thụ)
Mỹ Lộc
Nam Định
15-10
9
Thích Thông Quyền
(Trần Thông Quyền)
1908
1839
Phù Tiên
Hưng Yên
25-10
10
Thích Quảng Chí
(Vũ Phúc Hựu)
1858
1929
Thường Tín
Hà Tây
8-9
11
Thích Tịnh Đức
(Lê Thông Trà)
1945
Châu Giang
Duy Tiên
Hà Nam
4-1
12
Thích Thanh Quảng
1924
1932-1947
Hưng hà
Thái Bình
13
Thích Thanh Bột
1902
1973
1957
Điệp Sơn
Duy Tiên
Hà Nam
22-8
14
Thích Liên Huê
1921
1989
1957
Đọi Sơn
Duy Tiên
Hà Nam
5-11
15
Thích Đàm Thử
1907
1997
1957
Hưng Hà
Thái Bình
14-11
16
Thích Thanh Vũ
1959
1989
Hoà Hậu
Lý Nhân
Hà Nam
Phụ lục 5:
THƠ VỀ CHÙA ĐỌI.
Thế đất Cửu Long.
Đầu gối núi Đọi
Chân dọi Tuần Vường
Phát tích đế vương
Lưu truyền vạn đại.
( khuyết danh)
Chùa Long Đọi
Giữa cánh đồng băng một trái non
Kìa chùa long Đọi đứng chon von
Công trình kiến trúc khen ai khéo
Phong cảnh xưa nay dậy tiếng đồn.
( khuyết danh)
Tiếng chuông chùa Đọi.
…Vẳng tự chùa xa tới
Tiếng thưa lọt núi bồng
Triều dâng trời đất dạng
Trăng bạc sáng mênh mông.
( Nguyễn Phi Khanh)
Núi Long Đọi.
Chùa núi từ xa đã tới nơi
Dứng nhìn muôn dặm nước non phơi
Lý triều bia tạc lời hoang đản
Chiếu Miếu bình thơ bút thảnh thơi
Rồng cuộn khúc thiêng nằm vực thẳm
Chim bay mỏi cánh ngậm ngang trời
Bao la vũ trụ trời dầm nước
Vời vợi trong lòng nghĩ mãi thôi.
( Nguyễn Bảo)
Đề bia chùa Đọi.
Thành hoá chon von núi một đây
Leo qua đèo đá viếng am mây
Chuyện kì vua Lý bia còn đó
Tội ác giặc Minh vết phá đây
Đường vắng chân người rêu biếc phủ
Xuân nhiều mưa núi ngấn xanh dầy
Lên cao tầm mắt nhìn bao quát
Muôn dặm cây xanh một dải mờ.
( Lê Thánh Tông)
Lên núi Long Đọi đề thơ vào vách chùa
Quấn quýt bầy rồng dáng lượn bay
Vẻ non vẫn biếc muôn đời nay
Bia ghi triều Lý riêu phong kín
Làn nước mênh mang một chòm nổi
Dòng sông uốn lượn ba bề vây
Phòng sư thấp thoáng trong vòm trúc
Phủi đá sườn non ngủ gốc cây.
( Bùi Dị)
Thăm chùa Đọi
Đồng bằng mọc núi lạ lùng thay
Lầu gác lô nhô bóng xế tây
Mười dặm đường dài còn vẻ biếc
Lưng trời chim mỏi trở chiều bay
Cây bồng xóm mạc xa xa thấy
Mắt loá phong trần bước bước ngay
Cái thú trên non chừng vẫn có
Bên mây đủng đỉnh một sư thầy.
( Nguyễn Khuyến)
8. Nhớ cảnh chùa Đọi.
Già yếu xa xôi bấy đến nay
Làng chơi loang loáng lại buồn thay!
Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá
Sư cụ nằm chung với khói mây.
Dặm thế ngõ đâu tầng trúc ấy,
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?
Chuông chưa vẳng tiếng người không biết,
Trâu thả sườn non ngủ gốc cây.
( Nguyễn Khuyến)
9. Lên chùa Đọi nhớ người xưa.
Sừng sững non cao giữa cánh đồng
Xanh xanh nước biếc dưới ngàn thông
Đọi Sơn dựng tháp Diên Linh tự
Bia đá đề thơ Lê Thánh Tông
Vua Lý xây chùa cầu việc thiện
Đại Hành cày ruộng khuyến nghề nông
Phi Khanh thổn thức hồn non nước
Nguyễn Khuyến ngâm nga giãi tấc lòng.
(Nguyễn Lương)
10. Hỏi thăm núi Đọi.
Hỏi thăm núi Đọi ở nơi nao
Rằng phúc, rằng duyên dạo gót vào
Ngọn tháp Diên Linh xinh đẹp nhỉ
Nét bia Phạn tự lạ kì sao
Sông Châu núi Đọi còn ghi ấn
Nhà Lý rừng công cũng lớn lao
Mới biết có người nên có cảnh
Tháp cổ ngàn năm núi lại cao.
( Hoà thượng Thích Đức Nghiễm- Nam Định).
11: Cảnh chùa Đọi
Lúc hội rồng mây lúc vắng teo
Âm u một khoảnh tít trên đèo
Dấu thơm lừng lẫy tranh khôn vẽ
Hương ngát uy nghi tiếng mãi reo
Sườn núi rừng thanh cây chen chúc
Giữa lòng bể thích nước trong veo
Bồng hồ lãng uyển đây chăng tá?
Du khách ngỡ ngàng cuốn gió theo.
( Lê Phương)
12. Phong cảnh núi Đọi.
Phong cảnh trông xa nhỏ tí teo
Tới nơi bát ngát mộit phương đèo
Chuông vàng trên gác chiều vang vọng
Đá trắng sương non riêu mốc meo
Trên núi linh cầm thông bát ngát
Dưới sông ngư phủ gió vì vèo
Bốn phương nô nức đâu là chẳng
Một bước cao trông một bước trèo.
( Bùi Văn Di)
Phụ lục 6:
CÁC LỄ HỘI TIÊU BIỂU Ở HÀ NAM.
Ngoài lễ hội chùa Đọi thì Hà Nam còn có các lễ hội tiêu biểu sau.
1. Hội vật võ Liễu Đôi.
Hội vật võ Liễu Đôi được tổ chức vào mồng 5 đến mồng 10 tháng Giêng hàng năm tại làng Liễu Đôi xã Thanh Trúc huyện Thanh Liêm, Hà Nam. Hội này mở ra để tưởng nhớ ông tướng họ Đoàn-một vị tướng tài ba dũng cảm chống giặc, người đã tổ chức huấn luyện môn võ-vật cho nhân dân nơi đây có sức khoẻ để bảo vệ tổ quốc. Sau khi ông mất người dân nơi đây đã lập đền thờ ông tại khu vực cánh đồng thôn Tháp (xã Liễu Đôi trước đây) gọi là đền ông Thánh Tiên và mở hội thi vật để tưởng nhớ công ơn của ông.
Hội này 2 năm tổ chức một lần.Vào ngày chính hội ở đây diễn ra nghi lễ rước bát hương từ đền ông thánh Tiên ra sới vật (thuộc thôn Tháp) sau đó mới tổ chức lễ Vật.
Nét độc đáo của lễ vật này nằm ở phần nghi lễ. Để tổ chức lễ vật này người ta chọn 2 bé trai sinh cuối cùng trong năm đó, 1 của làng Tháp và 1 của làng Đống Cầu (quê vợ ông Thánh Tiên) vào hầu Thánh 5 keo và không được thua. Nếu em trai nào không vật được thì có thể nhờ người trong nhà: anh trai, bố, ông …. Nghi thức này gọi là vật giai rốt (em trai cuối cùng).
Sau màn hầu Thánh đó mới đến 5 keo vật của trẻ em tiếp đó mới đến 5 keo vật của người lớn. Có tục lệ này là vì ông họ Đoàn đã tổ chức huấn luyện vật cho trẻ em trước mới đến người lớn. Những năm không phải lễ chính người ta vẫn tổ chức 5 keo vật của trẻ em trước đền ông Thánh Tiên.
Để khích lệ tinh thần thượng võ của nhân dân làng còn trao giải cho cả những người thua cuộc và những người nhiệt tình tham gia trong ngày hội.
2 .Lễ hội đền Trần Thương.
Đền Trần Thương nằm ở thôn Trần Thương xã Đạo Lí huyện Lí Nhân. Hà Nam. Đây là ngôi đền thờ Trần Hưng Đạo và song thân của Ngài được xây dựng trên nền của kho lương thực cũ nhà Trần (Trần Thương).
Đền Trần Thương là một ngôi đền lớn không chỉ là của người dân Hà Nam mà so với các nơi thờ tự Ngài ở các nơi khác. Lễ hội đền Trần Thương được tổ chức từ ngày 20-23/8 âm lịch nhưng do nhân dân về đây lễ đông nên thường phải tổ chức trong 5 ngày. Lễ hội ở đây phần lễ diễn ra rất long trọng và chủ yếu. Trong lễ hội nhiều trò chơi được tổ chức trong đó trận thi đấu cờ tướng. Người chủ lễ cáo yết Đức Thánh Trần sau đó rước bàn cờ từ hậu cung ra hương án vái 3 vái. Sau đó cuộc chơi bắt đầu. Hai đối thủ mang y phục truyền thống của các tướng lĩnh nhà Trần mang thanh đao vào cuộc. Sau một tuần hương ai thắng người đó đoạt giải. Tàn cuộc, quân và bàn cờ được rửa bằng nước giếng của đền rồi đặt lên hương án.
Đây là một lễ hội nhằm tưởng nhớ công lao của vị anh hùng Trần Hưng Đạo và những trò chơi trong hội nhằm tái hiện lại sự mưu trí và tài thao lược của tướng lĩnh nhà Trần và nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên xưa.
3. Lễ hội đền Trúc.
Đền Trúc là ngôi đền thờ Lý Thường Kịêt nằm ở thôn Quyển Sơn xã Thi Sơn huyện Kim Bảng, Hà Nam. Lễ hội đền Trúc được tổ chức từ ngày mồng 1-10/2 âm lịch trong không gian từ đình Trung tới đền Trúc, chùa Thi và vùng ven núi Cấm. Trong lễ hội nghi thức ở đây diễn ra rất độc đáo mang đậm phong cách lễ hội truyền thống. Độc đáo nhất trong lễ hội này là múa hát dậm Quyển Sơn và hội đua thuyền.
Múa hát dậm ở đây tương truyền do Lý Thường Kiệt dạy cho nhân dân nơi đây sau khi ông thắng trận trở về. Hát dậm được tổ chức trong 10 ngày lễ hội. Múa hát dậm là một phường gồm từ 30 người trở lên. Đó là những cô gái xinh đẹp có tài múa hát độ tuổi từ 13-15 và đứng đầu là cụ trùm chỉ đạo múa hát. Múa hát Dậm có bài bản mang tên: Lý Đại Vương bình Chiêm sự tích diễn ca, gồm hơn 30 tiết mục múa với trên 1000 câu thơ. Đây là lối múa dậm kết hợp với hát mô phỏng lại động tác chèo thuyền khi đưa quân Lý Thường Kiệt qua sông Đáy. Ngoài ra tại đây còn có hát bỏ bộ, hát đúm dành cho nam nữ thanh niên còn son.
Hội đua thuyền tổ chức vào mồng 6-2 chỉ dành cho nam giới. Thường thì mỗi năm có 3 đội thi mặc trang phục 3 màu khác nhau. Đường đua dài gần 3km bắt đầu từ đền Trúc tới chân cầu Quế và ngược lại. Mỗi thuyền đua gồm 18 người. Cuộc đua thuyền trên sông Đáy mang nhiều tầng lớp ý nghĩa. Đó là một nghi lễ tưởng niệm cuộc hành quân của Lý Thường Kiệt và sâu hơn nữa là tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp lúa nước cầu mong mưa thuân gió hoà mùa màng tươi tốt.
Lễ hội đền Trúc là một lễ hội độc đáo tiêu biểu của Hà Nam.
4. Lễ hội đền Lảnh Giang.
Đền Lảnh Giang nằm trong địa phận thôn Yên Lạc xã Mộc Nam hyện Duy Tiên, Hà Nam. Theo thần phả thì đây là một ngôi đền thờ 3 vị danh thần thời Hùng Vương đã có công giúp vua Hùng đánh giặc và Chử Đồng Tử cùng Tiên Dung công chúa.
Tương truyền 3 vị danh thần đó thác sinh ban đầu là 3 con rắn được sinh ở nơi đây. Sau khi giúp vua Hùng đánh giặc xong 3 ông về đây dựng ấp lập làng. Ông mất ngày 25/8. Nhớ ơn đó nhân dân trong vùng lập đền thờ ông.
Ngoài ra trong khuôn viên của đền còn thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa là những vị nhân thần với mối tình đẹp trong nhân gian.
Hàng năm tại dền Lảnh Giang tổ chức hai kì lễ hội vào ngày 18-25/6 và 20-25/8 âm lịch với đông đảo nhân dân khắp nơi về đây cúng lễ. Mặc dù đây đang là mùa nước nhưng rất nhiều người đã bơi thuyền ra tế để tỏ lòng tôn kính tam vị danh thần và vợ chồng Tiên Dung công chúa đồng thời cầu mong các bậc thánh thần phù hộ. Lễ hội ở đây diễn ra rất phong phú và đa dạng chủ yếu là phần lễ là chính. Đây là một lẽ hội thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn của nhân dân ta nhưng rõ nhất vẫn là những hoạt động nghi lễ của tín ngưỡng thờ thần nước của nhân dân vùng lụt này. Hiện nay đền Lảnh Giang người dân mọi nơi đổ về đây lễ quanh năm không cứ gì là ngày hội.
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2843.DOC