CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”
NĂM 2010
TÊN CÔNG TRÌNH:
TÌM HIÊU TỔ CHỨC BỘ MÁY KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CỦA HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN TRONG CÁC CÔNG TY KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP Ở VIỆT NAM
Thuộc nhóm ngành: Khoa học xã hội
HÀ NỘI, 2010
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Kiểm toán đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới. Ở mỗi quốc gia sự phát triển về tất cả các mặt kinh tế - xã hội đã làm cho hoạt động kiểm toán ngày càng phát triển mạnh m
90 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2068 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Tìm hiểu tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động kiểm toán trong các Công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẽ và trở thành một nhu cầu không thể thiếu được. Ở Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Hoạt động kiểm toán nói chung cũng như hoạt động kiểm toán độc lập nói riêng còn khá mới mẻ ở nước ta. Song cùng với xu thế toàn cầu hóa các hoạt động thương mại và sự quan tâm của Nhà nước, Việt Nam đã và đang không ngừng nâng cao cả về số lượng cũng như chất lượng hoạt động kiểm toán. Đưa ngành kiểm toán nước nhà phát triển toàn diện, ngang tầm với kiểm toán quốc tế. Và điều đó cũng hứa hẹn những bước tiến cho kiểm toán độc lập Việt Nam. Số lượng các công ty dung cấp dịch vụ kiểm toán cũng vì vậy ngày cành tăng lên, lớn có, bé có, công ty trực thuộc các hãng nổi tiếng có, mà các công ty được thành lập ở ngưỡng vừa đủ những điều kiện quy định của pháp luật có. Và một câu hỏi đặt ra là liệu việc tổ chức bộ máy kiểm toán tại các công ty này đã phù hợp chưa và có đảm bảo chất lượng cho các cuộc kiểm toán mà họ thực hiện không?
Bộ máy kiểm toán gồm cả con người và phương tiện chứa đựng các yếu tố của kiểm toán để thực hiện chức năng kiểm toán. Tổ chức bộ máy kiểm toán với những mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động linh hoạt nhằm thích ứng với đặc điểm của đối tượng và khách thể kiểm toán trong các cuộc kiểm toán cụ thể và hướng tới việc thực viện các chức năng của kiểm toán.
Nhận thức về tầm quan trọng của việc tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập và những tác động của nó tới chất lượng của cuộc kiểm toán, tìm hiểu lý luận và thực tiễn, chúng em đã chọn đề tài “ Tìm hiểu tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động kiểm toán trong các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam”.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đánh giá về thực trạng, chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức và hoạt động của kiểm toán độc lập nước ta hiện nay, và những tác động của nó tới chất lượng của hoạt động kiểm toán trong các công ty kiểm toán độc lập. Phân tích rõ những ưu nhược điểm, những tồn tại, bất cập và rút ra bài học kinh nghiệm cho sự phát triển của kiểm toán độc lập ở Việt Nam.
Trên cơ sở nghiên cứu một cách hệ thống một số mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán trên thế giới, qua đó tìm ra phương hướng xây dựng các mô hình tổ chức bộ máy kiểm tóan độc lập ở nước ta hiện nay, phù hợp với thực tiễn hoạt động của kiểm toán độc lập trong điều kiện pháp lý, môi trường kinh tế - xã hội ở Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng trọng tâm của đề tài là mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập và những tác động của nó tới chất lượng của hoạt động kiểm toán trong các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm cả nghiên cứu những nguyên lý chung, lý thuyết và cả thực tế về tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập và những tác động của nó tới chất lượng của hoạt động kiểm toán trong các công ty kiểm toán độc lập; đồng thời tham khảo mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán của các hãng kiểm toán trên thế giới.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp tổng hợp, khảo sát điều tra, phân tích, thống kê, logic, khái quát hóa, hệ thống hóa, mô hình hóa,...
Nội dung và kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu, mục lục và kết luận đề tài được kết cấu thành 3 chương:
CHƯƠNG I : Khái quát chung về tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập và tác động của nó đến chất lượng hoạt động kiểm toán.
CHƯƠNG II : Tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
CHƯƠNG III : Phương hướng hoàn thiện tổ chức bộ máy kiểm toán nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán trong các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam.
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này, chúng em đã nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của các thầy, các cô, của gia đình và bạn bè… Trước hết chúng em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa kế toán trường Đại học Kinh Tế Quốc dân về sự giảng dạy tận tình trong thời gian vừa qua, những kiến thức mà các thầy các cô truyền đạt là nền tảng để chúng em có thể hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này. Và chúng em cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn tới cô giáo Th.s Tạ Thu Trang – người đã theo sát, hướng dẫn và chỉ bảo chúng em trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do một số hạn chế về thông tin và kiến thức nên bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết, chúng em rất mong nhận được sự góp ý của các thấy cô để bài viết thêm hoàn thiện.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC BỘ MÁY KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP ĐẾN CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN
Khái quát chung về tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập và tác động của nó đến chất lượng hoạt động kiểm toán
Tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập
Khái quát chung về tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập
Bộ máy kiểm toán gồm cả con người và phương tiện chứa đựng các yếu tố của kiểm toán để thực hiện chức năng kiểm toán. Tổ chức bộ máy kiểm toán với những mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động linh hoạt nhằm thích ứng với đặc điểm của đối tượng và khách thể kiểm toán trong các cuộc kiểm toán cụ thể và hướng tới việc thực hiện các chức năng của kiểm toán.
Tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập là tổ chức của các kiểm toán viên chuyên nghiệp kinh doanh các dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác có liên quan. Là tổ chức kinh doanh, mọi đơn vị kiểm toán độc lập phải thực hiện các nghĩa vụ và có quyền lợi như một tổ chức kinh doanh khác.
Tất cả các yêu cầu trên đòi hỏi khoa học về tổ chức kiểm toán trước hết phải xác định được những nguyên tắc cơ bản về tổ chức bộ máy kiểm toán, trên cơ sở đó xác định các mô hình tổ chức trong hàng loạt các mối liên hệ trong và ngoài hệ thống, đồng thời phân tích điều kiện và xác định mục tiêu và bước đi trong tổ chức bộ máy kiểm toán Việt Nam.
Nguyên tắc cơ bản của tổ chức bộ máy kiểm toán
Kinh doanh dịch vụ kiểm toán là kinh doanh một nghề chuyên sâu nên kiểm toán viên phải có đủ điều kiện hành nghề. Do đó chỉ có những người có bằng kiểm toán và đủ điều kiện hành nghề khác nhau mới được phép kinh doanh dịch vụ này. Thông thường cùng với dịch vụ kiểm toán, bộ máy này có thể thực hiện các dịch vụ khác có liên quan như kế toán, tư vấn thuế, tài chính, tin học …
Từ nhận thức về bản chất của tổ chức và tổ chức bộ máy kiểm toán, có thể nhận thấy nguyên tắc cơ bản của tổ chức bộ máy kiểm toán :
Xây dựng đội ngũ kiểm toán viên đủ về số lượng và bảo đảm yêu cầu chất lượng phù hợp với từng bộ máy kiểm toán.
Kiểm toán viên là yếu tố cơ bản cấu thành bộ máy kiểm toán. Sự tồn tại cũng như chất lượng hoạt động của bộ máy kiểm toán được quyết định bởi số lượng và chất lượng đội ngũ kiểm toán viên, đó là nguyên lý chung cho việc tổ chức mọi hoạt động bộ máy. Hơn nữa, hoạt động kiểm toán lại có chức năng đặc biệt nên đòi hỏi cao với kiểm toán viên cả về chuyên môn lẫn phẩm chất đạo đức. Vì vậy, dù ở bất cứ đâu trong phạm vi quốc gia hay quốc tế, bất cứ khi nào dù khi mới xây dựng hay đang trên đường phát triển, các tổ chức kiểm toán đều coi trọng việc xây dựng đội ngũ kiểm toán viên.
Kiểm toán viên bao gồm nhiều loại hình với những bộ máy tổ chức cụ thể cũng có những điểm khác nhau về nội dung phương pháp cụ thể và từ đó cả về tổ chức kiểm toán. Vì vậy, xây dựng đội ngũ kiểm toán viên cũng đòi hỏi những yêu cầu cụ thể riêng biệt thích ứng với từng loại hình, từng bộ máy kiểm toán.
Ngoài xây dựng loại hình bộ máy tổ chức, việc phân công công việc tương ứng với trách nhiệm đối với mỗi kiểm toán viên cũng là yếu tố quan trọng để đảm bảo chất lượng kiểm toán trong một cuộc kiểm toán. Sau đây là bảng mô tả cấp độ của nhân viên kiểm toán tương ứng với kinh nghiệm mà mỗi KTV có được :
Cấp độ
Số năm kinh nghiệm
Trợ lý kiểm toán (Staff assistant)
0 – 2 năm
Trưởng phòng kiểm toán (Senior)
2 – 5 năm
Chủ nhiệm kiểm toán (Manager)
5 – 10 năm
Giám đốc kiểm toán (Partner)
Trên 10 năm
Tất nhiên, gắn với đội ngũ kiểm toán viên là trang thiết bị cụ thể cho kiểm toán đó là những máy móc, thiết bị, phương tiện thích ứng với kỹ thuật kiểm toán ( cả phần cứng và phần mềm nếu có ) và hình thành cơ chế hoạt động thống nhất đang thực hiện chức năng kiểm toán.
Hệ thống bộ máy kiểm toán phải bao gồm các phân hệ chứa đựng các mối liên hệ trong – ngoài khác nhau phù hợp với nguyên tắc chung của lý thuyết tổ chức và phù hợp với quy luật của phép biện chứng về liên hệ
Mục tiêu của tổ chức là tạo ra mối liên hệ theo một trật tự xác định. Trong kiểm toán trật tự này được xác định khác nhau do quan hệ giữa các mục tiêu kiểm toán khác nhau với các khách thể kiểm toán khác nhau. Mỗi khách thể, mỗi chủ thể này lại có nhiều mối liên hệ khác ngoài kiểm toán. Trong việc xử lý hàng loạt mối liên hệ phức tạp này cần phải có phương pháp luận biện chứng giữa các sự vật, hiện tượng, giữa cái chung và cái riêng, giữa cái mới và cái cũ.
Tổ chức bộ máy kiểm toán phải quán triệt nguyên tắc chung của mọi hệ thống tổ chức bộ máy : tập trung, dân chủ thích ứng với từng bộ phận kiểm toán
Nguyên tắc tập trung – dân chủ do Lênin đề xướng trong mối quan hệ giữa khách thể - chủ thể - môi trường kiểm toán. Ở từng phân hệ kiểm toán trong từng thời kỳ phát triển mối liên hệ chủ thể - khách thể có những điểm khác nhau song đều tổ chức và hoạt động trong mỗi Nhà nước cụ thể với một nguyên tắc tổ chức cụ thể : Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Chất lượng kiểm toán và ảnh hưởng của tổ chức bộ máy kiểm toán đến chất lượng của hoạt động kiểm toán
Kiểm toán là một loại dịch vụ đặc biệt, dịch vụ làm cho người dùng tin, an tâm về chất lượng các con số, an tâm về tính trung thực, khách quan, đầy đủ, hợp pháp, hợp lý, hợp thủ tục của các thông tin kinh tế, tài chính, nhất là các thông tin tổng hợp trên báo cáo tài chính. Đã là dịch vụ (như sản phẩm, lao vụ khác), thì cần phải có chất lượng đảm bảo. Chất lượng đó là do các chủ thể kiểm toán tuân thủ các nguyên tắc kiểm toán và chuẩn mực kiểm toán, có quy trình, phương pháp và đặc biệt là có một đội ngũ kiểm toán viên có đạo đức nghề ghiệp, có năng lực chuyên môn cao và có tính chuyên nghiệp trong thực hiện nhiệm vụ.
Vì vậy chất lượng kiểm toán là mức độ thỏa mãn của các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán về tính khách quan và độ tin cậy đối với ý kiến kiểm toán của kiểm toán viên; đồng thời thỏa mãn mong muốn của đơn vị được kiểm toán về những đóng góp của kiểm toán viên nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, trong thời gian định trước với giá phí hợp lý.
Chất lượng dịch vụ kiểm toán trước hết được đặt trên nền tảng của mục tiêu kiểm toán. Cuộc kiểm toán tiến hành nhằm mục đích gì, có phải nó đi sâu vào kiểm tra, phân tích để đánh giá khách quan chất lượng các thông tin được kiểm toán để cung cấp những thông tin đã được kiểm chứng, đáng tin cậy hay không, hay chỉ nhằm “hợp lý hoá”, “thủ tục hoá” những thông tin lẽ ra phải được nhìn nhận là còn khiếm khuyết, có sai sót, thậm chí có gian lận và không đáng tin cậy. Như vậy, chất lượng dịch vụ kiểm toán phải có cái nền là sự vô tư, khách quan, trung thực, có chính kiến và mục tiêu rõ ràng của Kiểm toán viên.
Chất lượng dịch vụ kiểm toán phải phản ánh tính độc lập, khách quan của chủ thể kiểm toán. Kết luận kiểm toán thể hiện tư cách, tư thế, quan điểm và cái nhìn độc lập của chủ thể kiểm toán. Tính độc lập đó không thể bị xâm hại một cách vô nguyên tắc và phi chuẩn mực, thậm chí phi pháp. Không thể cho định kiến, thành kiến, sự “chỉ đạo” thiếu khách quan hoặc vụ lợi chi phối cuộc kiểm toán cũng như chi phối các đánh giá, quyết định, kết luận kiểm toán. Tính độc lập là nội hàm cơ bản nhất, có tính sống còn của một kết luận kiểm toán có chất lượng. Nhờ đó mà người sử dụng có thể an tâm rằng mình đã không bị nhà kiểm toán chi phối, và bị thiên lệch theo.
Chất lượng dịch vụ kiểm toán thể hiện chủ thể kiểm toán tuân thủ pháp luật, nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán. Điều này đảm bảo cho sự công bằng, sự chuẩn tắc và đáng tin cậy, vì thước đo chuẩn mực đã được pháp luật và cả thế giới cộng đồng kiểm toán thừa nhận. Ưu thế này làm cho người soát xét chất lượng dịch vụ kiểm toán từ mọi góc nhìn đều có thể và phải thừa nhận vì chủ thể đã sử dụng “thước đo chung về chất lượng” để thẩm định, đánh giá và kết luận.
Chất lượng dịch vụ kiểm toán thể hiện mức độ thành thạo, chuyên nghiệp của đội ngũ kiểm toán viên khi họ nắm bắt và sử dụng thành thạo các phương pháp kiểm toán tuỳ theo tình hình của đối tượng kiểm toán và nội dung kiểm toán cụ thể. Điều này đặc biệt quan trọng vì Kiểm toán viên luôn phải đối mặt với rất nhiều cam go, rủi ro và cạm bẫy. Họ phải có kỹ năng, có phương pháp và dày dạn kinh nghiệm để ứng xử với từng tình huống kiểm toán cụ thể. Sự thành thạo và tính chuyên nghiệp là yếu tố cấu thành và đảm bảo cho mọi đánh giá, kết luận đều bao hàm tính thận trọng cần thiết.
Theo các tiêu chí đó, xã hội sẽ thấy rõ tác động có thật của kiểm toán. Điều này lý giải tại sao khi soi xét từ góc nhìn xã hội, các tiêu chí phản ánh chất lượng kiểm toán trở nên sáng rõ hơn, dung dị hơn và tự nó trở thành đòi hỏi bức thiết đối với quá trình nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán mà mọi tổ chức kiểm toán cũng như kiểm toán viên phải nỗ lực. Vì vậy trong nền kinh tế hiện nay việc kiểm soát chất lượng đối với hoạt động kiểm toán độc lập là điều kiện sống còn đối với các doanh nghiệp kiểm toán. Việc tổ chức một bộ máy kiểm toán như thế nào sẽ trực tiếp tác động đến chất lượng của mỗi cuộc kiểm toán qua nhiều khía cạnh của nó.
Hình thức tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập hiện nay
Hiện nay bộ máy kiểm toán độc lập có hai mô hình cơ bản là văn phòng kiểm toán tư và công ty kiểm toán :
Văn phòng kiểm toán tư :
Văn phòng kiểm toán tư được hình thành bởi một hoặc một vài kiểm toán viên độc lập ( kế toán viên công chứng – CPA ) để kinh doanh dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác liên quan.
Điều kiện thành lập văn phòng kiểm toán tư :
Các văn phòng này được thành lập theo các qui định chung cho các văn phòng tư.
Người lập văn phòng phải có bằng (chứng chỉ) kiểm toán viên độc lập và có đủ các điều kiện hành nghề khác .
Các văn phòng tư (kể cả công ty nhỏ) được tổ chức theo phương thức trực tuyến và loại hình tập trung .
Thực tế hiện nay mô hình này được phát triển rất phổ biến ở Cộng hòa Pháp (2500 văn phòng) và các nước Tây Âu. Ở Mỹ cũng có 95% công ty nhỏ từ 1 – 25 người, ở Trung Quốc có tới 600 văn phòng kiểm toán nhỏ (3 – 5 người ).
Đặc điểm của mô hình :
Ưu điểm : Phát huy tính năng động cao của bộ máy kiểm toán, thích ứng tốt với nhu cầu kiểm toán và tư vấn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như nhu cầu đại lý thuế (thu nhập) cho nhà nước .
Nhược điểm : Các văn phòng này chỉ thực hiện giới hạn các dịch vụ và sức cạnh tranh của mỗi tổ chức kiểm toán cũng hạn chế. Sự hợp tác bồi dưỡng kinh nghiệm của các kiểm toán viên do đó cũng bị bó hẹp. Vì vậy để thành lập văn phòng kiểm toán độc lập, kiểm toán viên phải có năng lực toàn diện và trình độ chuyên môn vững; hoạt động của hiệp hội kiểm toán viên độc lập cũng phải tăng lên khi số lượng văn phòng và các công ty kiểm toán nhỏ nhiều .
Công ty kiểm toán (qui mô lớn) :
Mô hình chung: Công ty kiểm toán là bộ máy tổ chức kiểm toán độc lập với số lượng lớn các kiểm toán viên độc lập . Đây chủ yếu là các công ty quốc gia hoặc quốc tế.
Phương thức hoạt động : Các công ty kiểm toán loại này thực hiện nhiều loại dịch vụ trên địa bàn rộng lớn do đó chúng được tổ chức theo loại hình phân tán và điều hành phương thức chức năng hoặc kết hợp .
Mô hình cụ thể : Mỗi công ty thường có nhiều văn phòng bố trí ở nhiều vùng trong trong nước (công ty quốc gia) hoặc nhiều văn phòng ở các nước khác nhau (công ty quốc tế). Và đặc điểm nổi bật của mô hình này và từng văn phòng cụ thể có quyền tự chủ như một công ty con và có thể được hạch toán độc lập . Mỗi văn phòng riêng hoặc văn phòng khu vực này cũng kinh doanh nhiều loại dịch vụ và có thể được tổ chức thành các bộ phận chức năng riêng biệt .
Đặc điểm của mô hình này :
Ưu điểm : Tiềm năng của mỗi công ty là rất lớn, có khả năng cung cấp nhiều loại dịch vụ có qui mô lớn trong khoảng thời gian ngắn và có sức cạnh tranh lớn trên thị trường .
Nhược điểm : Các công ty lớn đòi hỏi trình độ tổ chức phối hợp cao của các nhà quản lý, đòi hỏi khả năng chuyên môn cao và toàn diện của kiểm toán viên và của lãnh đạo công ty, đòi hỏi đầu tư lớn về cả chuyên gia, kinh nghiệm và tiền vốn.
Mô hình các hãng kiểm toán
Tìm hiểu mô hình các hãng kiểm toán
Mô hình Công ty mạng lưới (Network firms)
Định nghĩa
Theo định nghĩa của Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế số 220, công ty mạng lưới là một tổ chức lớn hướng tới việc chia sẻ lợi nhuận hoặc chi phí, hoặc cùng được sở hữu, kiểm soát hoặc quản lý chung, có chung các chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng, chiến lược kinh doanh, sử dụng chung thương hiệu, hoặc cùng chung một phần đáng kể nguồn lực chuyên môn.
Các hãng điển hình như Big4, bao gồm PWC, Deloitte, E&Y và KPMG, là ví dụ điển hình cho mô hình công ty mạng lưới. Ngoài ra một số hãng kiểm toán đã có thành viên tại Việt Nam như Grant Thornton, BDO, RSM, Crowe Horwath,… cũng hoạt động dưới mô hình công ty mạng lưới.
Đặc điểm của mô hình công ty mạng lưới :
Tên của các hãng thành viên thường gắn với thương hiệu của hãng quốc tế. Ví dụ như Deloitte Việt Nam, E&Y Việt Nam, NexiaACPA, UHY ViệtNam hay Horwath DTL.
Các hãng thành viên trong cùng mạng lưới đều được sử dụng logo và hình ảnh của hãng trong các hoạt động marketing của mình.
Hãng thành viên cũng nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ hãng quốc tế mà mình là một thành viên trong mạng lưới.
Do tính gắn kết chặt chẽ của nó, mô hình này cũng tạo ra rủi ro cho hãng quốc tế khi có bất kỳ xì căng đan hay vi phạm của các hãng thành viên trong cùng mạng lưới.
Mô hình Hiệp hội các công ty uy tín (Associations)
Định nghĩa :
Mô hình Hiệp hội các công ty uy tín là rất phổ biến trong các hãng kiểm toán quốc tế. Đây là các công ty kiểm toán có uy tín tại các quốc gia khác nhau tập hợp nhau lại và hoạt động dưới một tên chung.
Đại diện cho mô hình này có thể kể đến Moore Stephens International, Kreston International, Integra International, IAPA, MGI, IGAF Worldwide, hay AGN International…
Đặc điểm của mô hình :
Dưới dạng một hiệp hội, các hãng thành viên chịu trách nhiệm đảm bảo chất lượng dịch vụ đạt theo chuẩn của Hãng quốc tế và phát triển và giữ uy tín của hãng. Các hãng thành viên cũng có sự gắn kết chặt chẽ với nhau và được sự hỗ trợ đáng kể từ hãng quốc tế thông qua các chương trình đào tạo chung thường niên, hội nghị toàn cầu hay hội nghị vùng, cũng như thông qua việc trao đổi nhân viên giữa các hãng. Thông thường các hãng thành viên vẫn giữ nguyên tên cũ của mình và quảng bá hình ảnh với tư cách là thành viên của hãng quốc tế. Tuy nhiên, cũng có một số hãng như MGI khuyến khích các hãng thành viên gắn tên MGI với tên hiện tại của hãng thành viên.
Lợi thế của mô hình này là hãng thành viên vẫn hoạt động độc lập và ít chịu sự ảnh hưởng từ rủi ro hay sự sụp đổ của các hãng thành viên khác, cho dù uy tín ít nhiều cũng bị ảnh hưởng. Hãng thành viên vẫn được sử dụng logo và hình ảnh của hãng quốc tế khi quảng bá hình ảnh của mình với tư cách là thành viên chính thức, và cung cấp dịch vụ toàn cầu thông qua các hãng thành viên khác.
Phân loại mô hình hiệp hội các công ty uy tín :
Mô hình Hiệp hội có thể phân chia thành hai loại:
Thứ nhất, hãng quốc tế dưới dạng hiệp hội do một hãng kiểm toán lớn đứng ra thành lập. Ví dụ Moore Stephens International là do hãng Moore Stephens tại London, Anh đứng ra thành lập, Integra International là do hai hãng kiểm toán lớn thành lập tại Canada.
Thứ hai, hãng quốc tế là các hiệp hội thuần tuý như IGAF Worldwide, IAPA. Bản thân tên của các hãng này cũng nói lên điều đó. IGAF viết tắt của cụm từ “International Group of Accounting Firms”, có nghĩa là “Nhóm quốc tế của các công ty kế toán, kiểm toán”. IAPA viết tắt của cụm từ “International Association of Practising Accountants”, có nghĩa là “Hiệp hội quốc tế của các kế toán viên hành nghề”.
Mô hình Liên kết (Alliances, Organisations)
Khái niệm:
Mô hình Liên kết là sự liên kết của rất nhiều loại hình các công ty hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau như kiểm toán, tư vấn kế toán, tư vấn luật, tư vấn sở hữu trí tuệ, tư vấn kinh doanh…
Mô hình này ít hơn trong các hãng kiểm toán quốc tế. Đại diện cho mô hình này có thể kể đến Geneva Group International hay Alliot Group.
Đặc điểm của mô hình:
Trong mô hình này, mối liên hệ giữa các hãng thành viên yếu hơn so với mô hình công ty mạng lưới và mô hình hiệp hội các công ty uy tín do các hãng thành viên hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau, không chỉ kế toán và kiểm toán. Thành viên chính thức của hãng quốc tế liên kết cũng được phép sử dụng logo và hình ảnh của hãng trong hoạt động quảng bá của mình. Hãng thành viên cũng không được mang tên của hãng quốc tế.
Bảng so sánh ba mô hình công ty mạng lưới - Mô hình Hiệp hội các công ty uy tín - Mô hình Liên kết
Bảng sau đây so sánh ba Mô hình trong một số tiêu chí quan trọng.
Tiêu chí
Công ty
mạng lưới
Mô hình
Hiệp hội
Mô hình
Liên kết
Được phép dùng tên hãng quốc tế
Có
Có thể nhưng hạn chế
Không
Được phép sử dụng logo và hình ảnh của hãng quốc tế
Có
Có
Có
Mối liên hệ giữa các hãng thành viên
Rất chặt chẽ
Chặt chẽ
Vừa phải
Dựa vào bảng so sánh trên ta có thể thấy được sự chặt chẽ và mối liên hệ của mỗi mô hình. Tuy nhiên công ty mạng
Cấp độ thành viên của hãng kiểm toán quốc tế
Mỗi hãng kiểm toán quốc tế có chính sách thành viên khác nhau. Nhưng thông thường có thể chia ra làm ba cấp độ: Hãng thành viên (Member firm), Hãng liên kết (Associate firm) và Hãng đại diện liên lạc (Correspondent firm).
Theo công bố trên website của Praxity, một hãng hoạt động theo Mô hình liên kết, các cấp độ trên được lựa chọn dựa trên các tiêu chí như:
Điều kiện tài chính
Chiến lược quốc tế
Vùng địa lý
Uy tín của hãng đăng ký
Khả năng cung cấp dịch vụ chất lượng
Hãng thành viên (Member firm)
Những hãng được công nhận là hãng thành viên của hãng kiểm toán quốc tế có đầy đủ tất cả các quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia vào mạng lưới, hiệp hội hay liên kết. Hãng thành viên được phép đại diện cho hãng quốc tế tại vùng địa lý được công nhận. Ví dụ như Deloitte Việt Nam sẽ đại diện cho Deloitte International tại Việt Nam bởi vì Deloitte Việt Nam được công nhận là hãng thành viên chính thức trong cùng mạng lưới của Deloitte International.
Hãng liên kết (Associate firm)
Hãng liên kết là cấp độ thấp hơn so với hãng thành viên. Tùy theo chính sách từng hãng quốc tế, hãng liên kết có thể sẽ bị hạn chế một số quyền lợi khi tham gia vào hãng quốc tế. Trong một số trường hợp hãng liên kết hoạt động trong lĩnh vực tương đối khác so với lĩnh vực chính của hãng quốc tế. Khi đó, hãng liên kết được công nhận tham gia vào mạng lưới hay hiệp hội nhằm đa dạng hoá dịch vụ cung cấp. Cấp độ hãng liên kết phổ biến hơn trong các hãng quốc tế hoạt động theo Mô hình liên kết.
Hãng đại diện liên lạc (Correspondent firm)
Hãng đại diện liên lạc là cấp độ thấp nhất khi tham gia vào các hãng kiểm toán quốc tế. Ta có thể lấy quy chế về hãng đại diện liên lạc của Russell Bedford International (RBI), một hãng hoạt động theo Mô hình Công ty Mạng lưới, để hiểu rõ hơn về cấp độ hãng đại diện liên lạc.
Khi nhận được đơn xin gia nhập của một hãng kiểm toán, sau thủ tục đánh giá nhận thấy hãng này chưa đủ điều kiện để công nhận là hãng thành viên, RBI có thể bổ nhiệm hãng trở thành hãng đại diện liên lạc. Có nghĩa là trong trường hợp một khách hàng muốn liên hệ với RBI tại khu vực lãnh thổ đó thì có thể liên lạc qua hãng đại diện liên lạc được bổ nhiệm.
Hãng đại diện liên lạc này không có quyền lợi như các hãng thành viên chính thức, không có quyền biểu quyết khi tham gia đại hội của RBI. Hãng đại diện liên lạc cũng không có quyền sử dụng logo hoặc hình ảnh của RBI trong các hoạt động quảng bá của mình. Trong trường hợp RBI nhận được một đơn xin gia nhập đủ điều kiện của một hãng khác có cùng vùng hoạt động thì quyền đại diện của hãng đại diện liên lạc cũng bị xoá bỏ. Tuy nhiên, mức phí thường niên của hãng đại diện liên lạc phải nộp cho RBI cũng rất thấp so với phí của thành viên chính thức.
Như vậy dựa vào mô hình các hãng quốc tế đã nêu ở trên chúng ta có thể so sánh được mức độ liên kết giữa các mô hình. Việc gia nhập làm thành viên của các hãng quốc tế không những giúp công ty kiểm toán nâng cao được uy tín trong nền kinh tế mà còn là điều kiện tiên quyết để nâng cao chất lượng kiểm toán của mỗi công ty bởi uy tín chất lượng không còn là của một doanh nghiệp mà giờ đây nó còn là uy tín của toàn bộ hãng quốc tế đó. Do đó đối với các doanh nghiệp kiểm toán trên thế giới, việc gia nhập làm thành viên của hãng quốc tế là xu hướng và cũng là động lực để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp kiểm toán đó. Vậy một câu hỏi đặt ra là Việt Nam đã học được những gì trên thế giới. Việc áp dụng kinh nghiệm vào thực tiễn của các doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam ra sao, xu hướng phát triển các doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam là như thế nào?
CHƯƠNG II: TỔ CHỨC BỘ MÁY KIÊM TOÁN ĐỘC LẬP
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
Sự tất yếu hình thành loại hình kiểm toán độc lập ở Việt Nam
Sự ra đời loại hình kiểm toán độc lập ở Việt Nam
Sự cần thiết của kiểm toán độc lập đối với nền kinh tế thị trường.
Một vài nét về hoạt động kiểm tra kế toán ở Việt Nam:
Trong thời kì bắt đầu xây dựng xã hội XHCN ở miền Bắc, năm 1957 lần đầu tiên nhà nước đã ban hành Chế độ sổ kế toán trên hệ thống các Lệnh nhật ký, trong đó có gần 27 Lệnh nhật ký dùng cho các đơn vị kinh tế thuộc sở hữu nhà nước. Trong mỗi Nhật ký đã kết hợp cả yêu cầu thông tin cho quản lý và yêu cầu kiểm tra hoạt động tài chính. Đây là mốc đầu tiên thể hiện mục tiêu thể chế, thực hiện sự thống nhất và tiêu chuẩn hóa công tác kế toán, kiểm tra của đất nước để phục vu cho yêu cầu quản lý của xí nghiệp và của nhà nước.
Trong những năm đầu tiên này, dù hệ thống pháp chế còn đơn giản nhưng ý thức trách nhiệm và kỷ cương trong công tác tài chính kế toán rất tốt góp phần quan trọng đưa công tác tài chính đi vào nền nếp.
Năm 1967, Liên bộ thống kê và Tài chính đã ban hành Chế độ Ghi chép ban đầu áp dụng cho các xí nghiệp quốc doanh và một loạt chế độ về tài khoản kế toán, bộ nhật ký chứng từ cùng hệ thống các báo cáo thống kê kế toán. Giá trị lịch sử của các văn bản pháp lý của kế toán nêu trên chính là ở chỗ: chúng phục vụ đắc lực cho sự quản lí của nhà nước đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, trong hệ thống nhật ký chứng từ đã chứa đựng nhiều yếu tố của cân đối tổng quát đến cân đối cụ thể qua đối chiếu các chỉ tiêu trên cùng một nhật ký và giữa các nhật ký, các bảng kê khác nhau. Nhờ đó, kế toán phục vụ đắc lực hơn cho bộ máy nhà nước và các doanh nghiệp quản lý nền kinh tế.
Năm 1971, nhà nước ta tiếp tục ban hành chế độ kế toán sửa đổi theo yêu câu mới: tính chất thống nhất, toàn diện và tiêu chuẩn hóa được nâng lên đáng kể. Sự can thiệp của nhà nước không chỉ dừng lại ở kiểm soát các doanh nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước mà còn bước đầu thực hiện công bằng về pháp luật, tài chính, lợi ích kinh tế giữa các tế bào kinh tế xã hội thuộc các lĩnh vực kinh doanh, các hình thức sở hữu khác nhau. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quá trình phát triển trong lĩnh vực kế toán là những mốc biến đổi quan trọng, góp phần tăng cường quyền lực chính trị, kinh tế tài chính của bộ máy quản lý nhà nước.
Từ tháng 5/1988, nhà nước ta ban hành pháp lệnh kế toán thống kê nhằm đưa công tác kế toán, thống kê vào kỷ cương và tăng cuờng pháp chế cho kế toán. Các chế độ kế toán trong giai đoạn này đã ban hành gồm: chế độ kế toán áp dụng thống nhất trong nền kinh tế quốc dân cho mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế khác nhau (tài khoản, sổ kế toán và báo cáo kế toán); các chế độ kế toán chuyên ngành, chuyên lĩnh vực: kế toán kho bạc, kế toán hành chính sự nghiệp, kế toán ngoài quốc doanh, kế toán thương mại – dịch vụ và các chế độ kế toán ngành hẹp khác... Nhìn chung chế độ kế toán đã đạt được những giá trị có tầm quan trọng đặc biệt:
Một là, thể chế chế độ thông tin – kiểm tra bằng kế toán trong một cơ chế thị trường, cho một cơ chế quản lý tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp mới.
Hai là, thể hiện sự phân biệt thông tin quản lý của kế toán với các loại thông tin khác trong hệ thống thông tin.
Ba là, phục vụ cho sự quản lý thống nhật của nhà nước về các lĩnh vực tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp trong cơ chế mới.
Bốn là, thể hiện sự thống nhất và tiêu chuẩn hoá cao về thông tin kế toán, phần nào tiếp cận được ngôn ngữ thông tin kế toán quốc tế và những chuẩn mực kế toán quốc tế.
Năm là, đứng trước những thay đổi có tính cách mạng trong cơ quản lý, cơ chế kinh tế, sự thừa nhận một cách tất yếu khách quan nền sản xuất hàng hóa, nền kinh tế thị trường và một kiểu quản lý tài chính thích hợp với nó. Năm 1989, chế độ kế toán mới đã được ban hành thay thế cho chế độ kế toán trước đây. Về mặt lịch sử, đó là sự phát triển và hoàn thiện cần thiết vừa có tính kế thừa vừa mang tính cách mạng thực sự. Thực tế từ năm 1988 đến năm 1990, bộ tài chính kết hợp với một số ngành hữu quan đã lần lượt cải tiến và ban hành một hệ thống các chế độ và văn bản pháp quy về kế toán mới theo tinh thần kế thừa các chế độ kế toán trước đây và khắc phục những hạn chế có tính lịch sử của chúng để phù hợp với tiến trình phát triển của kinh tế đất nước.
Tuy nhiên chế độ kế toán mới ban hành 1989 vẫn còn khoảng cách khá xa so với thông lệ quốc tế phổ biến của kế toán và có những đặc điểm cụ thể chưa bắt nhịp đặc trưng của cơ chế thị trường. Do vậy từ năm 1994, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ thị và trực tiếp cải cách kế toán. Qua gần 2 năm nghiên cứu soạn thảo và thử nghiệm, tháng 12/1995 hệ thống kế toán tài chính doanh nghiệp chính thức được ban hành. Đặc trưng cơ bản của hệ thống kế toán mới ban hành tháng 12/1995 là vừa bảo đảm yêu cầu quản lý vĩ mô của nhà nước vừa hội nhập với thông lệ phổ biến của kế toán quốc tế và vừa tính đến điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trong điều kiện đó, kiểm toán cũng cần được tổ chức lại một cách thích ứng.
Do thực tế khách quan thay đổi nên giai đoạn từ năm 1995 đến nay._. chính là thời gian mà hệ thống kế toán tài chính nước ta có những bước phát triển cao nhất và hoàn thiện nhất. Đặc biệt là từ năm 1995 đến nay hệ thống kế toán toán tài chính nước ta đã hình thành và phát triển lĩnh vực kiểm toán. Sự phát triển vượt bậc này được đánh dấu bởi sự ra đời của Luật kế toán Việt Nam do quốc hội khoá XI kỳ họp thứ 3 thông qua cũng như các chuẩn mực về kế toán tài chính riêng của Việt Nam đã được ban hành.
Kế toán tài chính tại Việt Nam không còn phát triển một cách đơn lẻ tự phát nội bộ mà đã có hệ thống và liên kết với thế giới. Đánh dấu bước phát triển quan trọng này là vào năm 1996 Hội kế toán Việt Nam (VAA) ra đời và trở thành thành viên của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) cũng như là thành viên của Liên đoàn kế toán các nước ASEAN (AFA). Tính đến ngày 31/12/2004 ở Việt Nam đã có 78 công ty kiểm toán độc lập và 6 công ty kế toán. Hệ thống kế toán nước ta gồm 3 lĩnh vực chủ yếu là kinh doanh, Nhà nước ( luật quản lý ngân sách, kể từ năm 2004 đã bắt đầu nghiên cứu soạn thảo hệ thống các chuẩn mực kế toán công), kinh doanh tiền tệ, thị trường chứng khoán.
Sự cần thiết của kiểm toán độc lập đối với nền kinh tế thị trường
Nếu nói rằng nền kinh tế thị trường có hiệu quả hơn so với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung thì kiểm toán độc lập chính là công cụ quản lý kinh tế, tài chính đắc lực góp phần nâng cao tính hiệu quả đó của nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường các thông tin tài chính có độ tin cậy, chính xác và trung thực hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với các chủ thể trong các hoạt động kinh tế. Kiểm toán độc lập hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu này của nền kinh tế.
Luật pháp nhiều nước khảng định rằng, chỉ những báo cáo đã được xem xét và có chữ ký của kiểm toán viên độc lập mới được coi là hợp pháp, làm cơ sở cho Nhà nước tính thuế cũng như các bên quan tâm khác đưa ra các quyết định kinh tế trong mối quan hệ với doanh nghiệp.
Ở nước ta, trong Quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân ban hành kèm theo Nghị định số 07/CP ngày 29/1/1994 của Chính phủ đã chỉ rõ “Sau khi có xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp thì các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các đơn vị kế toán là căn cứ cho việc điều hành, quản lý hoạt động ở đơn vị, cho các cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan tài chính nhà nước xét duyệt quyết toán hàng năm của các đơn vị kế toán, cho cơ quan thuế tính toán số thuế và các khoản phải nộp khác của đơn vị đối với ngân sách Nhà nước, cho các cổ đông, các nhà đầu tư, các bên tham gia liên doanh, các khách hàng và các tổ chức, cá nhân xử lý các mối quan hệ về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên có liên quan trong quá trình hoạt động của đơn vị”.
Như vậy mục đích tổng quát của kiểm toán là cung cấp sự đảm bảo cho bên thứ ba là những người sử dụng các thông tin tài chính rằng các thông tin họ được cung cấp có trung thực, hợp lý hay không. Trong nền kinh tế thị trường, có nhiều đối tượng khác nhau sử dụng kết quả kiểm toán với những mục đích khác nhau. Đối với Ngân hàng, những đối tượng cho vay vốn, họ cần biết rằng số vốn họ cho vay có được sử dụng đúng mục đích hay không, tình hình tài chính của đơn vị có khả năng hoàn trả hay không. Đối với cơ quan thuế, căn cứ vào báo cáo tài chính đã được kiểm toán để tính và thu thuế, tương tự, đối với các cơ quan chức năng cũng căn cứ vào báo cáo tài chính được kiểm toán để hoạch định chính sách cho phù hợp. Đối với doanh nghiệp được kiểm toán mong muốn, thông qua kiểm toán, có được báo cáo tài chính phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), phát hiện và ngăn ngừa các sai sót và gian lận. Đối với chủ sở hữu doanh nghiệp, các cổ đông họ cần biết một cách đầy đủ, đúng đắn về kết quả kinh doanh, về lợi nhuận cũng như khả năng phát triển của Doanh nghiệp, từ đó có hướng đầu tư hiệu quả. Tóm lại, kiểm toán phải mang lại cho những người sử dụng kết quả kiểm toán sự tin cậy, mức độ trung thực của các thông tin tài chính mà họ được cung cấp.
Sự ra đời của kiểm toán độc lập ở Việt Nam
Nếu không đứng trên góc độ tổ chức thống nhất thì hoạt động kiểm toán độc lập đã được hình thành và phát triển ở nước ta trước ngày giải phóng miền Nam: các văn phòng kế toán với các giám định viên kế toán và cả văn phòng kiểm toán quốc tế như SGV, Arthur Andersen,... đã thực sự là những trung tâm thực hành kế toán cho các doanh nghiệp (nhỏ) ở một vài thành phố, các tỉnh phía Nam lúc đó. Sau chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chủ trương đa dạng hóa các loại hình sở hữu và đa phương hóa đầu tư đã đặt ra những câu hỏi cấp thiết về dịch vụ kiểm toán. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế, ngày 13/5/1991 Bộ Tài chính thành lập hai công ty kiểm toán đầu tiên là Công ty kiểm toán Việt nam (VACO) và Công ty Dịch vụ Kế toán (viết tắt là ASC), sau đổi thành Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (viết tắt là AASC). Sự ra đời của hai công ty nói trên đã tạo tiền đề cho sự ra đời của các công ty tiếp theo bởi sự hoạt động tích cực và có hiệu quả cũng như yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết của nền kinh tế nước ta trong những năm đổi mới.
Hình thức tổ chức của các công ty kiểm toán ở Việt nam bị chi phối bởi hình thức sở hữu công ty.
Đối với các công ty kiểm toán là doanh nghiệp nhà nước, tổ chức phụ thuộc vào cơ chế quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước, trong đó Giám đốc, người đứng đầu công ty do cơ quan thành lập bổ nhiệm (Bộ tài chính, UBND Thành phố). Cách thức tổ chức tại các công ty này theo chức danh và theo cơ cấu hành chính. Trách nhiệm công việc và tổ chức hoạt động theo chức danh quản lý.
Đối với các công ty 100% vốn nước ngoài, các công ty này đều thuộc các công ty kiểm toán quốc tế, do vậy về cơ cấu tổ chức giống như các công ty quốc tế. Tuy nhiên vì công ty được thành lập theo luật đầu tư nước ngoài ở Việt nam, thuộc hình thức công ty TNHH nên về tổ chức hành chính, ở các công ty này vẫn có chức danh GĐvà là đại diện pháp lý của công ty về các vấn đề hành chính trước các cơ quan chức năng cũng như trong các hoạt động kinh tế.
Đối với các công ty TNHH trong nước, các công ty này đến nay qui mô vẫn còn hạn chế và chưa hình thành hình thức tổ chức rõ nét. Do hình thức sở hữu tư nhân, nên GĐ công ty là chủ sở hữu, người theo pháp luật phải có chứng chỉ kiểm toán viên sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với mọi hoạt động của công ty.
Qui mô của các công ty kiểm toán ở Việt nam có sự khác biệt khá rõ nét. Nhìn chung các công ty kiểm toán là doanh nghiệp nhà nước có qui mô lớn hơn, có nhiều chi nhánh và văn phòng ở các thành phố lớn trong cả nước. Trong khi đó các công ty TNHH có qui mô hạn chế nhất, chỉ có một văn phòng chính nơi thành lập. Các công ty kiểm toán có vốn đầu tư nước ngoài đều có văn phòng ở Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Vai trò của kiểm toán độc lập trong nền kinh tế thị trường
Trên thế giới hầu hết các nước đi theo kinh tế thị trường đều có hoạt động kiểm toán độc lập. Trái lại ở các nước đi theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung đều không có kiểm toán, thậm chí không truyền bá kiến thức về kiểm toán độc lập.
Thật vậy, ở nước ta có thể nói hoạt động kiểm toán được hình thành và phát triển từ trước ngày giải phóng miền Nam. Sau thống nhất đất nước, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, KTĐL không tồn tại nữa. Mãi cho đến khi Đảng và Nhà nước ta chủ trương đa dạng hoá các loại hình sở hữu và đa phương hoá các đầu tư đã đặt ra những đòi hỏi cấp thiết thì loại hình KTĐL mới thực sự xuất hiện. Điều này cho thấy KTĐLcó vai trò to lớn trong nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh cần phải có thông tin chính xác kịp thời và tin cậy. Để đáp ứng yêu cầu này phải có bên thứ ba độc lập khách quan có trình độ chuyên môn cao, được pháp luật cho phép cung cấp thông tin tin cậy cho các bên quan tâm. Bên thứ ba này chính là KTĐL. Ở nhiều quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển quy định chỉ có các báo cáo tài chính đã được kiểm toán mới có giá pháp lý và đáng tin cậy. Ý nghĩa và tầm quan trọng của KTĐL thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, kiểm toán độc lập tạo niềm tin cho những người quan tâm
Dù hoạt dộng trong bất kì lĩnh vực kinh tế nào, thì kết quả hoạt động hàng năm của doanh nghiệp đều thể hiện trên báo cáo tài chính (gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo kế quả kinh doanh, bảng lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính).
Vì nhiều nguyên nhân khác nhau, đa số các chủ doang nghiệp - người có trách nhiệm lập báo cáo tài chính muốn che giấu các phần yếu kém hoặc khuyếch trương kết quả kinh doanh của mình trên các Bảng khai tài chính đó. Trái lại những người quan tâm đến kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp lại đòi hỏi sự trung thực chính xác cuả bản báo cáo tài chính đó. Vì thế cần có sự kiển tra xác nhận của người thứ ba, đó chính là Kiểm toán viên độc lập - những người hoạt động theo nguyên tắc bắt buộc và có đủ năng lực uy tín với cả chủ doanh ngiệp và người quan tâm đến bản báo cáo tài chính. Những người quan tâm có thể kể đến là:
Các cơ quan Nhà nước cần có thông tin trung thực để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nhà nước căn cứ vào báo cáo tài chính đã được kiểm toán để xem xét các doanh nghiệp sử dụng ngân sách Nhà nước, tài sản quốc gia để hoạt động kinh doanh có đem lại hiệu quả không, có phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội hay không. Cơ quan thuế sẽ căn cứ vào báo cáo tài chính đã được kiểm toán để tính và thu thuế trừ khi có nghi vấn mới kiểm tra lại. Về nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, các doang nghiệp thường muốn nộp ít để chiếm chiếm dụng phần thiếu phải nộp Nhà nước nên họ sẽ khai tăng các khoản chi phí để làm giảm lợi nhuận và như thế thuế phải nộp sẽ ít đi. Tuy nhiên nếu được kiểm toán thì sai phạm này sẽ bị phát hiện và điều chỉnh.
Các cổ đông góp vốn kinh doanh hoặc mua cổ phiếu của doanh nghiệp tuy không có trình độ để kiểm tra kỹ lưỡng bản báo cáo tài chính, do đó khi có trên tay bản báo cáo tài chính đã được kiểm toán và được xác nhận là trung thực hợp lý thì họ có thể yên tâm ăn chia lợi tức và quyết định tiếp tục đầu tư hoặc không đầu tư vào doanh nghiệp đó.
Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng cho doanh nghiệp vay vốn cũng phải nắm chắc tình hình kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng để quyết định cho vay, thu hồi vốn hoặc không cho vay. Hoạt động kiểm toán sẽ giúp ngân hàng hoặc những người cho vay làm việc đó.
Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp đều muốn hợp tác với những đối tác có tình hình tài chính khả quan và có khả năng phát triển, Kiểm toán sẽ làm sáng tỏ và minh bạch hóa số liệu trên báo cáo tài chính của một công ty, các doanh nghiệp khác sẽ coi đó là cơ sở để quyết định có hợp tác lâu dài hay không. Trong kinh tế thị trường người lao động có quyền lựa chọn nơi làm việc ổn định và có mức thu nhập cao. Bản báo cáo tài chính của một doanh nghiệp làm ăn có lãi được kiểm toán viên xác nhận sẽ hấp dẫn người lao động có trình độ chuyên môn và năng lực.
Việt Nam đang thực hiện chính sách mở cửa, đa phương hoá đầu tư không chỉ trong nước mà còn nước ngoài. Việc thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài (cả trực tiếp và gián tiếp) đang được Nhà nước rất quan tâm, cụ thể là đã ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam nhằm khuyến khính các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Những nhà đầu tư nước ngoài luôn đòi hỏi một báo cáo tài chính được kiểm toán xác nhận về tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp và dự án mà họ dự định đầu tư.
Các nhà quản trị doang nghiệp và các nhà quản lý khác cũng cần thông tin trung thực không chỉ riêng trên các bảng khai tài chính để có những quyết định trong mọi giai đoạn quản lý kể cả tiếp nhận vốn liếng, chỉ đạo và điều hành các hoạt động kinh doanh và hoạt động quản lý. Những thông tin đó chỉ có được thông qua kiểm toán.
Thứ hai, kiểm toán độc lập góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp hoạt động tài chính kế toán
Mọi hoạt động, đặc biệt là hoạt động tài chính đều bao gồm những mối qua hệ đa dạng, luôn luôn biến đổi và được cấu thành bởi hàng loạt nghiệp vụ cụ thể. Để hướng các nghiệp vụ này vào mục tiêu giải quyết tốt các quan hệ trên không chỉ cần có định hướng đúng và thực hiện tốt mà cần thường xuyên soát xét việc thực hiện để hướng các nghiệp vụ vào quỹ đạo mong muốn. Hơn nữa chính những định hướng và tổ chức thực hiện tốt trên cơ sở những bài học thực tiễn và uốn nắn thường xuyên những lệch lạc trong quá trình thực hiện sẽ góp phần nâng cao trình độ và chất lượng của hoạt động kế toán. Nước ta đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế trong đó các quan hệ tài chính và chế độ kế toán thay đổi nhiều lần. Trong khi đó công tác kiểm tra kiểm soát chưa chuyển hướng kịp thời, dẫn tới tình trạng vi phạm các nguyên tắc chế độ tài chính kế toán. Đã có ý kiến cho rằng chưa thể cải cách công tác kiểm tra trong khi chưa triển khai toàn diện và rộng khắp công tác kế toán. Tuy nhiên kinh nghiệm thực tế đã chỉ rõ chỉ có triển khai tốt hơn công tác kiểm toán mới có thể nhanh chóng tài chính kế toán đi vào nề nếp.
Thứ ba, kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý
Rõ ràng kiểm toán không chỉ có chức năng xác minh mà còn có chức năng tư vấn. Các chủ doang nghiệp không thể kiểm soát hàng ngàn, hàng vạn nghiệp vụ tài chính kế toán đã xảy ra trong doanh nghiệp. Vì vậy các chủ doanh nghiệp thường kiểm soát các nghiệp vụ tài chính kế toán cho người phụ tá. Để biết được một cách chính xác, trung thực tình hình tài chính kế toán của mình vào kì hạn nào đó, người chủ doanh nghiệp thường mời các công ty kiểm toán độc lập chuyên nghiệp có uy tín thực hiện việc xác minh và bày tỏ ý kiến về các bảng khai tài chính của doang nghiệp mình do người phụ trách kế toán lập ra.
Những nhận xét của công ty kiểm toán sẽ giúp cho các chủ doanh nghiệp kịp thời phát hiện những sai sót, lãng phí hoặc vi phạm pháp luật do cố ý hay vô ý để xử lý kịp thới hay ngăn ngừa các tổn thất. Điều đó giúp doanh nghiệp hạn chế được những rủi ro hay phát hiện ra thế mạnh những tiềm năng tài chính nội tại có trong doanh nghiệp. Từ tất cả những điều trình bày trên, có thể thấy kiểm toán có ý nghĩa trên nhiều mặt : ”Đó là quan toà công minh của qúa khứ, người dẫn dắt cho hiện tại và người cố vấn sáng suốt cho tương lai “.
Tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Hình thức tổ chức, điều kiện thành lập và hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán: (Nghị định 105/2004/NĐ-CP; Thông tư 64/2004/TT-BTC và Thông tư 60/2005/TT-BTC; Nghị định 30/2009/NĐ-CP)
Kiểm toán độc lập là hoạt động không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường với vai trò mang lại độ tin cậy cho các thông tin tài chính thông qua các báo cáo tài chính đã được kiểm toán, qua đó tạo cơ sở cho các bên tiến hành các giao dịch kinh tế.
Kiểm toán độc lập ở Việt Nam hình thành và phát triển bằng việc thành lập công ty kiểm toán đầu tiên vào tháng 5/1991. Sau hơn 18 năm hoạt động với những thay đổi và yêu cầu mới về kiểm toán độc lập, trong yêu cầu hội nhập và thực hiện các cam kết của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì khung pháp lý về kiểm toán độc lập tại Việt Nam cần được hoàn thiện và nâng cấp.
Được hình thành và phát triển từ năm 1991 nhưng đến năm 1994 thì Chính phủ mới chính thức ban hành Nghị định 07/CP ngày 29/01/1994 về “kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân”. Sau 10 năm thực hiện Nghị định 07, đến tháng 3/2004 Chính phủ ban hành Nghị định 105/2004/NĐ-CP thay thế Nghị định 07. Nghị định này đã được sửa đổi, bổ sung tại các Nghị định 133/2005/NĐ-CP ngày 31/10/2005 và Nghị định 30/2009/NĐ-CP ngày 30/03/2009. Để hướng dẫn việc thực hiện các nghị định Chính phủ ở từng thời kỳ về Kiểm toán độc lập, Bộ Tài chính đã xây dựng và ban hành các Thông tư hướng dẫn, các Quyết định liên quan đến thực hiện các Nghị định của Chính phủ và các quy định về thi, cấp chứng chỉ kiểm toán viên, đăng ký hành nghề kiểm toán.
Hình thức tổ chức của doanh nghiệp kiểm toán
Công tác kiểm toán độc lập do các KTV độc lập thực hiện. Theo thông lệ quốc tế, KTV có thể hành nghề theo công ty hoặc hành nghề cá nhân. Tuy nhiên ở Việt Nam luật pháp chưa cho phép hành nghề kiểm toán cá nhân. KTV muốn hành nghề phải đăng ký và được chấp nhận vào làm việc tại một DNKT được thành lập hợp pháp.
Hiện nay, Nghị định 30/2009/NĐ-CP của Chính phủ chỉ cho phép thành lập DNKT theo các hình thức: công ty TNHH có từ 2 thành viên trở lên, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân. DNKT phải công khai hình thức này trong quá trình giao dịch và hoạt động.
Tại nghị định đầu tiên của chính phủ về KTĐL Nghị định số 07/1994/NĐ-CP ngày 29/01/1994 không có hạn chế về hình thức của doanh nghiệp kiểm toán. Tại điều 4 của nghị định này đã quy định: “Tổ chức kiểm toán độc lập là một doanh nghiệp (công ty kiểm toán hoặc văn phòng kiểm toán) được thành lập theo quy định hiện hành về thành lập các loại doanh nghiệp và các qui định trong Quy chế này”.
Điều 6 của nghị định này cũng quy định về các tổ chức nước ngoài hoạt động kế toán tài chính tại Việt Nam như sau: “Các tổ chức kiểm toán nước Ngoài hoạt động kiểm toán và tư vấn tài chính - kế toán trên lãnh thổ Việt Nam phải được Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư của Việt Nam cấp giấy phép, sau khi có sự thoả thuận bằng văn bản của Bộ tài chính. Hoạt động của kiểm toán viên và tổ chức kiểm toán nước ngoài phải tuân thủ Luật Đầu tư nước ngoài của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quy định trong Quy chế này và các thông lệ kiểm toán quốc tế được Nhà nước Việt Nam thừa nhận”.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đã nảy sinh một số bất cập đối với hình thức công ty cổ phần vì công ty cổ phần được phát hành cổ phiếu ra công chúng, rất nhiều người có thể mua cổ phiếu nhiều đến mức đạt được quyền kiểm soát và chi phối hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán nhưng không có chứng chỉ hành nghề sẽ không đảm bảo chất lượng dịch vụ kiểm toán. Chính vì vậy mà sau hơn 10 năm áp dụng đến năm 2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định 105/2004/NĐ-CP thay thế nghị định 07/1994/NĐ-CP. Tại điều 20 của nghị định 105/2004/NĐ-CP đã hạn chế hình thức doanh nghiệp kiểm toán: Công ty hợp danh, Doanh nghiệp tư nhân và Doanh nghiệp theo luật Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Điều này có nghĩa là sẽ không còn công ty kiểm toán chịu trách nhiệm hữu hạn mà các công ty kiểm toán sẽ phải chịu trách nhiệm vô hạn, việc hạn chế hình thức công ty kiểm toán này đã đảm bảo về tính độc lập, trách nhiệm và uy tín của công ty kiểm toán. Tuy nhiên đến năm 2005, do yêu cầu của quá trình hội nhập và đặc biệt những cam kết của Việt Nam trong đàm phán gia nhập WTO có những thay đổi phát sinh liên quan đến hoạt động KTĐL, Chính phủ đã ban hành Nghị định 133/2005/NĐ-CP ngày 31/10/2005 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 105/2004/NĐ-CP trong đó bổ sung thêm hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn vào hình thức các công ty kiểm toán như sau:
1. Khoản 1 và khoản 3 Điều 20 được sử đổi, bổ sung như sau:
"1. Doanh nghiệp kiểm toán được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật theo các hình thức: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Doanh nghiệp kiểm toán phải công khai hình thức này trong quá trình giao dịch và hoạt động".
"3. Doanh nghiệp nhà nước kiểm toán, công ty cổ phần kiểm toán đã thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp từ trước ngày Nghị định số 105/2004/NĐ-CP có hiệu lực được phép chuyển đổi theo một trong các hình thức, doanh nghiệp quy định tại khoản 1 Điều này trong thời hạn 3 năm kể từ ngày Nghị định số 105/2004/NĐ-CP có hiệu lực".”
Qua thực tiễn thực hiện trong những năm qua, các nội dung quy định trong các Nghị định, Thông tư và Quyết định liên quan về tổ chức, hoạt động và quản lý hoạt động KTĐL bộc lộ những bất cập, có những điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và thiếu đồng bộ so với các bộ luật khác do đó ngày 30 tháng 3 năm 2009 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 30/2009 NĐ-CP về sửa đổi bổ sung nghị định số 105/2004 NĐ-CP. Cụ thể là bất cập và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế về quy định loại hình DNKT. Theo quy định của Nghị định số 133/2005 NĐ-CP, DNKT được thành lập theo các hình thức là: công ty TNHH, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, công ty TNHH có hai loại hình là: Công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH hai thành viên trở lên, như vậy loại hình DNKT có thể được thành lập là công ty TNHH một thành viên hoặc công ty TNHH nhiều thành viên. Tuy nhiên, đối với lĩnh vực KTĐL theo thông lệ quốc tế được duy trì dưới hình thức công ty hợp danh. Việt Nam do trình độ còn thấp nên đã cho phép thành lập hình thức công ty TNHH. Mặt khác, theo kinh nghiệm quốc tế không khuyến khích thành lập công ty TNHH một thành viên vì nếu chỉ có một thành viên là tổ chức hoặc một cá nhân thành lập với trách nhiệm vô hạn thì độ rủi ro cao. Hình thức phổ biến của tổ chức kiểm toán trên thế giới là công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân dưới dạng văn phòng kiểm toán. Các chủ sở hữu của những doanh nghiệp này thường phải chịu trách nhiệm vô hạn (bằng toàn bộ tài sản của mình) đối với các khoản nợ và nghĩa vụ về tài sản khác của công ty. Điều đó đảm bảo sự an toàn cho xã hội và cho các khách hàng được kiểm toán. Chính vì vậy trong Nghị định 30/2009 NĐ-CP đã sửa đổi Khoản 1 Điều 20 Nghị định số 105/2004 NĐ-CP như sau:
“1. Doanh nghiệp kiểm toán được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật theo 3 hình thức: Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.”
Trên thực tế, trong số các doanh nghiệp kiểm toán hoạt động tại Việt Nam hiện nay chỉ còn 4 công ty có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo hình thức công ty TNHH một thành viên. Trước đây, các công ty này hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài tại Viêt Nam năm 1987 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1990 và 1992. Hiện nay, các công ty này hoạt động theo Luật đầu tư 2005. Theo giấy chứng nhận đầu tư (hoặc giấy phép đầu tư) thì các công ty này được thành lập theo loại hình là công ty TNHH một thành viên và thời hạn hoạt động là 50 năm. Như vậy, để không làm ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của các công ty, cũng như không mâu thuẫn với chính sách đầu tư nước ngoài của Nhà nước cần quy định không bắt buộc các công ty có vốn đầu tư nước ngoài này phải chuyển đổi sang một trong ba hình thức: công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân, và vẫn được hoạt động là công ty TNHH một thành viên đến hết thời hạn ghi trên giấy chứng nhận đầu tư (hoặc giấy phép đầu tư) Nghị định 105 và Nghị định 30/2009 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 105 không nên cho phép doanh nghiệp kiểm toán thành lập và hoạt động theo hình thức công ty cổ phần kiểm toán Điều 2 của Nghị Định 30/2009 NĐ-CP sửa đổi nghị định 105/2004 NĐ-CP cũng qui định: “Các doanh nghiệp kiểm toán trách nhiệm hữu hạn một thành viên có vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp từ trước ngày Nghị định này có hiệu lực được phép hoạt động theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên đến hết thời hạn theo Giấy chứng nhận đầu tư (hoặc Giấy phép đầu tư).
Điều kiện thành lập và hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán
Điều kiện thành lập doanh nghiệp kiểm toán(DNKT)
Tại Nghị định 07/1994/NĐ-CP chỉ nêu ra là cần có ít nhất 5 người trở lên được cấp chứng chỉ kiểm toán viên chứ không yêu cầu hoạt động và cộng tác thường xuyên với doanh nghiệp. Điều này ảnh hưởng tới chất lượng của dịch vụ kiểm toán khi mà doanh nghiệp có thể thuê bằng, hoặc có những kiểm toán viên chỉ hoạt động thời vụ hay chỉ hoạt động trong một thời gian. Nghị định 105/2004/NĐ-CP đã quy định điều kiện thành lập doanh nghiệp kiểm toán chặt chẽ hơn, tức là phải có 3 người có chứng chỉ kiểm toán viên hành nghề; trong quá trình hoạt động cần phải luôn luôn đảm bảo điều kiện này, thậm chí nếu vi phạm quá 6 tháng thì phải ngừng cung cấp dịch vụ kiểm toán. Điều 23 Nghị định 105/2004/NĐ-CP đã quy định:
” Điều kiện thành lập và hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán:
1. Doanh nghiệp kiểm toán chỉ được thành lập khi có ít nhất 3 kiểm toán viên có Chứng chỉ hành nghề kiểm toán, trong đó ít nhất có một trong những Người quản lý doanh nghiệp kiểm toán phải là kiểm toán viên có Chứng chỉ hành nghề.
2. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp kiểm toán phải thường xuyên đảm bảo có ít nhất 3 kiểm toán viên hành nghề. Sau 6 tháng liên tục doanh nghiệp kiểm toán không đảm bảo điều kiện này thì phải ngừng cung cấp dịch vụ kiểm toán.”
Tuy nhiên trong quy định này còn thiếu chặt chẽ trong điều kiện hoạt động của các công ty kiểm toán. Nghị định 105/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định về điều kiện hoạt động đối với các doanh nghiệp kiểm toán là: “phải thường xuyên đảm bảo có ít nhất 3 kiểm toán viên hành nghề. Sau 6 tháng liên tục, doanh nghiệp kiểm toán không đảm bảo điều kiện này thì phải ngừng cung cấp dịch vụ kiểm toán”. Quy định trên phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, tuy nhiên lại thiếu chặt chẽ ở chỗ là không quy định các KTV hành nghề phải kí hợp đồng lao động làm toàn bộ thời gian với DNKT. Phần lớn các DNKT ở Việt Nam hiện nay có quy mô vừa và nhỏ với số lượng KTV hành nghề thấp, trong đó lại bao gồm cả số KTV hành nghề làm bán thời gian... Điều đó dẫn đến tình trạng có những KTV đăng ký hành nghề nhưng trên thực tế không hành nghề, đó là chưa kể tới tình trạng xáo trộn KTV hành nghề giữa các DNKT và hiện tượng cho thuê cho mượn chứng chỉ kiểm toán. Thực tế này ảnh hưởng không tốt đến tính ổn định trong hoạt động cả chất lượng dịch vụ kiểm toán của nhiều DNKT. Chính vì vậy mà Nghị định số 30/2009/NĐ-CP đã Sửa đổi khoản 3 Điều 23 Nghị định số 105/2004/NĐ-CP như sau:
“3. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp kiểm toán phải đảm bảo có ít nhất 3 kiểm toán viên hành nghề ký hợp đồng lao động làm toàn bộ thời gian với doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp kiểm toán không đảm bảo điều kiện này sau 6 tháng liên tục thì phải ngừng cung cấp dịch vụ kiểm toán.”
Ngoài ra quy trình soát xét hồ sơ và báo cáo kiểm toán phải được thực hiện qua 3 cấp bậc được thực hiện bởi các KTV hành nghề. Từ đó, việc quy định “có ít nhất 3 kiểm toán viên hành nghề ký hợp đồng lao động làm toàn bộ thời gian với doanh nghiệp” nhằm ổn định tổ chức công ty và việc đăng ký hành nghề của các kiểm toán viên được nâng cao về chất lượng dịch vụ kiểm toán của các doanh nghiệp kiểm toán.
Trong Nghị định số 30/2009/NĐ-CP cũng sửa đổi khoản 1 Điều 23 Nghị định số 105/2004/NĐ-CP như sau:
“1. Doanh nghiệp kiểm toán chỉ được thành lập khi có ít nhất ba người có Chứng chỉ kiểm toán viên, trong đó có Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc nếu là thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh thì phải sở hữu ít nhất là 10% vốn điều lệ công ty. Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc doanh nghiệp kiểm toán phải có thời gian công tác thực tế về kiểm toán đủ 3 năm trở lên sau khi được cấp Chứng chỉ kiểm toán viên và không được đồng thời tham gia quản lý, điều hành ở doanh nghiệp khác.”
Việc quy định như trên là phù hợp với luật doanh nghiệp. Xét về lĩnh vực kinh doanh dịch vụ kiểm toán, việc quy định rõ các tiêu chuẩn, điều kiện thành lập và hoạt động doanh nghiệp kiểm toán và tiêu chuẩn, điều kiện đối với Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc doanh nghiệp kiểm toán có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm đạt được các mục đích sau:
Nâng cao tính độc lập của các doanh nghiệp kiểm toán, theo đó các doanh nghiệp kiểm toán không có vốn sở hữu của Nhà nước hoặc có vốn sở hữu của Nhà nước nhưng không phải là doanh nghiệp nhà nước. Mặt khác, đảm bảo sự góp vốn để thực hiện trách nhiệm nghề nghiệp của các kiểm toán viên khi có rủi ro kiểm toán. Về lâu dài cần tiến tới mô hình kiểm toán hợp danh như các nước đi trước trên thế giới.
Nâng cao chất lượng dịch vụ của kiểm toán và trình độ nghề nghiệp của kiểm toán viên, theo đó các kiểm toán viên không chỉ có chứng chỉ hành nghề mà cần phải có kinh nghiệm thực tiễn. Về quy định ”giám đốc hoặc tổng giám đốc doanh nghiệp kiểm toán phải có thời gian công tác thực tế về kiểm toán đủ 3 năm trở lên sau khi được cấp chứng chỉ kiểm toán viên và không được đồng thời tham quản lý ở doanh nghiệp khác” là nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ kiểm toán là ngành kinh doanh có điều kiện, có giá trị tư vấn pháp lý cao. Do đó cần có thêm 3 năm thực tế làm kiểm toán để tích luỹ kinh nghiệm và nắm vững quy trình kiểm toán, từ đó mới có thể đào tạo nhân viên quản lý và kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán đảm bảo an toàn tránh rủi ro.
Vậy cho đến nay điều kiện để thành lập doanh nghiệp kiểm toán gồm có:
Có đủ các điều kiện quy định của pháp luật hiện hành về việc thành lập và hoạt động của các loại doanh nghiệp: Công ty TNHH có từ 2 thành viên trở lên, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân.
Có ít nhất 3 KTV hành nghề ký hợp đồng lao động làm toàn bộ thời gian với doanh nghiệp, trong đó Giám đốc hoặc Tổng giám đốc nếu là thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh thì phải sở hữu ít nhất là 10% vốn điều lệ công ty. Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc doanh nghiệp kiểm toán phải có thời gian công tác thực tế về kiểm toán đủ 3 năm trở lên sau khi được cấp Chứng chỉ kiểm toán viên và không được đồng thời tham gia quản lý, điều hành ở doanh nghiệp khác.
Điều kiện cung cấp dịch vụ kiểm toán của DNKT
DNKT đã đăng ký danh sách KTV hành nghề và được Bộ Tài chính (từ 01/01/2007 là Hội KTV hành nghề Việt Nam (VACPA)) xác nhận.
Trong quá trình hoạt động, DNKT phải thường xuyên đảm bảo có ít nhất 3 KTV hành nghề làm việc trọn thời gian cho doanh nghiệp. Trường hợp sau 6 tháng liên tục DNKT không đảm bảo điều kiện này thì phải ngừng cung cấp dịch vụ kiểm toán.
Trường hợp có KTV mới được cấp chứng chỉ KTV hoặc do tuyển dụng mới thì DNKT phải thông báo cho Bộ Tài chính và Hội KTV hành nghề Việt Nam (VACPA) danh sách KTV hành nghề bổ sung trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày KTV chính thức được nhận vào làm việc hoặc được cấp Chứng chỉ KTV.
Trường hợp DNKT có KTV hành nghề chuyển đi, bỏ nghề hoặc bị truất quyền hành n._.h và nâng cao năng suất, thị phần và lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tuy nhiên để sử dụng công nghệ thông tin một cách hiệu quả và thiết kế một hệ thống thông tin quản lý toàn diện yêu cầu không những khả năng về công nghệ thông tin mà còn các kiến thức chuyên ngành của các ngành và các lĩnh vực ứng dụng máy tính. KPMG giúp các nhà đầu tư trong việc thiết kế, phát triển, thử nghiệm và thực hiện hệ thống thông tin quản lý mới, Tư vấn công nghệ thông tin.
Dịch vụ tư vấn thuế và luật pháp
Quản lý thuế và đảm bảo tuân thủ pháp luật là vấn đề cốt lõi ảnh hướng tới hoạt động tài chính của các doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam. KPMG cung cấp các giải pháp hiệu quả về thuế để đảm bảo rằng các khoản thuế mà doanh nghiệp phải nộp là nhỏ nhất cho phép. Đồng thời, KPMG còn tư vấn cho các nhà đầu tư tại Việt Nam tổ chức thực hiện tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Tư vấn thuế (Tax Advisory Services) và tư luật pháp (Tax Compliance Services) bao gồm:
Lập kế hoạch thuế thu nhập doanh nghiệp,
Tư vấn và lập kế hoạch thuế giá trị gia tăng,
Lập kế hoạch thuế cho các tổ chức quốc tế,
Tư vấn mục đích đầu tư,
Rà soát thuế,
Hướng dẫn các thủ tục đăng ký kinh doanh,
Hướng dẫn thủ tục lập văn phòng đại diện,
Tư vấn và hỗ trợ gia nhập thị trường.
Ngoài các dịch vụ nêu trên, KPMG còn có các dịch vụ khác như tư vấn đầu tư, đào tạo và tuyển dụng đều nhằm mục đích mang đến cho khách hàng của mình một dịch vụ có hiệu quả nhằm mở rộng dịch vụ cung cấp của mình và giúp khách hàng giảm chi phí, tăng lợi nhuận.
Tổ chức bộ máy quản lý của KPMG Việt Nam
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý hợp lý là một trong những yếu tố tạo nên sự thành công trong hoạt động của KPMG. Để phù hợp với các điều kiện ở Việt Nam, mô hình này được áp dụng theo mô hình của KPMG trên toàn cầu song có một số thay đổi.
Chức năng của các phòng ban trong KPMG Việt Nam
Cụ thể mô hình tổ chức bộ máy của KPMG được mô tả theo sơ đồ sau:
Phó tổng giám đốc
Khối nghiệp vụ
Khối hành chính
Phòng kế toán
Tổng giám Đốc
Phòng hành chính
Phòng nhân sự
Phòng tin học
Phòng thuế
Phòngkiểm toán
Phòng tư vấn
Phòng tư vấn tài chính
Phòng tư vấn rủi ro
Phòng kiểm toán 1
Phòng kiểm toán 2
Phòng kiểm toán 3
Phòng kiểm toán 4
Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh
Sơ đồ 3: Mô hình tổ chức bộ máy quản lý của công ty TNHH KPMG Việt Nam
Bộ máy quản lý của công ty KPMG Việt Nam bao gồm Ban giám đốc giữ nhiệm vụ quản lý vĩ mô toàn công ty và các phòng ban chức năng.
Các thành viên Ban Giám đốc (bao gồm Tổng giám đốc và Phó tổng giám đốc) là người trực tiếp đánh giá rủi ro kiểm toán, quyết định ký hợp đồng kiểm toán, thực hiện các soát xét cuối cùng đối với một cuộc kiểm toán đồng thời là người đại diện cho công ty ký và ban hành các báo cáo kiểm toán hay thư quản lý tới khách hàng.
Tổng giám đốc: đồng thời là chủ phần hùn của công ty (Partner). Tổng giám đốc có nhiệm vụ quản lý toàn diện các mặt hoạt động của KPMG Việt Nam, trực tiếp quản lý các hoạt động của văn phòng tại thành phố Hồ Chí Minh và gián tiếp quản lý các hoạt động của văn phòng tại Hà Nội thông qua Phó Tổng Giám đốc. Tổng giám đốc còn phụ trách xây dựng các chiến lược phát triển kinh doanh và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ cung cấp.
Phó tổng giám đốc: cũng là chủ phần hùn (Partner) chịu trách nhiệm hoàn toàn về các mặt hoạt động của văn phòng tại Hà Nội, thực hiện các kế hoạch theo chiến lược phát triển chung của công ty và có trách nhiệm báo cáo về tình hình hoạt động và tiềm năng phát triển của văn phòng Hà Nội lên Tổng giám đốc.
Các thành viên Ban giám đốc của Công ty đều là các chủ phần hùn (Partner). Họ là người trực tiếp đánh giá rủi ro kiểm toán, quyết định ký hợp đồng kiểm toán, thực hiện việc soát xét cuối cùng đối với mọi hồ sơ kiểm toán, và là người đại diện của Công ty ký và ban hành Báo cáo kiểm toán và Thư quản lý với khách hàng.
Khôi nghiệp vụ
Khối nghiệp vụ có 3 phòng chính là Phòng Kiểm toán, Phòng Tư vấn và Phòng Thuế tương ứng với các dịch vụ cung cấp.
Phòng kiểm toán (Audit services): lại được chia thành bốn phòng nhỏ để chuyên về các lĩnh vực kiểm toán sau:
Phòng kiểm toán 1 (Audit 1): chuyên kiểm toán cho các tổ chức phi chính phủ (Non-Governmental Organization_NGO) và các dự án lớn có vốn đầu tư của nước ngoài.
Phòng kiểm toán 2 (Audit 2) chuyên về kiểm toán các ngân hàng (Đa phần là các ngân hàng nước ngoài) và các tổ chức tài chính khác như công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán.
Phòng kiểm toán 3 và 4 (Audit 3, Audit 4): chuyên kiểm toán các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất.
Hiện nay, cả bốn phòng này đều đang hoạt động có hiệu quả, đặc biệt là khả năng mở rộng đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp sản xuất đang là thế mạnh của công ty KPMG. Điều đó được thể hiện qua việc có tới 2 phòng kiểm toán chuyên về các doanh nghiệp sản xuất. Đứng đầu mỗi phòng kiểm toán là các giám đốc kiểm toán (Director) người có nhiều năm kinh nghiệm và am hiểu sâu trong lĩnh vực mà mình phụ trách.
Phòng thuế (Tax): thực hiện các dịch vụ tư vấn thuế và luật pháp nhằm giúp doanh nghiệp hiểu và vận dụng theo đúng luật thuế, tuân thủ pháp luật và có các giải pháp tối ưu nhất về thuế.
Phòng tư vấn (FAS & RAS): Công ty KPMG Việt Nam còn cung cấp một loạt các dịch vụ liên quan đến tư vấn tài chính để giúp cho các nhà đầu tư giảm thiểu được rủi ro trong các quyết định như: có nên mua hay bán doanh nghiệp, mở rộng các cơ hội kinh doanh, gia tăng vốn, phát hiện gian lận hay tích cực thu hồi đối với các tài sản không được sử dụng hiệu quả… Phòng tư vấn được chia thành 2 phòng nhỏ là phòng tư vấn tài chính (FAS – Financial Advisory Services) và phòng tư vấn rủi ro (RAS – Risk Advisory Services).
Khối hành chính
Bên cạnh khối nghiệp vụ có trách nhiệm cung cấp các dịch vụ cho khách hàng, KPMG còn tổ chức khối hành chính bao gồm phòng tin học, phòng hành chính và phòng kế toán, phòng nhân sự.
Phòng hành chính: Thực hiện việc quản lý hành chính, bổ sung và sửa đổi các quy chế tài chính của công ty, xây dựng chi tiết kế hoạch thu chi tài chính, chủ động phối hợp với các phòng nghiệp vụ đề xuất cách giải quyết vấn đề thu chi cho Ban Giám Đốc và thực hiện quản trị nội bộ….
Phòng kế toán: Có nhiệm vụ quản lý tài chính kế toán của công ty, tổ chức thanh toán tiền lương, tiền thưởng, tiền công tác phí, tiền ứng trước… cung cấp các biểu mẫu, sổ sách, chứng từ.
Phòng tin học: Có nhiệm vụ cung cấp máy tính, phần mềm và đảm bảo quản trị hệ thống mạng cho toàn công ty. Công ty có một đội ngũ những chuyên gia giỏi về máy tính. Những người này có trách nhiệm phối hợp với các chuyên gia phụ trách tin học ở các quốc gia khác trong mạng lưới hệ thống KPMG quốc tế để đảm bảo an ninh mạng và hiệu quả hoạt động của hệ thống máy tính.
Phòng nhân sự: đóng một vai trò quan trọng trong việc tuyển lựa những nhân viên có năng lực để gia nhập đại gia đình KPMG toàn cầu. Hàng năm phòng nhân sự sẽ tổ chức các đợt tuyển nhân viên vào công ty cho các vị trí thích hợp chi từng bộ phận và phù hợp với chiến lược phát triển của công ty.
Đặc điểm về tổ chức về nhân sự cho một cuộc kiểm toán
Việc tổ chức nhân sự cho một cuộc kiểm toán tại công ty TNHH KPMG Việt Nam được tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị lập kế hoạch kiểm toán.
Theo đó việc tổ chức nhân sự cho một cuộc kiểm toán được thực hiện sau khi thư mời kiểm toán được chấp nhận và đã qua quá trình đánh giá sơ bộ về rủi ro kiểm toán.
Sau khi đã chấp nhận kiểm toán cho khách hàng, căn cứ vào quy mô của công ty khách hàng, khối lượng và tính chất phức tạp của cuộc kiểm toán, KPMG sẽ quyết định số lượng nhân viên tham gia cuộc kiểm toán. Nhóm kiểm toán của KPMG thường gồm năm đến bảy người bao gồm một thành viên của Ban giám đốc, một chủ nhiệm kiểm toán, các kiểm toán viên cao cấp và các trợ lý kiểm toán. Nhóm kiểm toán thường được thành viên của Ban giám đốc hoặc trưởng phòng nghiệp vụ lựa chọn và họ đều là những kiểm toán viên có kiến thức, kinh nghiệm về nghành nghề kinh doanh của khách hàng.
KPMG có một lượng khách hàng khổng lồ do đó mà khối lượng công việc kiểm toán là rất lớn. Nhằm đảm bảo uy tín cho hoạt động kinh doanh của mình, việc kiểm soát chất lượng luôn được KPMG đặt lên vị trí hàng đầu, tuân thủ theo một quy trình chung và nghiêm ngặt bao gồm nhiều cấp quản lý khác nhau. Quá trình kiểm soát chất lượng được minh họa cụ thể thông qua tháp phân công trách nhiệm sau (hình a)
Hình a: Tháp phân công trách nhiệm trong kiểm soát chất lượng cuộc kiểm toán tại côNg ty KPMG Việt Nam
Tổng giám đốc (Partner)
Phó tổng giám đốc (Partner)
Giám đốc kiểm toán (Director)
Chủ nhiệm cao cấp (Senior Manager)
Chủ nhiệm kiểm toán (Audit Manager)
Giám sát trợ lý (Assistant Manager)
Trưởng nhóm kiểm toán cấp I (Audit Senior 1)
Trưởng nhóm kiểm toán cấp II (Audit Senior 2)
Trợ lý kiểm toán cấp I (Audit Assistant 1)
Trợ lý kiểm toán cấp II (Audit Assistant 2)
Thông thường các cuộc kiểm toán được tiến hành trực tiếp tại đơn vị được kiểm toán bởi các trợ lý kiểm toán và các trưởng nhóm. Các trợ lý kiểm toán bao gồm 2 cấp: Trợ lý kiểm toán cấp I và cấp II (Assistant). Các cấp được phân chia dựa vào số năm kinh nghiệm và năng lực làm việc. Họ được hướng dẫn và chỉ đạo trực tiếp bởi các trưởng nhóm kiểm toán (thường gọi là các Senior In-charge). Đây là người có trách nhiệm chính trong việc thực hiện kiểm toán, phối kết hợp công việc của các thành viên trong nhóm. Tùy theo kinh nghiệm và trình độ của mỗi thành viên mà trưởng nhóm sẽ phân công các khoản mục với mức độ công việc phù hợp. Mọi vấn đề khúc mắc phát sinh trong quá trình kiểm toán đều được nêu ra thảo luận chung trong nhóm để tìm hướng giải quyết. Đối với những khách hàng có quy mô hoạt động lớn hoặc những tập đoàn lớn, nhóm kiểm toán lại thường được chỉ đạo bởi một Giám sát trợ lý (Assistant Manager) người có nhiều kinh nghiệm trong nghề hơn. Việc thực hiện kiểm toán tiếp tục được giám sát ở các cấp cao hơn nhằm đảm bảo chất lượng của cuộc kiểm toán. Đó là các Chủ nhiệm kiểm toán (Manager), các Chủ nhiệm cao cấp (Senior Manager) và các Giám đốc kiểm toán (Director) – họ cũng là những người sau này sẽ thuyết trình báo cáo kiểm toán với ban lãnh đạo của khách hàng. Giám đốc kiểm toán hoặc các Chủ nhiệm có trách nhiệm rà soát lại phần công việc của các nhóm kiểm toán, đặt ra các câu hỏi chất vấn (các Query) yêu cầu những người trực tiếp kiểm toán phải làm sáng tỏ và giải trình lại công việc một cách đầy đủ, cặn kẽ. Sau khi phần giải trình các query này được họ thông qua thì báo cáo kiểm toán được đưa lên Tổng giám đốc hoặc Phó tổng giám đốc duyệt. Trong quá trình duyệt, Tổng giám đốc hoặc Phó tổng giám đốc sẽ tiếp tục gửi Query cho các nhóm thực hiện kiểm toán (nếu có) hoặc chất vấn trực tiếp các trưởng nhóm kiểm toán (hoặc các chủ nhiệm) về các vấn đề trong báo cáo kiểm toán. Và cuối cùng sau khi thống nhất được mọi ý kiến, Tổng giám đốc hoặc Phó tổng giám đốc sẽ ký báo cáo kiểm toán.
Ưu điểm và nhược điểm của mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán tại KPMG Việt Nam
Ưu điểm
Có thể nói, việc tổ chức bộ máy quản lý tại KPMG Việt Nam là rất khoa học và phù hợp với loại hình hoạt động của công ty. Mô hình gồm có Ban giám đốc giữ nhiệm vụ quản lý vĩ mô và các phòng chức năng. Các giám đốc phụ trách bộ phận của KPMG Việt Nam là các chuyên gia đến từ nhiều nước trên thế giới như Vương quốc Anh, Malaysia, Philipin, Nhật Bản. Đa số nhân viên cấp cao người Việt Nam đều đã có chứng chỉ Kế toán viên công chứng (CPA) do Bộ Tài chính Việt Nam cấp và một số nhân viên đã được cử đi công tác tại các văn phòng KPMG tại Singapore, Malaysia, Hồng Kông, New Zealand, Anh. Bên cạnh đó, hầu hết các nhân viên của KPMG đều có cơ hội tham gia các khoá học để lấy bằng ACCA, đây là một chứng chỉ chuyên ngành kế toán viên công chứng của Vương Quốc Anh được cả thế giới công nhận. Hiện tại, KPMG Việt Nam cũng có nhiều nhân viên đã được công nhận là thành viên của tổ chức nghề nghiệp này. Về đầu vào, các nhân viên Việt Nam của KPMG đều tốt nghiệp đại học, cao học tại các trường đại học hàng đầu Việt Nam cũng như các trường đại học danh tiếng trên thế giới và nhiều người trong số họ trước đây đã từng làm việc cho các công ty của Việt Nam, các cơ quan Chính phủ hay các dự án do quốc tế tài trợ. Do đó chất lượng các cuộc kiểm toán, các dịch vụ công ty cung cấp được nâng cao, tạo được sự tin tưởng của khách hàng khi sửu dụng dịch vụ của doanh nghiệp và tạo được lòng tin của nhà đầu tư vào kết quả các cuộc kiểm toán của công ty thực hiện.
Các dịch vụ mà công ty cung cấp rất đa dạng giúp khách hàng có được sự lựa chọn tối ưu. Các phòng nghiệp vụ có tính chuyên môn hóa cao, nên có thể tập trung cao vào việc thực hiện nhiệm vụ của mình trong công ty nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ. Các phòng ban trong công ty tiến hành kiểm tra chéo với nhau, không ngừng nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ trong doanh nghiệp.
Tổ chức bộ máy của một cuộc kiểm toán khá chặt chẽ với sự kiểm soát rất cao, chịu trách nhiệm cao nhất đối với cuộc kiểm toán là các thành viên trong Ban giám đốc, họ đều là các chủ phần hùn (Partner). Đây là những người có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực kiểm toán nên các Báo cáo kiểm toán được phát hành luôn phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán và tạo được sự tin cậy của đông đảo những người quan tâm đến báo cáo tài chính của khách hàng.
Nhược điểm
Việc phân công nhiệm vụ thiếu khả thi khi tổng giám đốc vừa có nhiệm vụ quản lý toàn diện các mặt hoạt động của KPMG Việt Nam, vừa trực tiếp quản lý các hoạt động của văn phòng tại thành phố Hồ Chí Minh.
Chất lượng dịch vụ tốt, đội ngũ nhân viên lành nghề có kinh nghiệm dẫn đến hệ quả tất yếu đó là giá phí cung cấp dịch vụ khá cao, khiến cho một số doanh nghiệp vừa và nhỏ không đủ chi trả khi sử dụng dịch vụ của công ty cung cấp.
Công ty chưa có bộ phận PR - Marketing riêng nhằm tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá thị trường nhằm củng cố khách hàng truyền thống và tìm kíếm nguồn khách hàng mới, giúp ban giám đốc có những quyết sách đúng đắn trong quá trình hoạt động và cung cấp dịch vụ của công ty.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP TẠI VIỆT NAM
Theo thông lệ quốc tế thì kiểm toán độc lập thường quan tâm đến kiểm toán tài chính, tức là xác minh tính trung thực của các thông tin tài chính trên các tài liệu kế toán, trên các Bảng khai tài chính. Vấn đề cốt lõi của mọi cuộc kiểm toán tài chính là chất lượng kiểm toán, tức là công ty kiểm toán phải đưa ra được ý kiến trung thực, đầy đủ và chính xác về tình hình tài chính và tính xác thực của các Bảng khai tài chính. Một trong những vấn đề ảnh hưởng đến chất lượng một cuộc kiểm toán đó chính là mô hình tổ chức của các công ty kiểm toán, của các cuộc kiểm toán. Do đó trong phần này chúng tôi mạnh dạn đưa ra các ý kiến nhằm cải thiện bộ máy tổ chức qua đó nâng cao chất lượng của mỗi cuộc kiểm toán. Tuy nhiên chất lượng kiểm toán không phụ thuộc hoàn toàn vào bộ máy tổ chức kiểm toán độc lập, mà bên cạnh đó còn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng nguồn nhân lực, tức là chất lượng kiểm toán viên ( trong đó bao gồm trình độ chuyên môn và tính độc lập của mỗi kiểm toán viên ), do đó bên cạnh việc cải thiện song song vấn đề mô hình tổ chức, mỗi công ty kiểm toán cũng phải chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng chính sách tuyển dụng, đào tạo, rút ra kinh nghiệm nhằm cải thiện hoạt động kiểm toán trong tương lai.
Giải pháp cho các doanh nghiệp Kiểm toán vừa và nhỏ
Theo dự thảo luật Kiểm toán độc lập dự định trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét vào kì họp sắp tới, các loại hình doanh nghiệp kiểm toán được thành lập bao gồm: Công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân và công ty TNHH 2 thành viên trở lên, bên cạnh đó một DNKT phải có ít nhất 5 Kiểm toán viên có chứng chỉ hành nghề, đã có thời gian thực tế làm kiểm toán ở DNKT từ 36 tháng trở lên bao gồm cả Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, với công ty TNHH kiểm toán thì bao gồm cả Chủ tịch Hội đồng thành viên. Điều này sẽ là một khó khăn và trở ngại lớn với những công ty kiểm toán nhỏ đã thành lập và không đáp ứng đủ số lượng kiểm toán viên theo yêu cầu của Luật, vì theo NĐ 105 thì một DNKT chỉ cần tối thiểu 3 KTV là đủ điều kiện thành lập, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt với các công ty kiểm toán lớn đã có uy tín và bề dày truyền thống đã và đang hoạt động ở Việt Nam như Big4, AASC, A&C,... Vì vậy nhóm chúng tôi đưa ra một giải pháp là các công ty nhỏ và vừa sáp nhập dưới hình thức công ty hợp danh.
Sở dĩ hình thức công ty được chúng tôi lựa chọn ở đây là công ty hợp danh vì với thực tế thương hiệu của các công ty kiểm toán nhỏ và vừa chưa được nhiều khách hàng biết tới thì việc sẵn sàng chịu trách nhiệm vô hạn với những quyết định mà công ty đưa ra sẽ phần nào đó thuyết phục khách hàng, đó cũng là xu hướng hiện nay của các công ty Kiểm toán trên thế giới. Việc sáp nhập có các điểm mạnh sau đây:
Thứ nhất, việc sáp nhập tăng quy mô nguồn vốn và nguồn nhân lực của công ty, từ đó công ty có tiềm lực và điều kiện nâng cao chất lượng kiểm toán thông qua hệ thống nhân sự lớn mạnh, củng cố và cải thiện hệ thống bộ máy tổ chức công ty, thiết kế lại chu trình kiểm toán cho hoàn thiện và chất lượng hơn. Công ty sẽ học hỏi những điểm mạnh sẵn có từ các công ty thành viên.
Thứ hai, sáp nhập tăng lượng khách hàng của công ty, cải thiện vấn đề thương hiệu, đó là lợi thế ban đầu khi tạo một ấn tượng hoàn toàn mới với khách hàng.
Thực tế là cho dù có thiết kế một bộ máy tổ chức và hệ thống kiểm soát chặt chẽ đi nữa thì việc KTV có đưa ra ý kiến xác thực và đúng đắn về thực trạng tài chính của khách hàng hay không còn phụ thuộc vào nhất nhiều yếu tố khác như chất lượng KTV, và thu nhập của KTV. Bên cạnh các yếu tố về ngành nghề kinh doanh của khách hàng, trình độ năng lực của KTV thì đa số KTV đưa ra ý kiến sai lệch về tình trạng tài chính của khách hàng là do vấn đề KTV từ bỏ nguyên tắc nghề nghiệp khi phát sinh mâu thuẫn giữa phía kiểm toán viên và khách hàng, đó chính là vấn đề độc lập của mỗi kiểm toán viên. Những KTV này vốn là những người thiếu tính độc lập và ngay chính bản thân họ cũng không biết giữ tính thận trọng trong khi tác nghiệp và cả sự hoài nghi cần thiết.
Tuy nhiên một bộ máy tổ chức kiểm toán chặt chẽ sẽ giảm thiểu tối đa nguy cơ KTV đưa ra ý kiến sai lệch về các thông tin trong Bảng khai tài chính, đó chính là nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán.
Đề xuất mô hình tổ chức bộ máy của doanh nghiệp kiểm toán
Sau quá trình tìm hiểu, phân tích và đánh giá mô hình của các doanh nghiệp kiểm toán nhóm chúng em đưa ra một mô hình công ty kiểm toán độc lập dưới hình thức công ty hợp danh như sau:
Sơ đồ 4: Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty kiểm toán hợp danh
Tổng Giám đốc
Phó TGĐ phụ trách kiểm toán
Phó TGĐ phụ trách tư vấn
Phó TGĐ phụ trách tư vấn thuế
Phó TGĐ phụ trách hành chính nhân sự
Các giám đốc kiểm toán
Các giám đốc tư vấn
Phòng kiểm toán 1
Phòng kiểm toán 2
Phòng kiểm toán 4
Tư vấn tài chính doanh nghiệp
doanh nghinghiệp
Tư vấn rủi ro
Tư vấn thuế TNDN
Tư vấn các loại thuế khác
Phòng IT và quản trị thông tin nội bộ
Phòng hành chính nhân sự
Phòng PR và Marketing
Ban kiểm soát
Hội đồng khoa học
Phòng Kế toán
Hội đồng thành viên hợp danh
Phòng kiểm toán 3
Trong đó:
Hội đồng thành viên hợp danh: Chịu trách nhiệm trước Pháp luật về toàn bộ tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hội đồng thành viên hợp danh có quyền quyết định tất cả các công việc kinh doanh từ việc đề ra chiến lược, phương hướng phát triển của công ty đến việc quyết định loại hình hoạt động doanh nghiệp, giải thể doanh nghiệp
Ban kiểm soát: Ban kiểm soát do Hội đồng thành viên hợp danh thành lập để kiểm soát tất cả các hoạt động của Ban giám đốc, các phòng ban, kể cả của Hội đồng thành viên. Ban kiểm soát tổ chức soát xét chất lượng đối với dịch vụ cung cấp cho khách hàng của các bộ phận chuyên môn đặc biệt là đối với các dịch vụ đảm bảo như kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán quyết toán vốn đầu tư và các dịch vụ công chứng…. Trong trường hợp cần thiết, Ban kiểm soát có thể huy động thêm các chuyên gia từ các bộ phận khác để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Hội đồng khoa học: Phụ trách việc nghiên cứu chuyển giao công nghệ và đào tạo cho các bộ phận nghiệp vụ trong và ngoài công ty, có thể tham gia trực tiếp vào việc cung cấp dịch vụ với vai trò chuyên gia cao cấp.
Tổng giám đốc: Là người đại diện trước pháp luật của công ty, trực tiếp điều hành và chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của công ty trước Hội đồng thành viên và trước pháp luật.
Các Phó Tổng Giám đốc: Là thành viên Ban giám đốc chịu trách nhiệm điều hành từng mảng công việc theo sự phân công và uỷ quyền của Tổng Giám đốc, có thể nhân danh công ty ký kết và xử lý các công việc trong phạm vi được phân công đồng thời chịu trách nhiệm trước công ty và pháp luật trong phạm vi của mình.
Các Giám đốc chuyên môn: Là thành viên Ban Giám đốc phụ trách về chuyên môn trong từng lĩnh vực dịch vụ cụ thể của công ty như: Dịch vụ Kiểm toán, Tư vấn thuế, Tư vấn tài chính, Tư vấn rủi ro.
Các phòng nghiệp vụ kiểm toán: Là các bộ phận nhân viên chuyên nghiệp cung cấp dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ đảm báo khác.
Phòng kiểm toán 1 (Audit 1): Kiểm toán báo cáo tài chính cho các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản xây lắp.
Phòng kiểm toán 2 (Audit 2): Kiểm toán báo cáo tài chính cho các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực tài chính ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm…
Phòng kiểm toán 3 (Audit 3): chuyên kiểm toán các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất thương mại dịch vụ và du lịch.
Phòng kiểm toán 4 (Audit 4): Kiểm toán hoạt động của dự án do các tổ chức quốc tế tài trợ, kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư và kiểm toán tuân thủ khác.
Các phòng tư vấn tài chính: Là các phòng ban chuyên sâu về cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính cho khách hàng và được phân chia thành hai mảng dịch vụ cụ thể là: Tư vấn tài chính doanh nghiệp, tư vấn rủi ro.
Các phòng tư vấn thuế: Là các bộ phận chuyên nghiệp chuyên sâu về cung cấp dịch vụ tư vấn thuế cho các khách hàng, được chia thành từng nhóm sắc thuế phổ biến như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế xuất nhập khẩu và các loại thuế khác. Ngoài ra bộ phận tư vấn thuế còn tham gia soát xét hồ sơ kiểm toán đối với phần hành thuế.
Bên cạnh phòng kế toán chịu trách nhiệm kiểm soát tài chính của công ty, còn có phòng hành chính nhân sự chịu trách nhiệm tuyển dụng và sử dụng hợp lý nhân viên, phòng PR và Marketting chịu trách nhiệm xây dựng hình ảnh cho công ty, phòng IT chịu trách nhiệm về mặt kỹ thuật, máy móc thiết bị cung cấp cho các bộ phận sử dụng.
Bên cạnh bộ máy tổ chức chung của cả công ty thì việc tổ chưc bộ máy trong một cuộc kiểm toán là hết sức cần thiết. Nhân sự luôn là nhân tố hàng đầu ảnh hưởng đến chất lượng của mỗi cuộc kiểm toán. Để có thể cạnh tranh và phát triển trong thị trường kiểm toán như hiện nay, Công ty luôn chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn của kiểm toán viên đồng thời chú trọng tổ chức nhân sự cho mỗi cuộc kiểm toán thật chu đáo. Thông thường, nhóm kiểm toán để thực hiện cho mỗi cuộc kiểm toán bao gồm:
Sơ đồ 5 : Tổ chức nhân sự cho một cuộc kiểm toán
Thành viên Ban Giám đốc phụ trách
Thành viên ban kiểm soát
Nhóm chuyên gia hỗ trợ
Chủ nhiệm kiểm toán
phụ trách trực tiếp
Kiểm toán viên chính
Trợ lý kiểm toán viên 2
Trợ lý kiểm toán viên 1
Trợ lý kiểm toán viên 3
Chú thích :
Quan hệ hỗ trợ :
Quan hệ chỉ đạo trực tiếp :
Quan hệ soát xét độc lập :
Thành viên Ban Giám đốc phụ trách: Là người có nhiệm vụ giao dịch, phê duyệt kế hoạch nhân sự, kế hoạch kiểm toán, kế hoạch thời gian cũng như soát xét kế hoạch kiểm toán và soát xét cuối cùng đối với hồ sơ và Báo cáo kiểm toán trước khi phát hành.
Thành viên Ban kiểm soát: Là người không trực tiếp phụ trách nhóm kiểm toán, có nhiệm vụ kiểm soát hồ sơ kiểm toán, soát xét Báo cáo kiểm toán và soát xét toàn bộ quá trình thực hiện cung cấp dịch vụ đảm bảo yêu cầu chất lượng đề ra.
Nhóm chuyên gia hỗ trợ: là chuyên gia của hội đồng khoa học hỗ trợ cuộc kiểm toán trong việc thẩm định, đánh giá những vấn đề chuyên môn đặc thù của những ngành nghề đặc biệt.
Chủ nhiệm kiểm toán phụ trách trực tiếp: Là người chịu trách nhiệm lập kế hoạch, chỉ đạo và quản lý việc thực hiện chương trình kiểm toán, chỉnh sửa các sai sót của nhân viên cấp dưới. Cùng một lúc, chủ nhiệm kiểm toán có thể cùng một lúc giám sát nhiều nhóm kiểm toán khác nhau.
Kiểm toán viên chính: Là người trực tiếp thực hiện công việc kiểm toán, quản lý công việc của các trợ lý kiểm toán đồng thời giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình kiểm toán. Kiểm toán viên chính phải báo cáo kết quả công việc cho chủ nhiệm kiểm toán.
Trợ lý kiểm toán: Là những nhân viên thực hiện công việc kiểm tra chi tiết theo sự phân công của kiểm toán viên chính đồng thời báo cáo kết quả công việc cho kiểm toán viên chính.
Tuỳ thuộc vào các cuộc kiểm toán cụ thể mà có thể có thêm nhóm chuyên gia hỗ trợ có kiến thức kinh doanh chuyên sâu trên từng lĩnh vực. Ngoài ra, có thể có nhiều nhóm kiểm toán cùng thực hiện để đảm bảo tiến độ quyết toán và công khai báo cáo của các khách hàng.
Luật nên cho phép thành lập Văn phòng kiểm toán
Trên thế giới, hình thức Văn phòng kiểm toán đã phát triển từ khá lâu. Trong hoàn cảnh nền kinh tế Việt Nam phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì không phải doanh nghiệp nào cũng đủ tiềm lực tài chính để thực hiện một cuộc kiểm toán cũng như sử dụng các dịch vụ khác như tư vấn thuế, tư vấn kế toán, do đó mô hình văn phòng kiểm toán phương án lựa chọn hợp lý dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tuy nhiên việc thành lập văn phòng kiểm toán cần đáp ứng những điều kiện như thế nào? Về vốn điều lệ, về số lượng CPA tối thiểu trong mỗi văn phòng, và về những khách hàng mà văn phòng được phép cung cấp dịch vụ? Trong bối cảnh KTĐL ở Việt Nam vẫn còn nhiều vướng mắc và bất cập khi mà hệ thống luật vẫn chưa hoàn thiện, thì câu chuyện văn phòng kiểm toán có lẽ vẫn chỉ có thể bàn trên giấy tờ. Trong dự thảo luật Kiểm toán độc lập dự định trình Ủy ban thường vụ Quốc hội vào tháng 11 sắp tới cũng không đề cập đến việc thành lập văn phòng kiểm toán. Tuy nhiên theo thông lệ của các nước có kiểm toán độc lập phát triển thì Văn phòng kiểm toán sẽ là một xu hướng tất yếu, ở Việt Nam có lẽ trong 10 năm tới, khi nước ta trở thành một nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại, thì sẽ xuất hiện văn phòng kiểm toán, còn bây giờ khi hệ thống luật KTĐL còn chưa ra đời thì Văn phòng kiểm toán có lẽ là một câu chuyện trong tương lai xa.
Các công ty kiểm toán Việt Nam gia nhập các hãng quốc tế
Khi gia nhập các hãng hãng quốc tế, các công ty được sử dụng logo và hình ảnh của hãng quốc tế khi quảng bá hình ảnh của mình, qua đó quảng bá hình ảnh và uy tín của công ty không chỉ với khách hàng trong nước mà còn với cả các khách hàng nước ngoài. Đó còn là điều kiện tiên quyết để nâng cao chất lượng kiểm toán của mỗi công ty bởi uy tín chất lượng không còn là của một doanh nghiệp mà còn là uy tín của cả hãng quốc tế. Với các doanh nghiệp kiểm toán trên thế giới thì việc gia nhập các hãng quốc tế là xu hướng và cũng là động lực để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp kiểm toán. Tuy nhiên, để được gia nhập các hãng quốc tế, mỗi doanh nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu tối thiểu về Điều kiện tài chính, Vùng địa lý, Khả năng cung cấp dịch vụ chất lượng…do đó mỗi doanh nghiệp cũng phải dần nâng cao và hoàn thiện đội ngũ nhân sự, trình độ chuyên môn và cuối cùng là chất lượng mỗi cuộc kiểm toán, từ đó tăng lượng khách hàng, tăng doanh thu và lợi nhuận, tiếp tục tạo tiền đề tiếp tục phát triển.
KẾT LUẬN
Hoạt động kiểm toán nói chung ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Tuy mới chỉ ở những bước ban đầu song trong gần 20 năm qua, hoạt động kiểm toán cùng các doanh nghiệp kiểm toán ở Việt Nam đã liên tục có những bước phát triển đáng mừng, góp phần vào việc lành mạnh hóa đời sống kinh tế, nâng cao tính minh bạch trong hoạt động kinh doanh.
Chính vì vậy, việc không ngừng hoàn thiện tổ chức bộ máy kiểm toán để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán, để nó ngày càng phát huy được chức năng của mình nhất là trong giai đoạn đất nước đang tiến hành việc Công nhiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế thế giới là một yêu cầu tất yếu.
Chỉ qua một thời gian ngắn nghiên cứu, Chúng em đã cố gắng đi sâu tìm hiểu về tổ chức bộ máy kiểm toán và những tác động của nó tới chất lượng của hoạt động kiểm toán tại các doanh nghiệp kiểm tóan ở Việt Nam. Với những kiến thức đã học tại trường, kết hợp với những hiểu biết thực tế ít ỏi, chúng em đã mạnh dạn nêu lên một số nhận xét, đề xuất nhằm đóng góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của công tác tổ chức bộ máy kiểm toán trong các doanh nghiệp kiểm toán tại Việt Nam. Song, do lượng kiến thức còn hạn chế và thời gian nghiên cứu không được nhiều nên công trình nghiên cứu khoa học của chúng em không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Chính vì vậy, chúng em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo để công trình được hoàn thiện và sát hơn với thực tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tạp chí kế toán năm 2008, 2009, 2010.
Tạp chí kiểm toán năm 2008, 2009, 2010.
Giáo trình lý thuyết kiểm toán/ GS.TS Nguyễn Quang Quynh – khoa Kế toán - ĐH Kinh tế Quốc dân/NXB Tài chính – 2008.
Giáo trình lý thuyết kiểm toán/TS. Nguyễn Viết Lợi – Học Viện Tài chính/NXB Tài chính-2007.
Kiểm toán/ Alvin A.Arens/NXB Thống kê - 2000.
Tìm hiểu về kiểm toán độc lập ở Việt Nam/Bùi Văn Mai/NXB Tài chính – 1995.
Nghị định số 07/1994/NĐ-CP ngày 29/01/1994 của chính phủ về quy chế tổ chức và hoạt động kiểm toán độc lập.
Nghị định số 105/2004/NĐ-CP ngày 30/03/2004 thay thế nghị đinh 07/1994/NĐ-CP.
Nghị định số 133/2005/NĐ-CP ngày 31/10/2005 sửa đổi, bổ xung một số điều của nghị đinh 105/2004/NĐ-CP.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam.
Các website: www.kiemtoan.com.vn
www.tapchiketoan.info
www.ketoantruong.com
www.vacpa.org.vn
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
KTV : Kiểm toán viên
DNKT : Doanh nghiệp kiểm toán
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
KTĐL : Kiểm toán độc lập
BGĐ : Ban giám đốc
GĐ : Giám đốc
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26913.doc