MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt, hoạt động kiểm toán đặc biệt là kiểm toán độc lập đã trở thành một nhu cầu tất yếu đối với hoạt động kinh doanh, đối với những người quan tâm như chủ đầu tư, các nhà quản lý, nhà cung cấp, người lao động… và nâng cao chất lượng quản lý doanh nghiệp.
Sự gia tăng về số lượng các công ty kiểm toán cũng như số lượng các dịch vụ cung cấp càng thể hiện tác dụng thiết thực cảu kiểm toán độc lập. Quan trọng hơn, nó đã khẳng định rằ
32 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1988 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Tìm hiểu về hoạt động kiểm toán độc lập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng kiểm toán là hoạt động tịch cực, đảm bảo cho luật lệ, chuẩn mực tài chính kế toán được thực hiện nghiêm chỉnh, số liệu kế toán trung thực và hợp lý. Điều này không chỉ cần thiết cho các chủ doanh nghiệp, cho các cơ quan quản lý Nhà nước mà còn cần thiết cho rất nhiều đối tượng quan tâm khác.
Ở Việt Nam, ngay từ khi bước sang nền kinh tế thị trường đã xuất hiện một nhu cầu tất yếu phải hình thành hoạt động kiểm toán độc lập. Sự ra đời của Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) và Công ty Dịch vụ Tư vấn tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) ngày 13-5-1991 (do Bộ Tài chính thành lập) đã đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên của dịch vụ kiểm toán độc lập tại Việt Nam. Đến nay, Việt Nam đã có 123 công ty kiểm toán cung cấp rất nhiều các dịch vụ trên cả nước như kiểm toán, thuế, tư vấn tài chính, kế toán.
Hoạt động kiểm toán mới chỉ ra đời ở Việt Nam hơn 17 năm nay, do vậy hoạt động này vẫn còn mới mẻ đối với một số tầng lớp xã hội. Để giúp mọi người hiểu thêm về kiểm toán độc lập, em đã quyết định chọn đề tài: “Tìm hiểu về hoạt động kiểm toán độc lập” để làm đề án nghiên cứu. Nội dung đề án của em bao gồm:
Phần I. Lý luận chung về kiểm toán độc lập.
Phần II. Đôi nét về kiểm toán độc lập trên thế giới và thực trạng tại Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của cô giáo TS.Đoàn Thanh Nga đã giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu đề án này. Tuy nhiên do điều kiện thời gian và nhận thức còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong được tiếp thu những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo để em có điều kiện hoàn thiện và nâng cao kiến thức của mình.
Sinh viên thực hiện:
Lê Mạnh Ninh
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán – Trường Đại học Kinh tế quốc dân, 2005.
Auditing- An intergrated approach- Alvin A.Arens, James K.Loebbecke, 1988.
Các website:
www.tapchiketoan.com
www.vneconomy.vn
www.aicpa.org
www.ifac.org
www.kpmg.com
www.pwc.com
www.deloitte.com
www.ey.com
www.en.wikipedia.org
www.kiemtoan.com.vn
…
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP.
1. Kiểm toán độc lập trong hệ thống kiểm toán.
1.1. Bản chất của kiểm toán độc lập.
Kiểm toán độc lập trước hết là một loại hình kiểm toán, xuất hiện do nhu cầu của xã hội. Chính vì vậy, khi chúng ta xem xét bản chất của hoạt động kiểm toán độc lập, chúng ta cần xem xét đến bản chất của hoạt động kiểm toán dưới các cách tiếp cận khác nhau.
Hoạt động kiểm toán nói chung và hoạt động kiểm toán độc lập nói chung trên thế giới chỉ thực sự bùng phát trong thời gian khoảng gần một thế kỷ trở lại đây. Tuy nhiên cũng đã tồn tại nhiều cách tiếp cận khác nhau về kiểm toán. Dưới đây ta sẽ viện dẫn một số định nghĩa về kiểm toán được sử dụng phổ biến hiện nay trên thế giới.
Theo định nghĩa của Liên đoàn quốc tế các nhà kế toán (International Federation of Accountants –IFAC) thì “ Kiểm toán là việc các kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về các bản báo cáo tài chính.”
Trong giáo trình kiểm toán của các tác giả Alvin A.Rens và James K.Loebbecker đã định nghĩa: “ Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập.”
Định nghĩa khác nêu: “Kiểm toán là thủ pháp xem xét và kiểm tra một cách khách quan về từng khoản mục bao gồm việc thẩm tra những thông tin đặc trưng được xác định bởi kiểm toán viên hoặc thiết lập bởi thực hành chung. Nói tổng quát, mục đích của kiểm toán là trình bày ý kiến hoặc đi đến kết luận về cái được kiểm toán”.(trích từ Auditing - Theory & Practice của John Dunn, University of Strathclyde, Glasgow nhà xuất bản Prentice Hall).
Còn theo Nghị định 105/2004/NĐ-CP của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về Kiểm toán độc lập, kiểm toán độc lập được hiểu là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán về tính trung thực và hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, tổ chức (gọi chung là đơn vị được kiểm toán) khi có yêu cầu của các đơn vị này.
Dựa trên các khái niệm về kiểm toán như trên, ta có thể rút ra một khái niệm nêu bật bản chất của kiểm toán độc lập như sau: “Kiểm toán độc lập được hiểu là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các kiểm toán viên độc lập có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực.
1.2. Mục đích của Kiểm toán độc lập.
Trong nền kinh tế thị trường, các báo cáo tài chính hàng năm do các doanh nghiệp lập ra là đối tượng quan tâm của nhiều người. Chủ doanh nghiệp, các cổ đông, các thành viên hội đồng quản trị, ngân hàng và các chủ đầu tư, nhà cung cấp, khách hàng, các đối tác liên doanh… Tuy mỗi đối tượng quan tâm đến báo cáo tài chính của doanh nghiệp ở một giác độ khác nhau, nhưng đều có mong muốn, nguyện vọng chung là sử dụng các thông tin có độ tin cậy cao, chính xác và trung thực. Do vậy cần phải có một bên thứ ba độc lập, khách quan, có kỹ năng nghề nghiệp, địa vị và trách nhiệm pháp lý kiểm tra và đưa ra kết luận là các báo cáo tài chính của doanh n ghiệp lập ra có hợp thức không, có trung thực và hợp lý hay không. Đó chính là công việc của kiểm toán viên độc lập thuộc các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp. Các ý kiến nhận xét của kiểm toán viên về mức độ tin cậy của báo cáo tài chính được trình bày trong báo cáo kiểm toán.
Có thể thấy sự khác biệt về mục đích của Kiểm toán độc lập với Kiểm toán Nhà nước và Kiểm toán nội bộ thong qua việc nói một cách khái quát mục đích của hai loại hình kiểm toán này:
- Đối với KTNN: nhằm mục đích thông qua hoạt động của mình góp ý kiến với đơn vị để sửa chữa sai sót, vi phạm để chấn chỉnh công tác quản lý tài chính; đồng thời kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lý các vi phạm của đơn vị; Đề xuất với Chính phủ để sửa đổi, cải tiến cơ chế quản lý tài chính, kế toán khi cần thiết.
- Đối với Kiểm toán nội bộ: Tiếp cận với mọi thông tin, sát thực tế, có quyền từ chối trước khi hoạt động kinh tế xảy ra, hoặc có quyền báo cáo những phát giác của mình cho người đứng đầu doanh nghiệp nhằm hạn chế, ngăn ngừa một cách hữu hiệu những thiệt hại trước khi có thể xảy ra.
1.3. Phạm vi của Kiểm toán độc lập.
Để hình thành các ý kiến nhận xét về báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải có được những căn cứ vững chắc cũng như các thông tin cốt yếu trong việc ghi chép kế toán và các nguồn số liệu đáng tin cậy khác đã được dùng làm cơ sở cho việc xây dựng các báo cáo tài chính. hay nói cách khác, kiểm toán viên phải có đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp. Do vậy phạm vi kiểm toán sẽ là những công việc, thủ tục kiểm toán cần thiết mà kiểm toán viên xác định và thực hiện trong quá trình kiểm toán để thu thập đầy đủ các bằng chứng thích hợp cho ý kiến kiểm toán hay nói như chuẩn mực kiểm toán là để đạt được mục tiêu kiểm toán. Những công việc, thủ tục kiểm toán sẽ phụ thuộc vào nội dung kiểm toán, tuy nhiên những thủ tục kiểm toán này phải được xác định trên cơ sở chuẩn mực kiểm toán, phù hợp với yêu cầu của tổ chức nghề nghiệp, phù hợp với pháp luật và các thoả thuận trong hợp đồng kiểm toán. Các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp được thu thập thông qua các thủ nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản và bằng các phương pháp như kiểm tra, quan sát, điều tra, xác nhận, tính toán và qui trình phân tích. Việc thực hiện các phương pháp này một phần tuỳ thuộc vào thời gian thu thập các bằng chứng kiểm toán.
1.4. Khách thể của kiểm toán độc lập.
Khách thể của kiểm toán độc lập có thể chia ra làm hai loại: Loại bắt buộc phải có báo cáo tài chính được kiểm toán bởi các tổ chức kiểm toán độc lập và loại thứ hai là loại tự nguyện.
Ví dụ theo quy định của Việt Nam, báo cáo tài chính của các doanh nghiệp sau bắt buộc phải được doanh nghiệp kiểm toán kiểm toán:
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
- Tổ chức có hoạt động tín dụng, ngân hàng và Quỹ hỗ trợ phát triển;
- Tổ chức tài chính và doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm;
- Riêng đối với công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có tham gia niêm yết và kinh doanh trên thị trường chứng khoán thì việc bắt buộc thực hiện kiểm toán tùy theo quy định của pháp luật về kinh doanh chứng khoán; nếu vay vốn ngân hàng thì thực hiện kiểm toán theo quy định của pháp luật về tín dụng.
- Doanh nghiệp nhà nước;
- Báo cáo quyết toán vốn đầu tư xây dựng của các dự án thuộc nhóm A;
- Các đối tượng khác mà Luật, Pháp lệnh, Nghị định và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ có quy định.
Còn đối với trường hợp tự nguyện, Nhà nước khuyến khích tất cả các doanh nghiệp và tổ chức thuê doanh nghiệp kiểm toán thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm hoặc báo cáo quyết toán dự án đầu tư trước khi nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc trước khi công khai tài chính. Tuy nhiên các doanh nghiệp thường tự nguyện kiểm toán khi:
- Doanh nghiệp muốn làm ăn chính đáng, luôn đòi hỏi sự chính xác, trung thực, khách quan của số liệu;
- Khi sát nhập hoặc chia tách doanh nghiệp;
- Khi xảy ra sự cố, rủi ro lớn về kinh tế;
…
1.5. Chủ thể kiểm toán.
Công việc kiểm toán độc lập do kiểm toán viên độc lập thực hiện.
- Tiêu chuẩn kiểm toán viên.
Tuy có thể gọi tên khác nhau, nhưng nói chung IFAC và pháp luật của các nước thành viên đều quy định các yêu cầu cơ bản đối với kiểm toán viên là: có kỹ năng và khả năng nghề nghiệp, chính trực, khách quan, độc lập và tôn trọng bí mật.
Thứ nhất, kỹ năng và khả năng của kiểm toán viên.
Việc thực hiện kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán phải được tiến hành một cách thận trọng theo yêu cầu nghề nghiệp và phải do những chuyên gia được đào tạo tương xứng có trình độ về kiểm toán thực hiện.
Kiểm toán viên có nghĩa vụ duy trì kỹ năng và trình độ nghiệp vụ của mình trong suốt quá trình hành nghề. Yêu cầu về kỹ năng và khả năng nghề nghiệp còn lưu ý các kiểm toán viên chỉ làm phần việc mà bản thân hoặc hãng của mình đủ trình độ và khả năng hoàn thành công việc đó.
Thứ hai, đạo đức của kiểm toán viên.
Kiểm toán viên phải là người thằng thắn, trung thực, có lương tâm nghề nghiệp; phải là người công minh, chính trực và không được phép để cho sự định kiến thiên lệch làm lấn át tính khách quan, chính trực.
Kiểm toán viên phải điều chỉnh mình cho phù hợp với uy tín của ngành nghề, uy tín của bản thân và của hãng, phải tự kiềm chế những đức tính có thể phá vớ uy tín nghề nghiệp.
Thứ ba, tính độc lập của kiểm toán viên.
Khi hành nghề kiểm toán thì kiểm toán viên phải thể hiện tính độc lập của mình, không để cho các ảnh hưởng chủ quan, khách quan hoặc sự chi phối của vật chất làm mất đi tính độc lập. Trong quá trình kiểm toán, nếu có sự hạn chế về tính độc lập của kiểm toán viên thì kiểm toán viên phải tìm cách loại bỏ sự hạn chế này, nếu không hạn chế được thì kiểm toán viên phải diễn đạt điều này trong báo cáo kiểm toán.
Thứ tư, tính tôn trọng bí mật của kiểm toán viên.
Kiểm toán viên phải tôn trọng các bí mật của thông tin đã thu thập được trong quá trình kiểm toán, không được tiết lộ một thông tin kiểm toán nào cho người thứ ba khi không có ủy quyền đặc biệt hoặc trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm yêu cầu công bố.
Thứ năm, tính tôn trọng pháp luật.
Trong hoạt động nghề nghiệp, kiểm toán viên phải luôn tôn trọng và chấp hành đúng các chế độ, thể lệ nguyên tắc và luật pháp của Nhà nước và những nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán quốc tế, quốc gia.
Kiểm toán viên cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp của mình vànhững nhận xét, đánh giá của mình trong báo cáo kiểm toán.
Thứ sáu, các chuẩn mực nghiệp vụ.
Kiểm toán viên phải tiến hành công việc nghiệp vụ của mình theo những chuẩn mực nghiệp vụ chuyên ngành phù hợp với công việc đó.
- Trách nhiệm và quyền hạn của kiểm toán viên.
Thứ nhất, trách nhiệm của kiểm toán viên.
Kiểm toán viên có trách nhiệm:
Chấp hành các nguyên tắc hoạt động kiểm toán độc lập.
Trong quá trình thực hiện dịch vụ, kiểm toán viên không được can thiệp vào công việc của đơn vị đang được kiểm toán.
Ký báo cáo kiểm toán và chịu trách nhiệm về hoạt động nghề nghiệp của mình.
Từ chối làm kiểm toán cho khách hàng nếu xét thấy không đủ năng lực chuyên môn, không đủ điều kiện hoặc khách hàng vi phạm quy định của pháp luật có liên quan.
Thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp.
Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, quyền của kiểm toán viên.
Độc lập về chuyên môn nghiệp vụ.
Được thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính và các dịch vụ đảm bảo khác mà doanh nghiệp kiểm toán được phép cung cấp.
Yêu cầu đơn vị được kiểm toán cung cấp đầy đủ, kịp thời tài liệu kế toán và các tài liệu, thông tin khác có liên quan đến hợp đồng dịch vụ.
Kiểm tra, xác nhận các thông tin kinh tế, tài chính có liên quan đến đơn vị được kiểm toán ở trong và ngoài đơn vị. Đề nghị các đơn vị, cá nhân có thẩm quyền giám định về mặt chuyên môn hoặc làm tư vấn khi cần thiết.
2. Mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập
Bộ máy kiểm toán độc lập là tổ chức của các kiểm toán viên chuyên nghiệp kinh doanh dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác có liên quan. Là tổ chức kinh doanh, một đơn vị kiểm toán độc lập phải thực hiện các nghiễa vụ và quyền lợi như các tổ chức kinh doanh khác. Để thực hiện các loại dịch vụ này, các tổ chức kiểm toán độc lập có quan hệ với khách hàng tự nguyện hoặc bắt buộc theo quy định của pháp luật
Bộ máy kiểm toán độc lập có hai mô hình cơ bản là văn phòng kiểm toán tư và công ty kiểm toán.
2.1. Văn phòng kiểm toán tư
Văn phòng kiểm toán tư được hình thành bởi một hoặc nhiều kiểm toán viên độc lập để kinh doanh dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác có liên quan. Các văn phòng này được thành lập theo các quy định chung cho các văn phòng tư.
Chúng được tổ chức theo phương thức trực tuyến và loại hình tập trung. Ưu điểm có bản của loại hình này là phát huy tính năng động cao của bộ máy kiểm toán, rất thích ứng với nhu cầu cảu kiểm toán và tư vấn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như nhu cầu đại lý thuế cho nhà nước. Tuy vậy, nó cũng có nhược điểm đó là, ở mô hi nhf này, các văn phòng chỉ giới hạn các dịch vụ và sức cạnh tranh của mỗi tổ chức cũng hạn chế. Bên cạnh đó, sự hợp tác, bồi dưỡng kinh nghiệm nghiệp vụ giữa các kiểm toán viên cũng hạn chế.
2.2. Công ty kiểm toán.
Công ty kiểm toán (quy mô lớn) là tổ chức kiểm toán độc lập với số lượng lớn các kiểm toán viên độc lập. Đây là những công ty quốc gia hoặc quốc tế. Các công ty kiểm toán thực hiện nhiều loại dịch vụ trên địa bàn rộng lớn. Do đó chung được tổ chức theo loại hình phân tán và điều hành theo phương thức chức năng hoặc kết hợp. Do quy mô lớn phân tán và cơ cấu tổ chức phức tạp nên ccs công ty lớn đòi hỏi trình độ tổ chức phối hợp cao của các nhà quản lý, đòi hỏi khả năng chuyên môn cao và toàn diện của kiểm toán viên và lãnh đạo công ty, đòi hỏi đầu tư lớn và chuyên gia, kinh nghiệm, tiền vốn. Tuy nhiên cũng do vậy mà mỗi công ty đã hình thành và tồn tại luôn có tiềm năng lớn, đặng hoàn tất nhiều loại dịch vụ có quy mô lớn trong khoảng thời gian ngắn và có sức cạnh tranh lớn trên thị trường.
Công tác kiểm toán độc lập do các kiểm toán viên độc lập thực hiện. Theo thông lệ quốc tế cũng như quy định hiện hành của nước ta, các kiểm toán viên muốn hành nghề thì phải đăng ký và được chấp nhận vào làm việc tại một tổ chức kiểm toán được thành lập hợp pháp. Đó là các hãng, công ty hoặc văn phòng kiểm toán.
Thông thường, các hãng kiểm toán chuyên nghiệp trên được tổ chức theo ba hình thức:
Hãng thuộc quyền sở hữu của một người: Hình thức này thường là các hãng nhỏ hoạt động ở các địa phương. Hiện nay, ít hãng tổ chức theo hình thức này.
Hãng tổ chức theo hình thức hợp danh: Hiện nay hình thức này được áp dụng phổ biến.
Hãng tổ chức theo hình thức công ty cổ phần: Hình thức này thường là các tổ chức thuộc hãng lớn có quy mô quốc gia hoặc xuyên quốc gia.
II. ĐÔI NÉT VỀ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP TRÊN THẾ GIỚI VÀ THỰC TRẠNG TẠI VIỆT NAM
1. Đôi nét khái quát về tình hình kiểm toán độc lập trên thế giới
1.1. Lịch sử phát triển của kiểm toán độc lập trên thế giới
Kiểm toán độc lập có lịch sử phát triển rất lâu đời mặc dù chỉ thực sự phát triển trong thời gian những năm 30 của thế kỷ XX. Ta có thể tìm hiểu đến các giai đoạn phát triển quan trọng của kiểm toán độc lập như sau:
Ở thời kỳ sơ khai, trong giai đoạn đầu phát triển của xã hội, do xã hội còn chưa có của cải dư thừa, nhu cầu kiểm tra trong quản lý còn ít và ở mức đơn giản. Càng về sau, khi xã hội đã có sự tách biệt giữa người sở hữu tài sản và người quản lý, cất trữ tài sản thì nhu cầu kiểm tra một cách độc lập tài sản đã dần hình thành. Kiểm toán độc lập hình thành ở mức sơ khai. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của xã hội thì các hình thức kế toán đơn, kế toán kép đã xuất hiện và nó đã đáp ứng được hầu hết các nhu cầu của quản lý cho đến tận đầu thế kỷ XX.
Trong những năm đầu của thế kỷ XX, khi xã hội phát triển đến giai đoạn cao với nhiều hình thức sở hữu và đa dạng hóa các hình thức đầu tư, sự tách biệt giữa người sở hữu tài sản và người bảo quản càng lớn, tình hình thu chi, hoạt động tài chính càng trởi nên phức tạp khiến cho kiểm tra kế toán không còn đáp ứng được nhu cầu sử dụng thông tin của những người sở hữu tài sản. Họ cần những thông tin trung thực, khách quan, đáng tin cậy từ những bên thứ ba độc lập. Chính vì vậy nhu cầu kiểm toán độc lập lại tăng cao kèm theo đó là sự phát triển nhanh chóng của dịch vụ kiểm toán độc lập trên thế giới.
1.2. Tìm hiểu về các hiệp hội nghề nghiệp kiểm toán lớn trên thế giới.
a. Hội kế toán viên công chứng Hoa Kỳ (AICPA).
Hội kế toán viên công chứng Hoa kỳ là một tổ chức nghề nghiệp của các kế toán viên công chứng của Hoa Kỳ với hơn 330.000 thành viên hoạt động trong các tất cả các ngành. Đây là tổ chức chịu trách nhiệm đặt ra các chuẩn mực cho các cuộc kiểm toán của các công ty tư nhân, bang, liên bang và chính phủ địa phương, và là một tổ chức hoạt động phi lợi nhuận.
Khoảng 40% số thành viên của AICPA hoạt động trong các công ty cung cấp các dịch vụ như kiểm toán, kế toán, thuế, tư vấn kinh doanh, thẩm định giá, lập kế hoạch tài chính cá nhân và công nghệ kinh doanh. 60% còn lại là các kế toán công chứng hoạt động trong các ngành công nghiệp, chính phủ và giáo dục.
Vai trò ưu tiên của AICPA là xúc tiến và tăng cường chất lượng nghề nghiệp kế toán và kiểm toán. Để đạt được điều đó, AICPA thực hiện rất nhiều chức năng: cung cấp lợi ích cho các thành viên, chuẩn bị các kỳ thi CPA, phát triển các chuẩn mực nghề nghiệp kế toán công chứng, cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho thành viên trong rất nhiều lĩnh vực thực tế, cung cấp sự hỗ trợ cho các học viên theo học các lớp CPA, và đại diện cho nghề nghiệp kiểm toán và kế toán trước Quốc hội và các cơ quan có thẩm quyền của bang, liên bang.
b. Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC)
Liên đoàn kế toán quốc tế ( The International Federation of Accountants) là một tổ chức kế toán mang tính quốc tế. Được thành lập năm 1977, hiện nay IFAC có 157 thành viên trên 123 vùng lãnh thổ trên thế giới đại diện cho 2.5 triệu kế toán viên hoạt động trong các lĩnh vực công cộng, công nghiệp và thương mại, chính phủ và giáo dục. Liên đoàn thành lập ra một ban chuyên phụ trách vấn đề thiết lập các chuẩn mực cho ngành nghề kế toán như chuẩn mực về đạo đức, kiểm toán và các dịch vụ đảm bảo, kế toán công và giáo dục. Liên đoàn cũng ban hành các hướng dẫn giúp tăng cường chất lượng hoạt động của các kế toán viên trên các vùng lãnh thổ là thành viên của Liên đoàn.
c. Hiệp hội kế toán công chứng Anh (ACCA).
Hiệp hội kế toán công chứng Anh được biết là một tổ chức kế toán công chứng toàn cầu cung cấp các bằng cấp, chứng chỉ kế toán cho các học viên kế toán trên toàn thế giới. Đây là một trong những hiệp hội kế toán lớn nhất và phát triển nhanh nhất với khoảng 130.000 thành viên và 326.000 học viên trên 170 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. ACCA có một mạng lưới gồm khoảng 80 trụ sở và chi nhánh trên toàn thế giới.
Được thành lập năm 1904, trải qua hơn 100 năm phát triển, ACCA đã trở thành một tổ chức hàng đầu trên thế giới bởi sự danh tiếng, tầm ảnh hưởng và quy mô. Là một hiệp hội kế toán công chứng, ACCA cũng thiết lập ra các chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực hành nghề cho kiểm toán viên. Nhưng quan trọng hơn, ACCA góp phần đào tạo và cấp bằng và chứng chỉ cho các học viên. Điều này đã góp phần làm thúc đẩy và tăng cường chất lượng hoạt động kế toán và kiểm toán trên toàn thế giới. Bằng cấp của ACCA được công nhận rộng rãi trên thế giới vì chất lượng của chúng. Hiện nay tổ chức này cũng đã có mặt tại Việt Nam và đang thu hút một lượng lớn các học viên Việt Nam theo học.
1.3. Các hãng kiểm toán lớn trên thế giới.
Nổi lên trong thị trường kiểm toán thế giới hiện nay là bốn công ty lớn nhất với tên gọi Big Four. Đó lần lượt là các công ty PricewaterhouseCoopers, Ernst &Young, KPMG, Deloitte Touche Tohmatsu. Đây là bốn công ty quốc tế lớn nhất trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ kế toán kiểm toán và các dịch vụ chuyên nghiệp, nắm giữ thị phần chủ yếu trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ kiểm toán cho các công ty đại chúng cũng như rất nhiều các công ty tư nhân.
Trên thực tế, từ trước năm 1989, nhóm các công ty kiểm toán lớn trên thế giới được biết đến tên gọi Big Eight- nhóm 8 hãng kiểm toán lớn. Đó là các công ty Arthur Andersen, Arthur Young & Company, Coopers & Lybrand, Ernst & Whinney, Deloitte Haskins & Sells, Peat Marwick Mitchell, Price Waterhouse and Touche Ross. Hầu hết trong số 8 hãng kiểm toán này xuất phát từ việc sáp nhập các công ty nhỏ hơn của các nước Mỹ và Anh. Năm 1989, Ernst & Whinney sáp nhập với Arthur Young hình thành hãng kiểm toán Ernst & Young, và Deloitte, Haskins & Sells sáp nhập với Touche Ross hình thành hãng kiểm toán Deloitte & Touche. Sáu hãng này chia nhau thị trường kiểm toán trên thế giới, chỉ để lại một phần tương đối nhỏ cho các công ty khác.
Đến năm 1998, Price Waterhouse sáp nhập với Coopers & Lybrand để hình thành nên hãng PricewaterhouseCoopers và đến năm 2002, sau vụ sụp đổ của hãng kiểm toán Arthur Andersen, trên thế giới chỉ còn lại 4 công ty kiểm toán lớn nhất mà ta gọi là Big Four kể trên.
Bảng sau sẽ nói lên phần nào tình hình hoạt động của các hãng kể trên trong các năm gần đây nhất:
Hãng
Doanh thu ( tỷ USD)
Số lượng nhân viên
Năm
PricewaterhouseCoopers
28,2
146.700
2008
Deloitte Touche Tomatsu
27,4
165.000
2008
Ernst & Young
24,5
130.000
2008
KPMG
19,8
123.000
2007
Bảng 01. Tình hình doanh thu của các hãng kiểm toán lớn trên thế giới(*).
* Nguồn:
2. Thực trạng kiểm toán độc lập tại Việt Nam.
2.1. Tính tất yếu trong sự ra đời của hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam.
Thứ nhất, kiểm toán độc lập ra đời trong quá trình đổi mới sang nền kinh tế thị trường.
Ở Việt Nam, trước năm 1976 đã có các công ty kiểm toán độc lập của nước ngoài và các giám định viên kế toán hành nghề độc lập ở các tỉnh và thành phố phía Nam. Tuy nhiên từ sau năm 1976 đến trước năm 1991 không có ai nói đến hoạt động kiểm toán độc lập kể cả trong các văn bản chế độ, chính sách, trong cả các tài liệu nghiên cứu, các giáo trình giảng dạy của các trường kế toán.
Năm 1986, thực hiện chính sách đổi mới, mở của, các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã kéo theo các kiến thức về kiểm toán độc lập vào Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng đòi hỏi ở Việt Nam phải có các tổ chức Kiểm toán độc lập, coi đó là một hoạt động để đầu tư vào Việt Nam. Đồng thời, các nhà quản lý, các cán bộ khoa học của Việt Nam có điều kiện đi ra nước ngoài, tiếp xúc với nền kinh tế thị trường thế giới và nhận thức được tác dụng thiết thực của hoạt động kiểm toán độc lập.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhiều thành phần kinh tế ra đời, các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, xí nghiệp liên doanh, ngân hàng tư nhân được thành lập. Cũng đã xuất hiện các công cụ tài chính, thị trường tài chính... Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng đóng vai trò lớn trong nền kinh tế quốc dân. Điều đó làm cho không chỉ cơ quan nhà nước quan tâm đến kết quả tài chính trong doanh nghiệp mà các ông chủ, cổ đông, khách hàng, người lao động...cũng quan tâm tới các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Từ đó xuất hiện một nhu cầu phải có một tổ chức chuyên môn độc lập kiểm tra và xác nhận sự trung thực, khách quan của các báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Chính vì những lý do trên, kiểm toán độc lập đã xuất hiện ở Việt Nam và được đánh dấu chính thúc bằng sự ra đời của Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) và Công ty Dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn tài chính (AASC) tháng 5 năm 1991.
Thứ hai, những cá nhân, tổ chức cần đến dịch vụ kiểm toán độc lập tại Việt Nam.
Kiểm toán độc lập mang tính tự nguyện, không độc quyền. Kiểm toán vien không thể bắt buộc doanh nghiệp mới mình kiểm toán. Tuy nhiên trong phần lớn các trường hợp, người quan tâm đến số liệu trong bản báo cáo tài chính sẽ yêu cầu các doanh nghiệp phải được kiểm toán.
Một số loại hình doanh nghiệp bị bắt buộc phải có báo cáo tài chính được kiểm toán. Theo nghị định 105/2004/NĐ-CP về kiểm toán độc lập, các loại hình doanh nghiệp loại này bao gồm:
Doanh nghiệp có vốn đấu tư nước ngoài (các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, hợp đồng hợp tác liên doanh);
Tổ chức có hoạt động tín dụng, ngân hàng và Quỹ hỗ trợ phát triển;
Tổ chức tài chính và doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm;
Doanh nghiệp nhà nước;
Báo cáo quyết toán vốn đầu tư xây dựng của các dự án thuộc nhóm A;
Các đối tượng khác mà luật, pháp lệnh, nghị định và quyết định của Thủ tướng chính phủ có quy định.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước, Quỹ hỗ trợ phát triển và dự án đầu ư đã có trong thông báo kế hoạch kiểm toán năm của cơ quan Kiểm toán Nhà nước thì báo cáo tài chính năm đó không bắt buộc phải được doanh nghiệp kiểm toán kiểm toán.
Thứ ba, kiểm toán độc lập phát triển tạo ra sức hút đối với các nhà đầu tư nước ngoài
Từ khi có Luật đầu tư nước ngoài năm 1987, các doanh nghiệp nước ngoài đã từng bước thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Tuy nhiên việc này nhiều khi còn nhiều hạn chế. Có nhiều nhà đầu tư còn phân vân trong việc quyết định đầu tư vào Việt Nam, hoặc đã có giấy phép đầu tư nhưng chưa thực hiện hoặc thực hiện không triệt để dự án. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài chưa có đủ các tổ chức tư vấn về tài chính, kế toán, kiểm toán độc lập có uy tín theo tập quán quốc tế. Các nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng thu thập thông tin về thị trường qua các tổ chức trung gian như các công ty kiểm toán độc lập, tư vấn tài chính,... Chính là do hoạt động kiểm toán ở Việt Nam vẫn còn đang trong giai đoạn thấp của sự phát triển nên nhiều nhà đầu tư còn e ngại trong vấn đề bỏ vốn vào đầu tư. Một sự phát triển của hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt Nam với xu hướng phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ tạo ra môi trường thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, tăng thêm niềm tin và khuyến khích các doanh nghiệp có tiềm năng bỏ vốn vào Việt Nam.
2.2. Đặc điểm kiểm toán độc lập ở Việt Nam.
Trước năm 1975, ở thành phố Sài Gòn đã có văn phòng của các công ty kiểm toán quốc tế (Price Waterhouse, Authur Andersen…). Từ khi bước sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhu cầu kiểm toán các đơn vị đầu tư nước ngoài theo Luật đầu tư nước ngoài, các chương trình tín dụng, phát triển, viện trợ quốc tế là khách quan và ngày càng tăng. Sự phát triển nhanh chóng của các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, ngân hàng tư nhân, sự xuất hiện của thị trường chứng khoán và xu hướng cổ phần hóa một số doanh nghiệp nhà nước cũng đòi hỏi phải có dịch vụ kiểm toán độc lập. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế, tháng 5/1991 công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) đã được thành lập theo giấy phép số 957-PPLT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) và quyết định 165/Tài chính-QĐ-TCCB của Bộ trưởng Bộ tài chính. Sự ra đời và hoạt động có hiệu quả của VACO đánh dấu sự mở đầu tốt đẹp của dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt Nam. Cho đến nay, ở Việt Nam đã có 123 công ty kiểm toán, trong đó phải kể đến sự góp mặt của các công ty lớn trong làng kiểm toán thế giới là PwC, Deloitte, Ernst&Young, KPMG,…
Thứ nhất, về mô hình tổ chức kiểm toán độc lập tại Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam đã có khá nhiều công ty kiểm toán độc lập được thành lập với rất nhiều trụ sở văn phòng hoạt động trên cả nước, trong đó tập trung đông nhất là tại Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh các công ty kiểm toán quốc tế, chúng ta có thể kể đến các công ty Việt Nam tiêu biểu như sau:
- Công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC);
- Công ty TNHH Kiểm toán và Dịch vụ Tin học (AISC);
- Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn (A&C);
- Công ty TNHH Kiểm toán và tư vấn Tài chính Kế toán (AFC);
- Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán Hà Nội (CPA-HN);
- Công ty TNHH Kiểm toán và Dịch vụ Tư vấn TCKT Thuỷ Chung (TC)
…
Hiện nay chúng ta chưa cho thành lập văn phòng kiểm toán tư. Các công ty kiểm toán của ta hiện nay tuy tăng về số lượng nhưng thị phần cung cấp dịch vụ kiểm toán còn thấp so với các công ty kiểm toán nước ngoài.
Thứ hai, về môi trường pháp lý
Ngoài việc bắt buộc các tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động hợp pháp tại Việt Nam phải tuân thủ Pháp luật Nhà nước và chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước như một doanh nghiệp, Nhà nước đã giao cho Bộ Tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước thống nhất với hoạt động kiểm toán. Và trong thời gian gần đây Bộ Tài chính đã quyết định chuyển giao phần lớn trách nhiệm quản lý nhà nước với hoạt động kiểm toán cho Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam. Theo đó, Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam sẽ có trách nhiệm chủ yếu sau:
- Tổ chức bổi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ nghề nghiệp kế toán, kiểm toán cho kiểm toán viên và kiểm toán viên hành nghề. Thực hiện cập nhật kiến thức hàng năm theo quy định cho kiểm toán viên hành nghề.
- Quản lý thống nhất danh sách kiểm toán viên hành nghề và danh sách doanh nghiệp kiểm toán theo quy định của pháp luật;
-._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22416.doc