Mở đầu
Để kỷ niệm 25 năm ký kết hiệp ước hữu nghị hợp tác và 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước cộng hoà xã hội chủ nghiã Việt Nam và cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Hội liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Hội hữu nghị Việt- Lào, báo tiền phong đã phối hợp tổ chức phát động tìm hiểu về cuộc thi “Việt- Lào trong trái tim tôi” .
Nhận thức rõ về mối quan hệ giữa hai nước tình sâu nghĩa nặng như răng với môi. Em xin được góp phần nhỏ bé của mình vào tham dự cuộc thi này để kỷ ni
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1780 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tìm hiểu về cuộc thi (Việt - Lào trong trái tim tôi), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệm về mối quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Lào.
Là một người Việt Nam em yêu quê hương đất nước mình và tự hào về truyền thống dân tộc với bốn nghìn năm lịch sử. Điều đó luôn ngự trị trong trái tim mình. Tôi yêu Việt Nam nhưng tôi cũng yêu đất nước bạn Lào bởi vì: trải qua bao năm tháng chiến tranh cho đến ngày có độc lập tự do hai nước Việt Lào vẫn gắn bó keo sơn, thắm tình hữu nghị. Ngày nay mối quan hệ này càng được khẳng định trên trường quốc tế.
Xuất phát từ tình yêu quê hương đất nước, con người, yêu hoà bình, tình đoàn kết hợp tác hữu nghị.Với sự ham hiểu biết của bản thân tôi muốn tìm hiểu về đất nước bạn Lào tươi đẹp. Tham gia cuộc thi với tất cả lòng nhiệt tình và cố gắng của mình để được hoàn thành bài dự thi một cách tốt nhất. Tuy nhiên trong bài viết sẽ không thể tránh khỏi những sai sót do những điều kiện về khách quan và chủ quan như tài lịêu rất hạn hẹp và khó khăn, khả năng của bản thân còn nhiều hạn chế … Vì thế em mong được sự giúp đỡ và thông cảm của ban giám khảo cuộc thi bởi em cũng đã làm hết sức mình. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn Hội liên Hiệp đã tổ chức cuộc thi để cho em có cơ hội được tham gia và hiểu biết thêm về Đất nước Lào tươi đẹp!.
Phần câu hỏi
Câu hỏi 1:
a. “Thương nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua
Việt – Lào hai nước chúng ta
Tình sâu hơn nước Hồng Hà - Cửu Long”
Bạn cho biết: Bác Hồ kính yêu đã đọc những câu thơ trên ở đâu? thời gian nào?
b. Bạn cho biết câu nói sau đây của ai, ở đâu và trong hoàn cảnh nào?
Trong lịch sử thế giới đã từng có nhiều gương sáng chói về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có sự liên minh chiến đấu đặc biệt lâu dài và toàn diện như vậy. Qua bao nhiêu năm nữa vẫn trong sáng như xưa…”
c. Đảng Nhân dân cách mạng Lào thành lập vào năm nào? Đảng nhân dân cách mạng Lào đã tiến hành bao nhiêu kỳ đại hội? Nhiệm vụ chiến lược cơ bản do đại hội lần thứ 7 Đảng nhân dân cách mạng Lào?
Câu hỏi 2:
a. Bạn cho biết: Việt Nam và Lào thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày tháng năm nào? trong bối cảnh lịch sử nào? Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác Việt Nam – Lào được ký kết vào ngày tháng năm nào? ở đâu?
b. Bạn cho biệt tuyến đường Hồ Chí Minh trong những năm nước ta tiến hành cuộc kháng chiến chông Mỹ cứu nước đã đi qua những tỉnh nào của Lào?, kể tên các đơn vị của Việt Nam đã và đang tham gia xây dựng các cống trình giao thông ở Lào.
c. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và đoàn thanh niên cách mạng Lào đã tổ chức mấy lần Liên hoan Thanh niên 2 nước? ở đâu? vào thời gian nào?
d. Bạn hãy kể tên những bài hát ca ngợi tình hữu nghị Việt – Lào do nhạc sỹ Việt Nam và nhạc sĩ Lào sáng tác?
Câu hỏi 3:
a. Bạn cho biết:
Nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào được thành lập vào ngày tháng năm nào. Hiện nay nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào có diện tích, dân số và số bộ tộc Lào bao nhiêu?
phần trả lời câu hỏi
Câu 1:
Câu 1a:
Bác Hồ đã đọc câu thơ trên tại Hà Nội đầu năm 1963 trong dịp đón tiếp đoàn Đại Biểu của Vương quốc Lào đến thăm chính thức nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng có chung nhiều biên giới, đều là thuộc địa của Pháp và Mỹ. Mục đích cuối cùng của cả hai đất nước đều nhằm giải phóng dân tộc ra khỏi sự kìm kẹp, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, yêu chuộng hoà bình và đoàn kết. Nên có thể nói rằng hai trái tim cùng chung nhịp đập để tương trợ giúp đỡ lẫn nhau đánh đuổi kẻ thù.
Ngày 5 tháng 9 năm 1962, nước ta và Vương quốc Lào đa thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức. Từ đây tình đoan kết hưu nghị Việt-Lào bắt đầu được chính tỏ. Lúc đó Đại sứ Việt Nam Lê Văn Hiến và Đại sứ Lào Thao Pheng là những sứ giả đầu tiên của mối quan hệ ngoại giao này.
Sau đó ít tháng, đầu năm 1963, Đoàn đại biểu cấp cao Vương quốc Lào đa thăm chính thức nước ta tại Hà Nội. Trong dịp này, chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện quan hệ láng giềng thân thiện của hai dân tộc bằng bốn câu thơ nổi tiếng được lưu giữ cho đến ngày nay khi mà cả hai đất nước đang trên con đường phát triển.
“Thương nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua
Việt Lào hai nước chúng ta
Tình sâu hơn nước Hồng Hà - Cửu Long”
Sự kiện quan trọng này là kết quả tiếp theo thắng lợi to lớn của nhân dân hai nước trên mặt trận quân sự và phối hợp ngoại giao, dần đến việc ký kết hiệp định quốc tế Gionever công nhận nền độc lập và trung lập của Lào với việc thành lập một chính phủ hoà hợp dân tộc ba phái có lực lượng yêu nước Lào tham gia. Đồng thời đây cũng là một đòn đánh mạnh vào sự can thiệp và lật đổ của đế quốc Mỹ ở Lào. Lần đầu tiên chính quyền vương quốc Lào công nhận nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà mà trước đó họ chỉ công nhận ngụy quyền Sài Gòn.
Những thế lực đế quốc vẫn không từ bỏ ý đồ xâm lược, chúng càng đẩy mạnh chiến tranh toàn diện xâm lược Việt Nam một cách dáo diết. Tiến hành “Chiến tranh đặc biệt” ở Lào, phá hoại hiệp định Giơnevơ năm 1962, lật đổ chính phủ hoà hợp dân tộc ở Lào và dựng nên một chính quyền tay sai phản động. Lực lượng yêu nước Lào phải rút ra khỏi vùng căn cứ kháng chiến. Lúc này Việt Nam và Lào trở thành chiến trường chung.
Trong tình hình nghiêm trọng đó, quan hệ giữa nước ta và vương quốc Lào trở nên hết sức phức tạp và tế nhị. Nhiệm vụ và chính sách đối ngoại của nước ta và Mặt trận Lào yêu nước là: lên án cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ và tay sai; đấu tranh cho việc tôn trọng Hiệp định Giơnevơ năm 1962 về nền trung lập của Lào, nêu cao vị trí hợp pháp của lực lượng yêu nước Lào, trung lập hoá lực lượng hoàng gia, tranh thủ lực lượng trung lập; đấu tranh và phân hoá phái hữu Viêng Chăn, cô lập bọn cực hữu tay sai Mỹ, nêu cao tính chất chính nghĩa của sự chiến đấu Việt Nam- Lào chống lại kẻ thù chung. Càng khẳng định thêm tình đoàn kết giữa Việt- Lào không phải chỉ ở trong cuộc kháng chiến chống Mỹ mà cả trong những năm kháng chiến chống Pháp hai dân tộc đã sát cánh bên nhau. Mặc dù lúc đó chưa chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Ngày 30-10-1945 tại Viêng Chăn các đại diện chính phủ Lào Itxala và Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ký thoả thuận về việc thành lập liên quân Lào- Việt. Ngày 11-3-1951 đại biểu của mặt trận Liên Việt, mặt trận Khơ me và mặt trận Lào họp hội nghị thành lập liên minh nhân dân Việt Nam- Lào- Cămpuchia đoàn kết chống thực dân Pháp xâm lược và cử ra uỷ ban Liên Minh. Ngày 27-8-1956 thủ tướng vương quốc Lào XuVaPhuNa thăm Việt Nam. Cho đến ngày 5-9-1962 quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Lào chính thức được ký kết.
Chính sách đối ngoại mang tính chất nguyên tắc của ta là không ngừng quan hệ với mặt trận Lào yêu nước. Nhưng nhiều sách lược Việt Nam vẫn giữ cầu với chính quyền vương quốc Lào. Việt Nam chính thức đặt đại diện cơ quan chính phủ bên cạnh mặt trận Lào yêu nước tại căn cứ kháng chiến đầu não Sầm Nưa. Ta đặt cơ quan “ Đại diện kinh tế, văn hoá” bên cạnh chính phủ trung lập hợp pháp của thủ tướng S . Phuoma đã rút ra vùng Khangkhay- XiêngKhoảng sau khi bị Mỹ lật đổ chính phủ ba phái. Ta vẫn duy trì Đại sứ quán tại Viêng Chăn, nhưng rút đại sứ về nước, để có quan hệ khi cần thiết với chính quyền Vương quốc Lào, hô trợ cho cơ quan đại diện Mặt trận Lào yêu nước tại Viêng Chăn đồng thời đấu tranh với sứ quán Nguỵ ở Sài Gòn.
Tại Hà Nội, ta công nhận chính thức cơ quan đại diện Mặt trận Lào yêu nước đặt bên cạnh chính phủ Việt Nam với quy chế như một cơ quan đại diện ngoại giao, song song với sự tồn tại mặc nhiên của Đại sứ quán Vương quốc Lào.
Từ đó, sau hơn 10 năm, cùng chiến đấu và phối hợp đấu tranh ngoại giao, nhân dân hai nước đã giành được những thắng lợi to lớn buộc các thế lực đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược, Hiệp định Pari về Việt Nam và Hiệp định Viêng Chăn về Lào được ký kết năm 1973, chấm dứt sự có mặt của Mỹ tại hai nước. ở Lào một chính phủ hoà hợp dân tộc hai phái là “chính phủ Viêng Chăn” và “lực lượng yêu nước Lào” được thành lập với số ghế ngang nhau và được quốc tế công nhận. Nhiệm vụ ngoại giao của hai nứoc là đấu tranh thi hành Hiệp định Pari về Việt nam và Hiệp định Viêng Chăn về Laò đảm bảo độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của hai dân tộc.
Nhưng các lực lượng Nguỵ quyền Sài Gòn và Nguỵ quyền Viêng Chăn được sự hỗ trợ của Mỹ vẫn ngoan cố phá hoại các Hiệp định trên của hai nước.
Vì vậy, quân và dân hai nước đã giúp đỡ lẫn nhau để đấu tranh trên các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao dẫn đến thắng lợi hoàn toàn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước năm 1975. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào thành lập ngày 2 tháng 12 năm 1975 xoá bỏ chế độ phong kiến ngự trị hàng ngàn năm trên đất nước triệu voi này.
Để có được nền độc lập và thống nhất đất nước cho đến tận ngày nay. Lúc bấy giờ cả hai dân tộc đã phải trải qua biết bao nhiêu hy sinh anh dũng mất mát để chống kỷ thù chung. Bác Hồ đã từng nói:
“Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết
Thành công thành công đại thành công”
Câu nói đó của người cho đến tận ngày nay vẫn luôn đúng. Có được thắng lợi đó phần lớn là nhân dân hai nước Việt-Lào đã đoàn kết lại, biết cưu mang và giúp đỡ lẫn nhau không ngại gian khó hy sinh. Giải phóng cho mình đòng thời cũng là giải phóng cho bạn. Trong kháng chiến chống kẻ thù chung Việt nam và Lào đã thành lập nền nhiều mặt trận liên minh Lào-Việt. Việt nam đã cử biết bao đoàn quân nam tiến tình nguyện sang Lào chiến đấu và thống nhất nước nhà cho đến sau ngày giải phóng mới rút quân về Việt Nam.
Đại sứ quán nước ta và Đại sứ quán cộng hoà dân chủ nhân dân Lào là hai cơ quan đại diện ngoại giao duy nhất, được tăng cường đảm bảo sứ mạng trong giai đoạn mới. Quá khứ đã khép lại-tương lai chúng ta đang sống trong hoà bình độc lập và phát triển đất nước. Có được điều đó chúng ta đời đời nhớ ơn nhứng con người đa làm nên lịch sử. “Nhớ lại mọt sự kiện” theo lời kể của đồng chí Phan Dĩnh càng khẳng định thêm tình đoàn kết gắn bó Việt-Lào. Đúng như Bác Hồ đã nói: “ Việt-Lào hai nước chúng ta
Tình sâu hơn nước Hồng Hà Cửu Long”
Sự kiện chưa từng có này đa xẩy ra cách đây 42 năm: Lúc đó Hoàng thân Suphanuvông và các nhà lãnh đạo mặt trận Lào yêu nước đã bị phái hữu bắt giam tại Phôn Khiêng sau 10 tháng bị giam cầm (ngày 26/7/1959-24/5/1960). Vào thời điểm đó phong trào cách mạng Lào bị sự lật lọng của phái hữu đang trải qua những ngày tháng đen tối. Nhóm phủi SananiKon, Phu ni Nosavan đã xoá bỏ hiệp định Gionever 1954 về Lào, xoá bỏ chính phủ hoà hợp dân tộc, tiến hành bao vây tước vũ khí 2 tiểu đoàn của Pathét Lào đóng cách Cánh đồng Chum và Xiêng Ngân, mở chiến dịch khủng bố bắt bớ cán bộ và cơ sở mặt trận Lào yêu nước trên toàn quốc với mưu đồ “chặt đầu phong trào” chúgn ra sức chuẩn bị hồ sơ vu cáo, chuẩn bị dư luận để đưa các đồng chí đó ra xử án tử hình. Lúc này phong trào yếu nước ở Viêng Chăn đang bị khủng bố nặng. Trong bối cảnh đó trung ương Đảng Lao động Việt Nam cử một số cán bộ Đảng viên đã từng hoạt động ở địch hậu Viêng Chăn sang giúp nối liên lạc với tỉnh uỷ, và tổ chức thựuc hiện chủ trương giải thoát đồng chí Suphanuvông cùng các đồng chí khác bị bắt giam.
Đáp ứng yêu cầu của trung ương Đảng bạn. Một số công tác đặc biệt gồm 9 người được trang bị điện đài, vũ khí do đòng chí Phan Dĩnh làm chỉ huy và đồng chí Trương Văn Quý làm chỉ huy phó đã từng là bộ đội tình nguyện Việt Nam chiến đấu ở Lào từ kháng chiến chống pháp. Trước ngày lên đường, đồng chí Phan Dình được đến chào và báo cáo kế hoạch với đại tướng Võ Nguyên Giáp tại 30 Hoàng Diêụ, Hà Nội. Đại tướng chỉ thị: “Mọi chủ trương phương án vượt ngục đều do trung ương Đảng bạn quyết định. Tình hình có thể thay đổi khi các đồng chí vào đến Viêng Chăn. Đây là công việc hệ trọng liên quan đến vạn mệnh quốc gia dân tộc bạn”. Sau đó đồng chí Phan Dĩnh từ Hà Nội đi ô tô và nhận chỉ thị của đồng chí tổng bí thư Đảng nhân dân cách mạng Lào CayXỏnPhônViHẳn. Tất cả lao vào việc chuẩn bị cho phương án khả thi nói trên với phương châm tuyệt đối bí mật, sống để bụng chết mạng theo, ai làm việc gì biệt việc ấy. Có rất nhiều việc lớn phải làm khẩn trương và đồng thời.
Một là: phát động đấu tranh dư luận, đấu tranh quần chúng đòi thả người bị bắt, buộc đối phương trì hoãn việc xử án.
(Tỉnh uỷ Viêng Chăn đảm nhiệm việc này). Hai là: Truyên truyền vận động xây dựng cơ sở trong đơn vị hiến binh canh gác trại giam. Ba là: Tổ chức móc nối liên lạc giữa chi bộ trong tù với lãnh đạo bên ngoài giữa cơ sở nội thành tới tỉnh uỷ ở căn cứ, giưa tỉnh uỷ và trung ương Đảng (việc này do tổ công tác đặc biệt của Việt Nam gánh vác một phần quan trọng). Bốn là: chuẩn bị một con đường bí mật để giải thoát. Năm là: tiếp tục giữ bí mật, theo dõi sát tình hình, chuẩn bị phương án hành động và chờ thời cơ.
Sau 10 tháng chuẩn bị, thời cơ đó xuất hiện đúng vào đêm có phiên gác trại giam do tiểu đọi của chuẩn uý UĐon đảm nhiệm. Theo đề nghị của chi bộ trong tù gửi ra ban chỉ đạo đã nhất trí quyết định giờ G và cử đồng chí Xiêng Xổm lọt vào trại giam lúc xẩm tối đeer khẳng định lòng tin và quyết tâm cho các đồng chí bị giam cũng như cho tiểu đội hiến binh canh gác phổ biến quyết định giờ G và cũng là người dẫn đường cho đoàn vượt ngục đi về căn cứ. Cuối cùng vào đúng 12h30 đêm 24/5/1960 cuộc vượt ngục đã được thực hiện.
Cuộc giải thoát này chẳng những đã góp phần toạ ra bước ngoặt cứu vãn tình thế đen tối của cách mạng Lào do sự lật lọng của địch mà còn giáng cho chúng một đòn đau đớn nhớ đời, dẫn đến cuộc đảo chính của tiểu đoàn dù số 2 do Koongle chỉ huy (9/8/1960). Thắng lợi của cuộc vượt ngục kỳ diệu này có được trước hết do chủ trương lãnh đạo sáng suốt kịp thời của trung ương Đảng nhân dân cách mạng Lào, của chi bộ Đảng trong trại giam và uy tín của các đồng chí lãnh tụ Mặt trận Lào yêu nước, do công sức to lớn của tỉnh uỷ Viêng Chăn và đội ngũ cán bộ kiên cường của tỉnh và các cơ sở quần chúng cách mạng ở nông thôn, nhất là vùng căn cứ kháng chiến cũ của tỉnh Viêng Chăn.
Thành công của cuộcgiải thoát nói trên còn mang ý nghĩa là một sự kiện dặc biệt trong mối quan hệ đoàn kết, đặc biệt hợp tác toàn diện giưa hai Đẳng, hai quân đội và nhân dân hai nước Việt-Lào. Vào những thời điểm khó khăn, hiểm nghèo nhất, Việt Nam và Lào luôn sát cánh bên nhau, chung một chiến hào, hạt muối cắn đôi, cọng rau bẻ nửa.
Tổ công tác của Việt Nam đã tham gia cùng bạn Lào thựuc hiện tổ chức thực hiện cuộc giải thoát đồng chí SuPhaNuVông và các nhà lãnh đạo cách mạng Lào từ khâu mở đầu đến khâu kết thúc và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đã vinh dự góp phần vào thắng lợi của cách mạng Lào, đồng thời đó cũng là thắng lợi của sự nghiệp đoàn kết đặc biệt giứa hai dân tộc Việt-Lào luôn sát cánh bên nhau. Điều đó lịch sử đã chứng minh.
Quan hệ hai nước sang trang, từ quan hệ đoàn kết kháng chiến chuyển sang quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập và chủ quyền toàn vẹn. Ngày 18 tháng 7 năm 1977, đoàn đại biểu Đảng và chính phủ Việt Nam do tổng bí thư Lê Duẩn và thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm hữu nghị chính thức cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Hai bên đã ký “Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam-Lào”, cùng với “Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia”, “Hiệp định hợp tác kinh tế- văn hoá, khoa học kỹ thuật” và “Hiệp định Miền thị thực”. Từ đó, quan hệ hai nước dựa trên nguyên tắc bình đẳng, đôi bên cùng cólợi, giúp đỡ nhau trên tình đồng chí anh em, kết hợp hài hoà thông lệ quốc tế với tính chất đặc biệt trong quan hệ Việt-Lào.
25 năm qua, Hiệp ước Việt Nam-Lào đẵ đi vào một cuộc sống mới, một cuộc sống sinh động của hai dân tộc ngày càng phát triển sâu rộng và có hiệu quả thiết thực, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, vào công cuộc “đổi mới” theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự phối trong lĩnh vực đối ngoại đã góp phần đáng kể đưa vị thế của hai nước ngày càng cao trên thế giới, hỗ trợ cho nhau hội nhập quốc tế mà vẫn giữ được bản sắc văn hoá- dân tộc, cùng nhau đấu tranh làm thất bại các chính sách thù địch chia rẽ tình cảm Lào- Việt. Nhìn lại 40 năm qua một chặng đường lịch sử, dù trong tình hình phức tạp đến thế nào đi chăng nữa. Nhưng quan hệ đặc biệt giữa hai nước Việt-Lào vẫn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong mọi chủ trương chính sách đối nội, đối ngoại của mỗi nước. Bốn mươi năm quan hệ ngoại giao đa dạng và phong phú Việt Nam- Lào đã góp phần đáng kể vào nền ngoại giao huy hoàng của hai dân tộc.
Câu 1b:
Trải qua một chặng đường lịch sử.Nhân dân hai nước Việt Nam- Lào đã chiến đấu hi sinh, anh dũng để chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trong những năm kháng chiến đó bất kể trong hoàn cảnh nào Việt Nam- Lào cũng sát cánh bên nhau, đoàn kết lại chống kẻ thù chung giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Năm 1976 đất nước Việt Nam- Lào đã được giải phóng, vừa ra khỏi cuộc chiến tranh, nhân dân hai nước đã bước vào khắc phục những khó khăn do chiến tranh để lại, xây dựng và phát triển đất nước ở Việt Nam đã tiến hành Đại hội lần thứ IV.
Nhân dịp này đoàn đại biểu Đảng và nhà nước Lào đã sang thăm Việt Nam hai bên khẳng định mối quan hệ đặc biệt Việt-Lào. Lúc đó cố chủ tịch KayxỏnPhônvihản tổng bí thư đảng nhân dân cách mạng Lào đã đứng lên phát biểu tại đại hội 4 của Đảng Cộng Sản Việt Nam ở thủ đô Hà Nội cố chủ tịch nói :
“Trong lịch sử thế giới từng có nhiều gương sáng chói về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa bao giờ có sự kiên minh chiến đấu đặc biệt, lâu dài và toàn diện như vậy. Qua bao nhiêu năm mà vẫn trong sáng như xưa…”.
Đây là một sự đánh giá hết sức chính xác về mối quan hệ đặc biệt Việt-Lào, một mối quan hệ mà các bạn Lào thường tâm huyết nói : “Xin không cho, mua không bán”.
Vậy vì sao mà “đặc biệt”? Những yếu tố nào đã làm nên sự “đặc biệt” đó ? Cần phải tìm ra những yếu tố ấy một cách khoa học, thừa nhận nó trong sự tồn tại khách quan ta mới có cơ sở để vững tin sự trường tồn và cũng là để góp vào việc củng cố và phát triển của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào.
Trước hết, đó là ở yếu tố địa lý, Việt Nam và Lào là hai quốc gia lân bang, láng giềng có chung một dải biên cương 2060km. Sau nữa về phương diện lịch sử Lào và Việt Nam đã cùng chiến đấu chống kẻ thù chung đó là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Từ những năm 30 của thế kỷ 20 tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược Việt Nam và Lào đã có sự liên minh chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Ngay 11-3-1951 trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng tương trợ và tôn trọng chủ quyền của mỗi nước, mặt trận liên minh Việt- Miên- Lào được thành lập. Đây là thắng lợi của nhân dân Đông dương nói chung, của tình đoàn kết chiến đấu Việt-Lào nói riêng và của chính nước Lào trong việc tăng cường hơn nữa tình đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung, chống lại âm mưu chia để trị của thực dân Pháp. Vào những năm 1953-1954 sự phối hợp với quân tình nguyện Việt Nam các lực lượng vũ trang Lào đã mở được nhiều chiến dịch trên khắp các chiến trường trong cả nước, vùng giải phóng được mở rộng, tuyến phòng thủ sông Nậm U bị phá vỡ. Đồng thời các lực lượng vũ trang Lào đã phối hợp trực tiếp và chi viện cho quân và dân Việt Nam trong chến dịch lịch sử Điện Biên Phủ giải phóng hoàn toàn Miền Bắc. Năm 1954, Pháp buộc phải ký hiệp định Gionever, lập lại hoà bình ở Đông Dương, tiếp tục bước vào cuộc chiến đấu chống lại sự can thiệp của Mỹ. Một lần nữa nhân dân Việt Nam – Lào tiếp tục sự nghiệp vinh quanh của Đảng cộng sản Đông Dương cùng đoàn kết chiến đấu hy sinh anh dũng, khó khăn cùng chia sẻ, tương trợ lẫn nhau. Kết quả là cuộc kháng chiến chông Mỹ lại giành được thắng lợi năm 1975. Ngày 2/12/1975 nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào thành lập. Đồng thưòi đây cũng là thắng lợi của sự liên minh “đặc biệt” Việt-Lào suốt 30 năm kiên cường bất khuất chống kẻ thù chung.
Một yếu tố có tính quyết định là nhân dân hai nước đều được chính đảng tiền phong của giai cấp công nhân lãnh đạo, với đưòng lối đíng đắn trong đấu trnh cách mạng, xây dựng đất nước và trong quan hệ quốc tế. Ngoài những yếu tố trên, còn có nhiều yếu tố khác nữa có vai trò rất quan trọng trong việc kiến tạo mối quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam –Lào. đó là những tính cách dân tộc mà ở đây chính là hảo tính dân tộc.
Tính cách nổi bật dẽ thấy nhất ở hạn Lào ngay trong lần đầu tiễp xúc là thân thiện, hiền lành và nhân hậu. Điều này được thể hiện từ nét mặt, phục trang cũng như lời đối thoại trao đổi khiến người mới đến đẽ cảm thấy an lòng, dù rằng có thể chưa trả lời được câu hỏi, đối tượng là ai? Đây là nhận xét của rất nhiều cán bộ người Việt được lãnh đạo hai nước biệt phái xuống các bản Lào làm công tác cơ sở trong thời kỳ chiến tranh. Có khi người cán bộ lọt vào một bản được gọi là bản phỉ, nhưng nhờ hiểu được bản chất hiền lành, nhân hậu của người dân, anh chẳng những không bị bán đứng mà còn từng bước giác ngộ, đưa họ trở về với chính nghĩa, với cách mạng.
Mô típ nhân vật nhân đức, hiền lành, thắng cái ác bằng hành động thiện rất thường thấy trong văn bản dân gian Lào. Các “xupaxít” (một thể loại văn chương truyền miệng) luôn hậu thuẫn cái nhân, lên án cái xấu trong quan hệ giữa người với người. Trong gia đình, ta ít thấy sự to tiếng mắng chửi giữa vợ chồng con cái. Ngoài xã hội, người Lào đi đứng từ tốn, không lấn chen, tránh xa sự xung đột.
Phóng khoáng, hoà đồng cũng là một hảo tính nổi bật của bạn Lào. Một năm 12 tháng là 12 tháng lễ hội. “Người Lào thích hội”, bạn nói vậy. Có hội là có hát, múa rộn ràng. Hát múa là niềm vui cuộc sống, gọi con người lại gần nhau, thương yêu đoàn kết bên nhau, tăng cường tính tập thể.
Lào là một nước nhỏ nhưng có nhiều dân tộc và dân tộc chủ thể là Lào Lùm cũng chỉ chiếm hơn 55% dân số. Kẻ địch từng lợi dụng điều này và những thiếu sót trong chính sách dân tộc để chia rẽ, mua chuộc, thậm trí bằng những thủ đoạn tàn bạo, nham hiểm, nhưng đều thất bại. Dân tộc định cư trước cũng như dân tộc đến sau đều tự coi mình là người Lào: Lào Lùm, Lào Thông, Lào Sủng. Người Lào vì thế, thêm một lý do để rất dễ hoà đồng, đoàn kết. Từ đoàn kết bản làng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc gia đến đoàn kết quốc tế là điều hoàn toàn có thể hiểu trong căn tính của bạn Lào.
Một dân tộc đã tồn tại với những căn tính hiền lành, nhân hậu, phóng khoáng, hoà đồng thì một căn tính khoan dung, uyển chuyển không cực đoan cũng là điều dễ hiểu và nó giống như một hệ quả. Tính uyển chuyển thể hiện rất rõ trong Phật giáo, quốc giáo của Lào, bản làng nào cũng có chùa, chùa đã chở thành hình ảnh gắn bó thân thiết với người như ngôi nhà của mình, chùa là nơi thờ phụng tôn nghiêm giúp cho cuộc sống trở nên cân bằng hài hoà.
ở đây không thể không đề cập tới một điều là do những đưa đẩy của lịch sử, nước Lào ngày nay chỉ là một phần của không gian Vương quốc Lạn Xang mới cáh nay vài thế kỷ. Với một dân tộc khác có thể đã có một cách ứng xử khác. Nhưng với người Lào nếu bạn có dịp tiếp xúc,vẫn là một tính cách khoan dung, không cực đoan không lớn tiếng đòi hỏi, không tính oán không kể ơn. Một đồng chí lãnh đạo hội hữu nghị Việt-Lào đã kể lại câu chuyện người nước láng giềng hỏi: “chúng tôi cũng cùng láng giềng lại cùng chung văn hoá, cùng chung tiếng nói, sao không được gọi là “đặc biệt” mà lại chỉ “đặc biệt” với Việt Nam? ” . Bạn Lào trả lời “vì Việt Nam giúp đỡ chúng tôi đánh Pháp, đuổi Mĩ, Việt Nam … ” . Điều này chứng minh rằng tính cách của Lào là như vậy, chỉ kể ơn người không kể ơn mình. Thực tế trong những năm đánh Mĩ cứu nước chỉ tính riêng một hệ thống đường vận tải chiến lược Trưòng Sơn được Bạn thoả thuận chạy trên đất Lào, nhân dân lào đã hi sinh biết bao cho cách mạng Việt nam nói riêng và cách mạng Đông Dương nói chung. Trong những năm kháng chiến gần 2,5 triệu tấn bom ném xuống đây, vượt xa tổng số bom đạn Mĩ trong đại chiến thứ hai. Bản làng Lào nằm dọc theo các sông, suối, ven lộ để tiện canh tác, sinh hoạt thì nay phải rời đi, chuyển lại nhiều lần vì bom đạn Mĩ, bỏ lại cơ nghiệp ruộng vườn vào tít tận rừng sâu, dân bản phải chịu bao hi sinh thiếu thốn mà mỗi lần gặp bộ đội vẫn cười, không hề phàn nàn, không hề đòi hỏi, nếu có nói lời cảm ơn thì đó là ơn bộ đội đã cho gạo cho muối.
Những nét tính cách của con người Bạn Lào có nhiều điểm chung và đồng điệu với con người Việt Nam. Đó là hai dân tộc, hai đất nước, nhưng chung một vẻ đẹp. Tình nghĩa, chia sẻ,thuỷ chung là điều mà quân tình nguyện Việt Nam thường hay nhắc đến mỗi khi có dịp nói về bạn. người Lào không ham hố, không chạy theo mệt nhọc đồng tiền, làm ăn chỉ cần “Dừa đủ xài”- như cách nói của người Nam bộ Việt Nam. Thế nhưng lại rất hào phóng, san sẻ. Người ta sẵn sàng đỡ đần nhau mọi việc trong bản, trong làng. ngoài hình thức “Navan” (đổi công) còn có “sồi” (giúp) rất hay thường thấy trong việc giúp nhau làm nhà, cưới xin hay các việc riêng khác. hiếm thấy cảnh những cuộc đời khó nhọc, bệnh tật bị bỏ rơi. Các chiến sỹ tình nguyện Việt Nam đặc biệt là những người công tác ở cơ sở trong những vùng khó khăn đã nhận được sự giúp đỡ đùm bọc hết lòng của nhân dân Lào không khác gì như ở trên đất nước quê hương mình vậy. Khi kẻ địch hạnh hoẹ đe doạ, nhân dân Lào tìm mọi cách che chở, thậm chí bằng những cách khôg tương hợp với văn hoá của ngời Lào, miễn là bảo vệ được cán bộ.
Không ít những chiến dịch, những trận đánh, hậu cần phải dựa vào nguồn tại chỗ,nhân dân Lào đã hào hiệp ủng hộ mà thậm chí không tính đến sự đền bù. Người Lào thích kết bạn, “hụ xiều”, một phong tục đẹp. Khi đã là bạn rồi thì thuỷ chung sau trước. Khách quý đến nhà bạn thường làm lễ buộc chỉ cổ tay cầu phúc cho người. Chén rượu đầu nâng lên chủ nhân rót ra trước mặt khách và uống trước, điều đó thể hiện sự trung tín. Đã “hụ xiều” với nhau rồi thì có xa bao nhiêu đoạn đường,xa bao nhiêu ngày tháng vẫn trông vẫn nhớ, vẫn chờ mong đúng là:
“ Thương nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”
Một dân tộc như vậy là một dân tộc yêu mình, yêu người, yêu quê hương đất nước, trọng công bằng lẽ phải, một dân tộc khôn khéo giác ngộ. Đây cũng là một căn tính nổi bật của người Lào. Điều này cũng được thể hiện trong cuộc sống thường nhật, trong quan hệ giữa người với người, trong nội dung ngợi ca dòng văn học nghệ thuật truyền miệng mà ta vẫn nhắc tới. Nhưng trong phạm trù của bài viết này tôi chỉ đề cập đến nó ở một phạm trù “lịch sử – chính trị ” mà thôi.
Lào có một chặng đường lịch sử có thể nói gần giống như lịch sử Việt Nam. Một dân tộc nhỏ bé nhưng đã có một thời gian dài trong chiến tranh nhưng đã tự mình đứng lên dành chính quyền khi thời cơ đến năm 1945. một quốc gia quân chủ truyền thống đã mạnh dạn chọn con đường đi lên chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội trong xu thế thời đại.
Nhìn lại lịch sử cận đại, từ năm 1945, khi chín phủ kháng chiến Lào đầu tiên đươc thành lập, đất nước đã lựa chọ bao nhiêu sách lược, nhưng không hề rời muc đích độc lập dân tộc của mình và cuộc cách mạng năm 1975, cũng vẫn với sách lược khôn khéo, mềm dẻo, từng bước một không nôn nóng đốt cháy giai đoạn, cuộc cách mạng không mang tính kinh điển ấy cũng đã dành thắng lợi rực rỡ với việc Đại hội quốc dân Lào họp tại Viêng Chăn vào ngày 2 tháng 12 năm 1975 bầu ra chính phủ của chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân, mở ra trang sử mới cho nước Lào.
Cũng nhìn lại lịch sử cận đại ngay từ sau khi dành lại độc lập từ tay thực dân Pháp năm 1945, nước Lào đã nhìn thấy từ người anh em cùng chung cảnh ngộ Việt Nam một đồng minh thân thiết gần gũi luôn kề vai sát cánh, dù trong hoàn cảnh nào cũng sẵn sàng chia sẻ khó khăn và hiệp định đầu tiên giữa hai nhà nước non trẻ đã đươc ký kết vào ngày 30 tháng 10 năm 1945. Từ đó nhân dân Lào đã dặt sự tin cậy sắt son nơi người bạn, người đồng minh, người anh em của mình, cũng như nhân dân Việt Nam đặt niềm tin sắt đá, kết đoàn, thuỷ chung với nhân dân Lào vậy. “Quan hệ đặc biệt” bén rễ và vượt qua tất cả chở ngại, thử thách, bằng thực tiền đấu tranh và ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau để trở nên “Trong sáng hiếm có” như ông Kay Sỏn Phôn Vi Hản đã nói.
Nói như vậy la đã nói tới sự tác dộng qua lại từ hai phía, hai dân tộc, hai quốc gia, và ở đây là sự gặp gỡ, giao thoa, sự hoà đồng tương hợp giữa những căn tính tíh cực ủa dân tộc. Điều kiện đã có trước tiên là điều kiện về địa lý, lịch sử và từ những yéu tố ấy làm xuất hiện một điều kiện quan trọng đó là: sự cộng cư, giao tiếp gặp gỡ trong những hoàn cảnh cụ thể của hai bên. thông qua việc đông đảo các bạn Lào cùng học tập, nghiên cứu tại Việt Nam trong nhưng ngày tháng chiến tranh và hoà bình. Thông qua một cộng đồng người Việt với tư cách kiều dân, làm ăn sinh sống đã lâu trên đất Lào. Đặc biệt là thông qua hàng vạn chiến sỹ tình nguyện quân, và các cán bộ chuyên gia Việt Nam hoạt đông trên đất bạn theo những hiệp định hợp tác được ký kết giữa hai Đảng, hai nhà nước. những đức tín tích cực đã tác động tới mối quan hệ giữa hai dân tộc theo tôi đó là:
Sự cần cù, chịu khó trong công việc.
Tinh thần chịu đựng gian khổ, thiếu thốn hi sinh trong khó khăn.
Cởi mở, hoà đông, đồng cam cộng khổ.
Chân thành, tín nghĩa, thuỷ chung.
Biết mình hiểu người trong lẽ phải.
Những đức tính này đã được bộc lộ rõ nhất thông qua những người lính tình nguyện, những cán bộ cơ sở, những chuyên gia người Việt trên đất Lào trong những năm chiến tranh gian khổ. Nhờ đó họ đã đến được với nhau như đến với chín đồng bào của mình vậy và Nhân dân Lào cũng mở rôngj vòng tay ra tiếp nhân họ như nhngx người thương yêu ruột thịt, không chút các biệt càng không một chút xã giao.
Câu chuyện dưới đây về Hoàng thân Xu Pha Nu Vông với chiến sỹ tình nguyện Việt Nam sẽ chứng minh cho một số căn tính mà hai dân tộc đã từ lâu gìn giữ. Hoàng thân Xu Pha Nu Vông hiện nay đã 85 tuổi ông là kỹ sư đàu tiên ở Đông Dương tốt nghiệp đại học Quốc gia cầu đường Pari và chính ông đã tham gia thiết kế và xây dựng những công trình ở Việt Nam như: Đập thuỷ điện Đa Nhim, Đập nước Tri Nội, Bái Thượng, dập Đô Lương, cầu Yên Xuân ở Vinh… Trong cách mạng tháng 8 ông đã chở về Lào và tham gia kháng chiến. Lúc đó, ngày 2 tháng 9 năm 1945. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời ông ra Hà Nội để làm việc liên minh tương trợ giữa hai nước Việt – Lào. Sau cuộc gặp gỡ đó ông trở về Lào tham gia chính phủ, làm bộ trưởng bộ ngoại giao, kiêm tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, trực tiếp chỉ huy liên quân Lào-Việt ở mặt trận XaVănNaKhẹt. Tại đây ông đã có rất nhiều kỷ niệm với những người lính tình nguyện Việt Nam. Trong một vài đoạn hồi ức của mình ông đã kể lại:
“Tháng 10/1945, trên đườ._.ng trở về Lào, đến Huế tôi đã được gặp các đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Hồ Tùng Mởu, Trần Hữu Dực… Các đồng chí đã cho một đơn vị bộ đội theo tôi về nước. Trong những người đó, tôi vẫn còn nhớ tên các anh Lê Phùng Thời, Đoàn Thuân, Trần Văn Dình, Ngọc Quế… Đó là những chiến sỹ tình nguyện đầu tiên đến giúp Lào. Tháng 11/1945, Đại tướng Võ Nguyên Giáp lại cử thêm bốn sĩ quan đặc phái qua giúp chúng tôi, đó là các anh Lê Thiêu Huy, Nguyễn Trọng Trường, Hoàng Xuân Bình, Dương Cự Tẩm. Lúc này mặt trận thà Khẹt vào những ngày cuối năm 1945 vô cùng ác liệt. Quân tình nguyện Việt Nam từ mặt trận đường số 9 đã bổ sung thêm cho chúng tôi. Liên quân Lào-Việt lúc này đã có đến 600 tay súng, nhưng giặc Pháp lại đông gấp đôi, lại có xe bọc thép, đại bác, máy bay yểm trợ. Liên quân Lào-Việt đã chiến đấu rất dũng cảm. Các chiến sỹ, cán bộ Việt Nam chiến đấy và chỉ huy rất xuất sắc như các anh Nguyễn Chánh, Nguyễn Tử Quỳ… Đến ngày 21/3/1946 thì giặc Pháp đã huỷ diệt thành phố Thà Khẹt. Chúng cho máy bay ném bom xuống bệnh viện, trường học nơi đông dân cư. Chúng giết hại hàng ngàn người vượt sông MêKông đi tản cư. Thuyền máy của chúng tôi qua sông cũng bị trúng đạn, người lái thuyền và anh Lê Thiệu Huy hy sinh. Tôi và anh Thuần, Quế cũng bị thương. Tôi bảo anh em bơi vào bờ, tránh hy sinh khong cần thiết để còn sống và tiếp tục chiến đấu nữa. Nhưng mọi người vẫn không sợ xúm lại băng bó chữa cho chúng tôi, không ai chịu rời thuyền. Hình ảnh sống chết có nhau đó, không bao giờ tôi quên được”.
Sau những câu chuyện kể về nững nỗi gian khổ, mất mát hy sinh của những người lính tình nguyện Việt Nam chiến đấu ở Lào, ông thường ngồi trầm tư xuy nghĩ: Những người mẹ, người vợ Việt Nam đã gửi hàng sư đoàn quân tinh nhuệ đến giúp Lào, hàng trăm ngàn chiến sỹ Việt Nam đã hy sinh trên đất nước Lào mà những người vợ, người mẹ ấy vẫn âm thầm chịu đựng.
Năm 1961, ông về thăm lại Việt Nam nghỉ ở thành phố Hồ Chí Minh à gặp lại những người lính tình nguyện năm xưa âý mặc dù không đầy đủ. Ông đã ôm hôn những người lính già này. Những máu đầu bạc gục vào nhau nước mặt rưng rưng khong nói lên lời… Câu chuyện trên đã chứng minh cho một tình cảm, tình đoàn kết chiến đấu hy sinh của nhân dân hai nước anh em. Và để rồi mỗi lần có dịp kể lạim nhớ lại nó lại trào về trong ký ức của mỗi chúng ta. Đúng là “lịch sử thế giới đã từng có nhiều gương sáng chói về tinh thần quốc tế… nhưng chưa ở đầu và chưa bao giờ lại có sự liên minh chiến đấu đặc biệt như vậy…”
Hiếm có mối quan hệ quốc tế nào, thông qua những người dân bình thường, lại gần gũi, gắn bó cảm thông đến như vậy. Dân Lào gọi những người cán bộ, chiến sỹ Việt Nam ấy là “ải noọng” (anh em). Còn những người lính tình nguyện Việt Nam nhận thức rất rõ về lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh: “giúp bạn là giúp mình, giúp bạn theo cách của bạn”. Những cảm tính dân tộc tích cực qua lời dạy giản dị mà hàm xúc của vị cha già dân tộc Hồ Chí Minh đã được khích lệ, nhân đôi ghi sâu trong tâm cảm của những người lính tình nguyện, những đại diện cảu dân tộc Việt Nam trên đất nước bạn Lào. Theo đó cái luôn tồn tại không chỉ là sự hy sinh, tận tụy với nhiệm vụ được giao mà còn là sự cố gắng tối đa học hỏi, tìm hiểu để có thể giúp bạn đựoc tốt nhất, hiệu quả nhất, và cũng theo đó cái không tồn tại là sự tự phụ, công thần, tư tưởng nước lớn.
Xem xét những đức tính tích cực của hai dân tộc nmà chúng ta vừa nêu trên, ngoài sự tương đồng, ta còn thấy một đặc điểm chung đó là những cảm tình mở. Do vậy mà cúng ta được đón nhận, được hoà quyện từ cả hai phía một cách thật nhẹ nhàng, dễ dàng như thế. Hảo tính dân tộc là yếu tố nền cho quan hệ Lào-Việt. Tôi muốn khẳng định thêm rằng: Đây là một sự gặp gỡ may mắn, có duyên của hai dân tộc láng giềng bởi vì không phải ở dân tộc nào trên thế giới này cũng có thể tồn tại những hảo tính như vậy. Với cái nền vững chắc của hai dân tộc từ trước đến nay, các thế lực thù địch sẽ không dễ gì phá vỡ, không dễ gì chia rẽ được khối đại đoàn kết, liên minh chiến đấu, hợp tác hữu nghị Việt-Lào.
Câu1c:
Trải qua bao nhiêu cuộc chiến tranh từ thời kỳ phong kiến cắt cứ đến chiến đấu chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân Lào đã hy sinh mất mát rất nhiều. Trong đó có cả những thất bại và thắng lợi. Song mỗi lần thất bại, lại tiếp tục đứng dậy và trưởng thành hơn, khiến cho kẻ thù không thể khuất phục được. Thắng lợi của cuộc cách mạng Lào cùng với các nước Đông Dương đã đánh dấu một bược ngoặt lớn của cách mạng thế giới. Chủ nghĩa thực dân bị đánh bật khỏi nước Lào. Để có được thắng lợi ấy, đó là nhờ vào tinh thần yêu nước, dũng cả của nhân dân Lào, tình thần đoàn kết chiến đấu của ccs nước láng giềng là rất lớn. Song còn phải kể đến sự lãnh đạo tài ba, mưu trí của những người đứng đầu trong Đảng nhân dân cách mạng Lào đã thường xuyên đề ra những chiến lược, sách lược đúng đắn, biết chớp lấy thời cơ và tổ chức các kỳ Đại họi, thành lập ra Đảng nhân dân cách mạng Lào đề kế tục sự nghiệp vinh quang của Đảng cộng sản Đông Dương giành được những thắng lợi to lớn, lái con thuyền ách mạng đến đúng bến bờ của độc lập tự do. Từ đó đến nay Đảng nhân dân cách mạng Lào đã họp các kỳ Đại hội. Đại họi sau kế tiếp Đaih hội trước và đồng thời đề ra những chiến lược phát triển kinh tế xã hội, xay dựng đất nước, hoàn thiện chế độ dân chủ trong mỗi thời kỳ.
Từ khi thành lập đến nay, Đảng nhân dân cách mạng Lào đã tiến hàng 7 lần Đại hội, đánh dấu những mốc son lịch sử của 47 năm lãnh đạo cách mạng Lào.
- Đại hội thành lập “Đảng nhân dân cách mạng Lào” vào ngày 22 tháng 3 năm 1955: tham dự Đại hội có 20 đại biểu đại diện cho gần 400 đảng viên. Nhiệm vụ chiến lược do Đại hội này đề ra là lãnh đạo toàn dân đoàn kết đấu tranh chống dế quốc Mỹ và thực dân Pháp, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dan tộc, xây dựng nước Lào hoà bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng.
- Đại hội lần thứ II: Đảng nhân dân Lào đã quyết định đổi tên Đảng thành “Đảng nhân dân cách mạng Lào”. Đại hội tiến hành trong tháng 2 năm 1972 tham dự có 125 đại biểu đại diện cho hơn một vạn đảng viên.
Đại hội đề ra nhiệm vụ chiến lược là đoàn kết dân tộc đánh đổ bọn đế quốc xâm lược bọn tư sản mại bản và giai cấp phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong toàn quốc, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua con đường tư bản chủ nghĩa xây dựng nước Lào hoà bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng.
- Đại hội lần thứ III: Đảng nhân dân cách mạng Lào tiến hành trong tháng 4 năm 1982, có 228 đại biểu đại diện cho 35000 đảng viên dự Đại hội. Đại hội đề ra hai nhiệm vụ chiến lược trong thời kỳ mới là bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng đất nước, từng bước quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, đặt kế hoạch 5 năm đầu tiên phát triển kinh tế-xã hội.
- Đại hội lần thứ IV: tiến hành trong tháng 11 năm 1986, tham dự có 303 đại biểu đại diện cho 45000 đảng viên. Đại hội quyết định đường lối “đổi mới”, từng bước tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đề ra nhiệm vụ phát triển đất nước đến năm 2000 và kế hoạch 5 năm lần thứ 2 phát triển kinh tế-xã hội năm 1986-1990, nhằm mục tiêu chủ yếu là giải quyết bằng được vấn đề lương thực, thực phẩm trên cơ sở phát triển nông thôn toàn diện.
- Đại hội lần thứ V: được tiến hành trong tháng 3 nămg 1991 tham dự có 367 đại biểu đại diện cho 60000 đảng viên. Đại hội quyết định thay chức vụ tổng bí thư thành chủ tịch Đảng.
Đồng thời Đại hội quyết định nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tạo cá nhân tố cần thiết để từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.
Nội dung chủ yếu của chế độ dân chủ nhân dân bao gồm:
Về kinh tế: là nền kinh tế thị trường, phát triển nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, nhiều loại hình tổ chức, nhiều quy mô và trình độ phts triển, bình đẳng trước pháp luật; xoá bỏ triệt đẻ cơ chế quản lý, tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý mới nhằm phát huye khả năng và vai trò của mọi thành phần, mọi tổ chức xã hội và mọi cá nhân vào phát triển đất nước, từng bước hiện đại hoá nền kinh tế.
Về chính trị: phát huy dân chủ mọi mặt trong đời sống xã hội, nâng cao vai trò của tổ chứuc quần chùng và xã hội, xây dựng bộ máy nhà nước phấp quyền của dân, do dân và vì dân; kiện toàn vai trò lãnh đạo cảu Đảng trong hệ thống chính trị; thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật.
Về văn hoá xã hội: tăng cường chính sách đại đoàn kết trong mặt trận xây dựng tổ quốc, kế thừa và phát huy di sản văn hoá của các bộ tộc, xoá bỏ hong tục tập quán lạc hậu, tiếp thu có chọn lọc thành tựu văn hoá hiện đại, nâng cao trình độ dân trí, phúc lợi và công bằng xã hội.
Căn cứ vào đường lối của Đảng đề ra tại Hội nghị lần thứ V, vào tình hình trong nước và thế giới, hội nghị toàn thể ban chấp hành trung ương Đảng nhân dân cách mạng Lào lần thứ VI (khoá V) ngày 18/2/1993 đã thông qua chiến lược phát triển kinh tế xã hội Lào trong giai đoạn 1993-2000.
Chiến tranh đã đi vào quá khứ. Nhưng nó vẫn để lại trong lòng mỗi chúng ta những dư âm của lịch sử, để chúng ta biết nhớ lại một cách đúng lúc. Một thời kỳ gian khổ, anh dũng mà huy hoàng của nhân dân Đông Dương nói chung và nhân dân Lào nói riêng. Sống trong tự do ấm no hạnh phúc, nhà nước và nhân dân Lào luôn cố gắng phấn đấu để đưa đất nước của mình đi lên. Qua mỗi một kỳ Đại hội đều đề ra những nhiệmv ụ chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của mình trong thời gian kế tiếp và kết quả là đã giành được những thắng lợi to lớn trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội và trên mặt trận ngoại giao, quan hệ quốc tế được mở rộng.
Thể kỳ XX là thế kỷ ghi đậm trong lịch sử loài người những dấu ấn sâu sắc. Đó là thế kỷ của khoa học-công nghệ tiến nhanh chưa từng thấy, kinh tế phát triển mạnh mẽ xen lẫn những cuộc khủng hoảng lớn như của chủ nghĩa tư bản thế giới. Đó là thế kỷ diễn ra hai cuộc chiến tranh thế giới đãm máy và xung đột vũ trang. Đó cũng là thể kỷ chứng kiến một phong trào cách mạng sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới, thắng lợi của cách mạng tháng 10 Nga, thắng lợi của hàng loạt các cuộc cách mạng diễn ra ở châu Âu, châu á, và Mỹ la tinh.
Đối với các nước Đông Dương trong đó có Việt Nam nói chung và đối với nhân dân Lào nói riêng, thế kỳ XX là thế kỳ của những biến đổi to lớn, thế kỷ của cuộc đấu tranh oanh liệt giành lại độc lập, tự do cho đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau cá phong trào yêu nước, các cuộc khởi nghĩa cảu Lò Kha Luật (1901-1937), Chậu Pha Pắt Chay (1918-1922)… Năm 1930 Đảng cộng sản Đông Dương ra đời trực tiếp lãnh đạo cách mạng Đông Dương và Cách mạng Laò bước qua một trang mới. Ngày 22/3/1955, Đảng nhân dân cách mạng Lào chính thức ra đời tiến hành kỳ họp Đại hội lần I lãnh đạo nhân dân chống Mỹ cứu nước đưa đến thắng lợi giải phóng đất nước. Ngày 2/12/1975 Đại hội đại biểu toàn quốc đã thông qua quyết định xoá bỏ chế độ phong kiến nửa thựuc dân, thành lập nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Đồng thời cũng là thắng lợi của sự nghiệp đổi mới của đất nước năm (1986) do Đại hội IV đề ra.
Nhân dân Lào họ tự hào về dân tộc họ, một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng anh dũng kiên cường và có tình đoàn kết cao.
Thế kỷ XXI sẽ lại tiếp ục có nhiều biến đổ khoa học công nghệ có những bước tiến nhảy vọt, toàn cầu hoá nền kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Đấu tranh dân tộc và giai cấp tiếp tục diễn ra gay gắt. Các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh để lựa chọn và quyết định con đường phát triển cho mình. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội. Khu vực Đông Nam á, châu á Thái Bình Dương, sau khủng hoảng tài chính kinh tếm có khả năng phta triển năng động. Đồng thời mở ra những cơ hội lớn và thách thức lớn.
Một số những thành tựu đạt được sau 15 năm đổi mới.
Sau 10 năm chấn hưng đất nước, từ năm 1986 đến nay, cộng hoà dân chủ nhân dân Lào tiến hành đổi mới toàn diện. Nền kinh tế có nhiều khởi sắc và có chiều hướng phát triển rõ rệt.
Ba năm đầu của kế hoạch 5 năm lần II (1986-1990), do ảnh hưởng của quá trinh chuyển đổi cơ chế quản lý và thời tiết không thuận lợi, cho nên tốc độ tăng trưởng kinh tế không đạt được mục tiêu như đã định.
Từ năm 1989 đến nay, do tác động của nhưũng biện pháp chính sách kinh tế mới, GDP tăng trưởng tương đối ổn định, trung bình hàng năm đạt 6-7%. Năm 1989, GDP tăng 13,5%. Năm 1990: 6,6%. Năm 1991 là 4%. Năm 1994 là 8,1% tức là 780,6 tỷ Kíp.
Sự phát triển kinh tế trong những năm 1990 đến này chủ yếu do tăng trưởng của lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Theo giá cố định nưam 1988, tổng sản phẩm công nghiệp trong GDP từ 16,2% đến 17,3%. Tỷ lệ các ngành dịch vụ trong GDP từ 21,3% đến 25,6%.
Chính sách phát triển nông nghiệp toàn diện, phát triênt kinh tế bắt đầu từ hộ gia đình dã thúc đẩy chăn nuôi phát triển. Năm 1994 sản lượng lúa đạt 1,58 triệu tấn.
Có thể khẳng định rằng, thành quả cơ bản của cách mạng Lào từ sau khi giành được chính quyền đến nay đã đạt được những khởi sắc mới. Nhờ sự ổn định về chính trị và xã hội, Lào đã lựa chọn đổi mới vắt đầu từ lĩnh vực kinh tế và đã tập trung huy động mọi nguồn lực, kể cả vay vốn và đầu tư nước ngoài vào thúc đẩy kinh tế phát triển. Trải qua các Đại hội Đảng nhân dân cách mạng Lào đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế cụ thể.
Với phương châm “dân giàu nước mạnh” mục tiêu quan trọng của đổi mới nhằm tăng cường và nâng cao vai trò làm chủ của nhân dân các bộ tộc về mọi mặt, chăm lo lợi ích thiết thực của nhân dân. Thông qua đó không ngừng củng cố quan hệ giữa Đảng và nhà nước với nhân dân, giữa dân tộc và giai cấp. Trong những năm qua, tiến trình đổi mới có những bước tiến xa cả về thời gian, quy mô và tốc độ.Về nông nghiệp kinh tế hộ gia đình được xác định là chủ đạo trong kinh tế tự nhiên, đời sống nhân dân dần ổnđịnh. Công nghiệp cũng phát triển hơn nhờ những chính sách phát triển công nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Nền kinh tế tự nhiên được chuyển sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Trong cuộc chấn hưng đất nước, sự nghiệp trồng người được đặc biệt quan tâm chú ý. Đặt ra mục tiêu xoá mù chữ trong 765.400 người dân các bộ tộc , thực hiện cách mạng văn hoá tư tưởng phải đi trước một bước để xây dựng con người của thời đại mới đã thu được những kết quả tốt đẹp, tuy là chưa xoá hết được mù chữ.
Các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, truyền hình trung ương và các tỉnh, các cơ quan xuất bản báo chí như : Nhà xuất bản Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, Nhà xuất bản Thanh niên, Phụ nữ… đã góp phần quan trọng trên mặt trận văn hoá tư tưởng, chống lại các luận điệu phá hoại của các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, giữ vững ổn định an ninh trong nước, tăng cường uy tins của Lào trên trường quốc tế, nâng cao trình độ dân trí cả về văn hoá và chính trị.
Những kết quả, con số ước tính của năm 1999-2000 đã đạt được phần lớn trên thực tế. Đời sống nhân dân Lào tăng lên đáng kể: Tiền tệ: đòng kíp mới(NK); 1NK=100at; tỷ giá hối đoái : 1USA=7,674NK (tháng 1-2000). GDP theo PPP: đạt 7 tỷ USD (ước tính năm 1999). GDP bình quân đầu người theo PPP: 1,300 USD (ước tính năm 1999). Cơ cấu GDP theo các khu vực sản xuất nông nghiệp 51%, công nghiệp 22%, dịch vụ 27%, (ước tính năm 1999) .
Lực lược lao động:1- 1,5 triệu người; giáo dục đoà tạo – trình độ biết đọc, biết viết: trên tổng số dân: 57%; nam 70%, nữ 44% (ước tính của năm 1999).
Đánh giá về những thành tựu mà nước Lào đã đạt được trong những năm qua là cả một sự nỗ lực và cố ngắng lớn. Là một người bạn láng giềng tôi xin ghi nhận và khâm phục trước những gì các bạn lào đã làm được, tuy vẫn có những nhược điểm và khó khăn.
Nhận thức rõ về tình thế giới và khu vực Đông Nam á đảng nhân dân cách mạng Lào đã tiến hành Đại hội lần thứ 7 vào tháng 3 năm 2001 tại thủ đô Viêng Chăn, tham dự có 452 đại biểu đại diện cho hơn 100.000 đảng viên. Đồng thời đại hội quyết định đường lối chiến lược cho giai đoạn tiếp theo mà Đảng và nhân dân Lào phải làm đó là :
Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện; hoàn thiện chế độ dân chủ nhân dân; tạo các nhân tố cơ bản cho sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tiếp tục chính sách kinh tế nhiều thành phần; chuyển nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá; phấn đấu đạt mục tiêu đến năm 2020 là đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển; mức sống của nhân dân tăng gấp 3 lần so với hiện nay.
Con đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh; có mức tích luỹ ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế, hợp lý có sức cạnh tranh, kết cấu hạ tầng hiện đại có một số ngành công nghiệp then chốt, giữ vững ổn định kinh tế tài chính vĩ mô; đảm bảo an ninh lương thực … xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; kết hợp giữa nội lực và ngoại lực thành tổng hợp để phát triển đất nước.
Trước mắt, tập trung nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên co sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất nước tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị trường trong nước, khu vực và ngoài nước, nhu cầu đời sống nhân dân và quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh xuất khẩu.
Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy mạnh nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, ngư nghiệp và nhất là lâm nghiệp lên một trình độ mới bằng những ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ sinh học, đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá, quy hoạch sử dụng đất hợp lý, đổi mới cơ cấu cây trồng vật nưôi, giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá, đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn. Chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông thôn sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn.
Công nghiệp vừa phát triển các nghành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào một số nhành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, may, xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp vặng quan trọng sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị cho các ngành kinh tế và quốc phòng. Chú trọng phát triển các doanh nghiệp lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hoá … Sớm phổ cập sử dụng tin học và Mạng thông tin quốc tế ( Internet ) trong nền kinh tế và đời sống xã hội.
Phát huy vai trò của vùng kinh tế trọng điểm như là :
XaVaNaKhet, ViêngChăn, LuôngPhaBang …
Có chính sách hỗ trợ nhiều hơn cho các vùng khó khăn để phát triển kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, xoá mù chữ xoá đói giảm nghèo, đưa các vùng này vượt qua tình trạng kém phát triển. Có chiến lược phát triến kinh tế, giao lưu giữa các vùng biên giới.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần, chuyển nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh, nộp đủ thuế và có lãi.
Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức, hợp tác đa dạng trong đó hợp tác xã là nòng cốt để liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các thành phần kinh tế nhỏ ở nông thôn và thành phố đều được nhà nước tạo điều kiện để giúp đỡ như cho vay vốn, hỗ trợ khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường thuận lợi cho kinh doanh về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân được phát triển trên định hướng ưu tiên của nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài.
Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong và ngoài nước. Bên cạnh đó tạo diều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Chú trọng phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong và ngoài nước với quy mô phù hợp trên từng địa bàn.
Thúc đẩy sự hình thành, phát triển va từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế được thuận lợi, đặc biệt với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần: phát triển thị trường hàng hoá với dịch vụ có định hướng và điều tiết của kinh tế nhà nước.
Khẩn trương tổ chức thị trường khoa học và công nghệ, thực hiện tốt bảo hộ sở hữu trí tuệ, đẩy mạnh phát triển các dịch vụ về thông tin chuyển giao công nghệ, đảm bảo thị trường vốn được bền vững.
Xây dựng hệ thống ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu tín dụng, cung ứng các dịch vụ ngân hàng thuận lợi cho xã hội. Kiện toàn các ngân hàng thương mại nhà nước thành những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ tự chủ, có uy tín đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh đó hợp tác phát triển các ngân hàng liên doanh hữu nghị như với Việt Nam.
Thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đồng thời còn phải giải quyết tố các vấn đề xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Giải quyết việc làm là một chính sách xã hội cơ bản. Bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều việc làm mới, tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động, dẩy mạnh phong trào lập nghiệp của thanh niên và đào tạo lao động có nghề. Tổ chức quản lý chặt chẽ hoạt động xuất khẩu lao động và bảo vệ quyền lợi người lao động ở nước ngoài. Điều chỉnh tiền lương tương ứng với nhịp độ tăng thu nhập trong xã hội. Thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo cho người dân thông qua những biện pháp cụ thể, sát với tình hình từng địa phương. Nâng cao chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản- kế hoạch hoá gia đình, giải quyết toỏ mối quan hệ phân bố dân cư hợp lý với quản lý dân số và phát triển nguồn nhân lực.
Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Để đảm bảo cho các lĩnh vực được thực hiện tốt cần phải tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ được coi là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của nước Lào.
47 năm qua, 7 lần đại hội chứng minh rõ ràng Đảng nhân dân cách mạng Lào ngày càng trưởng thành đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo của quá trình phát triển cách mạng. Sự nghiệp giải phóng dân tộc đã hoàn thành; chế độ dân chủ nhân dân đang trong quá trình hoàn thiện; công cuộc đổi mới hiện nay thu được những thành tựu quan trọng, nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào đang vững bước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một số hình ảnh về quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
Bác Hồ và Hoàng thân Xu Va Nu Vông tại chiến khu Việt Bắc năm 1951
Bác Hồ và đồng chí CayXỏnPhônViHản năm 1962 tại Việt Nam
Ngày 14/5/2002 Tại cung văn hoá hữu nghị, Thành uỷ, UBND và Mặt trận tổ quốc Hà Nội tổ chức mít tinh trọng thể chào mừng đồng chí Khăm Tày Xi Phan Đon Chủ tịch Đảng nhân dân cách mạng Lào đến thăm hữu nghị chính thức nước ta: Tới dự có Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, chủ tịch nước Trần Đức Lương.
Câu 2
Câu 2a:
Lào và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 5 tháng 9 năm 1962 trong bối cảnh hai nước đang tiến hành cuộc chiến tranh kháng chiến chống Mỹ cứu nước vào thời điểm gay go phức tạp. Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà còn tạm thời bị chia cắt thành hai miền Nam Bắc. Còn vương quốc Lào thành lập chính phủ liên hiệp lần thứ hai theo hiệp định Giơnevơ năm 1962 về Lào gồm phái cách mạng Pa Thiết Lào, phái trung lập và phái hữu Viên Chăn (Phái cách mạng đã đoàn kết được phái hữu Viên Chăn).
Quá khứ đã khép lại một chặng đường lịch sử gian khổ và hi sinh, tương lai mở ra một thời đại mới. 40 năm qua mối tình đoàn kết Việt Lào đã trở nên gắn bó và thân thiết, 70 năm cùng chung sức đấu tranh giành độc lập dân tộc, kề vai sát cánh bên nhau xây dựng hoà bình và bảo vệ vứng chắc tổ quốc.
Trên thế giới hiếm có hai dân tộc láng giềng nào cùng chung một số phận và con đường đi lên tương đồng như Việt Nam – Lào, cùng là thuộc địa của thực dân Pháp và Mỹ, đứng nên giành độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương và cùng đấu tranh anh dũng, lâu dài vì độc lập tự do trong 30 năm và giành thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng của mỗi dân tộc. Tiếp đó cùng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong hoà bình và ngày nay cùng thực hiện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế với nhiều thành tựu quan trọng. Tình đoàn kết chiến đấu và hợp táp ấy đã được chủ tịch Hồ Chí Minh và chủ tịch Cay xom Phôm Vi Hản dày công vun đắp, xây dựng lên. Chủ trương liên minh đoàn kết Việt – Lào xuất phát trước hết từ quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin về sự đoàn kết liên minh chiến đấu giai cấp vô sản và tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Năm 1954 khi nhân dân hai nước cùng tiến hành cách mạng giành chủ quyền, chính phủ lâm thời yêu nước Itxalan thành lập. Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà công nhận nhà nước Lào và tăng cường quan hệ với các nhà lãnh đạo Lào. Khi cách mạng hai nước đang còn trong trứng nước Việt – Lào đã thành lập liên quân Việt – Lào. Với những chiến sỹ tình nguyện quân Việt Nam chiến đấu anh dũng sát cánh bên bạn Lào, mở đầu cho liên minh phối hợp các lực lượng vũ trang hai nước sau này. Ngay trong thư gửi bộ đôi tình nguyện Việt Nam ở Lào Bác Hồ đã nêu cao tư tưởng “giúp bạn tức là giúp mình”.
Trong thời kỳ 1954 – 1975 sự đoàn kết và hợp tác Việt – Lào càng phát triển vượt bậc. Đó là sự hỗ trợ lẫn nhau trên mặt trận quân sự làm thất bại âm mưu phá hoại cách mạng Lào của chính quyền phái hữu Lào, góp phần vào việc đánh bại cuộc chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Đó là thắng lợi mở đường Hồ Chí Minh chạy dọc Trường Sơn, đường giao thông huyết mạchchi viện cho miến Nam Việt Nam và là căn cứ địa cách mạng của ba nước. Năm 1962 quan hệ ngoại giao 2 nước được chính thức ký kết. Quan hệ 2 nước ngày càng được khẳng định. Sự phối hợp chặt chẽ của quân dân hai nước trên hai chiến trường cùng đánh bại chiến tranh cục bộ của Mỹ, đưa đến việc ký hiệp định Pari về Việt Nam và hiệp định Viêng Chăn về Lào năm 1973. Việt Nam ủng hộ Lào ba lần thành lập thành công chính phủ liên hiệp, cô lập phái hữu phản động, làm cho thế lực cách mạng ngày càng vững mạnh đến thắng lợi của cách mạng lào tháng 12/1975.
Từ sau năm 1975, cả hai nước bước vào thời kỳ mới,. Xây dựng hoà bình và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Quan hệ giữa hai nước chuyến từ quan hệ chiến đấu chống kẻ thù chung sang quan hệ hữu nghị, đoàn kết và hợp tác toàn diện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Đảng Nhân Dân Cách Mạng Lào trong xây dựng và phát triển kinh tế, đời sống mới. Đồng thời để bảo vệ nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình và thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong những vấn đề cực kỳ nghiêm trọng, bảo đảm sự ổn định và phát triển vững chắc của mỗi nước. Chính vì vậy vấn đề biên giới lãnh thổ đã được lãnh đạo cấp cao của hai nước quan tâm. Trên cơ sở đó đã dẫn đến việc ký kết hai hiệp ước: Hiệp ước Hứu nghị và hợp tác, Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước vào ngày 18/7/1977 tại thủ đô Viên Chăn.
Hiệp ước được ký kết có ý nghĩa quan trọng làm cơ sở pháp lý vững chắc cho việc tăng cường và mở rộng mối quan hệ đặc biệt Việt – Lào, tạo cơ sở để ký hàng loạt các thoả thuận hợp tác sau này giữa hai nước.
Trong những năm 80 hai nước tiếp tục hợp tác chặt chẽ trong lĩnh vực ngoại giao đấu tranh chống lại sức ép của một số nước khác trong vấn đề Camphuchia. Sự đoàn kết Việt – Lào đã trở thành nhân tố có tầm chiến lược bảo đảm thắng lợi trong công cuộc xây dựng và baỏ vệ chủ nghĩa xã hội của hai nước.
Câu 2b:
Từ lâu đời Việt Nam và Lào đã từng có những mối quan hệ truyền thống tốt đẹp, nhân dân của hai dân tộc đã từng có mối quan hệ gắn bó với nhau một cách trong sáng, hai đất nước đều có chung một hoàn cảnh, định mệnh đó là chống lại chủ nghĩa thực dân và đế quốc. Ngay từ những buổi đầu của cuộc kháng chiến nhân dân Việt – Lào đã đoàn kết kháng chiến, cùng nhau vùng dậy đấu tranh anh dũng vì sự nghiệp giải phóng và giành độc lập cho dân tộc và tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp bạn là giúp mình”.
Sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau trên mặt trận quân sự đã đem lại những thắng lợi to lớn làm thất bại mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù, góp phần vào đánh bại cuộc chiến tranh đặc biệt của Mỹ ở Việt Nam – Lào. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước vô cùng khó khắn. Mỹ tiến hành chiến tranh đặc biệt để phá hoại đất nước ta và chia cắt 2 miền Nam – Bắc. Chúng đã thực hiện những chính sách đàn áp dã man nhất với Việt Nam, nèm bom phong toả tất cả các nẻo đường, ngăn chặn sự tiếp tế chi viện cho Miền Nam. Buộc chúng ta phải rơi vào tình thế khó khăn. Nhưng nhờ có sự hợp tác, đoàn kết Việt – Lào, dưới sự hỗ trợ của Lào ta đã tiến hành mở đường Hồ Chí Minh chạy dọc Trường Sơn để đánh Mỹ. Đó là con đường máu sống còn của cách mạng có ý nghĩa chiến lược, là đầu mối giao thông huyết mạch bí mật chi viện cho Miền Nam Việt Nam và đồng thời là căn cứ địa cách mạng của ba nước Đông Dương.
Tuyến đường Hồ Chí Minh trong những năm nước ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đi qua các tỉnh của nước bạn Lào như: Bohykhămxay, Khăm muôn, Sa văn na khiệt, Xê koong, Sa la văn… . Trong những năm tháng chiến tranh đường Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng cho thắng lợi của kháng chiến, trên con đường ấy đã đổ xu._.n tộc lâm thời Lào đã ký thoả thuận Liện Xô viện trợ không hoàn lại cho Lào trong việc xây dựng một số công trình sau chiến tranh. Trong đó, có bệnh viện, cầu, đường ô tô, cơ sở dầu khí, xưởng sửa chữa ô tô và một số công trình kinh tế, xã hội khác.
Đầu năm 1976, chính phủ hai nước đã ký hiệp định trong lĩnh vực viện trợ, thương mại, lưu chuyển hàng hoá và trả nợ. Từ năm 1977, chính phủ Lào ký với Liên Xô hiệp định hợp tác kinh tế và kỹ thuật, thăm dò địa chất, phục hồi các cơ sở khai thác thiếc, xây dựng nhà máy gạch, xưởng sửa chữa nông cụ, cầu đường, bịnh viện và đào tạo cán bộ trong kế hoạch 3 năm 1978-1980.
Trong những năm 1976-1980, trao đổi hàng hoá giữa Lào và Liên Xô tăng hơn 3 lần. Hàng hoá từ Liên Xô nhập vào Lào tăng gần 50% so với lượng hàng nhập của Thái Lan vốn là bạn hàng chính của Vương quốc Lào thời kỳ trước năm 1975. Trong đó, 60-70% hàng Liên Xô xuất sang Lào là máy móc thiết bị và phương tiện giao thông vận tải. Năm 1979, chính phủ hai nước ký hiệp định thành lập Uỷ ban liên chính phủ giám sát việc hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật giữa hai nước.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ I (1981-1985), hợp tác giữa Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào với Liên Xô đặc biệt quan tâm dến việc phát triển củng cố sơ cở vật chất kỹ thuật của ngành giao thông vận tải. Kế hoạch dự định tăng 250% giá trị luân chuyển hàng hoá giữa Lào với Liên Xô và nang tổng giá trị buôn bán của Lào với các nước xã hội chủ nghĩa chiếm 70%. Điều đó có nghĩa là Lào định hướng gần như toàn bộ hoạt động kinh tế đối ngoại giai đoạn 1981-1985 vào ccs nước xã hội chủ nghĩa. Về phía Liên Xô, kế hoạch 5 năm lần thứ XI của Liên Xô đặt chỉ tiêu trao đổi hàng hoá với Lào sau 3 năm sẽ tăng từ 3 đến 3,5 lần; tăng viện trợ giúp đỡ cho Lào lên 7 lần so với năm 1978-1980.
Những nước và tổ chức quốc tế giúp Lào đàng kể nhất bao gồm các tổ chức trong hệ thống Liên hợp quốc, quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Nhật Bản, Thuỵ Điển, ngân hàng thế giới (WB), Liên hiệp phát triển vốn của Liên hợp quốc, quỹ nhi đồng liên hợp quốc và tổ chức sức khoẻ thế giới v.v… các nước tư bản phát triển và tổ chức quốc tế đã giúp đỡ và cho Lào vay tín dụng với điều kiện ưu đãi.
Chương trình phát triển của Liên hợp quốc giúp Lào chủ yếu về kỹ thuật trong những năm 1983-1987 chiếm 36859 nghìn USD trong tổng số 69036 nghìn USD của các nước không thuộc hệ thống các nước XHCN. Các tổ chức khác của liên hợp quốc tập trung chủ yếu giúp Lào về vốn, bao gồm viện trợ hàng hoá, viện trợ các dự án công trình và văn hoá xã hội. Quỹ nhi đồng liên hợp quốc trong chương trình 5 năm 1987-1991 đã viện trợ 11,4 triệu đô la cho các dự án về sức khoẻ, nước sạch nông thôn, giáo dục, phụ nữ và phát triển.
Trong mối quan hệ song phương, Lào nhận được từ Nhật Bản về vốn tài chính. Hàng năm, Nhật giúp Lào 15-20 triệu USD, tập trung vào việc nâng cao sức khoẻ, phát triển rừng, nông nghiệp, cảng sông, giáo dục và phát triển thành thị. Ngược lại Australia chú trọng đến giúp đỡ về mặt kỹ thuật và đóng góp một phần nhỏ trợ giúp bằng vốn, tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp, chăn nuôi, xây dựng cảng sông v.v… Thụy Điển giúp Lào cả về vốn và kỹ thuật, đứng thứ ba sau UNDP và Nhật Bản viện trợ cho Lào trong giai đoạn 1983-1987.
Sự giúp đỡ Lào nhận được từ các nước tư bản phát triển và các tổ chức quốc tế trong những năm 1983-1987 được phản ánh qua biểu thống kê dưới đây.
Sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế và các nước tư bản (1983-1987)
(Đơn vị: nghìn USD)
Kỹ thuật
Vốn
Tổng số
+ Hệ thống Liên hiệp quốc
Chương trình phát triển của LHQ
Tổ chức Nông nghiệp và lương thực
Quỹ hoạt động dân số của LHQ
Tổ chức sức khoẻ thế giới
Hội phát triển quốc tế
Chương trình lương thực thế giới
Quỹ phát triển tư bản Liên hợp quốc
Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc
Cao uỷ Liên hợp quốc về người tị nạn
Các tổ chức khác
+ Song phương
Ôxtrâylia
Thụy Điển
Nhật
Hà Lan
Thụy Sĩ
Các nước khác
+ Các chương trình và hoạt động của các tổ chức đa phương ngoài hệ thống Liên hợp quốc , các tổ chức phi chính phủ
36.589
1.505
621
2.275
-
-
1.179
-
838
10.949
14.136
-
1.452
42
61
1.159
139
-
-
22.893
1.131
5.040
3.267
3.225
1.904
2.497
14.683
31.456
3.601
91
4.528
14.306
36.859
1.644
621
2.275
22.893
1.131
5.040
4.446
3.225
2.742
13.446
28.819
31.456
5.053
133
4.643
15.456
+ Tổng cộng
69.036
110.853
179.889
Do khủng hoảng ở Đông Âu và Liên Xô cũ, trong những năm 186-1990, Lào thiếu hụt 165 triệu USD trong tổng số 465 triệu USD kinh phí bên ngoài để thực hiện kế hoạch. Vì vậy, nhiều công trình không thực thi được. Trong đó có công trình thuỷ nông ở đồng bằng Viêng Chăn. Năm 1988, viện trợ song phương đạt 25 triệu USD. Từ năm 1990, viện trợ của nước ngoài tăng 53,4%. Giữa những năm 1991-1992, tài trợ quốc tế tăng khoảng 20%. Năm 1993, ước tính tài chính quốc tế giành cho Lào qua nhiều kênh tiếp tục tăng khoảng 5,6%, đạt 65 triệu USD. Trong những năm 1990-1993, trung bình mỗi năm, Lào nhận được 144,5 triệu USD. Viện trợ kỹ thuật chiếm 12-17%. Những khoản vay bằng 34% đến 44% tổng số tài trợ của nước ngoài. Thiếu hụt ngân sách tiếp tục được bên ngoài tài trợ và cho vay. Dự tính của các chuyên viên tài chính quốc tế, trung bình mỗi năm, viện trợ nước ngoài tính theo dân số vào khoảng 40 USD một người dân.
Khuynh hướng giúp đỡ của nước ngoài
(đơn vị triệu USD)
1990
1991
1992
1993
Viện trợ song phương
56,7
66,8
72,5
65,2
Trong đó có giúp đỡ kỹ thuật
7,6
12,8
10,2
Viện trợ đa phương
-
18,4
18,7
38,1
Vay đa phương
52,4
47,1
71,1
57,8
Vaysong phương
2,6
0
0
10,3
Tổng số
111,7
132,3
162,3
171,4
Mậu dịch ngoại thương giữa Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhỏ hơn nhiều so với mậu dịch ngoại thương của Lào với các nước châu á khác. Mặc dù không ổn định và sau Thái Lan, Nhật Bản giữ vị trí chủ đạo trong ngoại thương của Lào đối với các nước không thuộc cộng đồng xã hội chủ nghĩa cũ. Nhật Bản chiếm gần 70% tổng giá trị xuất khẩu và 40-60% tổng giá trị nhập khẩu của Lào với các nước tư bản phát triển. Sau Nhật, các nước khác như Italia, Pháp, Tây Đức, Mỹ chiếm 20-25% toàn bộ khối lượng nhập khẩu và 30% giá trị xuất khẩu của Lào trong những năm 1976-1981.
Quan hệ thương mại giữa Lào với Thuỵ Điển, Mỹ v.v… tiếp tục được duy trì và củng cố. Thuỵ Điển có vai trò quan trọng trong quan hệ kinh tế đối ngoại của Lào, nhất là trong lĩnh vực bảo tồn và khai thác tài nguyên rừng. Năm 1983, hai bên đã ký hiệp định hợp tác. Thuỵ Điển giúp Lào phát triển công nghiệp, thông tin giao thông vận tải và bảo vệ rừng. Mỗi năm Thuỵ Điển viện trợ giúp Lào khoảng 12 triệu đô la, tập trung cho các lĩnh vực trên.
Mỹ là nước viện trợ chủ yếu cho Vương quốc Lào thời kỳ trước năm 1975. Từ năm 1971 đến năm 1973, phần tài trợ của Mỹ cho chính quyền vương quốc luôn trên 70% trong tổng số viện trợ của các nước tư bản cho vương quốc Lào. Sau thắng lợi của cách mạng Lào năm 1975, Mỹ đình chỉ quan hệ với Lào và thông qua các biện pháp nhằm hạn chế cho Lào vay. Do ảnh hưởng của Mỹ, một số nước tư bản phương tây cũng ngừng quan hệ với Lào, làm cho nguồn vốn tái thiết sau chiến tranh có phần giảm sút trong những năm 1976-1977.
Chính sách đối ngoại vì mục tiêu hoà bình, độc lập và phát triển của Lào đã tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ giúp đỡ của quốc tế, sớm làm thay đổi chính sách thù địch của Mỹ. Năm 1978, chính quyền Oashingtơn buộc phải viện trợ 5 triệu USD lương thực để Lào khắc phục hậu quả thên tai. Năm 1982, Mỹ trang bị thiết bị y tế cho bệnh viện Mahảxôt ở Viêng Chăn. Năm 1984, chính phủ Mỹ huỷ bỏ việc ngăn cản Lào vay vốn dài hạn để phát triển.
Nhìn chung nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào đã chủ trương phát triển hợp tác toàn diện với Trung Quốc và các nước bạn chiến lược xã hội chủ nghĩa- chính phủ Lào rất coi trọng thiết lập và phát triển hợp tác tốt đẹp và hiệu quả với các nước láng giềng. Tích cực vào các hoạt động của hiệp hội các nước Đông nam á (ASEAN). Chính sách đối ngoại của Lào chú ý vào việc mở rộng và phát triển quan hệ hợp tác với Liên Bang Nga và các nước độc lập trong khối cộng đồng (SNG), với các nước không liên kết và đang phát triển quan tâm tăng cường hợp tác với các nước công nghiệp phát triển. Lào là thành viên chính thức của Liên hợp quốc tham gia các tổ chức quốc tế: ASEAN, ASDP, FAO, G-77, ICAO, IFAD, ILO, IMF, UNESCO, ƯHO, INTERPOL, IOC, ITU, và là thành viên chính thức của ASEAN vào 23/7/1997. Đến nay, cộng hoà dân chủ nhân dân Lào đã có quan hệ ngoại giao với 111 nước trên thế giới.
Với đường lối ngoại giao đúng đắn và việc thể hiện tích cực chủ động hội nhập, cộng hoà dân chủ nhân dân Lào có vị trí ngày càng cao trên trường quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ ngày càng nhiều của các nước, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển đất nước, đồng thời góp phần vào hoà bình, an ninh, hợp tác phát triển và tiến bộ xã hội ở khu vực và trên thế giới.
Như chúng ta đã biết Lào là một đất nước nhỏ, diện tích là 236.800km2 nằm trên bán đảo Đông Dương ở giữa 5 nước có chung đường biên giới đó là : Việt Nam, Trung Quốc, Cămpuchia, Thái Lan, Mianma .Do vậy để tạo được môi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển đất nước, chính phủ Lào đã kiên định chính sách đối ngoại trước sau như một là : Hòa bình, độc lập, hữu nghị và hợp tác với các nước. Trước hết là thắt chặt và tăng cường truyền thống đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện với cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Để bảo vệ nền độc lập chủ quyền, và toàn vẹn lãnh thổ của mình và thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng bảo vệ tổ quốc, tiến lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là một trong những vấn đề cực kỳ quan trọng, bảo đảm sự ổn định và phát triển vững chắc của một đất nước. Chính vì vậy, vấn đề biên giới lãnh thổ đã được lãnh đạo cấp cao hai nước quan tâm đặc biệt. Thực tế sau khi hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, về mặt biên giới lãnh thổ giữa hai nước Việt-Lào vẫn chưa có đường biên giới được hoạch định bằng những hiệp ước giữa hai nước có độc lập, chủ quyền mà mới chỉ có ranh giới nội bộ của 5 xứ Đông Dương thuộc Pháp.
Tình hình trên gây không ít khó khăn cho việc quản lý và giải quyết các sự kiện liên quan đến biên giới lãnh thổ hai nước. Trên cơ sở của thỏa thuận cấp cao, hai nước đã đàm phán và đi đến ký hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, vào cùng ngày ký hiệp wowsc hữu nghị và hợp tác giữa hai nước ngày 18 tháng 7 năm 1977, căn cứ vào hiệp ước này, hai nước đã hoàn thành phân giới cắm mốc quốc giới hơn 2.067km đường biên giới từ ngày 25/7/1978 đến ngày 24/8/1984.
Toàn tuyến đường biên giới hai nước đã được hoạch định và cắm mốc nối liền 10 tỉnh của Lào là Phongxalỳ, Hủa Phăn(Sầm Nưa), LuôngPhaBang, Xiêng Khoảng, Bolikhămxay, Khăm Muộn, Sa va na khet, Sa ra văn, Attơ Pơ, với mười tỉnh của Việt Nam đó là: Lai châu, Sơn Lào, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Kom Tum.
Kết quả của việc phân giới trên thực địa và cắm mốc quốc giới giữa hai nước đã được ghi nhận bằng nghị định thư về phận giới cắm mốc giữa hai nước; nghị định thư này đã là phụ lục đính kèm của hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước ký ngày 18/7/1977. Với lòng mong muốn không ngừng củng cố và phát triển mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác giữa cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hai bên hợp tác về mọi mặt và hết lòng giúp đỡ nhau để cùng xây dựng đường biên giới thành đường biên giới hữu nghị góp phần bảo vệ an ninh biên giới, tăng cường tình đoàn kết gắn bó.
Với tinh thần hạt gạo cắn đôi, cọng rau sẻ nửa giữa nhân dân hai nước và tạo điều kiện thuận lợi cho việc sinh sống, quan hệ qua lại của nhân dân hai bên biên giới, sau nhiều năm chuẩn bị đến tháng 12 năm 1989 hai nước đã phối hợp xây dựng và hòa chỉnh hiệp định về quy chế biên giới quốc gia giữa cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cộng hòa dân chủ nhân dân Lào để thay thế 14 điều quy định đầu tiên về quy chế biên giới ngày 3/7/1978.
Ngày 1/3/1990 hiệp định nói trên đã được đại diện hai chính phủ ký kết tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 5/5/1990 hiệp định đã được hội đồng nhà nước phê chuẩn và đến ngày 6/11/1990 hai bên đã trao đổi thư phê chuẩn và hiệp định có hiệu lực kể từ tháng 6/1991. Cùng chung đường biên giới "Tắt lửa tối đèn có nhau" nhân dân hai bên biên giới đang ra sức phát triển hợp tác giúp đỡ nhau mọi mặt nhằm mục tiêu xây dựng biên giới hòa bình hữu nghị và hợp tác, một mẫu mực trong quan hệ láng giềng.
Từ đó đến nay, hai nước đã giao ban biên giới của chính phủ( nay là Ban biên giới của Bộ ngoại giao) phối hợp các bộ, ngành và các tỉnh có chung đường biên giới triển khai thực hiện hiệp định một cách thường xuyên và nghiêm chỉnh trên toàn tuyến biên giới giữa Việt Nam- Lào, đưa công tác quản lý và bảo vệ đường biên giới và hệ thống mốc quốc giới hai nước vào nền nếp; việc qua lại và hợp tác của nhân dân hai bên biên giới ngày càng thuận lợi và dễ dàng hơn, góp phần giữ vững an ninh trật tự, làm cho kinh tế, văn hóa, xã hội trong khu vực biên giới hai nước không ngừng được củng cố và phát triển. Nhân dân giữa hai nước không ngừng được kề vai sát cánh giúp đỡ lẫn nhau, về mọi mặt giao lưu kinh tế, văn hóa, bên cạnh đó giữa nhân dân các tỉnh bên giới hai nước còn kết nghĩa anh em như Thanh Hóa với Hủa Phăn ...
Để kỷ niệm 25 năm hiệp định hợp tác hữu nghị và hiệp định hoạch định biên giới Việt- Lào. Từ ngày 15 đến 19 tháng 7 năm 2002 đã diễn ra tuần liên hoan hữu nghị nhân dân biên giới Việt-Lào, tại thủ đô Hà Nội, Nghệ An, Quảng Ninh.
Phong sa lỳ :
Tỉnh nay bao gồm 6 huyện đó là : Phongsaly, Muangmai, Muang Khua, Sambouxay và Youou. Với dân số là 153.000 người và có hơn hai mươi nhóm dân tộc sinh sống. Một trong số các dân tộc đó là : Loma, Ikoakha, Pusang, Thai dam, Thai deng, Yeo, Phai, Solo... sự phong phú về cộng đồng dân tộc là điểm hấp dẫn lý tưởng thu hút khách du lịch. Đặc biệt là với các phong tục tập quán, ngôn ngữ, trang phục, tín ngưỡng, tôn giáo. Các đồ thủ công dệt bằng tay và các đồ làm từ bạc là những món quà quý giá mà các du khách đều rất khâm phục tài năng của những người thợ thủ công của địa phương.
Savanakhet :
Trung tâm của tỉnh này là Khanthabouly một thị trấn quan trọng trong suốt thời kỳ thuộc địa, ở đây có hàng loạt các tòa nhà cổ theo lối kiến trúc của Pháp. Ngoài ra còn các điểm hấp dẫn khác đó là đền : VatsayaPhoum và đền Thatinghang nơi thờ nhiều tượng phật. Trên tuyến đường sang Việt Nam các du khách có thể thấy được các vết tích còn lại của loài khủng long được các nhà khoa học Pháp phát hiện vào những năm 1930. Nếu như chúng ta quan tâm tới lịch sử thì đường mòn Hồ Chí Minh cũng ở gần đây nơi đã diễn ra biết bao nhiêu bom đạn của kẻ thù.
Khămmuôn :
Là một tỉnh nằm giáp với biên giới Việt Nam và Thái Lan, nơi diễn ra các hoạt động giao lưu văn hóa, kinh tế giữa ba nước. Thủ phủ của tỉnh này là ThaKhek. Khăm Muôn có dân số là 260.000 người với 7 nhóm dân tộc đó là : Phuan, Tahoy, Kri, Ka tang ... ở Thakhek, một số công trình kiến trúc Pháp vẫn được bảo quản. Các điểm du lịch khác như That Sikhotabong, một thánh đường được xây dựng vào khoảng thế kỷ 9-10. Tỉnh có một tiềm năng đó là phát triển du lịch.
Bolykhămsay :
Paksan là trung tâm của tỉnh Bolykhămsay nằm ở miền trung nước Lào, điểm nổi tiếng hấp dẫn khách du lịch là Vatphrabat nơi có thánh đường in dấu chân của đức phật, một đặc điểm quan trọng cho một cuộc hành hương, ngoài ra còn có các đặc điểm hấp dẫn khác : BanNahin, Poupha Mane, nơi có thể nhìn thấy khu rừng đặc trưng với hàng ngàn ngọn núi đá. Khu rừng Nam Thuen rất lý tưởng cho các tua du lịch sinh thái học vì địa điểm được bảo vệ, nơi tìm thấy rất nhiều loài vật hoang dã.
Xiêng khouang :
Tỉnh Xiêng Khouang nằm trên một cao nguyên với nhiều dãy núi cao. Nơi đây nổi tiếng với những địa danh "đồng bằng của những chiếc bình" đá được khắc trên các khối đá to và nằm rải rác trên khắp cao nguyên. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số tính năng của các chiếc bình có chiều cao nhất là 3.25m , một giả thiết cho rằng những chiếc bình này được làm từ bàn tay con người cũng giống như chiếc quan tài dùng để bảo vệ các bộ xương người đã được phát hiện ra gần đây. Những chiếc bình này đã được xây khoảng 2500-3000 năm. Bên cạnh đó tỉnh Xiêng Khouang cũng có những điểm du lịch thăm quan khác đó là : Vatpiavat một ngôi mộ được xây dựng vào khoảng thế kỷ 16. Ngoài ra Xiêng Khouang có phong cảnh thiên nhiên đẹp, có các dòng suối nước nóng ở phía Bắc có tên gọi là BanNoi và Ban Yai.
Câu 3c:
Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào; Đất nước của nhiều tên gọi gắn với lịch sử, đặng trưng của văn hoá dân tộc: Nói tới đất nước Lào người ta nhớ đến đó là đất nước của hoa Chăm Pa, của các lễ hội chùa chiền, của Lăm Khắp, tơi, , của xú pha xít và lời nói giao duyên.
Năm 1349-1357 ( thế kỷ 14) vua Phạm Ngừm đã thống nhất đất nước Lào và đặt tên là Lạn Xang ( nghĩa là đất nước triệu voi) có thủ đô Xiêng Xong Viêng Thong (ngày nay là Luông Pra Băng). Luông Pra Băng đã trở thành kinh đô đầu tiên, thành phố cổ của Lào được thành lập vào năm 1953 (phật lệnh).
Luông Pra Băng ngày nay đã trở thành khu du lịch cổ kính đẹp nhất của Lao nằm ở vùng thượng lưu sông Mê Công và là tỉnh lỵ ở trung Lào. Dân số thành phố có khoảng 68.000 người và đồng thời là trung tâm phật giáo của đất nước Lào tiêu biểu là đạo Phật. Nói đến Luông là nói đến nơi có nhiều chùa phật và các danh lam thắng cảnh như: Tháp Thạt Phu Sỉ, chùa Xiêng Thoong, chùa Pha Bat Tai, cung Vua, Thác Kuang Xi và hơn 300 ngôi chùa khác. Ngoài những nghệ thuật về kiến trúc, du khách còn được ngắm nhìn phong cảnh của thiên nhiên và sự u tịnh của ngôi chùa cổ, bảo tàng cung điện Hoàng Gia của quốc vương Si Sa Vang Vong là nơi trưng bày rất nhiều đồ cổ vật của Hoàng Gia. Chợ Luông Pra Băng cũng là một điểm du lịch khá thú vị nằm ở trung tâm của thành phố. Bên cạnh đó ở Luông Pra Băng có những làng nghề thủ công truyền thống như: Gốm, Sứ, chạm Bạc, dệt sa rông. Luông Pra Băng có 32 di tích cổ, một trong số đó có độ tuổi ít nhất là 200 năm. Về kiến trúc của thành phố rất đa dạng, phản ánh một sự kết hợp tài tình của nền kiến trúc đô thị được người châu Âu thiết kế xây dựng vào cuối thế kỷ XIX. Cảnh quan thành phố cho đến ngày nay vẫn được bảo tồn và giữ gìn nguyên vẹn. Luông Pha Bang đã thể hiện sự hội nhập một cách sáng tạo của hai nền văn hoá truyền thống nổi tiếng phương Đông và phương tây.
Năm 1995 Luông Pha Bang đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá của thế giới. Vi vạy vai trò và tầm quan trọng của Luông Pha Bang càng được đề cao. Đây không chỉ là một thành phố có thu nhập cao đứng thứ 3 của Lào sau Viêng Chăn và XaVaNaKhẹt. Cụ thể là trung tâm kinh tế văn hoá xã hội của các tỉnh phía bắc Lào.
Ngày nay thủ đô của Lào là Viêng Chăn được xây dựng năm 1560 dưới triều vua XệtThảThiLạt. Viêng Chăn nằm ngay trên tả ngạn một khúc cong của dòng sông Mê Kông, giữa vùng đồng bằng phù sa màu mỡ. Viêng Chăn nguyên là kinh đô của vương quốc Lạn Xạng được thành lập từ năm 1353. Đến năm 1707, Vương quốc Lạn Xạng bị chia cắt, một vương quốc thứ hai được dựng lên ở Luông Pra Băng. Đất nước bị xuy yếu đi nên đến năm 1778, Viêng Chăn bị quân Xiêm đánh chiếm và cướp đi mât Pracu (Ngọc Phật). Năm 1828 Viêng Chăn lại một lần nữa bị cướp bóc và phá hoại, khi nhà vua bị nô lệ nổi dậy chống lại bá quyền của Xiêm.
Từ 1899 đến 1953 (trừ thời kỳ chiếm đóng của Nhật năm 1945 Viêng Chăn liên tục là nơi trị vì của Toàn quyền Pháp và là thủ đô hành chính của chính quyền thực dân Pháp. Từ 1975 đến nay Viêng Chăn là thủ đô của nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.
Thủ đô Viêng Chăn rộng khoảng 15000 km2 với dân số khoăng 528140 người được thành lập từ đầu thế kỷ 17, bị người Xiêm phá hỏng vào năm 1827. Thành phố được thựuc dân Pháp xây dựng lại theo quy cách của một thành phố thuộc địa. Cũng như nước Lào, thủ đô Viêng Chăn đã trải qua những năm tháng dưới ách đô hộ chiếm đóng của nước ngoài, lại phải chịu một cuộc chiến tranh tàn khốc gần nửa thế kỷ, vì vậy Viêng Chăn không được xây dựng và phát triển hiều. Viêng Chăn theo tiếng địa phương phát âm là: Wiêng Chan, ngày nay là một thành phố thanh bình với nhiều đền đài miếu mạo và những khu chợ sống động. Tại đây, có đài tưởng niệm quốc gia quan trọng nhất của đất nước Triệu Voi, đó là Thát Luang. Thát Loang vốn là biểu tượng thiêng liêng của phật giáo cũng là biểu tượng chủ quyền của Quốc gia Lào.
Những điểm văn hoá du lịch quan trong của Viêng Chăn trước hết phải kể đến ngôi đền Wat Pha Kaew, một ngôi đền do gia đình hoàng tộc trước đây xây dựng, dưới chính quyền nhân dan, ngôi đền lộng lẫy này đã trở thành viện bảo tàng nổi tiếng của nhân dân các bộ tộc Lào. Ngôi chùa Wat Si Sa Ket là một ngôi chùa cổ của Viêng Chăn, mang phong cách kiến trúc phật giáo Lào rất rõ nét. Đặc biệt chùa Wat Xiêng Khuan, nơi tập hợp một bộ sưu tập hấp dẫn các tác phẩm nghệ thuậ điêu khắc Phật giáo và đạo Hindu rất quý hiếm. Chùa được xây dựng trên khoảng đất rộng, cách trung tâm Viêng Chăn 24 km về phía nam. Tại trung tâm thành phố có ngôi chợ “buổi sáng” khá bề thế với nhiều gian hàng đầy ắp hàng hóa, hoạt động đông vui náo nhiệt từ sáu giờ sáng tới sáu giờ chiều.
Công nghiệp của Viêng Chăn bao gồm các nhà máy bia, cưa xẻ gỗ, sản xuất gạch ngói, vải, thuốc lá, diêm,sắt thép. Viêng Chăn nóng ẩm hơn Luông Pra Băng. Nông dân ở ngoại ô trồng lúa và ngô, chăn nuôi ở một số vùng đất thấp do phù sa bồi đắp. Trước 1975, Viêng Chăn là trung tâm xuất cảng chính, song từ khi việc nhập hàng hoá từ Thái Lan tới thì Viêng Chăn lại trở thành cảng sông chính nhập khẩu của Lào, thay cho Pắc Xế ở Nam Lào trước kia.
Trường Đại học Viêng Chăn có các khoa nông nghiệp, môi trường, giáo dục, lâm nghiệp, thuỷ lợi, y học. Các chi nhánh của trường bao gồm trường cao đẳng Phạ Ngừm, trường trung học Viêng Chăn, trường Bách khoa và các học viện tiếng Paly và tiếng Phạn.
ở Viêng Chăn ngưòi ta đi lại trên sông bằng thuyền nhỏ, còn đi qua hữu ngạn và Ga đầu Noọng Khai của Thái Lan trước đây phải đi bằng phà, nay đã có cầu. Viêng Chăn có một sân bay quốc tế và các quốc lộ nối liền với Luông Pra Băng, Xavannakhẹt và thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam.
Nhà máy thuỷ điện Nạm Ngừm ở phía bắc Viêng Chăn cung cấp đủ điện cho thành phố và các vùng xung quanh, xuất cả sang Thái Lan. Viêng Chăn ngày nay đã trở thành trung tâm kinh tế văn hoá xã hội chính trị của đất nước Lào.
Một số nét khái quát về văn hoá-phong tục tập quán của Lào
Mỗi một đất nước, một dân tộc đều có những truyền thống và phong tục tập quán khác nhau thể hiện đặc trưng của dân tộc, biểu trưng của đất nước mình. Tuy nhiên Việt Nam và Lào đều có chung một cái gì đó rất tương đồng trong mỗi con người. Thật thàm chịu khó và thân thiên, giản dị và gần gũi.
Các dân tộc trên thế giới đều có lễ hội tiễn năm cũ đón mừng năm mới. Người Lào có lễ hội “PunPiMay” có nghĩa là mừng năm mới. Tết của người Lào diễn ra từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 4 hàng năm. Tính theo Phật lịch vì ở Lào đạo phật trở thành quốc đạo đã có từ lâu đời.
Người Lào gọi là vui Tết chứ không gọi là ăn tết. Trong thời gian này diễn ra nhiều hoạt động khác nhau được tổ chức như: rửa các tượng phật bằng nước thơm, chúc mừng nhau bằng cách té nước, lễ tưởng niệm Baci, những cuộc tụ tập của nhân dân địa phương với trang phục và nhạc cụ truyền thống. Và có các chương trình đặc biệt được tổ chức ở thành phố cổ Luông Pra Băng như: buổi diễn cô gái sang khan lộng lẫy, cuộc diếu hành hàng năm…
Tất cả những cuộc vui chơi đều được chuẩn bị theo truyền thống tôn giáo phù hợp với phong tục tập quán của người Lào. Trong những ngày lễ hội họ vui chơi là chủ yếu. Tuy nhiên họ cũng chuẩn bị những đồ ăn thức uống hơn ngày thường. Cơm nếp Padeck được dùng trong bữa ăn truyền thống của người Lào, đặc biệt không thể thiếu rượu, không có rượu coi như không có tết.
Ngày mùng một tết, từ sáng sớm dân làng diện những bộ quần áo đẹp nhất, với nhiều màu sắc sặc sỡ tập trung tại sân chùa để dự lễ tắm Phật. Xong lễ tắm phật mọi người nhà làm lễ buộc chỉ cổ tay cho những người thân trong gia đình. Tục lệ này gọi là lễ “Fuộc Khẻng” (buộc chỉ cổ tay) hay còn gọi là lễ “Xù Khoảnh” (lễ gọi hồn vía).
Nhân dịp đầu năm con cháu đến chúc mừng ông bà cha mẹ, bạn bè, người thân. Gặp may mắn và hạnh phúc. Cũng vì lẽ đó lễ mừng năm mới còn có tên “Bun Hốt Nặm” (lễ tưới nước) đặc trưng của tết Lào. Thanh niên nam nữ tưới nước cho nhau, vừa để chúc mừng nhau vừa là dịp để tỏ tình. Người Lào vốn rất hiền hoà, ít nói trầm lặng không thích ồn ào. Song trong những ngày lễ truyền thống của dân tộc mình họ sống rất sôi nổi, hết mình không phân biệt giàu nghèo, già trẻ sau đó mới bước vào một năm lao động mới.
Điệu múa “Lăm Vông” (vúa vòng tròn) là điệu múa phổ thông của nguời Lào trong các dịp hội hè, lễ tết và đặc biệt trong dịp tết mừng năm mới. Bước đi nhịp nhàng, theo tiếng trống bập bùng va làn điệu dân ca đằm thắm, múa Lăm Vông thật sự ngấm vào tâm hồn người Lào từ thủa ấu thơ. Bao giờ tiếng khèn cũng là khúc nhạc dạo đầu, kèm theo đó là tiếng trống theo nhịp 2/4 hoặc 4/4. Một vài chàng trai ra giữa vòng tròn múa dạo đầu rồi đến mời các cô gái đang đưng đợi quanh vòng, một đôi nữa dần dần rồi đến các đôi khác nôi đuoi nhau. ở các đô thị cùng múa Lămvông nhưng trang trọng hơn vì có các quan khách, có nghi thức mời mọc phải thông qua vòng hoa danh dự (Phum ma lay). Phum ma lay được quan khách hoặc người chủ cuộc vui trả tiền. Phum ma lay được quàng vào cổ người được mời múa kèm theo đó là cử chỉ cung kính chắp tay vái mở đầu cho cuộc vui.
Múa lăm vong trở thành một nét văn hoá truyền thống đặc sắc của người Lào. Múa say mà người vẫn tỉnh; giữ được nhịp bước, thể hiện được tình cảm, đượm một chất lạc quan, trữ tình đơn giản rất chất Lào. Đồng thời vòng Lămvông còn thể hiện sự đoàn kết gắn bó thân thương của đan tộc Lào. Chính vì thế điệu múa này không bao giờ có thể văng mặt trong nhưung ngày bun dân rã và lạc quan trong cuộc sống của người Lào.
Bên cạnh đó trong dịp tết người Lào còn só phong tục buộc chỉ cổ tay. Mọi người đến dự đều ngồi bao qunh một cái mâm làm bằng mây dùng để ăn cơm hàng ngày trên mâm là một nắm chỉ cùng với nến thắp sáng và cắm hoa ở giữa. Sợi chỉ buộc đầu tiên bao giờ cũng thuộc về người đứng ra tổ chức rồi mới lần lượt đến người khác theo thứ tự tuổi tác và từ trong ra ngoài. Động tác buộc chỉ dùng bàn tay xoa nhẹ lên chỗ vòng chỉ hoặc nắm chặt bàn tay người được buộc mà lắc lắc mấy cái biểu lộ tình cảm tin tưởng, yêu quý lẫn nhau. Trong khi người buộc tiến hành các động tác như thế thì người được buộc vẫn ngồi nghiêm trang, tay còn laịi chắp lên ngực một cách cung kính, miệng luôn vâng dạ để biểu lộ sự tiếp nhận va biết ơn tấm lòng của nguời đã buộc chỉ cho mình.
Chăm pa (hoa đại) là một loài hào biểu tượng của dân tộc Lào: hương sắc ngào ngạt của hoa phản ảnh rõ tính cách, tâm hồn của dân tộc Lào. ấy là những con người có một vẻ đẹp giản dị, chan hoà, gìn giữ và thật thà, hương thơm ấy còn được hiểu là cái hồn của đất nước anh dũng vẻ vang.
Hoa Chăm pa đã từ lâu đi vào thơ ca của cuộc sống dân tộc Lào. Bài thơ Chăm pa Mương Lao của Uttama và MahaPhu mi đã trở thành một bài thơ yêu nước đầu tiên được công khai hoá. Trong bài thơ ấy tác giả đã mô tả về hoa chăm pa, mượn hình ảnh của hoa để bày tỏ tình yêu quê hương đất nước của mình.
“Ôi hoa chăm pa khi mới nhìn hoa
Tôi đã thấy hiện ra bao cảnh sắc”
Loài hoa ấy chính là biểu tượng của cảnh đẹp, đất nước và con người Lào với nước non trùng điệp, với dòng sông Mê Kông chảy dài theo đất nước, với những khu rừng bạt ngàn cây xanh và hương hoa phong lan ngào ngạt. Hoa chăm pa là sự tổng hợp các vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước và con người Lào mang đậm một bản sắc riêng biệt của tâm hồn Lào thông qua hương hoa chăm pa mà không thể lẫn với bất kỳ một loài hoa nào khác. Cái đẹp ấy cao qúy và thanh khiết, cuối cùng là cái thiêng liêng của người Lào. Ngoài cái đẹp bản sắc riêng của dân tộc Lào ra nó còn bao hàm thêm một ý khác nữa. Năm cánh hoa xoè ra thể hiện sự đoàn kết muốn hợp tác vươn tới 5 nước láng giềng với thể ứng xử cởi mở, cân bằng, mềm mại, hoà đồng bên ngoài, thống nhất ở bên trong. ở Lào hoa chăm pa có nhiều loại và mọc khắp nơi. Người dân Lào thường trồng hoa chăm pa đã tô điểm cho vẻ đệ thanh bình êm ả của đất nước và sống động hơn trong không khí hội hè.
Du khách đến thăm đất nước Lào (Triệu Voi) là đến thăm đất nước hoa chăm pa xinh đẹp. Hạnh phúc biết bao khi được các cô gái choàng lên cổ vìng hoa chăm pa, buộc vào cổ tay vòng chỉ cầu mong phúc lành, đam mê không muốn dứt trong những điệu múa Lăm vông dưới bóng cây chăm pa.
Những hình ảnh sôi động mang đậm phong tục tập
quán của người Lào trong dịp năm mới
Lễ hội rước voi mừng năm mới của Lào
Bức tranh về 3 nhóm tộc người Lào (Lào Lùm, Lào Thơng, Lào Sủng)
Lời kết
Hơn 70 năm qua mối quan hệ không ngừng được vun đắp. Ngày nay trước những thách thức và vận hội mới, mối quan hệ đực biệt thuỷ chung hiếm có ấy đã trở thành đặc sản quý báu của hai dân tộc.
Năm nay, kỷ niệm 40 năm thiét lập quan hệ ngoại giao và 25 năm hợp tác hữu nghị Lào-Việt, chúng ta lại có dịp cùng nhau ôn lại quá khứ và hứa hẹn ột tương lai ngày càng tốt đẹp hơn. Nhân dân hai nước đã vui mừng tổ chức nhiều hoạt động để kỷ niệm hai sự kiện trong đại này, Trong đó có cuộc thi “Việt-Lào trong trái tim tôi” được báo tiền phong và Hội liên hiệp hữu nghị phối hợp cùng tổ chức. Cùng chung với niềm vui lớn của mọi ngưòi, cá nhân tôi đã nhiệt tình tìm hiểu và đóng góp phần nhỏ bé của mình vào để cuộc thi được thành công tốt đẹp.
Hé mở chút ít vào đời sống của bạn Lào để chúng ta có thể cảm nhận được phần nào về chút lạc quan, dân dã, phong tục tập quan thiên nhiên và lịch sử đã gắn bó với dân tộc Việt Nam trong tình cảm và hành động huữu nghị lâu đời, hiếm có.
Tôi xin được kết thúc bài viết của mình. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn ban tổ chức cuộc thi và báo tiên phong đã ra nhưũng số báo tạo điều kiện cho tôi được hoàn thành bài dự thi của mình trong điều kiện tài liệu rất khó tìm và hiếm hoi.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0055.doc