Tìm hiểu về công tác quản lý và tổ chức hạch toán thuế giá trị gia tăng (VAT) trong Doanh nghiệp ở Việt Nam

Lời nói đầu Đối với mỗi một Nhà nước thuế không chỉ là công cụ thu của Ngân sách mà còn là công cụ điều tiết toàn bộ nền kinh tế. Do vậy, khi nền kinh tế của mỗi nước chuyển sang một giai đoạn mới thì chính sách thuế của quốc gia cũng phải được cải cách cho thích hợp với điều kiện và những thay đổi mới mẻ của nền kinh tế. ở nước ta, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, từ năm 1990 đến nay, hệ thống chính sách thuế đã qua 2 lần chuyển đổi. Trong đó, cải cách thuế giai đoạn II với sự ra đời

doc28 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1382 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tìm hiểu về công tác quản lý và tổ chức hạch toán thuế giá trị gia tăng (VAT) trong Doanh nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của thuế Giá trị gia tăng được xem như cuộc cải cách thuế toàn diện và sâu sắc, đánh dấu một bước ngoặt trong lĩnh vực quản lý tài chính của Việt Nam. Với mục đích nghiên cứu sâu hơn về thuế GTGT và việc hạch toán thuế GTGT ở các doanh nghiệp hiện nay, em quyết định chọn đề tài “Tìm hiểu về công tác quản lý và tổ chức hạch toán thuế Giá trị gia tăng trong doanh nghiệp ở Việt Nam” cho chuyên đề kế toán trưởng của mình. Nội dung chuyên đề gồm ba phần chính: Phần I: Lý luận chung về tổ chức hạch toán thuế GTGT. Phần II: Thực trạng công tác quản lý và tổ chức hạch toán thuế GTGT trong doanh nghiệp ở Việt Nam. Phần III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác tổ chức hạch toán thuế GTGT. Do hạn chế về thời gian cũng như kinh nghiệm thực tiễn nên chuyên đề không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô để khắc phục được những thiếu sót của mình. Phần I. Lý luận chung về công tác quản lý và tổ chức hạch toán thuế Giá trị gia tăng I. Lý luận chung về thuế giá trị gia tăng 1. Khái niệm cơ bản Để hiểu rõ kế toán thuế giá trị gia tăng (GTGT). Trước hết phải tìm hiểu khái niệm cơ bản, bản chất của thuế GTGT cũng như phương pháp tính thuế GTGT. 1.1. Khái niệm thuế GTGT Thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng (Điều 1- Luật thuế GTGT) 1.2. Đối tượng nộp thuế, chịu thuế: - Đối tượng nộp thuế : Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác nhập khẩu hàng hoá chịu thuế (gọi chung là người nhập khẩu) là đối tượng nộp thuế (Điều 3- Luật thuế GTGT) - Đối tượng chịu thuế: hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh và tiêu thụ ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế GTGT trừ đối tượng được quy định ở Điều 4 - Luật thuế GTGT (Điều 2 - Luật thuế GTGT). 1.3. Căn cứ tính thuế: Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất được quy định cụ thể tại Điều 7 và Điều 8 - Luật thuế GTGT như sau: -Giá tính thuế * Đối với hàng hoá, dịch vụ là giá bán chưa có thuế GTGT. Như vậy, giá bán (giá trên thị trường) không có thuế GTGT, còn giá thanh toán bao gồm cả giá bán và thuế GTGT. *Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu (giá bán). Giá thanh toán bao gồm giá bán cộng với thuế GTGT. * Đối với hoạt động xây dựng, giá tính thuế GTGT là giá xây dựng chưa có thuế GTGT ( giá dự toán). - Thuế suất + Mức thuế suất 0% đối với hàng xuất khẩu + Mức thuế suất 5% đối với hàng hoá là thuốc chữa bệnh phân bón, nước sạch. + Mức thuế suất 10% đối với hàng hoá là dầu mỏ, khí đốt, than đá, sản phẩm may mặc. + Mức thuế suất 20% đối với hàng hoá, dịch vụ là du lịch, khách sạn, ăn uống. 2. Quá trình hình thành và phát triển của thuế GTGT. 2.1. Trên thế giới VAT có nguồn gốc từ thuế doanh thu và người đầu tiên đề xuất loại thuế này từ năm 1919 là một ngươì Đức tên là Von Siemens, nhằm khắc phục sự chồng chéo của thuế doanh thu. Tuy vậy, Von Siemens không thuyết phục được chính phủ Đức áp dụng loại thuế này. Đến năm 1947 nó lại được đề cập trong việc nghiên cứu cải tổ hệ thống thuế của nhà kinh tế Mỹ tên là CiCad. Trên thực tế, VAT ra đời đầu tiên ở Pháp do kết quả của cả một quá trình lâu dài nhằm hoàn thiện hệ thống thuế nước này. Vào năm 1917, Pháp đã bắt đầu áp dụng thuế doanh thu. Lúc đầu, thuế chỉ đánh 1 lần vào giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá (khâu bán lẻ) với thuế suất 0,2%. Sau đó, năm 1920, thuế doanh thu mở rộng ở cả khâu sản xuất. Trong thực tế, cách đánh thuế này đã phát sinh nhược điểm là quá trình sản xuất ra sản phẩm càng qua nhiều khâu thì giá bán càng cao, do thuế chồng chéo lên thuế. Để khắc phục điều này, từ năm 1936 - 1954, Pháp liên tục cải tiến chính sách thuế. Đến 01/7/1954, VAT được áp dụng đầu tiên ở Pháp áp dụng rộng rãi với tất cả ngành nghề sản xuất, lưu thông (kể cả bán lẻ) với thuế suất (5,5%; 7%; 18,6%; 33,3%). 2.2. ở Việt Nam. Riêng ở Việt Nam, nhận thấy tính khoa học tiên tiến của sắc thuế GTGT, ngày 21/12/1972 chính quyền Sài Gòn đã thiết lập thuế GTGT. Tuy nhiên, thời gian này thuế GTGT vẫn chưa được coi trọng nên không được thể hiện bằng một đạo luật hoàn chỉnh. Năm 1997, thực hiện theo tinh thần Nghị quyết đại hội Đảng lần VIII khoá IX, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã chính thức thông qua luật thuế GTGT, có hiệu lực thi hành từ 01/01/1999. 3. Sự cần thiết phải thực hiện thuế GTGT ở Việt Nam. Năm 1990 - 1995, hệ thống chính sách thuế nước ta đã tiến hành cải cách thuế bước I, với sự ra đời của thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi tức, qua 5 năm thực hiện, cuộc cải cách đã bộc lộ một số hạn chế như: - Hạn chế về tính bao quát khi mà ngày càng có nhiều ngành nghề, nhiều loại hình kinh tế xuất hiện. - Hạn chế trong khuyến khích đầu tư khi mà các doanh nghiệp cần phải không ngừng tài đầu tư cả chiều sâu lẫn chiều roọng để có thể tồn tại trên thị trường. - Hạn chế trong việc đáp ứng yêu cầu hợp tác kinh tế với các nước khu vực và trên thế giới khi mà mở rộng quan hệ hợp tác là một xu hướng tất yếu cho sự phát triển hiện nay. -Hạn chế về tính đơn giản, rõ ràng, mỗi sắc thuế phải gánh vác đồng thời nhiều mục tiêu: thu NSNN, hướng dẫn SXKD, công bằng xã hội. Những hạn chế này khiến việc tìm hiểu và áp dụng một loại thuế tiên tiến hơn là một nhu cầu tất yếu. Chính vì vậy mà thuế GTGT đã ra đời. 3.1. Ưu điểm thuế GTGT so với thuế doanh thu. Một là, thuế GTGT khắc phục sự chồng chéo trùng lắp của thuế doanh thu vì thuế GTGT chỉ tính trên phần GTGT tạo điều kiện mở rộng sản xuất, lưu thông hàng hoá. Hai là, thuế GTGT đảm bảo sự bình đẳng giữa hàng hoá sản xuất trong nước với hàng hoá nhập khẩu bằng cách thu ngay thuế GTGT ở khâu nhập khẩu. Ba là, thuế GTGT thể hiện rõ tính trung lạp của thuế gián thu vì đối tượng chịu thuế là hàng hoá, dịch vụ chứ không phải doanh thu. Bốn là, thuế GTGT không phải là một chi phí như thuế doanh thu nên không ảnh hưởng đến kết quả lãi, lỗ của doanh nghiệp. Đặc điểm này của thuế GTGT tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm giá thành, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Năm là, thuế GTGT đơn giản hơn thuế doanh thu. Bởi vì thuế GTGT chỉ có 4 mức thuế suất trong khi thuế doanh thu có 11 mức thuế suất. 3.2. Nhược điểm thuế GTGT -Nhược điểm lớn của VAT cũng như các loại thuế gián thu khác là không mang tính luỹ tiến so với thu nhập nên không đảm bảo công bằng giữa các tầng lớp dân cư. Ví dụ ở Pháp, nếu thuế VAT có thuế suất 10% các hộ người nghèo phải nộp đến 14,20% tổng thu nhập hàng năm, trong khi các hộ giàu chỉ nộp 3% tổng thu nhập. -Việc hạch toán và quản lý thuế GTGT là tương đối phức tạp, phải có hoá đơn chứng từ mua vào, bán ra để khấu trừ thuế và hoàn thuế. Tuy vậy, VAT vẫn là loại thuế gián thu tiến bộ nhất hiện nay và thay thế thuế GTGT cho thuế Doanh thu là cần thiết và khách quan. II. Tổ chức hạch toán Thuế GTGT Sau khi thuế GTGT ra đời, Bộ tài chính đã kịp thời cho ra Thông tư hướng dẫn kế toán thuế GTGT: Thông tư 100/1998, thông tư 180/1998, Thông tư 91/2002,Thông tư 89/2002. Đây là bước đổi mới đáng kể trong lĩnh vực kế toán chứng tỏ kế toán Việt Nam đang tiến gần với kế toán quốc tế. 1. Tổ chức chứng từ và sổ sách kế toán. 1.1. Hoá đơn sử dụng. ở Việt Nam quy định 2 phương pháp tính thuế GTGT: Phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp. Cho nên, ứng với hai phương pháp này, Bộ Tài chínhđã cho ra hai loại hóa đơn. - Tổ chức cá nhân được tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ sử dụng hoá đơn GTGT loại 2 liên, 3 liên ký hiệu 01GTGT hoặc hoá đơn tự in. - Tổ chức cá nhân được tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì sử dụng hoá đơn bán hàng loại 2 liên, 3 liên ký hiệu 02GTGT, hoặc hoá đơn tổ chức, cá nhân tự in. Cụ thể như sau: * Nếu tổ chức, cá nhân tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì trên hoá đơn GTGT ghi rõ giá bán chưa thuế, thuế GTGT, tổng giá thanh toán (giá bán + Thuế GTGT). Hoá đơn GTGT do người bán hàng lập khi bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ thu tiền. Hoá đơn GTGT có 2 loại: Loại 1: Sử dụng cho đơn vị tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, bán hàng hoá, dịch vụ với số lượng lớn, mẫu số 01 GTGT-3LL. Hoá đơn lập thành 3 liên, đặt giấy than viết 1 lần, trong đó: Liên 1: Lưu tại quyển, Liên 2: Giao cho khách hàng, Liên 3: Dùng để luân chuyển hàng hoá, dịch vụ. Loại 2: Sử dụng cho đơn vị tính thế GTGT theo phương pháp khấu trừ, bán lẻ hàng hoá, dịch vụ với số lượng nhỏ. Hoá đơn có mẫu số 01-GTGT-2LL, được thành lập thành 2 liên, đặt giấy than viết 1 lần, Liên 1: Lưu tại quyển, liên 2:giao cho khách hàng. Trường hợp mua, bán lẻ hàng hoá, dịch vụ cho người tiêu dùng giá trị thấp dưới 100.000đ thì không bắt buộc phải cấp hoá đơn, nếu người mua hàng yêu cầu lập thì vẫn phải lập và giao hoá đơn theo đúng quy định. Hàng bán lẻ có giá trị thấp dưới quy định tuy không phải lập hoá đơn nhưng phải lập bản kê bán lẻ theo quy định hiện hành. *Nếu đơn vị tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì sử dụng hoá đơn bán hàng. Trên hoá đơn ghi tổng giá thanh toán. Hoá đơn này do người bán hàng lập khi bán hàng hoá, dịch vụ thu tiền. 1.2. Sổ sách kế toán sử dụng: - Đơn vị áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp sử dụng sổ + Sổ theo dõi thuế GTGT (Mẫu số S01 - DN) + Bảng kê hoá đơn, chứng từ hàng hoá, dịch vụ mua vào bán ra. - Đơn vị áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ sử dụng sổ + Sổ theo dõi chi tiết thuế GTGT được hoàn lại. (Mẫu số S02- DN) + Sổ chi tiết thuế GTGT được miễn giảm (Mẫu số S03-DN) + Bảng kê hoá đơn, chứng từ hàng hoá, dịch vụ mua vào bán ra. Ngoài ra, chế độ kế toán còn bổ sung: - Đối với những doanh nghiệp áp dụng hình thức sổ kế toán Nhật ký chứng từ, TK133 và TK3331 được theo dõi phản ánh trên nhật ký chứng từ số 10. Đối với những doanh nghiệp áp dụng hình thức sổ kế toán nhật ký sổ cái, thì nhật ký sổ cái được mở thêm 4 cột để phản ánh tài khoản 133 và tài khoản 3331. - Đối với những doanh nghiệp áp dụng hình thức sổ kế toán Nhật ký chung hoặc chứng từ ghi sổ thì TK3331, TK133 được theo dõi trên sổ cái mở cho từng tài khoản. 2. Phương pháp hạch toán thuế GTGT 2.1. Hạch toán thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế 2.1.1. Hạch toán thuế GTGT đầu vào được khấu trừ Để hạch toán thuế GTGT đầu vào theo phương pháp khấu trừ, kế toán sử dụng TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ, kết cấu của tài khoản này như sau: Bên Nợ: Số thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ. Bên Có: - Số thuế giá trị gia tăng đầu vào đã khấu trừ. - Kết chuyển số thuế giá trị gia tăng đầu vào không được khấu trừ. - Thuế GTGT đầu vào của hàng mua đã trả lại, được giảm giá. - Số thuế GTGT đầu vào đã hoàn lại. Số dư bên Nợ: Số thuế GTGT đầu vào còn được khấu trừ, số thuế GTGT đầu vào được hoàn lại nhưng ngân sách Nhà nước chưa hoàn lại. Tài khoản 133 có 2 tài khoản cấp 2 là: TK 1331- Thuế GTGT được khấu trừ của hàng hoá, dịch vụ. TK 1332- Thuế GTGT được khấu trừ của tài sản cố định. * Phương pháp hạch toán một số nghiệp vụ kinh tế chủ yếu. Khi mua vật tư, hàng hoá, dịch vụ, tài sản cố định dùng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế, kế toán ghi: Nợ TK liên quan ( 151, 152, 153, 156, 211, 213, 611, 627, 641, 642...) : Gía mua chưa có thuế GTGT. Nợ TK 133 ( 1331) : Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Có TK 331, 111, 112, 311...: Tổng giá thanh toán phải trả cho người bán, người cung cấp. Khi mua hàng hoá giao bán ngay (thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế) cho khách hàng ( không qua nhập kho), kế toán ghi: Nợ TK 632 : Gía vốn hàng bán (giá mua chưa có thuế GTGT đầu vào). Nợ TK 133 : Thuế GTGT được khấu trừ. Có TK 111, 112, 331: Tổng giá thanh toán. Khi trả lại hàng cho người bán, kế toán phải ghi giảm thuế GTGT đầu vào (nếu có): Nợ TK 111, 112, 331: Gía thanh toán của hàng trả lại cho người bán. Có TK 133: Thuế GTGT đầu vào. Có TK 152, 153 : Gía chưa có thuế GTGT. Trường hợp mua hàng nhập khẩu dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc diện chịu thuế GTGT, phản ánh số thuế GTGT của hàng nhập khẩu sẽ được khấu trừ: Nợ TK 133 ( 1331, 1332) : Thuế GTGT được khấu trừ. Có TK 3331 ( 33312) : Thuế GTGT phải nộp. Trường hợp mua vật tư, dịch vụ sử dụng cho sản xuất các mặt hàng, dịch vụ chịu thuế GTGT và các mặt hàng không thuộc diện chịu thuế GTGT: Về nguyên tắc phải hạch toán riêng số dùng để sản xuất các mặt hàng chịu thuế GTGT (được khấu trừ). Đối với thuế GTGT đầu vào của số vật tư, dịch vụ dùng để sản xuất các mặt hàng không thuộc diện chịu thuế GTGT được tính vào giá trị vật tư, dịch vụ mua ngoài hoặc đối tượng có liên quan. Trường hợp không tách được thì toàn bộ số GTGT đầu vào được tập hợp hết vào tài khoản 133. Cuối kỳ, phải phân bổ cho từng đối tượng dựa vào doanh thu từng loại. Nợ TK liên quan (151, 152, 153, 156, 611, 627, 641, 642...) : Gía mua chưa có thuế GTGT. Nợ TK 133 (1331) : Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Có TK 331, 111, 112, 311... : Tổng giá thanh toán phải trả cho người bán, người cung cấp. 2.1.2. Hạch toán thuế GTGT đầu ra Để hạch toán thuế GTGT đầu ra, kế toán sử dụng TK 3331 – Thuế giá trị gia tăng phải nộp. Tài khoản này áp dụng chung cho đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế và đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp. Kết cấu của TK 3331 như sau: Bên Nợ: - Số thuế giá trị gia tăng đầu vào đã khấu trừ. - Số thuế giá trị gia tăng được giảm trừ. - Số thuế giá trị gia tăng đã nộp vào ngân sách Nhà nước. - Số thuế giá trị gia tăng của hàng bán bị trả lại, bị giảm giá. Bên Có: - Số thuế giá trị gia tăng đầu ra phải nộp của hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ. - Số thuế giá trị gia tăng đầu ra phải nộp của hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, biếu, tặng, sử dụng nội bộ. - Số thuế giá trị gia tăng phải nộp của thu nhập hoạt động tài chính, thu nhập bất thường. - Số thuế giá trị gia tăng còn phải nộp của hàng hoá nhập khẩu. Số dư bên Có: Số thuế giá trị gia tăng còn phải nộp cuối kỳ. Số dư bên Nợ: Số thuế giá trị gia tăng đã nộp thừa vào Ngân sách Nhà nước. Tài khoản 3331 có hai tài khoản cấp 3: TK 33311- Thuế GTGT đầu ra của hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ. TK 33312 - Thuế GTGT hàng nhập khẩu. *Phương pháp hạch toán một số nghiệp vụ chủ yếu. Phản ánh thuế GTGT phải nộp khi tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá: Nợ TK liên quan ( 111, 112, 131...) : Tổng giá thanh toán. Có TK 3331 ( 33311) : Thuế GTGT phải nộp. Có TK 511, 512 : Doanh thu bán hàng. Đối với trường hợp hàng bán bị trả lại (thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế), kế toán ghi: Nợ TK 531: giá chưa có thuế của hàng bán bị trả lại. Nợ TK 3331: Giảm thuế GTGT phải nộp. Có TK 111, 112, 131...: Gía thanh toán của hàng bán bị trả lại. Trường hợp cung cấp dịch vụ thu tiền trước: Ghi nhận doanh thu là toàn bộ số tiền thu được chưa có thuế GTGT và thuế GTGT phải nộp: Nợ TK liên quan (111, 112...) : Tổng số tiền đã thu. Có TK 3331 (33311) : Thuế GTGT phải nộp. Có TK 338 (3387) : Doanh thu chưa thực hiện. Trường hợp phát sinh các khoản thu nhập từ hoạt động tài chính và hoạt động bất thường ( thu cho thuê TSCĐ, thu thanh lý, nhượng bán TSCĐ, thu về bán bất động sản...) : Nợ TK liên quan (111, 112, 131...) : Tổng giá thanh toán. Có TK 333(33311) : Thuế GTGT phải nộp. Có TK 515 : Thu nhập hoạt động tài chính. Có TK 711 : Thu nhập hoạt động bất thường. Khi nhập khẩu vật tư, thiết bị, hàng hoá, hạch toán số thuế GTGT phải nộp của hàng nhập khẩu: + Trường hợp nhập khẩu hàng hoá dùng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế, số thuế GTGT hàng nhập khẩu được khấu trừ, ghi: Nợ TK 133 : Thuế GTGT được khấu trừ. Có TK 3331 (33312) : Thuế GTGT phải nộp. + Trường hợp nhập khẩu hàng hoá dùng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng hoặc chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp hoặc dùng vào hoạt động sự nghiệp, chương trình dự án, văn hoá, phúc lợi, số thuế GTGT hàng nhập khẩu không được khấu trừ, kế toán ghi: Nợ TK 152, 156, 211. Có TK 3331 (33312) : Thuế GTGT phải nộp. Khi nộp thuế GTGT hàng hoá nhập khẩu vào Ngân sách Nhà nước, kế toán ghi: Nợ TK 3331 (33312) : Thuế GTGT phải nộp. Có TK 111, 112. 2.1.3. Quyết toán thuế GTGT - Cuối kỳ, kế toán xác định số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và số thuế GTGT đầu ra phải nộp trong kỳ, kế toán ghi: Nợ TK 3331 : Thuế GTGT phải nộp. Có TK 133 : Thuế GTGT được khấu trừ. - Khi nộp thuế GTGT vào ngân sách Nhà nước: Nợ TK 3331 : Thuế GTGT phải nộp. Có TK 111, 112. * Nếu số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế GTGT đầu ra phát sinh trong kỳ thì chỉ được khấu trừ số thuế GTGT đầu vào bằng (=) số thuế GTGT đầu ra. Số thuế GTGT đầu vào còn lại được khấu trừ tiếp vào kỳ tính thuế sau hoặc được xét hoàn thuế. Trường hợp được hoàn lại thuế GTGT (khi số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ của 3 tháng liên tục lớn hơn số thuế GTGT đầu ra các tháng tương ứng, thuế GTGT của TSCĐ khấu trừ 3 tháng liên tục chưa hết): Nợ TK liên quan (TK 111, 112): Số đã nhận. Có TK 133: Số đầu vào được hoàn lại. Có TK 3331: Số nộp thừa được hoàn lại. Trường hợp được giảm thuế : Nợ TK 3331: Trừ vào số phải nộp. Nợ TK 111, 112: Số được giảm đã nhận. Có TK 711: Số thuế GTGT được giảm trừ. * Hạch toán thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ được khái quát thành sơ đồ như sau: Sơ đồ 1. Hạch toán thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ TK 331, 111, 112 TK 151, 152, 211 TK 511, 515, 711 TK 131, 111, 112 Gía mua vật tư Doanh thu bán hàng hàng hoá, TS chưa và thu nhập có thuế GTGT hoạt động khác TK 133 TK 3331 Thuế GTGT đầu Kết chuyển số thuế Tổng giá vào được khấu trừ GTGT khấu trừ thanh toán trong kỳ gồm cả thuế GTGT Thuế GTGT được Thuế GTGT hoàn lại bằng tiền đầu ra phải TK 711 TK 111, 112 nộp trong kỳ Thuế GTGT Nộp thuế GTGT được miễn giảm cho Ngân sách nhận lại bằng tiền Thuế GTGT được miễn giảm trừ vào số phải nộp Thuế GTGT của hàng nhập khẩu phải nộp 2.2. Hạch toán thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp Đối với các doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, khi mua hàng hoặc bán hàng (trừ nhập khẩu hàng hoá), kế toán không phải xác định thuế GTGT được khấu trừ hay phải nộp. Cuối kỳ, căn cứ vào giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT và thuế suất từng loại để xác định số thuế GTGT phải nộp của từng hoạt động. Cụ thể: Phản ánh thuế GTGT của hàng nhập khẩu và trị giá hàng nhập khẩu: Nợ TK liên quan ( 151, 152, 153, 156, 211...) : Gía thực tế hàng nhập khẩu ( giá CIF + Thuế nhập khẩu + Thuế GTGT + Chi phí tiếp nhận...). Có TK 333 (3333. TNK) : Thuế nhập khẩu. Có TK 3331 (33312) : Thuế GTGT của hàng nhập khẩu phải nộp. Có TK 331, 111, 112... : Gía mua và chi phí thu mua hàng nhập khẩu. Phản ánh số thuế GTGT phải nộp của hoạt động sản xuất kinh doanh: Nợ TK 642 (6425). Có TK 3331(33311). Phản ánh thuế GTGT phải nộp của hoạt động tài chính và hoạt động bất thường: Nợ TK liên quan ( 635, 811 ). Có TK 3331( 33311). Phản ánh số thuế GTGT đã nộp: Nợ TK 3331 ( 33311, 33312 ) Có TK liên quan ( 111, 112, 311...). Phản ánh số thuế GTGT được giảm trừ: Nợ TK 3331 : Trừ vào số phải nộp trong kỳ. Nợ TK 111, 112 : Nhận số giảm trừ bằng tiền. Có TK 711 : Số thuế GTGT được giảm trừ. * Hạch toán thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp được khái quát thành sơ đồ như sau: Sơ đồ 2. Hạch toán thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp TK 331, 111, Thuế GTGT phải nộp của hàng nhập khẩu Thuế GTGT phải nộp trong kỳ TK 151, 152, 211 TK 3331 TK 6425 Gía mua vật tư, hàng hoá bao gồm cả thuế GTGT HĐ SXKD TK 711 TK 111, 112 TK 811, 635 Thuế GTGT được miễn giảm Nộp thuế GTGT cho Ngân sách HĐ TC và HĐ BT Thuế GTGT được miễn giảm trừ vào số phải nộp 3. So sánh kế toán thuế GTGT của Việt Nam với kế toán thuế GTGT của Pháp 3.1. Tài khoản sử dụng: - Hệ thống tài khoản phản ánh thuế của Pháp: +Đối với các loại thuế không phải VAT (ở Pháp gọi là TVA) như thuế tài sản, thuế tài nguyên, trước bạ... được xây dựng một tài khoản riêng: TK63 : "Thuế phí và các khoản đảm phụ phải nộp" + Đối với thuế GTGT, ở Pháp chia làm 2 loại: * Thuế GTGT không thu hồi được gọi là thuế doanh thu (được hạch toán TK63) * Thuế GTGT thu hồi được (tức là sẽ được khấu trừ )loại thuế này không được ghi vào chi phí thuế. Khi mua hàng hạch toán thuế vào TK 4456-TVA trả hộ Nhà nước Khi bán hàng hạch toán thuế vào TK4457- TVA thu hộ Nhà nước. Khi xác định số thuế TVA phải nộp hạch toán vào TK4455-TVA phải nộp Nhà nước. Như vậy, chỉ xét riêng việc xây dựng hệ thống tài khoản kế toán Pháp đã tiến bộ hơn Việt Nam vì xây dựng cụ thể hơn. Do đó, ở Việt Nam, để công tác hạch toán thuế thêm rõ ràng nên xây dựng thêm 1 tài khoản phản ánh thuế GTGT phải nộp thay vì dùng TK3331 vừa phức tạp lại không đúng bản chất. 3.2. Hệ thống thuế suất: - Thuế GTGT ở Pháp được xây dựng với 3 mức thuế suất: 5,5%, 7%, 18,6%. - Thuế GTGT ở Việt Nam được xây dựng với 4 mức thuế suất: 0%, 5%, 10%, 20% Với mô hình thuế suất này chứng tỏ chính sách thuế GTGT ở Pháp được xây dựng đơn giản hơn Việt Nam, mà chính sách thuế càng đơn giản càng dễ áp dụng. Luật thuế GTGT mới sắp ban hành cũng đã thể hiện nhiều điểm tiến bộ như việc giảm số mức thuế suất áp dụng và thay đổi đối tượng chịu thuế. Phần II. Thực trạng tổ chức hạch toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp ở Việt Nam I. Công tác quản lý thuế 1. Những thành tựu đạt được sau 3 năm đổi mới công tác quản lý Trước đây, khi áp dụng thuế doanh thu, tất cả mọi công việc hành thu được thực hiện theo chu trình khép kín từ việc chuyên quản đến xác định doanh thu, tính thuế, thông báo thuế và quyết toán thuế đều do cơ quan thuế, cán bộ thuế tổ chức thực hiện. Thời gian gần đây, thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tế: số doanh nghiệp mới thành lập càng lớn, hoạt động kinh doanh ngày càng đa dạng, nên yêu cầu đặt ra đối với doanh nghiệp là phải đề cao tính tự chủ về hoạt động kinh doanh của mình, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc kê khai, nộp thuế vào NSNN. Do đó, hiện nay cơ quan thuế chỉ đi sâu thực hiện chức năng hướng dẫn cách kê khai tính thuế và kiểm tra giám sát việc thực hiện đúng pháp luật thuế. Đây thực sự là cuộc cải cách về cả tư duy kinh tế và thủ tục hành thu, phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính và tiến trình hội nhập trong tình hình mới. Đồng thời với việc áp dụng thuế GTGT, cơ quan thuế tiến thu thuế ở khâu sau còn kiểm tra nộp thuế ở khâu trước, biện pháp này chống thất thu tốt hơn so với quản lý thực hiện thuế doanh thu. Và vì vậy, số thu thuế GTGT thực tế trong 3 năm qua đã không ngừng tăng cao hơn so với thuế doanh thu. Cụ thể là: số thu thuế năm 1998 là 13.000 tỷ đồng, năm 2000 là: 22 000 tỷ đồng. Đến năm 2001, mặc dầu nhà nước điều chỉnh giảm thuế suất từ 10% xuống 5% đối với một số nhóm mặt hàng như: đường, phần mềm máy tính..., đồng thời mở diện khấu trừ cho các trường hợp mua hàng không có hóa đơn. Nhưng số thu năm 2001 vẫn đạt 19 000 tỷ đồng, chiếm trên 20% tổng thu NSNN. Điều đáng nói là số thu cho ngân sách tiếp tục tăng cao nhưng giá cả thị trường vẫn giữ được ổn định, không gây tác động xấu đến sản xuất tiêu dùng kinh tế vẫn đạt tốc độ tăng trưởng khá: GDP năm 1998 tăng 5%, năm 1999 tăng 6,7%, năm 2000 tăng 6,8% các khu vực kinh tế còn lại vẫn có bước phát triển đồng đều. Nhìn chung, qua 3 năm áp dụng thuế GTGT, nhà nước và cơ quan thuế đã có cải cách hành chính cũng như thực hiện biện pháp quản lý đúng mức, nhờ thế mà thuế GTGT tuy là sắc thuế lớn nhưng đã nhanh chóng được cuộc sống chấp nhận, tạo nguồn thu vững chắc cho NSNN. 2. Những hạn chế của thuế GTGT gây khó khăn cho công tác quản lý thuế Trong thời gian qua, kết quả đạt được do thực hiện thuế GTGT thì không phải bàn cãi. Tuy nhiên, nghiêm túc đánh giá về toàn thể nền kinh tế, chúng ta phải thừa nhận do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, bản thân luật thuế GTGT đã ban hành và gắn liền với nó là việc chỉ đạo thực hiện đã bộc lộ những nhược điểm làm ảnh hưởng đến công tác quản lý nền kinh tế quốc dân ở những mức độ khác nhau. Vấn đề quan trọng trước hết và được nhiều doanh nghiệp quan tâm là việc thu thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu ngay tại cửa khẩu. Có nhiều ý kiến cho rằng, đây là việc làm mâu thuẫn ngay với bản thân khái niệm thuế GTGT. Bởi lẽ, luật thuế GTGT đã quy định: ''Thuế GTGT là loại thuế đánh trên giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng". Trong khi đó, hàng nhập khẩu khi về cửa khẩu đã phải nộp thuế GTGT, mà trên thực tế hàng vẫn chưa được tiêu thụ nên chưa phát sinh giá trị gia tăng. Cho nên, xét trong phạm vi nào đó thì nhà nước đã chiếm dụng vốn của doanh nghiệp. Tổng cục thuế thì cho rằng việc đánh thuế NK là đúng, tạo nên mặt bằng bình đẳng giữa hàng trong nước và hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, nếu xét về bản chất thì việc đánh thuế như vậy là chưa phù hợp. Thứ hai, chính sách hoàn thuế của nước ta được xác định là: ''tiền thoái, hậu kiểm'' (hoàn thuế trước, kiểm tra sau) với thời gian dành cho tiền kiểm để giải quyết cho hoàn thuế rất hạn chế. Hơn hai năm qua, ngành thuế đã có sự nỗ lực vượt bậc về quản lý trong điều kiện chính sách còn nhiều bất cập nhưng cũng không tránh khỏi tình trạng bị động trước thủ đoạn gian lận, tình vi liên quan đến hoàn thuế. Theo quy định hiện hành trường hợp đất nước ba tháng liên tục có số thuế đầu vào lớn hơn đầu ra sẽ được xét hoàn thuế. Cho nên, chủ thể chủ yếu của hoàn thuế là đơn vị có hàng hóa xuất khẩu. Đây thực chất là một hình thức trợ giá của Nhà nước đã tạo môi trường thuận lợi để doanh nghiệp có thể cạnh tranh về giá trên thị trường. Tuy nhiên, trên thực tế đã có không ít doanh nghiệp lợi dụng chính sách ưu đãi này để lấy tiền của Nhà nước. Thủ đoạn mà họ thường áp dụng là khai khống hàng xuất khẩu hoặc mua hàng với giá thấp khai với giá cao để được hoàn thuế. Theo báo cáo của công an 61 tỉnh thành đến 20/7/2002 đã có 28/61 địa phương phát hiện 128 vụ vi phạm doanh số xuất khẩu khống hơn 2000 tỷ đồng và tổng số tiền gian lận là 355 tỷ đồng. Nếu như trong năm 1999, công an chỉ phát hiện 3 vụ, thiệt hại 7,2 tỷ thì đến năm 2002 con số này là 17 vụ, thiệt hại 20 tỷ đồng. Tình trạng này đã làm cho bức tranh hoạt động xuất khẩu bị méo mó, lệch lạc. Vấn đề thứ ba cần nói đến là việc quản lý hóa đơn chứng từ hiện nay. Đây được đánh giá là một vấn đề nổi cộm mà cho đến nay ngành thuế chưa tìm ra giải pháp. Năm 1998, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 855/1998/QĐ - BTC ngày 16/7/1998 về việc ban hành chế độ quản lý hóa đơn chứng từ. Tuy nhiên, do tờ hóa đơn rất có giá trị trong thanh toán tài chính, kê khai thuế nên một số đối tượng đã tìm ra các kẽ hở trong quản lý và sử dụng hóa đơn do Bộ Tài chính phát hành nhằm trốn thuế hoặc chiếm đoạt tiền từ công quỹ nhà nước. Thủ đoạn thường thấy là: mua hóa đơn giả để kê khai trốn thuế, viết hóa đơn liên 1, liên 2 không khớp nhau, giá hóa đơn thấp hơn giá bán thực tế khai báo mất hóa đơn để bán hóa đơn trên thị trường, sử dụng hóa đơn đỏ đã quá hạn... Những hành vi gian dối nói trên đã gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước. II. Về công tác hạch toán kế toán 1. Hiệu quả việc áp dụng kế toán thuế GTGT Sau 3 năm thực hiện, công tác hạch toán kế toán thuế của doanh nghiệp đã có nhiều biến đổi tích cực: - So với thuế doanh thu, việc hạch toán thuế GTGT đơn giản và rõ ràng hơn ví dụ như: + Về doanh thu: doanh thu hạch toán là doanh thu không có thuế GTGT. + Về chi phí: chi phí SXKD không bao gồm thuế đã trả khi mua hàng hóa, dịch vụ đầu vào. Còn theo thuế doanh thu thì thuế doanh thu nằm trong giá vật tư, hàng hóa, dịch vụ đầu vào nên tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. + Về hạch toán tiền thuế: - Thuế doanh thu nằm trong doanh thu bán hàng. - Thuế GTGT được hạch toán riêng, không tính trong doanh thu và chi phí của cơ sở kinh doanh. + Về hạch toán lãi lỗ: Lãi, lỗ của cơ sở kinh doanh tùy thuộc vào doanh thu và chi phí thuế GTGT không còn là một khoản chi phí có ảnh hưởng trực tiếp đến lãi, lỗ như thuế doanh thu. Ngoài ra, việc tính thuế đầu ra được khấu trừ đầu vào của phương pháp tính thuế GTGT đã thực sự thúc đẩy cơ sở kinh doanh thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế, mua, bán hàng hóa có hóa đơn chứng từ. 2. Những bất cập trong hạch toán kế toán thuế GTGT 2.1. Việc hướng dẫn thực hiện thuế GTGT về kinh doanh xuất nhập khẩu ủy thác hưởng hoa hồng Theo luật thuế GTGT đơn vị nhận ủy thác nhập khẩu hàng hóa phải ghi hai hóa đơn GTGT: một hợp đồng cho giá hàng hóa nhập khẩu và thuế GTGT nhập khẩu, một hợp đồng cho phần hoa hồng ủy thác được hưởng để chịu thuế GTGT. Về bản chất, việc thu thuế GTGT không có vấn đề gì, nhưng còn việc kê khai tính thuế và hạch toán thuế sẽ có bất cập: do chưa có hướng dẫn cụ thể về kê khai và hạch toán, nên có một số đơn vị kinh doanh ủy thác nhập khẩu không kê khai phần giá trị hàng hóa và thuế GTGT của hàng ủy thác vì quan niệm đây là khoản thu hộ, chi hộ. Việc này gây khó khăn cho việc khấu trừ hoặc hoàn thuế GTGT ở đầu có liên quan và doanh thu không khớp với số hóa đơn xuất ra tại đơn vị. Còn nếu kê khai hết thì doanh thu trên tờ khai thuế sẽ không khớp với doanh thu trên tài khoản kế toán (TK 511) như vậy sẽ dẫn đến sự sai lệch trong BCTC và thiếu chính xác trong việc phản ánh các thông tin kinh tế nói chung. 2.2. Về việc phân bổ thuế GTGT đầu vào Tại điểm c. mục 1.1. phần B.III. Thông tư số 122/2000/TTBTC ngày 29/12/2000 của Bộ tài chính hướng dẫn: ''đối với hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất kinh doanh, hàng hóa dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT nhưng không hạch toán riêng được thì tập hợp thuế đầu vào lên TK 133. Cuối kỳ, kế toán phải xác định số thuế GTGT được khấu trừ theo tỷ lệ (%) giữa doanh thu chịu thuế GTGT so với tổng doanh th bán ra''. Số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ được tính vào giá vốn hàng bán ra trong kỳ. Trên thực tế, các doanh nghiệp dù cố gắng đến đâu cũng không thể hạch toán riêng tuyệt đối thuế GTGT đầu vào của đối tượng chịu thuế GTGT do 3 nguyên nhân sau: Một là, thuế GTGT đầu vào phát sinh khi mua TSCĐ và thanh toán chi phí dùng cho bộ phận quản lý doanh nghiệp. Bộ phận quản lý doanh nghiệp quản lý chung cả đối tượng chịu ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29370.doc
Tài liệu liên quan