CÁC THUẬT NGỮ VÀ CÁC TỪ VIẾT TẮT
DCs
Các nước phát triển
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
DNTN
Doanh nghiệp tư nhân
FDI
đầu tư trực tiếp nước ngoài
HTX
Hợp tác xã
KHHTT
Kế hoạch hóa tập trung
LDCs
Các nước đang phát triển
NHNN
Ngân hàng nhà nước
NHTM
Ngân hàng thương mại
NHTMQD
Ngân hàng thương mại quốc doanh
NHTW
Ngân hàng trung ương
NSNN
Ngân sách Nhà nước
ODA
Viện trợ phát triển chính thức
PFI
Đầu tư gián tiếp nước ngoài
SXKD
Sản xuất kinh doanh
TCTC
Tổ chức tài chí
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1540 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Tìm hiểu vấn đề tự do hoá tài chính ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh
TCTD
Tổ chức tín dụng
TDHTC
Tự do hoá tài chính
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TTTC
Trung tâm tâm tài chính
UBCKNN
Uỷ ban chứng khoán nhà nước
UBND
Uỷ ban nhân dân
USD
Đô la Mĩ
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
LỜI MỞ ĐẦU
Trong gần ba thập kỷ qua, xu hướng tự do hoá tài chính với mục tiêu chính là phát triển một hệ thống tài chính dựa trên cơ sở thị trường, hội nhập vào thế giới nhằm huy động tiết kiệm, phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả và thúc đẩy tăng trưởng ( World bank - 1989), đã hình thành và ngày càng chi phối sâu sắc nhiều nền kinh tế trên thế giới. Trong khi đó ở Việt Nam, tự do hoá tài chính vẫn còn là một thuật ngữ mới mẻ và vì Việt Nam không chịu ảnh hưởng trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua trong khu vực, nhiều người cho rằng xu hướng trên vẫn chưa được hình thành ở đây.
Thực tế là ngay từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, Việt Nam đã thực hiện rất nhiều những cải cách về thể chế, chính sáchvà cơ chế quản lý có liên quan đến nền kinh tế tài chính mà về bản chất là đang thực hiện tự do hoá tài chính. Quá trình đó bước đầu đã đạt được những thành tựu nhất định, góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của nước ta trong những năm qua, song bên cạnh đó vẫn còn nhiều tồn tại, vướng mắc cần được nghiên cứu sâu hơn về lý luận và đánh giá chính xác thực trạng để từ đó đề ra một lộ trình thực hiện tự do hoá tài chính hợp lí, có thể khai thác được những lợi ích đồng thời tránh được những rủi ro mà tự do hoá tài chính có thể mang lại. Với ý nghĩa ấy, em quyết định chọn nghiên cứu đề tài "Tìm hiều vấn đề Tự do hoá tài chính ở Việt Nam" cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
Dựa trên hệ thống lý thuyết về tự do hoá tài chính, đặc biệt là lý thuyết của trường phái tân cổ điển, và những thực tế về quá trình thực hiện tự do hoá tài chính ở Việt Nam từ năm 1989 đến nay, đề tài cố gắng tìm hiểu bản chất và vai trò của tự do hoá tài chính để thấy được sự cần thiết của nó đối với quá trình phát triển kinh tế của nước ta đồng thời đánh giá thực trạng đổi mới tài chính và nêu lên một số nhận xét gợi mở về định hướng tự do hoá tài chính ở Việt Nam.
Phù hợp với trình tự lôgic đó, kết cấu của đề tài gồm ba chương:
Chương 1. Khái luận về tự do hoá tài chính: được bắt đầu bằng việc nghiên cứu khái niệm tự do hoá tài chính và nội dung các khía cạnh cơ bản của tự do hoá tài chính. Sau đó, các vấn đề về trình tự tự do hoá tài chính, những lợi ích và mặt trái của tự do hoá tài chính tiếp tục được trình bày và cuối cùng là tóm tắt quá trình tự do hoá trên thế giới.
Chương 2. Tự do hoá tài chính ở Việt Nam: dựa trên những luận điểm phân tích ở chương 1, khẳng định sự cần thiết phải tiến hành tự do hoá tài chính tại Việt Nam, sau đó đi sâu vào nghiên cứu và đánh giá quá trình tự do hoá tài chính ở Việt Nam từ sau đổi mới, đặc biệt là từ năm 1989 đến nay.
Chương 3. Một số quan điểm cơ bản và định hướng giải pháp thực hiện tự do hoá tài chính ở Việt Nam trong thời gian tới: phân tích và dự báo bối cảnh trong nước và quốc tế tác động đến quá trình tự do hoá tài chính ở Việt Nam đồng thời nêu lên những quan điểm cần quán triệt trong quá trình thực hiện tự do hoá tài chính. Kết thúc chương 3 là một số kiến nghị về định hướng thực hiện và các điều kiện cần thiết đảm bảo cho tự do hoá tài chính được thực hiện thành công ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1. KHÁI LUẬN VỀ TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH
1.1. Khái niệm
Trong các hoạt động kinh tế, vốn là một nguồn lực đóng vai trò hết sức quan trọng. Trong khi đó, trong nền kinh tế, có những người thừa vốn, lại có những người thiếu vốn, vì thế hệ thống tài chính nhằm mục đích thực hiện việc luân chuyển nguồn lực khan hiếm này từ nơi thừa đến nơi thiếu. Thông qua hệ thống tài chính, vốn được luân chuyển theo nhiều cách khác nhau. Về tổng thể, hệ thống tài chính quốc gia có cấu trúc như sau (xem hình 1.1)
Trung gian tài chính
Người thiếu vốn
Thị trường tài chính
Người thừa vốn
Vốn
Vốn
Vốn
Vốn
Tài chính trực tiếp
Tài chính gián tiếp
Hình 1.1. Cấu trúc hệ thống tài chính quốc gia.
Trong đó:
- Người thừa vốn: Hộ gia đình, doanh nghiệp, chính phủ, người nước ngoài.
- Người thiếu vốn: Doanh, nghiệp, Chính phủ , Hộ gia đình, Người nước ngoài
-Trung gian tài chính bao gồm các Ngân hàng thương mại, các quỹ tín dụng, quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư, quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm, công ty tài chính...
-Thị trường tài chính gồm các thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán hay thị trường vốn, thị trường ngoại hối.
Dưới những điều kiện nhất định, hệ thống tài chính quốc gia sẽ hoà vào các hệ thống khác tạo ra hệ thống tài chính quốc tế có câú trúc như sơ đồ này.
Vậy tự do hoá tài chính là gì? Tự do hoá tài chính là giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước vào các quan hệ và giao dịch tài chính. Các hoạt động trong hệ thống tài chính nói trên được tự do thực hiện theo tín hiệu thị trường.
Bản chất của tự do hoá tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội tại vốn có của thị trường, là chuyển vai trò điều tiết tài chính từ "bàn tay can thiệp" hay "bàn tay hữu hình" của chính phủ sang "bàn tay vô hình" của thị trường, chuyển từ quản lý bằng hành chính sang qui luật thị trường và vì vậy tự do hoá tài chính nằm ở trung tâm vấn đề muôn thuở của nền kinh tế là giải quyết mâu thuẫn giữa vai trò của nhà nước và vai trò của thị trường, đặc biệt là khi vị trí của tài chính đang ngày một quan trọng hơn không chỉ đối với từng quốc gia mà còn đối với từng khu vực và toàn cầu. Tài chính là một phạm trù rất rộng lớn và phức tạp xuyên suốt từ huy động tới phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính - tiền tệ có hạn sao cho có hiệu quả nhất đến toàn bộ nền kinh tế xã hội.
Theo Ngân hàng thế giới (1989), mục tiêu chính của TDHTC là phát triển một hệ thống tài chính dựa trên cơ sở thị trường, hội nhập vào thế giới để nhằm huy động tiết kiệm, phân bổ các nguồn lực có thể đầu tư trong nước và bên ngoài một cách có hiệu quả và thúc đẩy tăng trưởng. Kết quả của tự do hoá tài chính thường được thể hiện bằng tỷ số giữa tiền mở rộng (tiền mặt và tiền gửi trong hệ thống NHTM) trên thu nhập quốc dân (tỷ lệ này của các nước châu Á trung bình là 60%GDP, của châu Phi chỉ có 20%GDP trong thập kỷ 90 của thế kỷ XX).
Tự do hoá tài chính bao gồm các khía cạnh cơ bản sau:
-Tự do hoá lãi suất: đây được coi là hạt nhân của tự do hoá tài chính trong nước, trong đó, lãi suất phải do thị trường quyết định tuỳ thuộc vào cung cầu về đầu tư, vào mức tiết kiệm và thu nhập trong nền kinh tế.
- Tự do hoá hoạt động phân bổ tín dụng: nguồn tín dụng được phân bổ dựa trên lãi suất thị trường và mức độ tin cậy của người đi vay chứ không phải bằng các quyết định hành chính.
- Tự do hoá tài khoản vốn: Tài khoản vốn trong cán cân thanh toán của một quốc gia bao gồm các giao dịch đầu tư vào trong nước và ra nước ngoài, vay và cho vay quốc tế ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Tự do hoá cho phép một nước tự do xuất khẩu hoặc nhập khẩu vốn với nước ngoài thông qua các hình thức FDI, đầu tư gián tiếp (vốn cổ phần), vay và cho vay nợ.
-Tự do hoá các dịch vụ tài chính: cho phép các ngân hàng, các tổ chức tài chính trong và ngoài nước được tự do tham gia cung cấp các dịch vụ tài chính trên thị trường và không phân biệt đối xử giữa các nhà cung cấp dịch vụ tài chính này.
Trong quá trình thực hiện tự do hoá tài chính, các khía cạnh cơ bản trên có thể được thực hiện đồng thời cùng một lúc, cũng có thể được thực hiện theo từng bước khác nhau sao cho phù hợp với bối cảnh quốc tế và đặc diểm của từng quốc gia. Cách thức tiến hành như vậy được gọi là trình tự tự do hoá tài chính .
1.2. Trình tự tự do hoá tài chính .
Thực tế quá trình tự do hoá tài chính trên thế giới cho thấy không có một trình tự tự do hoá tài chính chung nào cho tất cả các nước. Các quốc gia khác nhau thực hiện tự do hoá tài chính theo các trình tự hoàn toàn khác nhau. Bảng 1.2 cho ví dụ về trình tự tự do hoá tài chính của hai nước rất gần với Việt Nam trong khu vực là Indonesia và Malaysia, trong đó cho thấy Indonesia có xu hướng thực hiện các biện pháp tự do hoá tài chính đối nội trước khi tự do hoá tài khoản vãng lai trong khi Malaysia lại thực hiện tự do hoá tài khoản vãng lai trước.
Bảng 1.2. Tình hình TDHTC ở một số nước Đông Nam Á trước khủng hoảng 1997
INDONESIA
MALAYSIA
Tự do lãi suất
Từ 1983
Từ 1991 (trừ khu vựckinh tế ưu tiên)
Phân bổ tín dụng
Tự do hoá năm 1983, kiểm soát lại năm 1995
Tỉ lệ dự trữ ngân hàng
3% từ năm 1996, ( không tính tiền mặt vào dự trữ)
Tăng từ 5.5% (1989) lên 9.5% (1994)
FDI
Từ đầu 1990, doanh nghiệp 100% vốn (trừ một số lĩnh vực)
Từ 1987, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nếu xuất khẩu 80%. Cuối 1980 cho phép công ty chứng khoán nước ngoài hoạt động.
PFI
Sở hữu cổ phần nước ngoài tối đa là 49%
Người nước ngoài nắm tối đa 30% cổ phần của một công ty được niêm yết
Vay nợ nước ngoài.
Từ cuối năm 1980, vay nợ nước ngoài được tự do hoá
Thành lập trung tâm tài chính hải ngoại năm 1990
Nguồn: Tổng hợp dựa trên tài liệu tham khảo (5) và (7)
Trình tự tự do hoá tài chính mà các nước lựa chọn phụ thuộc vào đặc điểm riêng có và định hướng chiến lược của các nhà lập chính sách. Tuy nhiên, theo Mc Kinnon, với một nước có những đặc điểm thông thường thì trình tự tối ưu hoá các chính sách tài chính trong quá trình chuyển từ sự kiểm soát tập trung sang nền kinh tế thị trường đầy đủ, hội nhập vào thế giới cần được tiến hành theo các bước như sau:
Trước khi lạm phát giá cả có khả năng giảm dần và thị trường vốn được mở ra theo hướng cho vay tự do, thì yêu cầu đầu tiên là phải đạt được sự cân đối tài chính của chính phủ trung ương. Kiểm soát tài khoá nên đi trước tự do hoá tài chính. Tại sao vậy? Sự thâm hụt ngân sách quá lớn của chính phủ trong điều kiện thị trường tài chính chưa phát triển (để có thể phát hành trái phiếu chính phủ) thường dẫn đến việc Ngân hàng trung ương phát hành nội tệ quá mức để tài trợ thâm hụt ngân sách gây ra lạm phát cho nền kinh tế. Phân tích bước thứ hai trong quá trình tự do hoá tài chính sẽ cho thấy điều này ảnh hưởng xấu đến quá trình tự do hoá tài chính như thế nào.
Bước thứ hai trong trình tự tự do hoá tài chính là việc mở cửa thị trường vốn trong nước sao cho người gửi tiền nhận được lãi suất thực dương (tự do hoá lãi suất). Việc vay và cho vay không hạn chế giữa các doanh nghiệp và hộ gia đình chỉ có thể diễn ra thuận lợi khi mức giá cả được ổn định và các thâm hụt tài khoá được loại trừ. Thật vậy, trong điều kiện lạm phát quá cao, người cho vay sẽ bị thiệt do lãi suất thực có xu hướng âm , điều này sẽ cản trở hành vi cho vay của người có vốn.
Song song với tự do hoá lãi suất là tự do hoá hoạt động của các ngân hàng và việc phân bổ các nguồn tín dụng. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng chỉ được giải phóng khỏi các đòi hỏi dự trữ phiền hà và các chỉ dẫn chính thức trong việc định lãi suất tiêu chuẩn đối với tiền gửi vào và tiền cho vay sau khi việc kiểm soát tài khoá chặt chẽ được bảo đảm, sao cho chính phủ không còn cần phải đánh thuế lạm phát hoặc đánh thuế vào khoản tiền tích trữ quá mức của người gửi tiền để có thu nhập. Như vậy, một lần nữa, kiểm soát tài khoá lại phát huy vai trò là một bước đệm quan trọng trong trình tự tự do hoá tài chính.
Sau khi các ngân hàng đã quen với cách thức hoạt động độc lập theo cơ chế thị trường, bước tiếp theo là mở rộng sự tham gia của các trung gian tài chính mới, cho phép cả các tổ chức tài chính nước ngoài hoạt động. Tuy nhiên quy chế này cũng cần được nới lỏng dần dần bởi nếu như hệ thống tài chính được nới lỏng hoàn toàn và bất ngờ thì các tổ chức mới tham gia sẽ mời chào lãi suất cao hơn các lãi suất mà các tổ chức tài chính hiện có đang trả nhằm cạnh tranh giành tiền gửi và do vậy buộc các ngân hàng đang hoạt động phải trả lãi suất thị trường đối với tất cả các khoản tiền gửi (cũ lẫn mới) mặc dù lẽ ra lãi suất đó chỉ đáng trả đối với các khoản vay mới. Kết quả là các ngân hàng này phải chịu lỗ về vốn đáng kể. Và khi các khoản vay này quá lớn so với giá trị tài sản của ngân hàng thì điều này có thể sẽ dẫn đến phá sản.
Cuối cùng, khi thị trường vốn trong nước được tự do hoá hoàn toàn tức là việc vay và cho vay trong nước diễn ra tự do theo lãi suất cân bằng ( không bị hạn chế) và tỉ lệ lạm phát trong nước được kiềm chế đến mức việc phá giá đồng tiền theo tỉ giá hối đoái hiện hành không còn cần thiết thì mới tiến hành tự do hoá tài khoản vốn: cho phép các doanh nghiệp, hộ gia đình vay hoặc gửi tiền tự do trên các thị trường vốn quốc tế, cho phép mua bán chứng khoán để huy động vốn tự do, và cuối cùng là chuyển đổi ngoại tệ tự do trên tài khoản vốn.
1.3. Vai trò của tự do hoá tài chính đối với nền kinh tế.
1.3.1. Những lợi ích của tự do hoá tài chính .
a) Góp phần huy động được nguồn vốn lớn hơn và phân bổ vốn có hiệu quả hơn.
Trước hết, xét về nguồn vốn trong nước, tự do hoá tài chính có thể nâng cao tỷ lệ tiết kiệm của tư nhân so với thu nhập và mở ra cách thức phân bổ vốn tốt hơn thông qua việc mở rộng và đa dạng hoá thị trường tài chính mà ở đó các cơ hội đầu tư cạnh tranh nhau để thu hút các dòng tiết kiệm và thị trường và thậm chí có khuynh hướng làm bình đẳng phân phối thu nhập.
Theo Mc Kinnon và Shaw (1973) việc quản lý lãi suất chính thức trong một môi trưòng lạm phát cao sẽ làm cho lãi suất thực có xu hướng âm. Đến lượt nó lãi suất thực âm lại giới hạn sự phát triển của các tài sản nợ và có trong hệ thống tài chính. Hơn nữa lãi suất thực âm buộc người tiết kiệm phải chuyển các khoản tiết kiệm của mình từ các tổ chức tài chính đến đầu tư vào bất động sản, vàng, ngoại tệ nhằm chống lại sự mất giá từ lạm phát. Và hậu quả của việc thay đổi danh mục đầu tư này sẽ làm cho các ngân hàng và các tổ chức trung gian tài chính phi ngân hàng thiếu các nguồn vốn vay cho các khu vực còn lại của nền kinh tế.
Khuyến nghị chính sách cho vấn đề này là quá trình tự do hoá tài chính bằng bãi bỏ lãi suất trần cần phải được thực hiện tại những nước nơi mà hệ thống tài chính đang bị kiềm chế. Quá trình này không chỉ làm tăng tiết kiệm và những nguồn vốn có thể cho vay mà còn làm cho việc phân bổ những nguồn vốn đó có hiệu quả hơn và do đó góp phần dẫn đến một mức tăng trưởng kinh tế cao hơn.
Về phía nước ngoài, tự do hoá tài khoản vốn tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào trong nước qua các kênh FDI, PFI đóng góp một nguồn vốn vô cùng quan trọng cho nền kinh tế. Mặt khác, các nhà đầu tư vì động cơ lợi nhuận nên luôn tính toán xem sẽ đầu tư vốn vào đâu cho có hiệu quả nhất. Chính vì vậy mà nguồn vốn càng được phân bổ có hiệu quả.
Những người ủng hộ sự lưu chuyển tự do của vốn còn chỉ ra các lợi ích vượt ra ngoài lợi ích tĩnh do quá trình phân bổ lại nguồn vốn vay giữa các nước như sau: Bởi vì, vốn cổ phần trong nước bây giờ có thể được kết hợp trong một danh mục đầu tư rộng lớn hơn nhiều nên chúng ít rủi ro hơn. Điều này làm tăng giá của chúng và giảm chi phí vốn cho các công ty trong nước. Đến lượt mình, điều này lại làm cho các cơ hội đầu tư trước đây được coi là quá mạo hiểm trở nên khả thi và tổng hợp lại, những cơ hội này có thể đóng góp đáng kể cho tăng trưởng.
b) Nâng cao tính cạnh tranh của hệ thống tài chính trong nước.
Ngành dịch vụ tài chính tại bất cứ quốc gia nào cũng sẽ phải chịu tổn thất do việc xoá bỏ các biện pháp bảo hộ vốn đã nuôi dưỡng những nhà cung ứng hoạt động với chi phí và lợi nhuận cao trong nhiều năm. Việc thông tin dễ dàng hơn và việc dỡ bỏ các hạn chế đối với hoạt động vay và gửi tiền ở nước ngoài đã buộc các ngân hàng trong nước phải cắt giảm chi phí , ít nhất là cho các khách hàng lớn, đồng thời ép chúng phải nâng cao chất lượng phục vụ nếu không muốn mất chỗ đứng. Trong sự cạnh tranh khốc liệt này, tất yếu sẽ có các tổ chức bị loại ra khỏi cuộc chiến do không đủ sức mạnh hoặc không chịu đổi mới để thích nghi với hoàn cảnh mới. Tuy nhiên, những tổ chức còn tồn tại được sẽ có một sức mạnh mới lớn hơn trước kia rất nhiều, không những đủ sức cạnh tranh trong nước mà còn có thể vươn ra thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của các ngân hàng nước ngoài nổi tiếng thường kéo theo sự cải thiện về tính minh bạch, nhất là khi các ngân hàng này mang theo mình các thông lệ kế toán hoàn thiện hơn. Và nếu các ngân hàng trong nước muốn tạo lập sự hiện diện của mình tại các trung tâm tài chính tiên tiến để có thể cạnh tranh được với các dịch vụ tài chính quốc tế mà các ngân hàng nước ngoài đang cung cấp cho khách hàng trong nước thì các ngân hàng này sẽ phải tìm cách xin giấy phép hoạt động tại các trung tâm nói trên. Để làm được điều đó, thay vì thoả mãn với các quy định trong nước tương đối lỏng lẻo, các ngân hàng này sẽ gây áp lực với các nhà điều tiết trong nước phải nâng cấp các quy định đó, như trường hợp của Mêhicô trong bối cảnh Hiệp định tự do Bắc Mĩ.
Kết quả là, hệ thống tài chính đã được nâng cao tính cạnh tranh cả ở quy chế điều tiết lẫn các thành phần tham gia trong hệ thống.
c) Xã hội được tiếp cận với những dịch vụ tốt hơn và giá cả rẻ hơn.
Lợi ích này là hệ quả trực tiếp của việc mở cửa tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường dịch vụ tài chính. Một nghiên cứu của các nhà kinh tế học thuộc Ban thư ký của WTO (năm 1997) đã kết luận rằng việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính ở các nước theo đuổi chính sách mở cửa đã có tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy cạnh tranh và nâng cao hiệu quả. Do đó, chi phí dịch vụ giảm đi đáng kể, chất lượng dịch vụ được nâng cao, các loại hình dịch vụ được đa dạng hóa và khách hàng được tiếp cận với các loại hình dịch vụ một cách nhanh nhất. Điều này không chỉ có lợi đối với người tiêu dùng mà còn góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế. Năm 1997, nguyên Bộ trưởng ngân khố Mỹ - Robert E. Rubin đưa ra kế hoạch nhằm hiện đại hóa hệ thống dịch vụ tài chính ở Mỹ và phác thảo những lợi ích của kế hoạch dựa trên những tính toán thực tế như sau:
"Thời gian trước đây, khi chúng ta cho phép cạnh tranh mạnh hơn trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, người tiêu dùng đã được hưởng những lợi ích đáng kể... Năm 1995 giới tiêu dùng Mỹ chi phí vào khoảng 300 tỷ đôla vào các hoạt động bảo hiểm, dịch vụ ngân hàng và môi giới chứng khoán. Giả sử rằng, do kết quả cạnh tranh của kế hoạch hiện đại hóa hoạt động dịch vụ tài chính mà chi phí dịch vụ đối với người tiêu dùng có thể giảm đi 1% thì cũng đã tiết kiệm được khoảng 3 tỷ đôla một năm. Tuy nhiên dựa trên những cơ sở thực tế, tỷ lệ tiết kiệm chi phí hoàn toàn có thể đạt đến mức 5% - tức là vào khoảng 15 tỷ đôla mỗi năm - một con số hoàn toàn không nhỏ đối với nền kinh tế. (Robin, 1997).
Tương tự như vậy, một loạt các nghiên cứu thực hiện ở châu Âu và Mỹ cũng chỉ ra rằng: ngành ngân hàng có thể giảm bớt chi phí, nâng cao lợi nhuận khoảng từ 20 đến 50% thông qua việc nâng cao hiệu quả của các loại dịch vụ được cung cấp. Các cơ quan quản lý và kiểm soát ngân hàng quốc gia cũng có thể nâng cao hiệu quả với mức độ tương tự do phát huy lợi thế của kinh tế quy mô trong hoạt động chi trả và thanh toán (Berger, Hunter và Timme 1993).
Cho đến nay những nghiên cứu về hiệu quả của các tổ chức tài chính ở những thị trường mới nổi chưa có nhiều. Song, một số kết quả điều tra đã cho thấy, tiềm năng nâng cao hiệu quả và giảm thiểu chi phí thông qua mở rộng cạnh tranh là rất lớn. Khả năng lợi ích mang lại càng cao nếu hệ thống tài chính có khả năng cạnh tranh càng lớn.
d) Thúc đẩy thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế, vào thời điểm nhất định, giúp một quốc gia có khả năng tiêu dùng lớn hơn khả năng sản xuất. Về lâu dài, thương mại quốc tế giúp các nước trao đổi hàng hoá, nguồn lực, phục vụ cho phát triển kinh tế.
Thương mại giữa các quốc gia thực chất là trao đổi ngang giá. Do vậy, một giao dịch thương mại luôn có hai mặt: chuyển giao hàng hoá dịch vụ và thanh toán. Tự do hoá tài chính thúc đẩy thương mại quốc tế bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho mặt hàng thứ hai thông qua tự do chuyển tiền, tự do mua các tài sản ngoại tệ từ các nguồn thu xuất khẩu, chủ động bảo hiểm tỷ giá...
e) Phân tán rủi ro.
Rủi ro là hiện tượng phổ biến trong mọi hoạt động kinh tế. Do vậy, phân tán rủi ro là một nhu cầu khách quan. Việc phân tán đầu tư ở nhiều nơi khác nhau dưới nhiều hình thức sẽ cho phép bảo toàn được vốn trong mọi trường hợp. Dưới tự do hoá tài chính, việc tự do hoá tài khoản vốn không chỉ có nghĩa là người nước ngoài có khả năng tiếp cận nguồn vốn trong nước mà cũng có nghĩa là các công ty và các hộ gia đình trong nước có khả năng tiếp cận thị trường thế giới. Các nhà đầu tư trong nước có thể tận dụng hết các cơ hội đa dạng hoá rủi ro do thị trường tài chính thế giới mang lại bằng cách nắm giữ các tài sản nước ngoài trong danh mục đầu tư của họ. Đặc biệt, phân tán rủi ro bằng cách đầu tư vào tài sản tài chính ở nhiều trung tâm khác nhau sẽ rất có hiệu quả vì nếu vốn rút ra ồ ạt từ một trung tâm làm giá tài sản ở đây giảm xuống thì vốn lại đổ vào nơi khác làm giá ở đó tăng lên.
1.3.2. Những mặt trái của tự do hoá tài chính.
Tiềm năng lợi ích của tự do hóa tài chính là rất lớn, tuy nhiên tự do hóa tài chính cũng có những mặt trái nhất thiết phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, đặc biệt trong điều kiện xu thế tự do hóa tài chính mới chỉ dừng lại ở những bước đi ban đầu. Những hạn chế của tự do hóa tài chính thông thường được nhìn nhận trên hai giác độ:
Thứ nhất: Tự do hóa tài chính có thể làm tăng thêm khả năng gây ra khủng hoảng tài chính nếu tiến trình tự do hóa được thực hiện một cách nôn nóng, sai trình tự hoặc thiếu đồng bộ trong các biện pháp quản lý vĩ mô ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế.
Mở cửa thị trường tài chính và khủng hoảng tài chính ngân hàng đã từng là nỗi ám ảnh tưởng như có mối quan hệ nhân quả đối với các nước thi hành chính sách này trong khoảng thời gian trước đây. Một nghiên cứu phân tích về các cuộc khủng hoảng ngân hàng trên thế giới đã cho thấy 18 trong 25 trường hợp được nghiên cứu, khủng hoảng tài chính đã diễn ra theo sau việc tự do hóa tài chính khoảng 5 năm. Do vậy, nhiều người cho rằng khủng hoảng ngân hàng là sự kiện kéo theo của cải cách hệ thống tài chính theo hướng mở cửa. Thậm chí, nhiều chính phủ cho rằng đó là cái giá phải trả của tự do hóa tài chính. Trớ trêu thay, nhận định này dường như được minh chứng bởi các cuộc khủng hoảng ngân hàng diễn ra ở Argentina, Brazil, Chile trong những năm 70, khủng hoảng tiền tệ ở Mexico năm 1994-1995 và Thailand năm 1997. Những cuộc khủng hoảng như vậy đã làm cho chính phủ của các nước Đông Nam Á tỏ ra thận trọng khi cân nhắc vấn đề cải cách, mở cửa và tự do hóa tài khoản vốn.
Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu, việc mở cửa thị trường tài chính, bản thân nó thực chất không phải là nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng hoảng tài chính - ngân hàng. Việc cải cách hệ thống tài chính và tự do hóa có chăng chỉ lật tẩy và làm trầm trọng thêm những yếu kém trong thể chế và các chính sách tài chính vĩ mô vốn dĩ đã tiềm ẩn, và do đó làm tăng thêm rủi ro của việc dẫn đến khủng hoảng tài chính. Những cải cách tài chính theo hướng mở cửa đã diễn ra ở những nước này thực chất không gây cản trở hoặc làm phương hại đến lợi ích thực thụ, mà chỉ góp phần phơi bày những điểm yếu của hệ thống tài chính nội địa trước những điều kiện của hệ thống tài chính quốc tế mà thôi.
Năm 1995, hai nhà nghiên cứu Kamisky và Reinhart và một số nhà nghiên cứu khác đã xác định một loạt các nhân tố đằng sau những vụ đổ vỡ ngân hàng trên thế giới. Những nhân tố này gồm: sự không ổn định có tính vĩ mô như sự thất thường của hoạt động thương mại; tính áp đặt trong chính sách tỷ giá và lãi suất; sự bùng nổ của hoạt động cho vay; sự sụt giá tài sản, sự du nhập vốn một cách ồ ạt; sự chuẩn bị chưa kỹ lưỡng để sẵn sàng tiến hành mở cửa, và sự không tuân thủ tính logic và trình tự của những cải cách tài chính.
Nói cách khác, nguyên nhân chính của các cuộc khủng hoảng tài chính lại chính là những yếu kém tiềm ẩn của hệ thống ngân hàng, sự thiếu lành mạnh của hệ thống chính sách quản lý vĩ mô, sự thiếu vắng của một chế độ giám sát kiểm tra có hiệu quả và sự sai lệch trong đường lối cải cách, chứ không phải xuất phát từ bản thân quá trình tự do hóa tài chính.
Thứ hai: Tài chính thường được coi là công cụ quản lý chiến lược và là lĩnh vực đặc biệt cần được nắm giữ bởi nhà nước để tập trung thực hiện những mục đích quan trọng của một quốc gia. Việc mở cửa thị trường tài chính có thể có nguy cơ làm xao nhãng hoặc thiếu tập trung trong việc điều hành để thực hiện những mục tiêu đó vì các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài sẽ không quan tâm đến một mục đích nào khác hơn là mục đích lợi nhuận. Đặc biệt, trong điều kiện hệ thống tài chính nội địa có khả năng cạnh tranh kém, nền tài chính có nguy cơ bị thống trị bởi các tổ chức, doanh nghiệp tài chính nước ngoài thì quyền lực kiểm soát, khống chế và điều khiển thị trường tài chính của nhà nước sẽ dần bị thu hẹp lại, và do đó có thể phương hại đến mục tiêu chiến lược của quốc gia. Hơn nữa, việc mở cửa thị trường tài chính nếu không được chuẩn bị kỹ lưỡng có thể sẽ dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực, thiếu lành mạnh như lừa đảo, phá sản, đổ vỡ... gây thiệt hại đến lợi ích của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, theo lập luận của nhiều nhà nghiên cứu, sự thâm nhập của các tổ chức tài chính nước ngoài có thể đưa đến những lợi ích đáng kể (như đã đề cập ở trên). Hơn nữa, những mặt trái của việc mở cửa thị trường tài chính có thể được khống chế hoặc hạn chế ở mức thấp nhất nếu năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính nội địa được cải thiện đáng kể trước khi tiến hành mở cửa. Khả năng đó là hiện thực nếu nó được trợ giúp bởi một chế độ giám sát kiểm tra thận trọng có hiệu quả và một trình tự mở cửa hợp lý. Nói cách khác, việc có tận dụng được những lợi ích tiềm năng đó với một chi phí thấp nhất hay không, hoàn toàn phụ thuộc vào đường lối cải tổ của chính các nước theo đuổi chính sách mở cửa đó.
Trên thực tế, có rất ít những bằng chứng chứng minh rằng sự có mặt của các tổ chức tài chính nước ngoài làm phương hại và phá huỷ sự an toàn của hệ thống tài chính của một nước. "Sự có mặt của các tổ chức tài chính nước ngoài thực chất lại làm tăng thêm sự đa năng của hệ thống tài chính, và do đó làm tăng thêm tính ổn định cần có. Hơn nữa, sự hiệu quả của chính sách tài chính tiền tệ phụ thuộc phần lớn vào chính sách tỷ giá và chính sách di chuyển vốn của nước chủ nhà chứ không phụ thuộc vào sự có mặt hay không của các tổ chức tài chính nước ngoài" (Dobson & Jaquet, 1998).
1.4. Quá trình tự do hoá tài chính trên thế giới.
Cuối chiến tranh thế giới lần thứ hai, năm 1944, hệ thống tiền tệ Bretton Wooods ra đời. Với mục tiêu tự do hoá thương mại, qui chế Bretton Woods đòi hỏi các đồng tiền phải được chuyển đổi tự do trong giao dịch tài khoản vãng lai. Bên cạnh đó, trong giao dịch vốn, đồng USD và đô la Canada được chuyển đổi từ năm 1945, đồng Bảng Anh từ năm 1947, đồng tiền các nước châu Âu khác (trong đó có Mác Đức) từ năm 1958 và đồng Yên Nhật từ năm 1964 (6, 438). Ngoài việc chuyển đổi tự do đồng tiền đối với các giao dịch của tài khoản vãng lai, các nước thành viên của hệ thống Bretton Wooods vẫn kiểm soát giao dịch tài khoản vốn một cách chặt chẽ. Quan niệm kinh tế chính thống lúc đó cho rằng: lưu chuyển vốn là không cần thiết. Tuy nhiên, trong hệ thống đã xuất hiện sự di chuyển vốn trá hình. Rõ nhất là hoạt động tín dụng giữa các nhà xuất nhập khẩu.
Đầu thập kỷ 60, hoạt động giao dịch khoản tiền gửi các đồng tiền châu Âu, tức là các khoản tiền gửi định danh bằng ngoại tệ đối với nơi phát hành ra tài sản này, đã xuất hiện. Hiện tượng này có 3 nguyên nhân. Thứ nhất là sự tăng trưởng của thương mại quốc tế. Thứ hai là nhân tố chính trị với mong muốn nắm giữ các đồng tiền nằm ngoài quyền tài phán của những nước phát hành ra chúng. Thứ ba chính là sự né tránh các qui chế điều tiết hoạt động tài chính đối nội của chính phủ bằng cách chuyển một số hoạt động ngân hàng ra nước ngoài và vào ngoại tệ. Trong thời gian này, qui mô giao dịch các đồng tiền Châu Âu còn nhỏ bé, khoảng 7 tỷ USD (số liệu 1963). Tuy nhiên, đây là những dấu hiệu đầu tiên của thị trường vốn quốc tế hiện đại.
Sau khi hệ thống Bretton Wooods sụp đổ (1973), kiểm soát vốn ở các nước phát triển (DCs) đã dần được bãi bỏ và tiến trình này kéo dài đến thập kỷ 90. Đức, Anh và Singapore thực hiện TDHTC từ cuối những năm 70; Australia và New Zealand vào cuối những năm 80; Pháp, Italia vào đầu thập kỷ 90. Tiến trình TDHTC ở những nước đang phát triển (LDCs) bắt đầu muộn hơn, vào giữa thập kỷ 80. Năm 1989, một phần ba trong 130 nước đang phát triển đã thực hiện TDHTC ở những mức độ nhất định (20,1). Như vậy, quá trình TDHTC trên thế giới đã bắt đầu chủ yếu từ năm 1973.
Quá trình TDHTC ở các quốc gia làm cho vốn có khả năng di chuyển trên địa bàn toàn cầu. Đồng thời trên địa bàn này, một hệ thống tài chính toàn cầu đã hình thành và phát triển.
Địa bàn hoạt động của vốn có các trung tâm quan trọng là: Bắc Mỹ (Mỹ, Canada, Mêhicô); Mỹ la tinh (điển hình là Brazil, Argentina và Chi Lê; Liên minh Châu Âu; các nước Đông Âu; Đông Bắc Á ( Nhật Bản, Hàn Quốc); Trung Quốc và Hồng Kông; Đông Nam Á, Nam Á; Trung Đông và Australia. Như vậy, địa bàn toàn cầu của vốn bao gồm hai nhóm nước: nhóm nước phát triển và nhóm nước đang phát triển. Trong cả hai nhóm này đều có hiện tượng đầu tư sang nhau. Nhưng giữa hai nhóm, các nước phát triển thường đóng vai trò người cho vay hay người đầu tư.
Có thể nói, vào đầu thập kỷ 90, hệ thống tài chính toàn cầu đã được hình thành và phát triển khá rõ nét.
Về qui mô địa lý, tuy còn nhiều nước chưa gắn trực tiếp vào hệ thống tài chính toàn cầu, song hệ thống đã phát triển ra khắp Châu lục, bao gồm những nền kinh tế quan trọng nhất thế giới.
Về cấu trúc, hệ thống tài chính toàn cầu cũng bao gồm các trung gian tài chính và thị trường tài chính. Trung gian tài chính bao gồm các ngân hàng thương mại (commercial bank), quĩ bảo hiểm (hedge fund), quĩ hưu trí (pension fund), quỹ đầu tư (mutual fund). Bên cạnh đó thị trường tài chính phát triển 3 bộ phận: thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối. Nói chung, trong hệ thống tài chính toàn cầu, chủng loại công cụ tài chính phát triển rất đa dạng. Ngoài ra, hệ thống này hoạt động suốt ngày đem do chênh lệch về múi giờ, dưới sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ thông tin hiện đại.
Cùng với sự phát triển kinh tế nói chung và kết quả của quá trình TDHTC nói riêng (nếu trên), sự vậ._.n động của vốn có thay đổi lớn cả về chất và lượng. Về mặt chất, luồng vốn được di chuyển qua rất nhiều kênh: FDI, FPI, ODA, tín dụng thương mại quốc tế... Trong đó, FDI và đặc biệt FPI chiếm tỷ trọng rất lớn. Hiện nay, các công ty đa quốc gia, chủ yếu xuất phát từ DCs, là chủ thể chính của hoạt động FDI. Hoạt động FDI không chỉ mang lại vốn, mà cả công nghệ, kinh nghiệm quản lý cho các nước nhận đầu tư. Điều này đã góp phần vào những thành tựu phát triển kinh tế ở nhiều nước đang phát triển. Tuy nhiên, TNCs thường chuyển những công nghệ lạc hậu ra ngoài và giữ lại những công nghệ cao, giữ lại những khâu sản xuất chủ yếu. Do vậy, hiện nay vẫn tiếp tục diễn ra sự phân bố lại công nghệ trên phạm vi toàn cầu. Sự phân bố này có xu hướng chuyển công nghệ sử dụng nhiều lao động sang LDCs và khiến cho các nước này phụ thuộc hơn nữa vào DCs. Như vậy, vốn tư nhân ngày càng chiếm ưu thế trong luân chuyển vốn quốc tế. Về mặt lượng, quy mô luân chuyển vốn lớn hơn hàng hoá nhiều lần. Từ năm 1990 đến 1993, lưu chuyển vốn quốc tế tăng gần gấp đôi, từ 439,9 lên 811 tỷ USD [17, 68]. Trong giai đoạn 1985 - 1989, FDI trên toàn thế giới tăng 15% [72, 69]. Năm 1996, các khoản nợ thông qua tín dụng và trái khoán đạt 350 tỷ USD. Năm 1997, doanh số giao dịch ngoại hối bình quân hàng ngày trên thị trường ngoại hối toàn cầu vượt quá con số 1,5 nghìn tỷ USD [19,9]. Tháng 3/1998, qui mô thị trường đồng tiền Châu Âu đạt 4,5 nghìn tỷ USD (trong đó có 3 nghìn tỷ đô la Châu Âu) so với 7 tỷ USD vào năm 1963 (5 tỷ đô la Châu Âu). Sự phát triển này của hệ thống tài chính chứng minh cho tính khách quan của quá trình TDHTC.
Trong thập niên 90, quá trình nhất thể hoá tài chính diễn ra rất mạnh mẽ mà đỉnh cao là sự ra đời của đồng euro- đồng tiền chung châu Âu. Từ ngày 1/1/2002, hơn 300 triệu dân của 12 nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu đã chính thức sử dụng thống nhất một đồng tiền chung-đồng euro- bằng tiền mặt. Sự kiện này đã đánh dấu sự liên kết kinh tế quốc tế ở mức độ cao nhất trong khu vực Liên minh châu Âu đó là liên kết về tài chính và nhất thể hoá đồng tiền trong khu vực.
Tuy vậy, hệ thống tài chính toàn cầu chưa đạt sự thống nhất. Điều này thể hiện rõ nét qua sự khác biệt về lãi suất của các trái phiếu có cùng kỳ hạn. Ví dụ như trái phiếu bằng đô la Mĩ do Cục dự trữ Liên bang Mỹ phát hành thường có lãi suất thấp hơn trái phiếu chính phủ bằng đô la Mĩ của các nước khác vì có độ rủi ro thấp hơn. Vấn đề đó trực tiếp bắt nguồn từ khả năng thay thế tài sản không hoàn hảo, đặc biệt là sự khác nhau về độ rủi ro. Đến lượt nó, khả năng thay thế tài sản không hoàn hảo lại bắt nguồn từ nhiều yếu tố kinh tế, chính trị phức tạp, không thể lường trước. Do vậy tiến trình nhất thể hoá tài chính sẽ là một con đường rất dài.
CHƯƠNG 2. TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
2.1. Sự cần thiết phải tiến hành tự do hoá tài chính tại Việt Nam.
Tất cả các quốc gia trên thế giới đều hướng tới việc nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất, tinh thần của con người thông qua các hoạt động kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá...,trong đó, hoạt động kinh tế đóng vai trò quyết định. Chính vì vậy, mục tiêu chính của các nước đang phát triển hiện nay là phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cũng giống như các nước đang phát triển khác, để làm được điều đó, Việt Nam không thể chỉ sử dụng nguồn lực trong nước mà cần phải huy động tối đa các nguồn lực bên ngoài bằng cách mở cửa nền kinh tế, thực hiện tự do hoá kinh tế nói chung và tự do hoá tài chính nói riêng. Như đã phân tích ở chương 1, tuy còn có những tranh luận về lợi ích và tác hại của tự do hoá tài chính nhưng chắc chắn rằng, những lợi ích mà tự do hoá tài chính mang lại sẽ lớn hơn nhiều so với những nguy cơ mà nó có thể gây ra, đồng thời, những nguy cơ ấy là hoàn toàn có thể phòng tránh được nếu chúng ta có một lộ trình thực hiện đúng đắn, một cơ chế giám sát chặt chẽ có hiệu quả và sự chuẩn bị tốt cho năng lực của các tổ chức trung gian trong nước.
2.2. Quá trình tự do hoá tài chính ở Việt Nam.
Ý thức được tầm quan trọng của khu vực tài chính trong nền kinh tế, ngay từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, Việt Nam đã có rất nhiều những cải cách liên quan đến khu vực này theo hướng nới lỏng dần cơ chế quản lý đối với hệ thống tài chính, từng bước nâng cao vai trò của thị trường trong sự vận hành của đồng vốn. Phần viết dưới đây tập trung phân tích những kết quả cũng như tồn tại của quá trình tự do hoá tài chính ở Việt Nam theo các khía cạnh: lãi suất, thị trường tín dụng, các định chế tài chính, dịch vụ tài chính và bước đầu đánh giá một số tác động của quá trình đó tới nền kinh tế Việt Nam
2.2.1. Tự do hoá lãi suất
Chính sách lãi suất luôn có tác động rất lớn tới tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Cơ cấu và các mức lãi suất trong một nền kinh tế thị trường nhằm để hỗ trợ cho ba mục tiêu sau đây:
- Khuyến khích tiết kiệm và trung gian tài chính.
- Hướng các nguồn lực tài chính vào các hoạt động có tỷ suất lợi nhuận cao nhất, cũng như điều chỉnh co cấu kỳ hạn của các luồng vốn tài chính, tức là ngắn hạn với dài hạn.
- Mang lại mức chênh lệch đủ để các tổ chức tài chính trang trải chi phí hoạt dộng, chi phí vốn, chi phí chấp nhận rủi ro và lợi nhuận trên vốn tự có.
Để đạt được những mục tiêu trên, lãi suất thực phải dương và thống nhất với những giao dịch tài chính. Chính sách lãi suất của Việt Nam cũng không đi chệch những mục tiêu này.
a) Kết quả đạt được
Từ khi bắt đầu chương trình đổi mới, NHNN đã chuyển từ cách điều hành can thiệp sâu trước đó sang tạo mức chủ động cao hơn cho các ngân hàng trong việc ấn định từng loại lãi suất cụ thể và giảm bớt những lệch lạc. Các mốc cụ thể là:
- Tháng 3/1989, NHNN quán triệt một mức lãi suất dương, tuy nhiên do không kiềm chế được lạm phát ( năm 1990 đến năm 1992 ) nên lãi suất âm vẫn xuất hiện.
- Tháng 10/1993, NHNN đã hạn chế được tính bao cấp hành chính và phức tạp trong chính sách lãi suất bằng việc loại bỏ các lãi suất cho vay cụ thể theo ngành, thay bằng lãi suất phân biệt theo cơ cấu kỳ hạn khoản vay ( cơ chế lãi suất trần tín dụng ) và đồng thời thi hành cơ chế lãi suất thoả thuận đối với những trường hợp cho vay từ nguồn phát hành kỳ phiếu. Thêm vào đó, NHNN đã ấn định lãi suất danh nghĩa ở mức làm cho lãi suất thực chủ yếu là dương, điều này cho thấy sự kiềm chế về tài chính đã được giảm thiểu.
- Tháng 1/1996, NHNN áp dụng cơ chế một trần lãi suất tín dụng, khống chế chênh lệch lãi suất đầu vào - đầu ra, tự do hoá lãi suất đầu vào , trần lãi suất tín dụng trung - dài hạn được qui định cao hơn trần lãi suất tín dụng ngắn hạn. Tới thời điểm này, các ngân hàng mới thực sự có tính tự chủ trong các hoạt động của mình. Việc áp dụng mức chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay ở mức 0,35%/ tháng không đem lại hiệu quả kinh tế và gây khó khăn phức tạp trong việc tính toán và kiểm soát của NHNN.
- Tháng 1/1998, NHNN chỉ tập trung vào điều hành trần lãi suất tín dụng ( bỏ mức chênh lệch khống chế), tiếp tục nâng cao một bước tính tự chủ của các ngân hàng.
- Tháng 8/2000, NHNN đã tiến một bước quan trọng trong việc chuyển đổi lãi suất sang cơ chế thị trường qua việc thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản. Theo đó, NHNN tham khảo lãi suất của các NHTM chủ chốt để đưa ra lãi suất cơ bản và cho phép các NHTM được tự quyết định lái suất cho vay trên cơ sở không vượt quá biên độ mà NHNN khống chế. Tuy nhiên, thực chất cơ chế này vấn còn là một hình thức lãi suất trần.
- Ngày 30/5/2002, Thống đốc NHNN Việt Nam đã ban hành quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của TCTD đối với khách hàng. Cơ chế lãi suất thoả thuận là cơ chế lãi suất thị trường theo đó, lãi suất được hình thành và biến động chủ yếu do quan hệ cung - cầu vốn thị trường, sự kiểm soát lãi suất của NHNN được thực hiện thông qua việc điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ tác động lên cung - cầu vốn để hướng lãi suất thị trường biến động phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ. Rõ ràng đây là một bước chuyển đổi quan trọng, mạnh mẽ và cần thiết trong chính sách tín dụng, phù hợp với nguyên tắc thị trường, nhằm đảm bảo nguồn lực tài chính được phân bổ một cách hiệu quả hơn.
b) Tác động tích cực của việc thay đổi cơ chế lãi suất theo hướng thị trường.
Đối với các nước, việc thực hiện cơ chế lãi suất thị trường là yếu tố có tính "hạt nhân" để thúc đẩy thị trường tài chính phát triển theo chiều sâu, làm tăng tính cạnh tranh, thúc đẩy các dịch vụ tài chính phát triển, góp phần ổn định và phát triển kinh tế vĩ mô, hội nhập kinh tế quốc tế (thể hiện ở chỉ tiêu M2/GDP- phản ánh mức độ huy động vốn trong nước của khu vực tài chính chính thức tăng lên, như Thái Lan tăng từ 52% lên 80% năm 1994, Singapore tăng từ 58% lên 84,4% so sánh giữa trước và sau thời điểm tự do hoá lãi suất...).
Đối với Việt Nam, quá trình thay đổi cơ chế lãi suất theo thị trường có những tác động tích cực đối với kinh tế vĩ mô và thị trường tài chính - tiền tệ, biểu hiện như sau:
Một là: việc "nới lỏng" cơ chế điều hành lãi suất theo hướng thị trường đã tạo khả năng cho thị trường tài chính phát triển theo chiều sâu, thể hiện trong biểu đồ biến động tăng chỉ tiêu M2/GDP ( xem biểu đồ 1)
Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 7 năm 2002
Hai là: sự thay đổi của chính sách lãi suất là phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, nhưng cũng chính yêu cầu phát triển nền kinh tế, tiền tệ hoá các mối quan hệ kinh tế và sự hình thành các nhân tố kinh tế thị trường đã buộc chính sách lãi suất phải có sự "nới lỏng" để chuyển dần sang cơ chế lãi suất thoả thuận nhằm tạo điều kiện cho việc huy động tối đa nguồn lực trong nước phục vụ cho đầu tư phát triển và đồng bộ với tổng thể chính sách kinh tế - tài chính -đối ngoại (vốn huy động và tín dụng đối với nền kinh tế tăng trưởng trên 20%/năm; vốn tín dụng cung ứng cho nền kinh tế tuy tăng trưởng mức cao, năm 1991 tương đương 21% GDP, năm 2001 là 40%) (xem biểu đồ 2)
Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 7 năm 2002
Ba là: việc "nới lỏng" cơ chế lãi suất làm cho lãi suất tự điều chỉnh linh hoạt và phù hợp hơn với quan hệ cung - cầu vốn thị trường, các luồng vốn được lưu chuyển đến nơi có lợi nhuận cao với mức rủi ro thấp, nâng cao hiệu quả đầu tư thúc đẩy việc các NHTM phát triển nhanh chóng mạng lưới chi nhánh ở thành thị, nông thôn, đưa ra các mức lãi suất, sản phẩm dịch vụ thích hợp cho các khách hàng. Thực tế những năm 1991 - 1995 cho thấy khi NHNN khống chế chặt chẽ mức trần lãi suất cho vay ở mức thấp đã khuyến khích sự vay mượn lòng vòng trên thị trường không chính thức, trốn tránh sự kiểm soát, lãi suất tiền gửi tăng, nhưng lãi suất cho vay lại không tăng được và chênh lệch lãi suất chỉ đủ bù đắp chi phí kinh doanh, lợi nhuận rất thấp, khả năng tài chính của các NHTM bị yếu đi, dễ gây xáo trộn, tổn thương cho thị trường tài chính.
Bốn là: quá trình chuyển dần sang cơ chế lãi suất thoả thuận đi liền với quá trình "nới lỏng" kiểm soát ngoại hối và thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt làm cho lãi suất trong nước bám sát hơn lãi suất quốc tế, việc huy động vốn ở trong nước và từ nước ngoài tăng lên để tài trợ cho nhu cầu tín dụng trong nưóc.
Năm là: quá trình chuyển dần sang cơ chế lãi suất thoả thuận làm cho mức biến động ngày càng tăng của các luồng vốn đầu tư, NHNN phải sử dụng và phát huy nhiều hơn các công cụ gián tiếp để điều hành chính sách tiền tệ, tăng cường kiểm soát rủi ro tín dụng và phát triển đồng đều các bộ phận của thị trường tiền tệ.
Sáu là: sau mỗi giai đoạn "nới lỏng" cơ chế điều hành lãi suất, việc huy động vốn và mở rộng cho vay của TCTD được thuận lợi hơn, người sản xuất và tổ chức kinh tế ở nông thôn được vay vốn nhiều hơn do khối lượng vốn chuyển về khu vực nông thôn tăng lên (tín dụng đối với khu vực nông thôn 5 năm gần đây tăng bình quân 23 - 25%/năm, lớn hơn mức bình quân chung).
Bảy là: ngân sách Nhà nước có điều kiện huy động được tối đa nguồn lực trong nước để bù đắp thâm hụt, thay vì đi vay nước ngoài quá lớn hoặc sử dụng tiền phát hành.
Như vậy, với điều kiện kinh tế - xã hội và thị trường tài chính - tiền tệ trong những năm qua, việc áp dụng cơ chế điều hành lãi suất theo hướng thị trường là bước đi thích hợp. Tuy nhiên, nhìn lại cơ chế điều hành lãi suất cơ bản thời gian qua có một số tồn tại.
c) Các tồn tại.
- Về thực chất, cơ chế lãi suất cơ bản vẫn còn sự can thiệp hành chính của Nhà nước, thể hiện ở việc khống chế biên độ. Trên thực tế, lãi suất cho vay và huy động của TCTD của địa bàn thành thị về cơ bản đã thực hiện theo cơ chế lãi suất thoả thuận; đối với địa bàn nông thôn lãi suất cho vay đã sát biên độ, làm cho lãi suất nhiều khi không phản ánh đúng cung - cầu vốn thị trường, các TCTD gặp trở ngại trong việc huy động và cho vay vốn.
- Do việc khống chế biên độ làm cho các TCTD không thể phản ứng kịp thời để phòng tránh rủi ro về lãi suấtvà thanh khoản khi lãi suất thị trường tiền tệ trong và ngoài nước biến động theo hướng tăng, chênh lệch lãi suất cho vay và huy động bị thu hẹp do lãi suất huy động tăng nhưng lãi suất cho vay không tăng.
- Cơ chế lãi suất có sự kiểm soát bằng công cụ hành chính không phù hợp với yêu cầu của việc phát huy và khai thác nguồn vốn nội lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, vì với tư cách là "hàng hoá", nó vận hành theo quan hệ cung - cầu, nếu lãi suất thấp việc huy động vốn sẽ khó khăn.
Những tác động tích cực của cơ chế điều hành lãi suất theo hướng thị trường và hạn chế của cơ chế lãi suất cơ bản thời gian qua cho thấy rằng việc chuyển sang thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận là điều cần thiết.
2.2.2. Tự do hoá hoạt động tín dụng
a) Kết quả.
Chính sách tín dụng của NHNN Việt Nam theo đuổi các mục tiêu : đẩy mạnh huy động vốn để cho vay; đổi mới cơ cấu tín dụng theo hướng giảm bớt tín dụng ngắn hạn, nâng dần tỷ lệ cho vay trung và dài hạn; mở rộng tín dụng cho mọi thành phần kinh tế; tín dụng không chỉ dành riêng cho khu vực quốc doanh và dân cư ; nâng cao tính hiệu quả của tín dụng và hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong tín dụng.
Kết quả các năm vừa qua đã cho thấy công tác tín dụng đã đạt được một số kết quả tích cực nhất định. Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn so tổng dư nợ cũng như tỷ trọng tín dụng cấp cho các doanh nghiệp quốc doanh đã giảm
Bảng 2.1. Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn so với tổng dư nợ của các ngân hàng
Chỉ tiêu
1991
1997
1998
Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn so với tổng dư nợ tín dụng (%)
85.0
60.5
54.5
Tỷ trọng cho vay doanh nghiệp quốc doanh (%)
90.0
51.0
75.0
Nguồn: Báo cáo của IMF 1- 2000
Quy chế tín dụng ngày càng phù hợp với nền kinh tế thị trường, "thông thoáng hơn". Gần đây nhất, Quyết định số 1627/2001/QG-NHNN ban hành về Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, với nhiều điểm mới:
- Đối tượng áp dụng được cụ thể hơn trước: các tổ chức tín dụng được thành lập và thực hiện nghiệp vụ cho vay theo qui định của Luật các tổ chức tín dụng. Khách hàng vay tại tổ chức tín dụng, bao gồm: các pháp nhân là: doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các pháp nhân, cá nhân là người nước ngoài và các tổ chức khác có đủ các điều kiện qui định tại Điều 94 của Bộ Luật dân sự, cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân.
- Đối tượng cho vay được mở rộng bao gồm giá trị vật tư, hàng hoá, máy móc, thiết bị và các khoản chi phí hợp lý, trong đó tiền thuế xuất khẩu, lãi tiền vay trung dài hạn trong thời gian tài sản cố định đang được thi công cũng được xem xét cho vay, trước đây không có qui định về điều hành này.
- Thời hạn cho vay cũng qui định cụ thể hơn, bao gồm cho vay ngắn hạn tối đa đến 12 tháng, cho vay trung hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng, cho vay dài hạn từ trên 60 tháng trở lên.
- Quy chế còn quy định một số hình thức cho vay đặc thù như: cho vay ngoại tệ, cho vay ưu đãi, cho vay đầu tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch của Nhà nước, cho vay uỷ thác cho chính phủ và tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước...
- Lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận phù hợp với qui định của NHNN tại thời điểm cho vay.
- Giới hạn cho vay so với tài sản làm bảo đảm tiền vay và không vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
- Thời gian giải quyết cho vay của các tổ chức tín dụng được qui định cụ thể hơn nhằm hạn chế tới mức thấp nhất phiền hà trong cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng, chậm nhất là 10 ngày đối với cho vay ngắn hạn và 45 ngày đối với vay trung và dài hạn.
- Đưa ra các quy định khi khách hàng bị khó khăn về tài chính do nguyên nhân khách quan, không trả đúng hạn nợ gốc và lãi thì tổ chức tín dụng xem xét cho gia hạn nợ vay, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, miễn giảm lãi tiền vay.
- Theo các quy định hiện hành, các đối tượng vay vốn không phải áp dụng các biện pháp bảo đảm bao gồm:
+ Hộ gia đình nghèo vay vốn tại ngân hàng phục vụ người nghèo và vay tại các tổ chức tín dụng khác.
+ Hộ nông dân (không thuộc diện nghèo) vay tại các tổ chức tín dụng có mức vay dưới 5 triệu đồng.
+ Doanh nghiệp Nhà nước vay vốn tại các ngân hàng thương mại quốc doanh.
+ Ngoài ra, một số đối tượng cho vay khác theo các mục tiêu chỉ định được chính phủ qui định không phải thế chấp, cầm cố tài sản hoặc dùng tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp, cầm cố như: cho vay vốn khắc phục bão lụt, thiên tai, cho vay đầu tư theo kế hoạch Nhà nước, cho vay tôn nền làm sàn nhà trên cọc ở đồng bằng sông Cửu Long, cho vay đóng mới tàu thuyền công suất lớn để thực hiện chương trình đánh bắt hải sản xa bờ...
b) Tồn tại.
Mặc dù hoạt động tín dụng đã có nhiều điểm thông thoáng hơn so với trước đây như: đối tượng, phạm vi khách hàng được mở rộng điều kiện cho vay cũng được nới lỏng, thời hạn cho vay phù hợp với chu kỳ hoạt động kinh tế, phương thức cho vay được mở đa dạng và phong phú hơn song vẫn còn nhiều vấn đề cần được giải quyết, mức độ tự do hoá còn chưa cao:
- Trên phương diện vĩ mô, hoạt động tín dụng có tính thụ động, chưa chú trọng vấn đề phát triển thị trường, định hướng nền kinh tế.
- Hoạt động tín dụng vẫn còn mang tính bao cấp: các doanh nghiệp Nhà nước được hưởng ưu đãi trong vay vốn hơn so với các doanh nghiệp tư nhân. Theo văn bản số 417/CV-NH14 của NHNN, chính phủ quyết định các DNNN vay vốn của các NHTMQD không phải thế chấp, không giới hạn theo tỷ lệ vốn điều lệ của doanh nghiệp mà căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, các doanh nghiệp bị thua lỗ từ năm trước chưa được xử lý, nhưng có phương án kinh doanh có hiệu quả và được Bộ (đối với doanh nghiệp trung ương) hoặc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (đối với doanh nghiệp địa phương) chấp thuận, và đơn vị cam kết sử dụng vốn đúng mục đích, cam kết trả nợ vay đúng hạn thì ngân hàng cho vay tiếp. Như vậy, vô hình chung, việc các ngân hàng thương mại quốc doanh được phép cấp tín dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước mà không cần phải có thế chấp là một việc làm hoàn toàn xao nhãng đến những yêu cầu đòi hỏi đối với một khu vực ngân hàng lành mạnh. Rõ ràng là các ngân hàng thương mại quốc doanh ngày càng bị lạm dụng như là nơi trung chuyển tín dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước. Thực tế này có thể được đánh giá như là hoạt động bao cấp gián tiếp cho ngân sách Nhà nước. Kể từ năm 1997, tức là sau khi có quyết định nói trên, mức tăng tín dụng cho khu vực DNNN nói chung đã tăng nhanh hơn một cách bất thường so với khu vực ngoài quốc doanh (trước đó, tín dụng cho các doanh nghiệp quốc doanh đã giảm). Trong năm1998, khu vực DNNN đã nhận khoản trên 75% tổng lượng tín dụng cho các khu vực kinh tế. Điều này thể hiện rõ sự bất bình đẳng giữa 2 khu vực DNNN và các doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp quốc doanh được cấp tính dụng khi có phương án kinh doanh song thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN Việt Nam hiện nay lại rất kém hiệu quả. Trong khi đó, các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn lại bị hạn chế tiếp cận với các nguồn vốn. Như vậy, thực tế hiện nay đang phá vỡ tính ổn định của hệ thống ngân hàng Việt Nam, đang ưu đãi khu vực kinh tế Nhà nước hơn là khu vực tư nhân và thể hiện sự bao cấp gián tiếp cho ngân sách Nhà nước. Kết quả của thực tế này là tín dụng ngày càng bị phân bổ sai; điều không tránh khỏi là quá trình tăng trưởng kinh tế phải chịu những tác động tiêu cực.
2.2.3. Tự do hoá hoạt động của các định chế tài chính trung gian.
a) Kết quả.
Cùng với tiến trình đổi mới kinh tế, thị trường tài chính của Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể, việc chuyển đổi hệ thống ngân hàng từ một cấp chuyển sang 2 cấp với ngân hàng Nhà nước giữ vai trò quản lý và hoạch định chính sách, còn các ngân hàng thương mại được tự do thực hiện các dịch vụ tiền tệ và tín dụng trong khuôn khổ các qui định của ngân hàng Nhà nước ban hành đã đánh dấu bước hoà nhập đầu tiên của hệ thống tài chính Việt Nam vào các tiêu chuẩn cơ bản của TTTC thế giới.
Kể từ năm 1990, các qui định về lĩnh vực hoạt động của từng ngân hàng đã được bãi bỏ và các tổ chức tài chính có đủ điều kiện đều được phép tham gia vào hệ thống các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Cùng với các năm sau đó, thị trường liên ngân hàng ngoại tệ và vốn ngắn hạn đã được thiết lập giữa hệ thống các ngân hàng thương mại, nghiệp vụ bảo lãnh cho vay cùng các loại hình dịch vụ ngân hàng khác đã bắt đầu phát triển thể hiện một bước tiến lớn trong việc đổi mới nghiệp vụ hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Nhờ kết quả của những nỗ lực đổi mới này, khu vực ngân hàng ở Việt Nam đã phát triển nhanh chóng cùng với việc cho ra đời nhiều loại hình dịch vụ phù hợp với yêu câù của thị trường. Tính cho đến nay, hệ thống trung gian tài chính ở Việt Nam đã phát triển tới: 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, 38 ngân hàng thương mại cổ phần, 27 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 40 văn phòng đại diện chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 2 công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài và 2 công ty liên doanh cho thuê tài chính , 948 quĩ tín dụng nhân dân, 82 hợp tác xã tín dụng.
Trong đó:
- Các ngân hàng thương mại quốc doanh: có quyền thực hiện tất cả các nghiệp vụ huy động vốn, cho vay bằng VNĐ và ngoại tệ, kinh doanh ngoại hối, thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế, kinh doanh vàng bạc, đá quý và cung cấp các dịch vụ tư vấn, thuê mua và bảo lãnh vay vốn...
- Các ngân hàng thương mại cổ phần: có cổ đông lớn là các ngân hàng thương mại quốc doanh, các doanh nghiệp Nhà nước và cổ phần. Đa số các ngân hàng thương mại cổ phần được thành lập trong giai đoạn 1991 - 1993.
- Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài: các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam chủ yếu cung cấp các dịch vụ tín dụng và tiền tệ bằng ngoại tệ. Đặc biệt trong lĩnh vực tài trợ thương mại (cụ thể là xuất nhập khẩu), hoạt động kinh doanh bằng nội tệ vẫn còn bị hạn chế do các ngân hàng này chỉ được phép huy động một khối lượng giới hạn tiền gửi bằng VNĐ.
Các ngân hàng liên doanh: 4 ngân hàng liên doanh cả 4 ngân hàng thương mại quốc doanh và các ngân hàng đối tác nước ngoài cũng phải chịu các qui định hạn chế về lượng huy động tiền gửi bằng VNĐ giống như các chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam.
Mặc dù hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần, liên doanh hay chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam không được hưởng các quy chế ưu đãi như các ngân hàng thương mại quốc doanh. Nhưng trên thực tế, hoạt động của các khu vực ngân hàng này đã có những bước tiến đáng kể và thực sự là các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh một khi khu vực ngân hàng phải mở cửa theo cơ chế tự do cạnh tranh.
Nếu so sánh với tổng dư nợ của các ngân hàng thương mại quốc doanh, tổng dư nợ của các ngân hàng còn lại vẫn còn chiếm một tỷ trọng tương đối khiêm tốn. Tuy nhiên, có thể nhận thấy chênh lệch dư nợ cho vay bằng ngoại tệ ở cả 2 khu vực ngân hàng là không lớn và nếu như ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Châu Á không làm tỷ giá của VNĐ biến động mạnh thì chắc chắn mức độ tăng dư nợ ngoại tệ của nhóm các ngân hàng còn lại trong các năm 1997 và 1998 sẽ còn cao hơn.
Bảng 2.2. Cơ cấu tổng tín dụng cho vay (%)
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng cho vay
100
100
100
100
100
Cho vay DNNN
52,8
50,2
52,4
48,2
44,9
Cho vay ngoài quốc doanh
47,2
49,8
47,6
51,8
55,1
Cho vay của NHTMQD, trong đó:
75,5
77,2
81,4
67,9
73,3
Cho vay DNNN
43,4
42,8
47,1
-
-
Cho vay ngoài quốc doanh
32,1
34,4
34,3
-
-
Cho vay của NHTM ngoài quốc doanh, trong đó:
24,5
22,8
18,6
-
-
Cho vay DNNN
9,4
7,4
5,3
-
-
Cho vay bằng đồng, trong đó:
63,4
68,8
73,9
74,4
79,3
NHTMQD cho vay
53,3
59,3
57,0
56,3
62,8
NHTM khác
10,1
9,5
12,6
18,0
16,5
Cho vay ngoại tệ, trong đó:
36,6
31,2
26,1
25,6
20,7
NHTMQD cho vay
22,2
18,0
24,4
11,6
10,5
NHTM khác
14,4
13,2
6,0
14,0
10,2
Nguồn: Báo cáo của IMF 1.2002
c) Tồn tại.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, hoạt động của hệ thống các chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam cũng mới chỉ giới hạn ở giai đoạn thận trọng thăm dò và tiếp tục nghiên cứu thị trường chứ chưa thực sự đưa ra chiến lược mở rộng hoàn toàn thị phần của Việt Nam. Với việc được quyền thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng đa năng ở Việt Nam, khả năng chiếm lĩnh thị phần từ các ngân hàng này là hoàn toàn có thể. Trong khi đó, chúng ta dường như vẫn chưa nắm bắt được chiến lược phát triển dài hạn của các ngân hàng này trên TTTC của Việt Nam để đưa ra những giải pháp đối phó thích hợp và chấp nhận được.
Có thể nhận thấy, chính sự bao biện và can thiệp còn sâu của Nhà nước đối với chính sách hoạt động của các NHTMQD cùng với cơ chế cho vay vượt mức đối với các cổ đông chính trong các ngân hàng thương mại cổ phần là hình ảnh trái ngược đối với chính sách cho vay được thẩm tra thận trọng của các ngân hàng nước ngoài. Cho đến nay, tổng dư nợ của các NHTMQD vẫn chiếm tới trên 70% tổng dư nợ của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, phần nhiều trong số đó được dành cho các DNNN (44.9%) và chủ yếu theo chỉ đạo của Nhà nước. Ngoài ra, các DNNN vẫn tiếp tục nhận được các nguồn vốn vay ưu đãi, cho vay không cần thế chấp và được dễ dàng vay vốn ngoại tệ, đổi lại, các NHTMQD được Nhà nước cho phép khoanh nợ trong trường hợp khách hàng chưa có khả năng thanh toán đã càng làm tăng tâm lý ỷ lại của các NHTM. Điều này cũng được coi là nguyên nhân làm giảm khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trước các đối tác nước ngoài.
Ngoài ra, sự phân biệt đối xử trong hoạt động cho vay của các NHTMQD đối với khu vực kinh tế tư nhân, hộ gia đình cũng là những kiềm chế và chưa tự do hoá trong hoạt động của các định chế tín dụng trong nưóc. Hoặc các quy định khống chế các ngân hàng có dư nợ dưới 5% tổng dư nợ tín dụng mới được thành lập các công ty chứng khoán hoặc được phép thực hiện các giao dịch chứng khoán cũng là những yêu cầu quá chặt chẽ.
2.2.4. Tự do hoá thị trường chứng khoán.
a) Kết quả.
Cùng với công cuộc đổi mới sâu rộng nền kinh tế, kinh tế Việt Nam đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường nhiều thành phần và cùng với đó là hàng loạt các vấn đề không năng động và hiệu quả đối với khu vực các DNNN. Khôi phục lại uy tín của hệ thống ngân hàng và giảm thiểu các khoản chi ngân sách đã trở thành những ưu tiên hàng đầu của chính phủ. Để tăng cường hiệu quả và năng lực tài chính của khu vực các DNNN, Chính phủ đã tiến hành hàng loạt các biện pháp đổi mới khu vực này trong đó có cả chính sách cổ phần hoá các DNNN.
Cùng với các nỗ lực cải cách khu vực DNNN, chính phủ cũng đẩy mạnh công tác phát triển thị trường vốn:
- Năm 1997, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã được thành lập với nhiệm vụ xây dựng các khung pháp lý cơ bản cho các hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam trong tương lai. Khi thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động, ngoài chức năng xây dựng và ban hành các văn bản, thông tư hướng dẫn chi tiết của Pháp lệnh, Nghị định của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán; xây dựng các chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển của thị trường thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước còn có chức năng quản lí giám sát thị trường, đưa ra các quyết định một cách nhanh chóng làm tăng tính ổn định, vững chắc cũng như uy tín của Sơ giao dịch chứng khoán và lòng tin cậy của cộng đồng đầu tư vào thị trường chứng khoán.
- Ngày 20/7/2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức khai trương và mở phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/7/2000. Việc thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp. HCM được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc Nhà nước thống nhất quản lý mọi hoạt động giao dịch chứng khoán. Thông qua UBCKNN, các giao dịch được thực hiện trên nguyên tắc công khai thông tin, đảm bảo công bằng, an toàn và hiệu quả.
- Theo các qui định hiện hành, các nhà đầu tư nước ngoài đều được phép tham gia có giới hạn vào TTCK Việt Nam vừa với tư cách của nhà đầu tư và cũng vừa với tư cách của một trung gian tài chính.
- Theo các qui định của Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 1998 của chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán và quyết định số 139/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tỷ lệ tham gia của các bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ tối đa 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của tổ chức phát hành, chứng chỉ quỹ đầu tư của một quỹ đầu tư chứng khoán và/hoặc 40% tổng số trái phiếu đang lưu hành của một tổ chức phát hành. Hiện nay, các nhà đầu tư nước ngoài đã được phép nắm giữ tối đa 30% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của tổ chức phát hành. Các tổ chức kinh doanh nước ngoài muốn kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam phải thành lập Công ty liên doanh với đối tác Việt Nam theo giấy phép do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài trong công ty chứng khoán liên doanh tối đa là 30%.
Trước đó, mặc dù chưa có các qui định cụ thể về sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK thì đã có một số nhà đầu tư nước ngoài thông qua các quỹ đầu tư, bên cạnh việc đầu tư vào một số hạng mục công trình ở Việt Nam, cũng đã tiến hành đầu tư vào các cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam với một tỷ lệ tối đa cho phép là 30% theo qui định của Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín d._.n mà các đối tượng tham gia đặc biệt là các ngân hàng thương mại khó có thể gánh chịu nổi. Do đó trong thời gian trước mắt, các ngân hàng cần có các điều kiện được thực hiện các nghiệp vụ vay và cho vay vốn ngắn hạn (ngoại tệ) ở thị trường trong nước cũng như trên thị trường tiền tệ quốc tế.
Cần đa dạng hoá các công cụ của thị trường ngoại tệ: Trong hệ thống hoạt động của ngân hàng và thị trường ngoại tệ, các công cụ của thị trường còn rất giản đơn và hệ thống thanh toán còn đơn điệu. Do đó các công cụ của thị trường cần được phát triển đa dạng như (thương phiếu, hối phiếu được ngân hàng chấp nhận, giấy chứng nhận tiền gửi, các nghiệp vụ kỳ hạn, hoán đổi, v.v...). Các công cụ đó đồng thời cũng có thể được mua bán trên thị trường ngoại tệ. Cùng với việc phát triển các công cụ của thị trường thì cũng đồng thời cần nghiên cứu triển khai các hệ thống thanh toán mới phù hợp với sự phát triển của công nghệ thông tin và viễn thông. Hiện nay việc mua bán, thanh toán và chuyển tiền của các ngân hàng còn rất chậm thường một dịch vụ phải mất 2 đến 3 ngày. Việc chậm trễ trong việc mua bán, thanh toán và chuyển tiền nhất là về mặt ngoại hối sẽ gây nên những thiệt hại cho những đối tượng tham gia thị trường. Do đó vấn đề đặt ra là cần thực hiện thanh toán, chuyển nhượng mua bán ngoại tệ và các công cụ qua hệ thống ngân hàng từ hệ thống thanh toán hiện hành sang hệ thống thanh toán hiện đại như hệ thống toán tiền điện tử và tiến tới áp dụng hệ thống thanh toán bù trừ liên ngân hàng. Tất nhiên việc áp dụng hệ thống thanh toán bù trừ liên ngân hàng. Tất nhiên việc áp dụng hệ thống thanh toán tiên tiến sẽ rút ngắn thời hạn thanh toán nhưng đòi hỏi phải đầu tư trang bị hệ thống máy tính điện tử một cách đồng bộ và nâng cao năng lực của hệ thống các đối tượng tham gia thị trường đặc biệt là hệ thống ngân hàng.
- Cần điều chỉnh tỷ giá linh hoạt. Trên cơ sở hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để từ đó có thể hình thành được mức tỷ giá hợp lý sát với tình hình biến động chung của thị trường ngoại tệ trong nước và đảm bảo ổn định giữa đồng Việt Nam với đồng đô la Mỹ. Tỷ giá ổn định là yếu tố quan trọng để kiềm chế lạm phát và nâng dần uy tín của đồng Việt Nam trong các hoạt động kinh tế. Để giảm bớt sự phụ thuộc vào một đồng tiền và đặc biệt là những rủi ro có thể xảy ra khi xác định tỷ giá chỉ với một đồng tiền khi đồng tiền đó bị mất giá thì cũng làm cho đồng Việt Nam cũng bị trượt giá theo (giảm mức giảm giá của đồng Việt Nam so với ngoại tệ bao nhiêu thì cũng có nghĩa là tài sản của Nhà nước ta bị giảm tương ứng) do đó, vấn đề đòi hỏi cần thiết là phải xác lập tỷ giá giữa đồng Việt Nam với một số đồng ngoại tệ quan trọng (hiện nay ta mới chỉ xác lập tỷ giá giữa đồng Việt Nam và USD).
Hiện nay nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển ngoại thương mới và chuẩn bị mọi điều kiện để tham gia vào tổ chức thương mại thế giới thì việc chuyển sang cơ chế xác định tỷ giá giữa đồng Việt Nam với các đồng ngoại tệ chuyển đổi chủ yếu là cần thiết. Việc gắn đồng Việt Nam với nhóm ngoại tệ sẽ giảm được các rủi ro so với phương pháp xác định tỳ giá đồng Việt Nam so với chỉ một đồng ngoại tệ thì khi tổng ngoại tệ đó giảm mạnh thì đồng Việt Nam cũng sẽ bị trượt theo. Vấn đề quan trọng là khi chuyển phương thức xác định tỷ giá thì cần phải nghiên cứu để chọn đồng tiền căn cứ vào tiềm năng của đồng tiền chọn lựa và tỷ trọng ngoại thương nào là đạt được và xu hướng phát triển ngoại thương giữa ta với nước có đồng tiền lựa chọn.
Khi tỷ giá phản ánh đúng giá thực trên thị trường và thường xuyên ổn định thì vấn đề mua ngoại tệ theo tỷ lệ bắt buộc sẽ không trở thành vấn đề đối với doanh nghiệp và tổ chức kinh tế vì lợi ích kinh tế được đảm bảo khi cần mua ngoại tệ của ngân hàng trong trường hợp ngoại tệ vẫn đáp ứng đầy đủ nhu cầu. Trong điều kiện đó thì các tổ chức kinh tế và doanh nghiệp sẽ tự nguyện bán toàn bộ ngoại tệ cho ngân hàng để lấy đồng Việt Nam trước khi mức lãi suất của đồng Việt Nam cao hơn lãi suất tiền gửi ngoại tệ.
Như đã trình bày ở phần trên: mục tiêu của tự do hoá ngoại tệ là nhằm góp phần tăng dự trữ. Để đạt được mục tiêu đó thì trong hoạt động ngoại tệ cần nghiên cứu chuyển sang cơ chế xác định tỷ giá giữa đồng Việt Nam với một số đồng ngoại tệ chính thức đồng thời cũng đòi hỏi phải thực hiện dự trữ ngoại tệ theo cơ cấu. Ở Việt Nam từ trước đến nay do dự trữ ngoại tệ còn hạn chế nên cũng mới chỉ thực hiện cơ chế dự trữ USD.
Ngày nay quan hệ buôn bán và tín dụng giữa Việt Nam với nước ngoài được mở rộng đáng kể bao gồm cả khối lượng kim ngạch và với nhiều nước khác nhau do đó, trong dự trữ ngoại tệ cũng cần nghiên cứu chuyển từ cơ chế dự trữ một ngoại tệ (USD) sang cơ chế dự trữ ngoại tệ theo cơ cấu (nghĩa là nhiều loại ngoại tệ). Một số nước ASEAN như Thái Lan, Malaysia và Indonesia thực hiện cơ cấu dự trữ ngoại tệ theo cơ cấu phù hợp với cơ cấu ngoại tệ nước ngoài. Chính sách dự trữ ngoại tệ này đảm bảo cho họ hạn chế được một phần các rủi ro do biến động tỷ giá cuả các đồng tiền vay nợ. Để thực hiện chính sách đảm bảo giá trị trả nợ tương đương với giá trị ở thời điểm vay nợ, nên khi có sự mất cân đối giữa cơ cấu dư nợ và cơ cấu dự trữ các loại ngoại tệ thì NHTW cần phải tìm các biện pháp chuyển hoá đồng tiền vay nợ hoặc tìm nguồn để đảm bảo cân đối với giá trị của các loại ngoại tệ vay ban đầu.
Các nước đang phát triển đều thực hiện cơ chế dự trữ ngoại tệ theo cơ cấu. Việt Nam trong thời kỳ bao cấp quan hệ hợp tác kinh tế lớn nhất là quan hệ với Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu cũ, đồng tiền chính là rúp chuyển nhượng. Ngày nay quan hệ hợp tác buôn bán, vay nợ được phát triển với nhiều nước và với nhiều đồng tiền khác nhau, do đó để tránh những rủi ro do những biến độ của các đồng tiền mà ta có quan hệ, cần nghiên cứu chuyển cơ chế dự trữ ngoại tệ theo cơ cấu phù hợp với cơ cấu kim ngạch xuất nhập khẩu và vay nợ (đồng tiền ký kết). Trong quá trình thực hiện NHTW cần định kỳ xem xét phân tích đánh giá tình hình và xu hướng biến động của các đồng tiền chủ yếu mà ta có quan hệ để có biện pháp điều chỉnh ngoại tệ kịp thời phù hợp với cơ cấu kim ngạch buôn bán và vay nợ hoặc chuyển hoá các đồng vay nợ sao cho phù hợp với cơ cấu dự trữ.
Việc thực hiện cơ chế dự trữ ngoại tệ theo cơ cấu là một phương thức mới phù hợp với chính sách đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ hợp tác kinh tế và thương mại với nước ngoài. Thực hiện cơ chế này, đòi hỏi cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô phải nhạy bén trong việc nắm bắt được những diễn biến của thị trường ngoại tệ trong và ngoài nước và qui luật biến động để có các biện pháp điều chỉnh cơ cấu dự trữ ngoại tệ kịp thời.
Trong việc ngoại tệ được tập trung vào ngân hàng thì trong những vấn đề cần chú ý là vấn đề lãi suất (huy động tiền gửi ngoại tệ của dân, các tổ chức kinh tế và cho vay bằng ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp). Cơ chế lãi suất cần gắn với lãi suất của thị trường ngoại hối quốc tế. Lãi suất tiền gửi và cho vay cần được điều chỉnh thường xuyên khi cần thiết phản ánh những thay đổi của lạm phát và lãi suất trên thị trường quốc tế. Cơ chế lãi suất thông thoáng sẽ đảm bảo cho ngoại tệ trong dân và các tổ chức kinh tế được tập trung vào hệ thống ngân hàng. Mặt khác, lãi suất được xác định phù hợp với lãi suất của thị trường quốc tế sẽ tránh được những trường hợp các ngân hàng thương mại không sử dụng ngoại tệ để cho các tổ chức kinh tế vay phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh khi có nhu cầu mà lại chuyển ngoại tệ ra nước ngoài gửi để thu mức lãi suất ở thị trường nước ngoài cao hơn lãi suất trong nước. Việc làm đó của một số ngân hàng nước ta trong thời gian qua là do cơ chế vận hành lãi suất, phương thức đó tuy có đảm bảo an toàn vốn cho họ nhưng không phù hợp với tính chất của một tổ chức kinh doanh tiền tệ. Mặt khác cơ chế lãi suất ngoại tệ gắn với lãi suất thị trường quốc tế sẽ có tác dụng thúc đẩy các ngân hàng nước ngoài hoạt động ở Việt Nam tham gia vào giải quyết nhu cầu ngoại tệ cho các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh góp phần đẩy nhanh mức tăng trưởng của nền kinh tế.
3.3.4. Vấn đề chuyển đổi đồng VND trên tài khoản vãng lai và tài khoản vốn.
Một trong những vấn đề quan trọng của tự do hoá tài chính là làm cho đồng tiền của quốc gia có thể tự do chuyển đổi sang một trong những đồng tiền dự trữ quốc tế chủ yếu. Tuy nhiên, từ nhiều năm nay, đồng tiền Việt Nam vẫn chưa thực hiện được chức năng chuyển đổi ra các ngoại tệ mạnh. Bất cứ lúc nào, người ta cũng có thể đổi 100.000 USD ra VND. Nhưng ngược lại muốn đổi VND lấy 10.000 USD một cách hợp lệ là một việc không phải là đơn giản, mà hầu như ít có ngân hàng nào có khả năng giải quyết được. Do đồng VND không có khả năng chuyển đổi ra ngoại tệ và do tỷ giá đồng VND chưa thật hợp lý, chưa được thị trường và mọi người hoàn toàn chấp nhận (người dân vẫn còn tâm lý muốn găm giữ USD), và do cơ chế ngân hàng và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều mặt chưa chuyển đổi cho phù hợp với tình hình mới, nên dẫn đến tình trạng các phương án đầu tư phục vụ thị trường nội địa không có điều kiện thực hiện tốt. Vậy làm thế nào để tạo cho đồng VND có khả năng chuyển đổi ra ngoại tệ mạnh để nhập khẩu, để trả nợ, để thanh toán lãi đầu tư....? Chúng ta hoàn toàn có đầy đủ các điều kiện làm cho đồng VND có khả năng chuyển đổi qua các biện pháp sau:
- Ngành ngân hàng cần đổi mới triệt để, nhanh chóng áp dụng các nghiệp vụ kĩ thuật và kinh nghiệm tổ chức kinh doanh của hệ thống ngân hàng thế giới,
- Thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi hợp lý, sát với thị trương từng giờ từng ngày trong mua bán ngoại tệ. Thực hiện cơ chế giá bán và giá mua thống nhất trong cả nước.
- Thành lập quỹ dự trữ ngoại tệ nhà nước. Ngành ngân hàng, tài chính, thương mại cần thống nhất chủ trương, chính sách và các biện pháp thực hiện nhằm tạo cho VND có khả năng chuyển đổi .
- Thực hiện chế độ lưu hành duy nhất đồng VND trên thị trường Việt Nam..
- Cơ cấu đồng tiền thanh toán trong kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu phải được tính toán cụ thể, từ đó cho phép một số ngân hàng trung ương ở một số nước có thể mở tài khoản đồng VND tại ngân hàng trung ương hoặc một số ngân hàng ngoại thương ở nước ta.
Còn lại chỉ là các biện pháp tổ chức và vấn đề tiền mặt để mua ngoại tệ. Nhưng ta đều biết rằng có USD, có ngoại tệ là có tiền mặt. Nếu ngân hàng thay đổi cung cách quản lý, biết học tập và áp dụng những kinh nghiệm của ngân hàng thế giới thì vấn đề tiền mặt sẽ được giải quyết.
Khi đồng VND chuyển đổi được, chúng ta sẽ có một cơ chế tiền tệ như các nước làng giềng, chẳng hạn như ở Malaysia, cứ 2,5 Ringgít là đổi ra một USD và ngược lại. Các cửa hàng, khách sạn,...không ai thấy cần nhận USD, chỉ cần nhận tiền nội tệ thì chỉ cần ra ngân hàng đổi với tỷ giá sát với thị trường, không ai bị thiệt nên mọi người chấp nhận.
Nâng dần và tiến tới khả năng chuyển đổi của đồng VND sẽ tạo điều kiện cho công tác đầu tư, du lịch, xuất nhập khẩu....có điều kiện phát triển mạnh, có hiệu quả cao; đồng thời giúp cho công tác quản lý ngoại tệ được chặt chẽ, đẩy nhanh hoạt động thanh toán qua ngân hàng có lợi cho nền kinh tế đất nước đang trong tiến trình chuyển đổi để hội nhập kinh tế thế giới.
Đặc biệt tại hội nghị " Đồng tiền chung cho Đông Nam á" họp tại Penang (Malaysia) ngày 5/8/99, Tổng thư ký ASEAN đã chỉ thị tiến hành nghiên cứu khả thi của việc thiết lập đồng tiền chung cho ASEAN cùng hệ thống tỷ giá hối đoái liên ngân hàng. Do vậy việc tạo ra khả năng chuyển đổi cho đông VND là cần thiết trong việc tham gia đồng tiền chung châu á trong tương lai và đảm bảo lộ trình tham gia AFTA.
3.3.5. Định hướng tự do hoá hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính.
Trong phạm vi hoạt động của thị trường tài chính (thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ kiểm toán) có rất nhiều các loại hình tổ chức tham gia, cả trong và ngoài nước. Do đó, trong phạm vi như vậy, cần phải tiến hành thực hiện tự do hoá từng bước ở thị trường nội địa trước một bước, đồng thời từng bước tự do hoá với bên ngoài để đảm bảo môi trường nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổ chức tín dụng Việt Nam trong điều kiện phát triển và hội nhập.
Đối với các tổ chức tín dụng.
- Các tổ chức ngân hàng trong nước cần phải tiến hành:
+ Cho phép các ngân hàng thương mại quốc doanh có qui mô vốn lớn, có uy tín, có kinh nghiệm thực hiện chức năng kinh doanh tổng hợp: vừa thực hiện chức năng nghiệp vụ ngân hàng, vừa có chức năng kinh doanh chứng khoán, vừa tham gia góp vốn cổ phần vào các doanh nghiệp và đảm nhận các dịch vụ thanh toán trong nền kinh tế để nâng cao tiềm lực tài chính của ngân hàng.
+ Nghiên cứu cổ phần hoá một đến hai ngân hàng thương mại quốc doanh nhằm xây dựng các tập đoàn ngân hàng có quy mô vốn lớn, có sự tham gia đóng góp cổ phần của các tập đoàn ngân hàng nước ngoài có uy tín.
+ Các ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô nhỏ có tiềm lực tài chính kém cần phải thực hiện sáp nhập nhằm tăng qui mô vốn và mở rộng thị trường hoạt động.
+ Từng bước xoá bỏ các ưu đãi tài chính đối với các tổ chức ngân hàng, không phân biệt tính chất sở hữu như các hiện tượng khoanh nợ, các mối quan hệ thân tín đối với các cấp chính quyền, phạm vi và đối tượng cho vay có đảm bảo.
- Đối với ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Trong giai đoạn từ nay đến 2005 có thể nới lỏng giới hạn mức huy động tiền gửi bằng VNĐ từ 25% hiện nay đến 30-35% so với vốn tự có đối với cả chi nhánh và các ngân hàng liên doanh với nước ngoài. Từng bước cho phép các ngân hàng liên doanh và chi nhánh các ngân hàng nước ngoài được cung cấp vốn tín dụng hỗ trợ cho sản xuất kinh doanh phục vụ cho xuất khẩu; mở rộng phạm vi cung cấp vốn tín dụng bằng VND đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
+ Sau năm 2005, có thể nới lỏng tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước ngoài trong việc liên doanh thành lập các tổ chức ngân hàng liên doanh; xoá bỏ hạn chế về tổng số người được tuyển của các tổ chức tài chính nước ngoài; cho phép các cá nhân nước ngoài tham gia nắm giữ cổ phần của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
+ Sau năm 2010, có thể từng bước cho phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam và xoá bỏ các hạn chế về phạm vi hoạt động của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Đối với các công ty chứng khoán:
- Các công ty trong nước cần phải tiến hành:
+ Nghiên cứu giảm mức vốn pháp định hiện nay đối với các loại hình kinh doanh chứng khoán để tạo điều kiện cho việc hình thành các công ty chứng khoán cổ phần với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế với sự tham gia cổ phần của Nhà nước. Đồng thời, tạm thời chưa đánh thuế đối với các công ty chứng khoán trong khoảng 3-5 năm sau khi thành lập nhằm tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán ra đời và phát triển.
+ Nghiên cứu nới lỏng quy định tỷ lệ nợ quá hạn khoảng 5% tổng dư nợ cho vay để có thêm các ngân hàng thương mại quốc doanh có đủ điều kiện thành lập công ty chứng khoán con.
- Các công ty chứng khoán nước ngoài:
+ Từ nay đến 2010 chỉ cho phép các công ty chứng khoán nước ngoài tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam dưới hình thức góp vốn liên doanh với mức tối đa 49% và sau năm 2010 có thể nâng tỷ lệ tham gia góp vốn từ 60 đến 70% và có thể cho phép đến thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài. Riêng các cá nhân đầu tư nước ngoài có thể đầu tư vào nắm giữ cổ phần của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh của Việt Nam đến 49%, thậm chí 70% cổ phần của các doanh nghiệp Nhà nước mà Nhà nước không nắm giữ 100% vốn sở hữu. Với việc nới lỏng như vậy cũng phù hợp với xu hướng tự do hoá với mức mở cửa rộng hơn cho sự tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán nội địa ở các nước sau khủng hoảng tạo điều kiện cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài một cách gián tiếp.
Đối với các công ty tham gia vào hoạt động của thị trường dịch vụ bảo hiểm và kiểm toán.
- Đối với các công ty bảo hiểm:
+ Đối với các công ty bảo hiểm trong nước cần phải có chính sách hỗ trợ đầu tư trong nước và các ưu đãi về thuế, tạo điều kiện cho việc thành lập các công ty cổ phần với sự tham gia của các thành phần kinh tế và dân cư (hiện nay, các công ty bảo hiểm mới thành lập chủ yếu là các công ty bảo hiểm chuyên ngành); đến năm 2005 từng bước giảm tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc xuống từ 20% còn 10%.
+ Đối với các công ty bảo hiểm nước ngoài; từ nay đến 2005 khống chế số lượng các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài và sau 2005 có thể tăng lên 8 công ty nhằm tạo điều kiện cho các công ty bảo hiểm trong nước có thị trường phát triển, từng bước mở rộng diện và phạm vi thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ của các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài hoặc tham gia các hoạt động giám định và đại lý bảo hiểm.
- Đối với các công ty kiểm toán:
+ Đối với các công ty kiểm toán trong nước, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ tạo điều kiện cho sự phát triển hệ thống các công ty kiểm toán độc lập, đặc biệt là việc đào tạo hệ thống chuyên gia kiểm toán theo chuẩn mực quốc tế; tạo điều kiện cho phép hành nghề tư vấn tài chính, kế toán. Thực hiện cơ chế chuyển giao dần nhiệm vụ, chức năng quản lý nghề nghiệp cho Hiệp hội kế toán và kiểm toán.
+ Đối với các công ty kiểm toán nước ngoài: từng bước cho phép các công ty kiểm toán nước ngoài (100% vốn nước ngoài) được phép kiểm toán các công ty cổ phần Việt Nam ngoài việc quy định hiện hành cho phép kiểm toán các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoaì và các dự án sử dụng vốn vay nước ngoài, đảm bảo đáp ứng nguyên tắc hội nhập và tự do hoá thương mại dịch vụ (hiện nay có quy định các chuyên gia nước ngoài phải có chứng chỉ do Bộ Tài chính cấp, nhưng trên thực tế không thực hiện được) phấn đấu mở rộng thị trường với khối lượng khoảng 5 đến 6 công ty kiểm toán 100% vốn nước ngoài trong giai đoạn từ nay đến 2005.
3.4. Một số điều kiện đảm bảo cho việc tự do hoá tài chính có hiệu quả.
Tự do hoá tài chính chắc chắn sẽ gây ra những biến động bất lợi trong ngăn chặn, có ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế như lãi suất tăng, cản trở cho doanh nghiệp vay vốn, thị trường trong nước có thể bị thu hẹp đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực tài chính có sức cạnh tranh yếu, thậm chí có thể làm cho các doanh nghiệp này không có khả năng vươn lên, phải chấp nhận phá sản. Chính vì thế cần có một điều kiện cần thiết, đảm bảo cho việc thực hiện tự do hoá tài chính vừa an toàn vừa có hiệu quả.
3.4.1. Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Thực tế cho thấy năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta so với khu vực rất thấp, đặc biệt là khả năng cạnh tranh của các tổ chức tài chính tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm và có quy mô tài chính rất nhỏ, thị trường còn thu hẹp, các sản phẩm tài chính còn đơn điệu, nghèo nàn, trình độ đội ngũ cán bộ còn bất cập. Bên cạnh đó, hiệu quả hoạt động của phần lớn khách hàng là các doanh nghiệp Nhà nước lại chưa cao. Kinh nghiệm khủng tài chính ở khu vực vừa qua cho thấy, hiệu quả sử dụng vốn thấp ở các khu vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ là nguy cơ dẫn đến khủng hoảng nợ ở khu vực ngân hàng, tiếp theo đó là khủng hoảng tài chính và cuối cùng là khủng hoảng kinh tế xã hội, chính vì thế cần phải có các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và tổng thể của nền kinh tế, trong đó đặc biệt chú ý đến hệ thống các giải pháp tài chính thúc đẩy nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
3.4.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, đầy đủ và minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tự do hoá tài chính thúc đẩy hoạt động tài chính tiền tệ nước ta hội nhập nhanh với quĩ đạo vận động của tài chính quốc tế. Các thể chế, công cụ tài chính tiền tệ và công nghệ vận doanh, vận hành phải gắn với thị trường quốc tế và tuân thủ các nguyên tắc và luật lệ chung. Đồng thời phải đảm bảo tính đồng bộ, tính minh bạch và rõ ràng của hệ thống pháp luật, sao cho nó trở thành phương châm và ý thức hành động của mọi chủ thể trong lĩnh vực tài chính tiền tệ.
3.4.3. Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán.
Có thể nói, chưa thể nói đến tự do hoá với mức độ rộng trong lĩnh vực tài chính, nếu như ở quốc gia nào đó chưa có thị trường chứng khoán. Bởi vì, thị trường chứng khoán được xem như là một điều kiện cần để thực hiện tự do hoá tài chính. Thực tế cho thấy tự do hoá lãi suất có thể làm cho giá cả về vốn đắt hơn, vốn trở nên khan hiểm hơn và đôi khi bị ách tắc nếu các nguồn vốn chỉ luân chuyển qua một kênh duy nhất là hệ thống ngân hàng. Trường hợp có thị trường với hoạt động ổn định, vững chắc thì đó chính là các van để điều tiết lãi suất thị trường và điều chỉnh sự vận động của các nguồn vốn, đáp ứng tính thanh khoản cao của các công cụ tài chính trong điều kiện tự do hoá tài chính.
3.4.4. Thiết lập cơ chế giám sát tài chính đối với nền kinh tế.
Từ thực tế khủng hoảng tài chính khu vực cho thấy việc nới lỏng và xoá bỏ các can thiệp mang tính hành chính tổng quản lý trực tiếp đối với các hoạt động quản lý tiền tệ không gắn liền với sự kiểm tra, giám sát tài chính, sẽ dẫn đến các hiện tượng tiêu cực phát sinh, và hậu quả cho thấy là việc nổ ra các cuộc khủng hoảng tài chính, đặc biệt là khủng hoảng về nợ. Do đó, nhu cầu thiết lập hệ thống giám sát là rất quan trọng.
Ở nước ta, các công tác thanh tra, kiểm tra tài chính tuy đã được tăng cường và nâng cao hiệu quả nhưng vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu quản lý, chưa nói đến yêu cầu nâng cao hiệu quả, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia vì trên thực tế, chưa thực hiện được thanh tra hoạt động, tức là hiệu quả hoạt động của nền kinh tế.
Giám sát tài chính đòi hỏi phải thực hiện giám sát từ xa, gián tiếp, trực tiếp, trước, trong và sau quá trình hoạt động và sử dụng các nguồn lực tài chính của mọi chủ thể trong nền kinh tế để kịp thời có biện pháp phát hiện, phòng ngừa ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra. Đồng thời, phải vừa thực hiện giám sát vĩ mô và vi mô thông qua sử dụng hệ thống của hành lang an toàn tài chính. Hệ thóng giám sát tài chính như trên phải được thiết lập nhanh chóng để đáp ứng yêu cầu kiểm tra, giám sát sự di chuyển nhanh, với qui mô ngày càng lớn của các nguồn vốn trong nền kinh tế, đặc biệt là các luồng vốn ngắn hạn với thị trường bên ngoài.
Ngoài ra, để đảm bảo cho việc thực hiện các nhiệm vụ giám sát tài chính có hiệu quả cần thiết phải củng cố và hoàn thiện chế độ kế toán; phát triển mạnh hoạt động kiểm toán, hệ thống kiểm soát nội bộ, củng cố và thiết lập tới hệ thống thông tin kinh tế.
KẾT LUẬN
Tự do hoá tài chính đang là một xu hướng lớn , chi phối toàn bộ quá trình toàn cầu hoá và hội nhập của các quốc gia. Tuy nhiên, đây cũng là một vấn đề hết sức phức tạp nên cả về lý thuyết và thực tế hiện có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về xu hướng này. Chúng ta không thể phủ nhận những hậu quả đáng tiếc mà tự do hoá tài chính đã góp phần gây ra cho một số nền kinh tế trên thế giới, nhưng cũng phải thấy rằng những lợi ích mà tự do hoá tài chính mang lại là rất lớn và nều gắn liền với nó là thiết lập một hệ thống giám sát tốt cũng như các biện pháp hỗ trợ khác thì những nguy cơ tiềm tàng trên là có thể ngăn chặn được.
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường, vừa tiến hành đổi mới cơ chế, thể chế, chính sách để hội nhập vào khu vực và quốc tế, nên không thể không thực hiện tự do hoá tài chính. Quá trình tự do hoá tài chính ở Việt Nam được tiến hành từ những năm sau đổi mới theo lộ trình tương đối giống như "trình tự tối ưu hoá kinh tế " của Mc. Kinnon đó là thực hiện tự do hoá tài chính trong nước trước khi tự do hoá tài khoản vốn. Cho đến nay, Việt Nam đã tương đối hoàn thiện tự do hoá lãi suất, các nội dung khác như phân bổ tín dụng, dịch vụ tài chính, thị trường chứng khoán và thị trường ngoại hối đều đã được đổi mới theo hướng thị trường, tuy nhiên mức độ tự do hoá vẫn mới ở những bước đầu và còn bị kiềm chế hơn nhiều so với xu hướng chung trên thế giới. Tuy còn nhiều khó khăn và tồn tại nhưng có thể khẳng định quá trình tự do hoá tài chính ở Việt Nam là một bước đi đúng hướng, đã có những tác động tích cực đối với nền kinh tế, góp phần mang lại sự phát triển kinh tế, xã hội trong những năm sau đổi mới.
Bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay đều cho thấy việc thực hiện tự do hoá tài chính ở các nước nói chung và Việt Nam nói riêng là hết sức cần thiết, và cần phải xúc tiến mạnh mẽ hơn nữa. Tuy nhiên để quá trình đó được đến đích thành công, việc thực hiện tự do hoá tài chính phải chủ động với bước đi thận trọng, kết hợp với sự giám sát chặt chẽ, đảm bảo tự do hoá có hiệu quả và an toàn. Chúng ta cũng cần sử dụng giải pháp tự do hoá là một công cụ quan trọng để từng bước thực hiện mục tiêu xây dựng thể chế tài chính phù hợp với cơ chế thị trường và định hướng phát triển nền kinh tế theo định hướng XNCN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo của IMF 8.2000 và 4.2001
Các văn bản pháp luật (Nghị định, Thông tư, Chỉ thị, Quyết định) về hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Donald J.Mathieson & Liliana Rojas-Susrez - Liberalization of the Capital Account: Experiences and Issues - IMF - 3.1993.
Đề tài nghiên cứu khoa học: "Tự do hoá tài chính: cơ sở lý luận, thực tiễn ở các nước và vấn đề thực hiện ở Việt Nam" - Bộ Tài chính - Viện nghiên cứu tài chính.
Economic and social survey of ASIA and The Pacific 1998, United Nations, New York, 1998.
F.S.Mishkin - Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính - NXB Khoa học và Kỹ thuật – 1994
Financial deregulation, capital flows and macroeconomic management in The Asia Pacific, UNDP, Korea development Institute.
Financial liberalization in Asia: Analysis and Prospect –Edited by Douglas H. Brooks and Monika Quesser.
papers
Kế hoạch phát triển ngân hàng 5 năm 2001 - 2005 - NHNN
Kế hoạch phát triển tài chính 5 năm 2001 - 2005 – Bộ Tài Chính - Viện Nghiên cứu Tài chính
Ngô Việt Phương & Lê Văn Hinh - Lãi suất thoả thuận - Những thách thức trên con đường chuyển đổi cơ chế lãi suất ở Việt Nam - Tạp chí Ngân hàng số 8, năm 2002.
Ngọc Kha - Tự do dần hoạt động ngoại tệ - Báo Đầu tư Chứng khoán - Số 169 - tháng 3/2003
Nguyễn Đình Tài - Tự do hoá tài chính đối với nền kinh tế chuyển đổi: thực tiễn, vấn đề và bước đi - Tạp chí Ngân hàng số 13 năm 1998
Nguyễn Đức - Nhìn lại việc điều hành chính sách quản lý ngoại hối và tỷ giá thời gian qua - Thị trường tài chính - tiền tệ 1.2002
Nguyễn Hoàng Giang - Vấn đề chuyển đổi đồng tiền ở Việt Nam - Phát triển kinh tế - Tháng 2/2003
Nguyễn Văn Hiệu - Tự do hoá tài chính - Kinh nghiệm của Trung Quốc, Canada và bài học đối với Việt Nam - Nghiên cứu kinh tế số 274 – 2001
Saleh M. Nsouli and Mounir Rached – Capital account liberalization in Southern Mediterrance –Finance and Development 12/1998
Tài chính cho tăng trưởng - Ngân hàng thế giới - NXB Văn hoá Thông tin - 2001
Tường Vi - Nhà đầu tư nước ngoài được mở tài khoản tại công ty chứng khoán - Cơ hội mới cho toàn thị trường- Báo Đầu tư chứng khoán Số 176, tháng 4/2003
Trần Ngọc Thơ - Giải pháp cho việc điêù hành chính sách tỷ giá ở Việt Nam - Phát triển kinh tế - Tháng 2/2003
Trần Nguyên Nam - Tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc doanh - Thông tin tài chính - Tháng 9/2002
Võ Tá Hân, Trần Quốc Hùng, Vũ Quang Việt - Châu Á: Từ khủng hoảng nhìn về thế kỷ 21 - NXB TP.Hồ Chí Minh, VAPEC, TBKT Sài gòn – 2000
Vũ Đình Ánh - Làm gì trong hệ thống tài chính thế giới mới - Tạp chí Tài chính 1.2000
Vũ Đình Ánh - Mười năm tỷ giá hối đoái - Tạp chí Tài chính 2.2000
Vũ Đình Ánh – Tự do hoá tài chính – con đường phải qua –Tạp chí tài chính Số 1+2 năm 1998
Vũ Long - Hoàn thiện cơ chế lãi suất tín dụng theo hướng tự do hoá - Tạp chí Ngân hàng Số 1+2, năm 2003.
Vũ Phương Liên - Một số biện pháp góp phần thực hiện thành công cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận - Tạp chí Ngân hàng Số 6, năm 2002
Vũ Thu Giang - Chính sách tài chính Việt Nam trong quá trình hội nhập - NXB - 2000
Wendy Dobson, Pierre Jacquet - Tự do hoá tài chính trong khuôn khổ WTO: Kinh nghiệm các nước - NXB Tài chính – 2001
MỤC LỤC
Các thuật ngữ và các từ viết tắt…………………………………………………..
1
Lời mở đầu
2
Chương 1. Khái quát về tự do hoá tài chính
4
1.1. Khái niệm
4
1.2. Trình tự tự do hoá tài chính
6
1.3. Vai trò của tự do hoá tài chính đối với nền kinh tế
8
1.3.1. Những lợi ích của tự do hoá tài chính
8
1.3.2. Những mặt trái của tự do hoá tài chính
12
1.4. Quá trình tự do tài chính trên thế giới
15
Chương 2. Tự do tài chính ở Việt Nam
19
2.1. Sự cần thiết tiến hành tự do hoá tài chính tại Việt Nam
19
2.2. Quá trình tự hoá tài chính ở Việt Nam
19
2.2.1. Tự do hoá lãi suất
20
2.2.2. Tự do hoá hoạt động tín dụng
25
2.2.3. Tự do hoá hoạt động của các định chế tài chính trung gian
28
2.2.4. Tự do hoá thị trường chứng khoán
32
2.2.5. Tự do hoá thị trường dịch vụ tài chính ( bảo hiểm, kiểm toán...)
34
2.2.6. Tự hoá thị trường ngoại hối
37
Chương 3. Một số quan điểm cơ bản và định hướng giải pháp thực hiện tự do hoá tài chính ở Việt Nam trong thời gian tới
39
3.1. Bối cảnh kinh tế- tài chính ở trong và ngoài nước
39
3.1.1. Bối cảnh trong nước
39
3.1.2. Bối cảnh ngoài nước
40
3.2. Một số quan điểm cơ bản về tự do hoá tài chính
41
3.2.1. Tự do hoá tài chính phải tiến hành theo lộ trình, bước đi chủ động
42
3.2.2. Tự do hoá tài chính phải được coi là phương tiện, là khâu đột phá
42
3.2.3. Tự do hoá tài chính phải nằm trong sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ
43
3.3. Định hướng giải pháp chính sách tự do hoá tài chính ở Việt Nam trong các năm tới
43
3.3.1. Định hướng tự do hoá lãi suất
44
3.3.2. Định hướng tự do hoá hoạt động tín dụng
46
3.3.3. Định hướng tự do hoá hoạt động ngoại hối
48
3.3.4. Vấn đề chuyển đổi VND trên tài khoản vãng lai và tài khoản vốn
51
3.3.5. Định hướng tự do hoá hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính
54
3.4. Một số điều kiện đảm bảo cho việc tự do hoá tài chính có hiệu quả
57
3.4.1. Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế
57
3.4.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, đầy đủ và minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế
58
3.4.3. Xây dựng và thị trường chứng khoán
58
3.4.4. Thiết lập cơ chế giám sát tài chính đối với nền kinh tế
58
Kết luận
60
Tài liệu tham khảo
61
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0367.doc