Tìm hiểu thị hiếu điện ảnh của sinh viên Một số trường đại học tại Hà Nội

M ỤC L ỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN 1.1. THỊ HIẾU 4 1.2. THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH 7 1.2.1. Điện ảnh 7 1.2.1. Thị hiếu điện ảnh 9 1.3. THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN 11 1.3.1. Sinh viên 11 1.3.2. Thị hiếu điện ảnh của sinh viên 13 Chương 2 THỰC TRẠNG THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI 2.1 KHÁI QUÁT VỀ ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT, ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CƠ SỞ ĐIỆN ẢNH TẠI HÀ NỘI .14 2.1.1. Khái quát về đời

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2163 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Tìm hiểu thị hiếu điện ảnh của sinh viên Một số trường đại học tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sống vật chất, đời sống tinh thần của sinh viên một số trường đại học tại Hà Nội 14 2.1.2. Khái quát về các cơ sở điện ảnh trên địa bàn Hà Nội 15 2.2. THỰC TRẠNG THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI 17 2.2.1. Thị hiếu của sinh viên trong lĩnh vực thưởng thức điện ảnh 17 2.2.1.1. Sinh viên yêu thích thưởng thức điện ảnh 17 2.2.1.2. Phương thức thưởng thức điện ảnh của sinh viên 20 2.2.1.3. Những yêu thích của sinh viên trong thưởng thức điện ảnh 21 2.2.2.Thị hiếu của sinh viên trong lĩnh vực đánh giá điện ảnh 34 2.2.2.1. Sinh viên quan tâm đến việc đánh giá các tác phẩm điện ảnh 34 2.2.2.2. Một vài thị hiếu của sinh viên qua việc đánh giá các tác phẩm điện ảnh 35 2.2.3. Thị hiếu của sinh viên trong lĩnh vực sáng tạo điện ảnh 46 2.2.3.1. Sinh viên yêu thích tham gia vào sáng tạo điện ảnh .45 2.2.3.2.Hoạt động sáng tạo điện ảnh của sinh viên chưa nhiều 46 2.3. Nguyên nhân tác động đến thị hiếu điện ảnh của sinh viên các trường đại học tại Hà Nội .47 2.3.1. Nguyên nhân chủ quan 47 2.3.1.1. Tâm lý lứa tuổi 47 2.3.1.2. Hoàn cảnh kinh tế 48 2.3.1.3. Lối sống của sinh viên 48 2.3.1.4. Trình độ kiến thức 49 2.3.2. Nguyên nhân khách quan 49 2.3.2.1. Tác động của hội nhập 49 2.3.2.2. Hoạt động của ngành điện ảnh 50 2.3.2.3. Từ các cơ quan văn hoá 50 2.3.2.4. Từ phía nhà trường… 51 Chương 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI 3.1. THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN QUA DƯ LUẬN 52 3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI 52 3.2.1. Đối với ngành điện ảnh 52 3.2.1.1. Đối với các cơ sở điện ảnh 52 3.2.1.1. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về điện ảnh 55 3.2.2. Đối với các cơ quan văn hoá 56 3.2.3. Đối với nhà trường 57 3.2.4. Đối với sinh viên 58 KẾT LUẬN 61 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Điện ảnh là môn nghệ thuật tổng hợp có sức thu hút kì lạ đối với công chúng. Và lực lượng khán giả đông đảo của điện ảnh là sinh viên. Họ có những thị hiếu điện ảnh khác nhau, có người thích xem bộ phim này, nhưng có người lại thích xem bộ phim khác. Thị hiếu điện ảnh của họ góp phần làm phong phú, đa dạng thêm thị hiếu điện ảnh của công chúng. Bởi vậy, khi nắm bắt được thị hiếu điện ảnh của sinh viên sẽ giúp cho các nhà điện ảnh hiểu rõ hơn về một bộ phận đông đảo của khán giả để đáp ứng kịp thời. Sinh viên là những ngườì đang chuẩn bị kiến thức và kinh nghiệm để bước vào lao động nghề nghiệp. Họ có mong muốn làm giàu vốn sống, vốn văn hoá, nghệ thuật và tự hoàn thiện mình. Họ đã tìm ra phương thức hữu hiệu để thoả mãn là điện ảnh. Môn nghệ thuật thứ bảy này từ lâu đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được của họ. Điện ảnh đem lại cho sinh viên những giây phút thoải mái, lý thú, thoải mái sau những giờ học căng thẳng. Điện ảnh còn giúp cho sinh viên nhận biết và hiểu cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Không những thế, điện ảnh đã khơi dậy những gì tốt đẹp trong tâm hồn họ, hướng tới chân thiện mỹ, đến một cái đẹp hoàn thiện. Nghiên cứu thị hiếu điện ảnh của sinh viên nhằm thoả mãn nhu cầu của họ. Trong thời kì đổi mới, chăm lo đào tạo những trí thức tương lai cho xã hội đã được Đảng và nhà nước quan tâm vì họ là những chủ nhân tương lai của đất nước. Trong văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh vấn đề giáo dục thẩm mỹ, giáo dục văn hoá, nghệ thuật: “Các ngành văn hoá giáo dục Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các ngành có liên quan cần phối hợp chặt chẽ đẩy mạnh vấn đề giáo dục thẩm mỹ, giáo dục văn hoá, nghệ thuật trong các trường học”. Bên cạnh những thị hiếu lành mạnh, trong sinh viên cũng tồn tại những thị hiếu không lành mạnh. Tìm hiểu thị hiếu điện ảnh của sinh viên giúp cho các nhà quản lý văn hoá, nhà trường và các ngành liên quan có giải pháp định hướng giáo dục nhằm nâng cao thị hiếu của họ. Thị hiếu điện ảnh của công chúng nói chung và của sinh viên nói riêng luôn thay đổi nhất là dưới tác động của hội nhập. Nếu không nhận thức được sự thay đổi nhanh chóng đó sẽ không đáp ứng được nhu cầu của họ. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Tìm hiểu thị hiếu điện ảnh của sinh viên một số trường đại học tại Hà Nội” làm khoá luận tốt nghiệp cử nhân Quản lý văn hoá. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về thị hiếu điện ảnh thì đã có rất nhiều công trình, nhiều bài báo như: luận án phó TS của Nguyễn Văn Thủ với đề tài “Nhu cầu điện ảnh của công chúng Việt Nam hiện nay”, “Khán giả điện ảnh Việt Nam, nhu cầu và thị hiếu” của Phòng nghiên cứu khán giả điện ảnh – Fafilm Việt Nam, “Về nhu cầu và thị hiếu điện ảnh của công chúng” ở An Giang của Hoàng Trần Doãn, “Nhu cầu và thị hiếu khán giả điện ảnh” - Đặng Minh Liên… Nhìn chung các công trình này đều đi vào khảo sát trên diện rộng. Còn nghiên cứu thị hiếu điện ảnh của sinh viên lại rất ít, chủ yếu chỉ dưới dạng các bài báo. 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài đi vào tìm hiểu, phân tích, đánh giá thị hiếu điện ảnh của sinh viên một số trường đại học tại Hà Nội để rút ra những biện pháp nhằm nâng cao thị hiếu cho sinh viên. Đối tượng nghiên cứu là nghiên cứu về thị hiếu điện ảnh của sinh viên. Với dự hạn hẹp của thời gian nghiên cứu, người viết chỉ xin nghiên cứu đề tài ở 4 trường đại học tại Hà Nội (2 trường thuộc khối xã hội và hai trường thuộc khối tự nhiên) là: Đại học Văn hoá Hà Nội, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Bách khoa Hà Nội. 4. Nhiệm vụ của khoá luận - Tìm hiểu thực trạng thị hiếu điện ảnh của sinh viên các trường đại học tại Hà Nội. - Nêu nguyên nhân thị hiếu điện ảnh của sinh viên - Đóng góp một số giải pháp nhằm nâng cao thị hiếu điện ảnh của sinh viên 5. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu tài liệu Điều tra bảng hỏi Phương pháp phỏng vấn sâu Phương pháp quan sát Phương pháp xử lý số liệu 6. Cấu trúc của khoá luận Ngoài mở đầu, kết thúc, khoá luận gồm các chương: Chương 1: Một số khái niệm cơ bản Chương 2: Thực trạng thị hiếu điện ảnh của sinh viên một số trường đại học tại Hà Nội Chương 3: Một số kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao thị hiếu điện ảnh của sinh viên một số trường đại học tại Hà Nội. Chương 1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN 1.1. THỊ HIẾU Theo ngôn ngữ La Tinh ở phương Tây và ngôn ngữ phương Đông thì thị hiếu chính là Gustus đều chỉ sự ham muốn sự thích thú chung, do giác quan mang lại chứ không chỉ là sự thích thú riêng do giác quan nào đó của con người. Người ta thích ăn món ăn Trung Quốc, thích hút thuốc lá mùi vị Thổ Nhĩ Kỳ, thích ngửi nước hoa Pháp…đều liên quan đến thị hiếu của con người. Do vậy thị hiếu là một khái niệm chỉ sự thích thú của con người khi tiếp xúc với đối tượng thông qua các giác quan. Tuy nhiên chung quanh vấn đề thị hiếu có rất nhiều cách phát biểu khác nhau. Nhưng nói chung đều xoay quanh hai ý kiến. Một là, trong khái niệm thị hiếu có chỉ sự thích thú cá nhân hay không hay là sự thích thú của con người nói chung. Hai là, khái niệm thị hiếu có bao chứa kiểu thích thú, kiểu ưa thích không. Tác giả Đỗ Huy cho rằng: “Thị hiếu là khả năng lựa chọn phổ biến của con người, là sở thích trong mọi lĩnh vực của cá nhân và tập thể” [10, tr. 177]. Theo tác giả, thị hiếu là sự yêu thích của đa số công chúng chứ không phải của một cá nhân cụ thể. Còn ý kiến thứ hai, tác giả Trần Độ trong cuốn “Thoả mãn nhu cầu văn hoá và nâng cao thị hiếu nghệ thuật” lại bày tỏ rằng: “Thị hiếu là kiểu ưa thích nào đó, kiểu ưa thích này thường bộc lộ ngay lập tức, nó biểu thị toàn bộ khả năng đánh giá, cảm xúc của chủ thể” [6, tr. 21]. Sở dĩ kiểu ưa thích này bộc lộ ngay lập tức vì khả năng đánh giá, xúc động của ta bao giờ cũng thể hiện trước một đối tượng thẩm mỹ và tạo ra một sự ưa thích ngay lập tức theo một kiểu nào đó. Chẳng hạn như khi đứng trước một bức tượng (đối tượng thẩm mỹ) thị hiếu (tức là kiểu ưa thích) của ta lập tức sẽ xuất hiện ngay. Ta sẽ thấy ngay một trạng thái thích thú, khoái cảm hay thờ ơ thậm chí khó chịu…Với định nghĩa này ông đã phủ nhận thị hiếu cá nhân bởi cách lựa chọn, cách ưa thích của mỗi cá nhân không thể xác lập thành một kiểu. Kiểu là do nhiều sự vật có thuộc tính giống nhau tạo nên. Do đó nhiều cá nhân cùng thích một tác phẩm nào đó mới có ý nghĩa kiểu ưa thích. Còn nếu mỗi cá nhân có thị hiếu của riêng mình thì chúng ta có thể gọi là sở thích cá nhân mà thôi. Khái niệm thị hiếu trong đời sống cũng như trong khoa học đều bao hàm sự ưa thích của một cá nhân hay một nhóm cá nhân về một quyển sách hay một bức tranh nào đó. Thị hiếu tuy gắn với tình cảm cá nhân nhưng biểu thị các kiểu ưa thích khác nhau. Bởi vậy, người viết xin lấy một khái niệm rất đơn giản nhưng lại khá bao quát của TS Hoàng Trần Doãn để chúng ta cùng sử dụng trong cuốn khoá luận này: “Thị hiếu là biểu hiện sự yêu thích của cá nhân và xã hội trong một khoảng thời gian nào đó đối với vật chất hay tinh thần. Thị hiếu thay đổi theo sự thay đổi của cá nhân và xã hội trong khoảng thời gian khác nhau” [5, tr. 26] . Thị hiếu được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động để thoả mãn nhu cầu của cá nhân cũng như của xã hội. Trong cuốn “Những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm lý học”, B.Ph.Lômô đã viết như sau: “Nhưng các đối tượng của nhiều nhu cầu và phương pháp thoả mãn chúng được xã hội tạo nên trong lịch sử phát triển của chúng ở mọi người, cá nhân, cộng đồng đã hoàn thành và phát triển thị hiếu và sở thích nhất định” [14, tr.320]. Như thế thị hiếu được hình thành trong một thời gian dài, tồn tại như một phẩm chất văn hoá của chủ thể trong hoạt động thoả mãn nhu cầu. Trong thành phần của thị hiếu có trình độ văn hoá, trình độ học vấn truyền thống cùng nhiều yếu tố khác. Thị hiếu trở thành đối tượng nghiên cứu như một khái niệm căn bản gắn liền với sự tiêu dùng cá nhân, xã hội và làm thoả nhu cầu của chủ thể. Thị hiếu được hình thành xuất phát từ sở thích. Sở thích là ý thích riêng của mỗi cá nhân đối với đối tượng nào đó tương đối ổn định và lâu dài. Những sở thích này cùng với mong muốn thoả mãn nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy hoạt động thoả mãn nhu cầu của chủ thể. Nhu cầu được thoả mãn sẽ được củng cố và phát triển sở thích, tạo ra các sở thích mới ở chủ thể. Lúc này sở thích là cơ chế để hình thành nhu cầu. Trong bất cứ hoạt động nào của con người hay xã hội cũng thuộc sự yêu thích khác nhau của cá nhân với đối tượng. Sở thích nào được hình thành và tồn tại trong chủ thể một cách lâu dài, chi phối việc hình thành hoạt động và thoả mãn nhu cầu thì được gọi là thị hiếu. Trong thị hiếu cần phân biệt thị hiếu thấp và thị hiếu cao, thị hiếu không lành mạnh và thị hiếu lành mạnh. Trước hết cần phân biệt thị hiếu thấp (hay thị hiếu kém phát triển) và thị hiếu cao (thị hiếu phát triển). Thị hiếu thấp là loại thị hiếu thô kệch, do chưa được nâng cao trình độ thẩm mỹ, chưa biết phân biệt cái nào là đẹp, cái nào là không đẹp. Vì thế ở những người mà thị hiếu thấp thường thích những cái không đẹp vì tưởng rằng nó đẹp. Những cái ấy đối với người có thị hiếu hơn lại thấy nó lố bịch, cầu kỳ và buồn cười. Thị hiếu thấp là thị hiếu của những người chưa được tiếp xúc với nhiều cái đẹp thực sự vì thế nó thô sơ, kệch cợm. Ngược lại thị hiếu cao (hay thị hiếu phát triển) là thị hiếu của những người có học vấn, có trình độ kiến thức cao, thực sự tiếp xúc nhiều với cái đẹp. Ở những người này, thị hiếu tinh tế hơn, sâu sắc hơn nhất là ở những người được giáo dục thẩm mỹ. Thị hiếu cao hay thấp phụ thuộc vào trình độ kiến thức, trong đó kiến thức về ngôn ngữ các loại hình nghệ thuật là yếu tố rất quan trọng. Bởi vì nếu thưỏng thức nghệ thuật mà không hiểu ngôn ngữ nghệ thuật thì không thể thưởng thức được. Khi nói tới thị hiếu lành mạnh và thị hiếu không lành mạnh lại đề cập tới một vấn đề khác. Thị hiếu không lành mạnh có hai loại ở mức cao là thị hiếu độc hại, ở mức thấp là thị hiếu xấu. Sở dĩ có sự phân biệt như vậy vì có tác phẩm xuất phát từ thị hiếu độc hại, tức là xuất phát từ âm mưu chính trị độc hại, nó có thể mang sự độc hại đến cho khán giả. Thế nhưng cũng có tác phẩm xuất phát từ thị hiếu xấu nhưng tác hại của nó khó nhận thấy hơn nó bị chen lẫn với những yếu tố nghệ thuật thực sự…nó cũng thuộc về loại không lành mạnh. Loại thị hiếu không lành mạnh (độc hại và xấu) này tác động xấu đến sự phát triển tinh thần và nhân cách của con ngưòi. Còn thị hiếu lành mạnh là loại thị hiếu tốt không chỉ đảm bảo cho nhân cách phát triển toàn diện mà con giúp cho chủ thể hưởng thụ, đánh giá đúng đắn, trọn vẹn các đối tượng thẩm mỹ mà còn tạo ra nhiều giá trị thẩm mỹ cao đẹp. 1.2. THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH 1.2.1. Điện ảnh Theo luật Điện ảnh, năm 2006 quy định: “Điện ảnh là loại hình nghệ thuật tổng hợp thể hiện bằng hình ảnh động, kết hợp với âm thanh, được ghi trên vật liệu phim nhựa, băng từ, đĩa từ và các vật liệu ghi hình khác để phổ biến đến công chúng thông qua các phương tiện kỹ thuật” [15, tr.8]. Điện ảnh ra đời trên cơ sở những phát minh khoa học kỹ thuật và trong mỗi bước phát triển của nó như đều gắn liền với những tiến bộ, những phương tiện mới của kỹ thuật hiện đại. Chẳng bao nhiêu lâu sau khi ra đời điện ảnh đã có một sự vượt thoát kỳ diệu lên trên một kỹ nghệ thông thường, ra khỏi sự ràng buộc của phương tiện kỹ thuật để tồn tại như một ngành nghệ thuật. Điện ảnh đã tổng hợp được được tinh tuý của các bộ môn nghệ thuật khác như văn học, sân khấu, hội hoạ, âm nhạc…đã gắn kết sức mạnh của các loại hình nghệ thuật đó bằng sức mạnh của các phương tiện. Nhờ đó mà nó có khả năng truyền cảm mạnh mẽ, cuốn hút sự ưa thích của nhiều người. Điện ảnh sử dụng ngôn ngữ riêng của mình, đó là ngôn ngữ đặc biệt tổng hợp được tạo ra bởi hình ảnh, động tác của máy quay, ánh sáng, phục trang và bối cảnh, âm thanh, dựng phim, thời gian, không gian, lời thoại và những phương pháp bổ sung dẫn truyện…Tính đặc biệt của nó không chỉ thể hiện ở việc nó được tạo ra mà còn ở chỗ người ta cảm nhận nó. M.Martin viết về ngôn ngữ đặc biệt này như sau: “Người ta cảm nhận nó không chỉ bằng tai bằng mắt mà còn bằng cảm xúc và bằng trái tim” [18, tr.36]. Tính tổng hợp của điện ảnh còn bao hàm sự tổng hợp những cái hay nhất, cảm xúc tốt nhất của những người trong nhóm làm phim khi cùng nhau sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật của mình. Điện ảnh là loại hình nghệ thuật mang tính chân thực cao. Vì sự phong phú của thể loại có trong điện ảnh như: phim truyện, phim tài liệu, phim hoạt hình mà tính chân thực của điện ảnh rất cao. Phim tài liệu là thể loại mang tính báo chí và được thể hiện theo nguyên tắc chân thực nghĩa là nó được sáng tác và biểu hiện trên cơ sở các sự kiện có thực đã và đang xảy ra. Phim truyện lại được thể hiện và sáng tác theo nguyên tắc khúc triết nghĩa là sự việc đã xảy ra (hoặc chưa xảy ra) được các tác giả sắp xếp thành chuỗi liên quan qua đó câu chuyện kể về các số phận của các nhân vật. Và người xem coi những biểu hiện trên phim là phản ánh đời sống thực, họ tin vào những gì xảy ra trong phim, đôi khi còn vận dụng nó vào trong đời sống của mình. Điện ảnh là loại hình có tính hấp dẫn. Điện ảnh cho phép người ta đọc sách bằng hình ảnh, với sự hỗ trợ của âm thanh cuộc sống (tiếng động, âm nhạc, ngôn ngữ của con người). Hiệu quả của việc đọc sách này tăng lên nhiều lần vì những hiện tượng văn học đã trở nên cụ thể trước mắt người xem với sự sống động, linh hoạt giúp cho họ cảm nhận chúng một cách rõ ràng. Với cách diễn xuất của diễn viên, cách ghi hình sinh động, linh hoạt và cách hỗ trợ tối đa âm thanh, ánh sáng mà người nghe có thể cảm nhận được đầy đủ các vấn đề của xã hội, của con người được đề cập trong tác phẩm. Hơn thế con người có thể tìm thấy mình, những người thân, những người xung quanh mình trong đó. Điện ảnh đã được hàng triệu người trên thế giới hào hứng chào đón. Trong lịch sử phát triển của mình điện ảnh đã chứng tỏ tính ưu việt của một bộ môn nghệ thuật tổng hợp có tác động mạnh mẽ đến tinh thần của quần chúng người xem. Chưa có một bộ môn nghệ thuật nào lại có tính phổ cập đến vậy, đồng thời lại đa năng đến như thế. Nó có khả năng hình thành quan điểm và thị hiếu của người xem. Trong cuộc sống con người thường xây dựng cho mình cách ứng xử theo một khuôn mẫu nhất định. Những khuôn mẫu này được tìm thấy ở hình ảnh cụ thể của người cha, người mẹ, người thầy, người anh hay thần tượng của mình…Và điện ảnh giới thiệu với họ những khuôn mẫu điển hình như thể bằng hình tượng nghệ thuật, theo ngôn ngữ của điện ảnh. Điện ảnh đã tác động đến trí tuệ, tâm hồn, mang đến cho người xem những hiểu biết mới, những tình cảm mới góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội, hành vi theo lý tưởng của thời đại. Điện ảnh xây dựng nên hình tượng, hình mẫu mà người xem thường tìm thấy ở đó thần tượng, mầu người cho mình bắt chước. Điện ảnh mang đến cho con người những khuôn mẫu ứng xử dưới dạng những hình ảnh cụ thể như cuộc đời với những khả năng nhận thức, phản ánh như thế. Điện ảnh là phương tiện của trí tuệ, làm giầu sự hiểu biết của con người, một hình thức hoạt động, nâng cao dân trí, một hình thái đặc thù nhận thức xã hội, không những thế điện ảnh còn thức tỉnh những nhu cầu tiềm ẩn, sâu xa của con người. Do thế V.I Lenin đã nói rằng: “…đối với chúng ta trong các loại hình nghệ thuật, điện ảnh la nghệ thuật quan trọng bậc nhất vì tính rộng rãi của nó…” [11, tr.272]. 1.2.2. Thị hiếu điện ảnh “Thị hiếu điện ảnh là biểu hiện mức độ yêu thích điện ảnh của chủ thể. Nó còn là khuynh hướng, kết quả lựa chọn nhu cầu điện ảnh và cũng là biểu hiện năng lực thưởng thức điện ảnh của chủ thể” [5, tr.78]. Thông thường tính hấp dẫn của tác phẩm điện ảnh tỷ lệ thuận với tác động gây khoái cảm của nó với chủ thể. Có hai mâu thuẫn như sau: thứ nhất là tác phẩm hay nhưng chủ thể lại không thích, thứ hai là tác phẩm không hay nhưng chủ thể lại thích. Có thể giải thích sự tồn tại của các trạng thái này bởi sự tham gia của thị hiếu vào việc thưởng thức các tác phẩm của chủ thể. Thị hiếu góp phần vào việc định hướng cho hoạt động của chủ thể, tạo cho chủ thể những trạng thái, tình cảm yêu thích hay ngược lại. Trong nghệ thuật cũng như trong điện ảnh, thị hiếu hiện diện như một thành phần không thể thiếu để quyết định xu hướng hoạt động thoả mãn nhu cầu điện ảnh của người sáng tác cũng như công chúng khán giả. Thị hiếu điện ảnh đề cập như một thành phần tham gia vào nhu cầu điện ảnh. Thị hiếu điện ảnh thúc đẩy quá trình tiếp xúc giữa chủ thể thẩm mỹ (công chúng) và đối tượng thẩm mỹ (tác phẩm điện ảnh). Trong khi thưởng thức, đánh giá một tác phẩm điện ảnh, khán giả nảy sinh sở thích hay không thích một yếu tố nào đó trong phim. Và họ có nhu cầu tìm hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm đó hay tác phẩm khác. Thí dụ như khi xem bộ phim “Cánh đồng hoang” một khán giả rất ấn tượng cảnh cuối phim khi người vợ trẻ ôm đứa con và bắn rơi máy bay để trả thù cho chồng. Và vị khán giả đó nảy sinh mong muốn tìm hiểu sâu hơn về nghệ thuật quay của phim. Ở đây chúng ta cần phân biệt hai khái niệm nhu cầu điện ảnh và thị hiếu điện ảnh. “Nếu nhu cầu điện ảnh là động cơ thúc đẩy con người hành động để lĩnh hội, thưởng thức và sáng tạo ra các giá trị điện ảnh thì thị hiếu điện ảnh lại là khả năng thẩm thấu, đánh giá của con người với các giá trị đó” [5, tr.46]. Nhu cầu điện ảnh thôi thúc sự tìm kiếm, kích thích tính tích cực của con người vượt qua trở ngại, khắc phục điều kiện và hoàn cảnh đến với tác phẩm điện ảnh thì thị hiếu là cánh cửa đón con người vào với thế giới điện ảnh. Nhu cầu điện ảnh là những thuộc tính tiềm ẩn bên trong vốn có của con người, còn thị hiếu điện ảnh được dần dần hình thành trong quá trình hoạt động thực tiễn của họ. Tuy có sự phân biệt nhưng nhu cầu điện ảnh và thị hiếu điện ảnh lại có quan hệ mật thiết với nhau. Nếu nhu cầu điện ảnh là cơ sở để nảy sinh thị hiếu điện ảnh thì thị hiếu điện ảnh lại là một dạng động cơ của nhu cầu điện ảnh. Sở thích cá nhân là biểu hiện cụ thể của thị hiếu điện ảnh. Ở trình độ nào đó nó đơn thuần là “thích” hay “không thích”. Trong quá trình thực tiễn, thị hiếu thẩm mỹ nói chung trong đó có thị hiếu điện ảnh dần dần được nâng lên và con người có những phản ứng nội tâm phong phú, sâu sắc, nhạy bén có khả năng phát hiện, đánh giá những giá trị sâu lắng, tinh tế của tác phẩm, có khả năng tiếp thu những cái mới lạ…Lúc này không chỉ còn đơn thuần là thích hay không thích mà nhờ có thị hiếu chủ thể có thể lý giải rõ ràng “tại sao thích” hay “tại sao không thích”. Đối với mỗi người thì thói quen thị hiếu được hình thành lâu dài thể hiện tính cách của cá nhân. Sức mạnh thói quen nhất là thói quen thị hiếu được củng cố về mặt tình cảm trong tính cách cá nhân là rất lớn. Sở thích cá nhân nhưng diễn ra liên tục và lâu dài đến một mức độ nhất định là biểu hiện ổn định của nhu cầu điện ảnh. Sự ưa thích đó là cơ sở cho sự lựa chọn tích cực hoạt động điện ảnh của công chúng. Thị hiếu điện ảnh là khuynh hướng và cũng là kết quả lựa chọn nhu cầu điện ảnh, không những thế nó còn biểu hiện năng lực thưởng thức điện ảnh của cá nhân. 1.3. THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN 1.3.1. Sinh viên Trong từ điển Tiếng Việt có nêu: “Sinh viên là những người học ở trường đại học” [22, tr. 750]. Tức là sinh viên là những người đang học tập và nắm lấy chuyên môn ở trong các trường học đại học, cao đẳng. Kon I.X đặc biệt nhấn mạnh: “Sinh viên là nhóm xã hội đặc biệt, nhóm người đang chuẩn bị kiến thức và kinh nghiệm để bước vào lao động nghề nghiệp trong tương lai” [23, tr.55]. Về phương diện xã hội, sinh viên là những người ngồi ghế nhà trường phổ thông, có nghĩa là từ 18 đến 25 tuổi . Đây là giai đoạn phát triển ổn định về hệ xuơng, cơ bắp và mạnh về trí óc, sức sáng tạo tạo ra vể đẹp hoàn mỹ ở người sinh viên. Sinh viên là bộ phận dân cư trẻ tuổi được xã hội quan tâm, đào tạo một các hệ thống cơ bản để trở thành lực lượng lao động và quản lý xã hội tương lai. Các tổ chức chính trị xã hội, gia đình đều đặt kỳ vọng vào sinh viên, làm nâng cao vai trò, vị trí của sinh viên trong xã hội. Đối với sinh viên học tập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, các hoạt động nhận thức, hoạt động trí tuệ đóng vai trò quan trọng. Sinh viên phải lĩnh hội kiến thức mang tính chất chuyên ngành, sâu hơn phải thích ứng với những phương pháp mới, khác hẳn so với các truờng phổ thông. Những kiến thức đó sẽ là cơ sở cho nghề nghiệp của họ sau này. Ngoài ra sinh viên còn tích cực tham gia các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao. Các câu lạc bộ văn thơ, hội hoạ, khiêu vũ…luôn hấp dẫn lôi cuốn sự tham gia của sinh viên để thoả mãn nhu cầu giao lưu phong phú và nhu cầu rèn luyện toàn diện của sinh viên. Bởi vậy, ở sinh viên luôn có sự năng động, sáng tạo, linh hoạt với hoàn cảnh và thích nghi rất nhanh với cái mới. Tuổi sinh viên cũng là thời kì phát triển tích cực nhất của hoạt động tình cảm như tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ. Những tình cảm này biểu hiện rất phong phú trong các hoạt động của sinh viên. Để thoả mãn tình cảm trí tuệ, sinh viên không chỉ học những gì có sẵn trong chương trình bắt buộc mà họ còn mở rộng, đào sâu kiến thức của mình bằng nhiều cách với nhiều nguồn cung cấp kiến thức thông tin như: tìm đọc ở thư viện, học trên các phương tiện truyền thông, tham gia các hoạt động ngoại khoá, các hoạt động nghiên cứu khoa học hay các hội thảo khoa học…Chính tình cảm trí tuệ đã làm cho luợng trí thức sinh viên tích luỹ thường lớn. Sinh còn là người yêu vẻ đẹp thể hiện ở hành vi, đạo đức, vẻ đẹp thẩm mỹ ở các sự vật, hiện tượng tự nhiên hoặc con người tạo ra. Và tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ thể hiện ở một chiều sâu rõ rệt, yêu thích cái gì họ đều thể hiện cố gắng lý giải và phân tích một cách có cơ sở. Đặc biệt đời sống tình cảm của sinh viên khá phong phú bởi những đòi hỏi cấp thiết khi tâm sinh lý của họ đã phát triển. Cũng chính vì thế mà nhu cầu tinh thần của họ càng lớn. Họ muốn thưởng thức, đánh giá và tham gia vào các loại hình văn hoá văn hoá nghệ thuật. Sinh viên chính là nguồn khán giả đông đảo của trong các buổi biểu diễn ca nhạc, trình diễn thời trang hay những buổỉ chiếu phim. Sự thoả mãn nhu cầu này của sinh viên góp phần làm tăng thêm sự hiểu biết của họ về xã hội, những kiến thức của cuộc sống, những tình cảm mới lạ và đẹp đẽ, những bài học bổ ích, hiểu biết về nghệ thuật đặc biệt là tình cảm thẩm mỹ. 1.3.2. Thị hiếu điện ảnh của sinh viên Thị hiếu điện ảnh của sinh viên là những yêu thích, là sự lựa chọn phổ biến trong lĩnh vực điện ảnh của những người trẻ tuổi đang học tập và nghiên cứu trong các trường đại học, cao đẳng. Sự yêu thích lựa chọn ấy giúp cho họ thu thập kiến thức khoa học và những kinh nghiệm chuyên môn giúp cho họ trở thành những chuyên gia trong tương lai và chuẩn bị bước vào lao động, sản xuất. Sinh viên là những người có nhu cầu rất cao về điện ảnh bởi thông qua các tác phẩm điện ảnh họ tìm thấy trong đó những thông tin về cuộc sống, tình cảm, về lao động, học tập. Nhu cầu cao thì cũng kèm theo đòi hỏi cao về nội dung, chất lượng của điện ảnh. Bởi thế đến với điện ảnh họ luôn có niềm đam mê được thưởng thức, đánh giá và sáng tạo điện ảnh. Trong quá trình ấy, họ luôn luôn thể hiện quan điểm của mình yêu thích cái này, lựa chọn cái này, bác bỏ cái khác vì cho là không hay không phù hợp. Họ có những đánh giá khác quan nhiều khi là chủ quan đối với những khía cạnh, những lĩnh vực của điện ảnh. Tuy nhiên khách quan hay chủ quan đều thể hiện thị hiếu điện ảnh của sinh viên. Thị hiếu điện ảnh của sinh viên đã thể hiện quan điểm của sinh viên về cuộc sống, tình bạn, tình yêu hay cao hơn là “cách sống” của họ. Trong bối cảnh mở cửa hội nhập này, thị hiếu điện ảnh của sinh viên lại càng được thể hiện một cách phong phú hơn. Chương 2 THỰC TRẠNG THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI 2.1 KHÁI QUÁT VỀ ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT, ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CƠ SỞ ĐIỆN ẢNH TẠI HÀ NỘI 2.1.1. Khái quát về đời sống vật chất, đời sống tinh thần của sinh viên các trường đại học tại Hà Nội Về đời sống vật chất: Theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 2006, trên địa bàn Hà Nội có 35 trường đại học với 1,4 triệu sinh viên (trong đó công lập khoảng 1,2 triệu). Một bộ phận sinh viên sống ở nội trú, còn hầu hết sinh viên ở ngoại trú. Đời sống vật chất của ngày càng tăng nên sinh viên bớt đi gánh nặng, có điều kiện để học tập hơn. Họ có thể tiếp thu kiến thức trên nhiều hình thức, nhiều phương tiện khác nhau. Sinh viên không còn phải học “chay” như trước kia, mà họ có sự hỗ trợ của các thiết bị dạy học như slide, máy chiếu, máy tính… Giờ học thực hành của sinh viên các trường kĩ thuật như đai học Bách khoa hiệu quả hơn nhờ được trang bị kĩ thuật hiện đại. Sinh viên khối xã hội như đại học Văn hoá, đại học Khoa học xã hội và nhân văn được đi thực tế nhiều hơn làm giàu kiến thức chuyên môn của mình. Hình ảnh của những sinh viên bước lên giảng đường với chiếc laptop không còn là hiếm. Đặc biệt với sự bùng nổ của mạng lưới truyền thông, cùng với sự năng động nhạy bén, sinh viên có thể dễ dàng tiếp thu các kiến thức ở khắp mọi nơi trên thế giới. Chỉ cần kích chuột vào một trang web thì cả chân trời tri thức mở ra. Đất nước bước vào hội nhập đồng nghĩa với việc nhiều cơ hội mở ra cho sinh viên. Sinh viên có thể tìm ra nhiều công việc phù hợp với mình. Nó không chỉ giúp cho họ có thêm nhiều kinh nghiệm thực tiễn, trở nên năng động hơn mà còn mang lại một khoản thu nhập. Tuy nhiên với những nhu cầu vật chất ngày càng cao, gia đình lại không có khả năng đáp ứng nên nhiều sinh viên vì mải đi kiếm đã bỏ bê học hành. Về đời sống tinh thần So với thời trước thì đời sống tinh thần sinh viên hiện nay được cải thiện hơn nhiều. Các trường đại học tổ chức nhiều hơn các buổi diễn ca nhạc, các buổi nói chuyện chuyên đề về những vấn đề mà sinh viên quan tâm…Các bạn sinh viên có thể tham gia vào các hoạt động văn hoá, văn nghệ, làm phong phú thêm tâm hồn của mình. Đời sống tinh thần của sinh viên kí túc xá được quan tâm hơn. Các tổ chức Đoàn và Hội sinh viên hoạt động tích cực hơn, có hiệu quả hơn. Tại kí túc xá của trường đại học Kinh tế quốc dân đang thực hiện khá tốt mô hình phát thanh kí túc xá tạo điều kiện cho sinh viên có thể cập nhật những thông tin về nghệ thuật nói chung và điện ảnh nói riêng, được thưởng thức những bài hát hay, những áng văn đẹp. Trường đại học Văn hoá Hà Nội với chuyên ngành nghệ thuật thường xuyên tổ chức hội thi tiếng hát sinh viên, sinh viên thanh lịch, các buổi gặp gỡ các nhà thơ, nhà văn. Phong trào văn hoá văn nghệ của trường đại học Bách khoa Hà Nội, trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn cũng khá sôi nổi, lôi cuốn được nhiều sinh viên tham gia. Đời sống tinh thần của sinh viên được nhà trường quan tâm hơn nhiều nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của sinh viên. Bản thân sinh viên tự tìm các hoạt động giải trí cho mình. Họ đến nhiều hơn với các buổi diễn ca nhạc của các “sao”, các quán âm nhạc, sàn nhảy...Bên cạnh những sở thích tốt đẹp, cũng nảy sinh những thị hiếu không lành mạnh. 2.1.2. Khái quát về các cơ sở điện ảnh trên địa bàn Hà Nội Hà Nội là thủ đô, nằm ở vị trí trung tâm của cả nước nên tập trung các cơ sở điện ảnh phục vụ cho công chúng. Luật Điện ảnh năm 2006 quy định: “Cơ sở điện ảnh là cơ sở do tổ chức, cá nhân thành lập, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất phim, phát hành phim, phổ biến phim theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.” [15, tr.9] Trên địa bàn Hà Nội có các hãng phim của nhà nước như: hãng phim truyện Việt Nam, hãng phim truyện I. Các tổ chức, đoàn thể đã thành lập các hãng phim của họ như: Hôđa phim (Hội điện ảnh Việt Nam), hãng phim Ngọc Khánh (Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh), hãng phim Công an nhân dân (Bộ công an)…Các hãng phim này được thành lập với chủ chương xã hội hoá điện ảnh. Khác với các hãng phim nhà nước, các hãng phim này phải tự huy động vốn và tự marketing để cho ra những sản phẩm đa dạng như phim tài liệu, phim truyện, phim ca nhạc… Trên địa bàn thành phố Hà Nội, có khá nhiều rạp chiếu phim, trong đó có thể chia ra thành bốn loại. Loại thứ nhất do Bộ Văn hoá thông tin quản lý, hình thức hoạt động là doanh nghiệp công ích hoặc sự nghiệp có thu như Trung tâm chiếu bóng quốc gia, Cinema Ngọc Khánh…Loại thứ hai thuộc sở hữu của các đơn vị chức năng xuất nhập khẩu và phát hành phim như: ._.Fafilm Cinema (thuộc fafilm Việt Nam), mạng lưới của các công ty điện ảnh băng hình thuộc thành phố (rạp tháng Tám, Công ty Điện ảnh băng hình Hà Nội). Loại thứ ba chọn mô hình liên doanh liên kết như Đăng Dung là địa chỉ liên doanh giữa Cine Net và công ty điện ảnh và băng hình nhà nước, Dân chủ là liên doanh giữa Fafilm Việt Nam và công ty Mỹ Visonet. Trong những năm vừa qua, các rạp đều đầu tư tu sửa hoặc xây dựng lại, đổi mới trang thiết bị để thu hút khán giả đến với rạp. Thí dụ như rạp Dân chủ có 328 chỗ ngồi, hệ thống đèn và âm thanh được thiết kế qua máy tính tạo nên độ tin cậy về chất lượng; rạp Đăng Dung đã có tới 140 chỗ ngồi, 4 buổi chiếu/ngày, trung bình 4000 lượt người xem/tháng; rạp Bạch Mai có 300 chỗ ngồi… 2.2. THỰC TRẠNG THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI 2.2.1. Thị hiếu của sinh viên trong lĩnh vực thưởng thức điện ảnh 2.2.1.1. Sinh viên yêu thích thưởng thức điện ảnh Khi được hỏi thì 98% sinh viên đều trả lời rằng họ rất yêu thích điện ảnh. Và nếu được lựa chọn một môn nghệ thuật để thưởng thức sinh viên sẽ chọn điện ảnh. Theo một cuộc điều tra nhỏ của Tiến sĩ Hoàng Trần Doãn thì ông thấy rằng trong các loại hình văn hoá nghệ thuật thì sinh viên yêu thích nhất điện ảnh. Số sinh viên lựa chọn điện ảnh chiếm 51,2%, chiếm tỷ lệ cao nhất. Còn các loại hình khác thì thấp hơn, chẳng hạn như: hội hoạ chiếm 23,6%, nhiếp ảnh chiếm 26,7%...Ngay cả ca múa nhạc, một loại hình rất gần gũi với công chúng đặc biệt phù hợp với sinh viên cũng chỉ chiếm 46,1%. Những con số trên chứng tỏ sức hấp dẫn của điện ảnh đối với sinh viên. Người viết đã làm một cuộc phỏng vấn đối với một số sinh viên để thêm phần khẳng định mức độ yêu thích điện ảnh của họ. Bạn Vũ Thị Thu, sinh viên trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn đã nói rằng: “Mình rất thích điện ảnh vì mình có thể vừa giải trí vừa có thể hiểu biết về thế giới xung quanh”. Là sinh viên trường Đại học Kinh tế quốc dân, luôn phải tính toán với các con số nhưng bạn Vũ Kim Dung lại rất yêu thích văn hoá nghệ thuật đặc biệt là điện ảnh. Bạn đã nói rằng: “Tôi thích xem phim vì mỗi khi xem phim tôi được sống trong tưởng tượng, được trải nghiệm nhiều điều lý thú kể cả những cái mà ngoài đời không có”. Bạn Nguyễn Thị Liên, sinh viên trường đại học Văn hoá Hà Nội cho biết: “Tớ rất thích xem phim đặc biệt là những bộ phim chuyển thể kịch bản văn học vì nó giúp tớ hình dung những nhân vật trong các phẩm văn học một cách cụ thể và sinh động hơn. Nhiều cuốn tiểu thuyết bọn tớ chưa có thời gian đọc nhưng nhờ xem các bộ phim chuyển thể này chúng tớ yêu thích đọc những tác phẩm đó hơn”. Sở dĩ sinh viên yêu thích điện ảnh bởi những lợi ích mà điện ảnh đem tới cho họ là rất lớn. Là nghệ thuật tổng hợp, mỗi tác phẩm điện ảnh chứa nhiều nội dung và cùng một lúc có khả năng thoả mãn nhiều nhu cầu khác nhau của sinh viên. Sinh viên đến với điện ảnh từ rất nhiều lý do khác nhau. Người viết đã làm một cuộc trắc nghiệm về mục đích đến với điện ảnh của sinh viên với 1000 phiếu phát ra và đã thu được kết quả như sau: Bảng điều tra mục đích đến với điện ảnh của sinh viên (đơn vị:%) TT Mục đích đến với điện ảnh Mức độ quan trọng Rất quan trọng Quan trọng Ko quan trọng 1 Giải trí 60,5 32,3 7,2 2 Nắm bắt những thông tin có ích cho học tập 23,5 54,0 22,5 3 Làm giàu kiến thức và kinh nghiệm sống 27,4 67,9 4,7 4 Trải nghiệm những tình huống mà thực tế chưa trải qua 13,4 59,0 27,6 5 Làm tăng hiểu biết về nghệ thuật 5,1 65,6 29,3 6 Tìm thấy ý nghĩa tốt đẹp của cuộc sống 31,7 41,3 27,0 7 Tìm cho mình thần tượng để mình noi theo 4,6 25,9 69,5 8 Tìm những rung động nghệ thuật 2,8 34,0 63,2 9 Tái tạo nghệ thuật 5,0 21,0 74,0 Sinh viên đến với điện ảnh với mục đích giải trí là chính. Con số 59,5% với mức độ quan trọng đã nói lên điều đó. Các sinh viên mà người viết phỏng vấn đều để cập đến tính giải trí mà điện ảnh mang lại. Có sinh viên đã nói rằng: “Tôi thích xem phim vì nó giúp tôi thoải mái đầu óc sau những giờ học căng thẳng”. Tuổi sinh viên đang ở giai đoạn họ phải tiếp thu một khối lượng kiến thức khoa học khá lớn để phục vụ cho nghề nghiệp sau này. Vì thế họ phải trải qua những giờ học vất vả. Sinh viên tìm đến điện ảnh như là tìm những giây phút thư giãn. Giải trí đối với con người nói chung và sinh viên trong xã hội hiện đại như ngày nay là rất cần thiết và trở thành nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống. Họ đến với điện ảnh một cách tự nhiên thoải mái để rồi sau đó thu được cái gì đó cho mình từ mỗi tác phẩm điện ảnh. Làm giàu kiến thức và kinh nghiệm sống chiếm vị trí thứ hai trong mục đích đến với điện ảnh của sinh viên. Ngoài giải trí ra, điện ảnh còn cung cấp cho họ rất nhiều thông tin giúp họ tăng thêm lượng kiến thức trong cuộc sống. Sinh viên là những người ham hiểu biết. Khi còn ngồi trên ghế nhà trường, họ hầu như chỉ tiếp xúc với những kiến thức khoa học nên những kiến thức về cuộc sống của họ vẫn chưa nhiều. Điện ảnh đã làm rất tốt điều này. Không chỉ làm giàu kiến thức, điện ảnh còn cho sinh viên thấy ý nghĩa tốt đẹp của cuộc sống. Sinh viên là lứa tuổi phát triển về đời sống tình cảm, họ là những người gọi là “mới lớn”, là những người lãng mạn. Chính vì thế họ tìm đến với điện ảnh như đến mục đích sống cao đẹp để từ đó họ có thể sống tốt đẹp hơn. Trong tác phẩm điện ảnh, những tình huống thực của cuộc sống được nghệ thuật hoá, những chi tiết nghệ thuật lại được hiện thực hoá. Nhờ đó việc tiếp xúc của người xem với các tác phẩm nghệ thuật giúp họ có thể trải nghiệm được những tình huống thực trong cuộc đời mà nhiều khi họ chưa gặp hay chưa trải qua. Ví dụ như xem bộ phim “Titanic” của điện ảnh Mỹ, người xem có thể cảm nhận, trải nghiệm sự hoảng loạn của hành khách khi con tàu gặp tai nạn trên biển thông qua diễn xuất của diễn viên mà không cần phải chứng kiến hay trải qua tai nạn như vậy. Sự trải nghiệm này làm cho người ta thêm kinh nghiêm sống, giúp họ có thể hình dung được sự việc xảy ra và có thể chủ động giải quyết. Đây cũng là mục đích mà sinh viên muốn đạt được khi tiếp xúc với điện ảnh và cũng chứng tỏ hiệu quả điện ảnh đem đến với họ. Mục đích đến với điện ảnh của sinh viên hai khối tự nhiên và khoa học xã hội khác nhau. Sinh viên khối xã hội đến với điện ảnh nhiều hơn với mục đích tăng thêm hiểu biết về nghệ thuật, tìm những rung động nghệ thuật hay tái tạo nghệ thật. Phải chăng là do ngành khoa học xã hội là ngành nghiên cứu các vấn đề của con người, các quan hệ gắn với tâm tư, tình cảm của con người. Nhưng nói tóm lại, dù là sinh viên khối nào thì họ cũng là những người yêu thích thưởng thức điện ảnh và có niềm đam mê với môn nghệ thuật thứ bảy này. 2.2.1.2. Phương thức thưởng thức điện ảnh của sinh viên Người viết đã lựa chọn một vài phương thức xem phim chủ yếu của sinh viên để làm một cuộc điều tra Bảng điều tra số lần xem phim 1 tuần Số lần/tuần Xem trên TV Xem bằng đĩa Xem trên Internet 0 lần 0 0 0 1 lần 0 0 0 2 lần 12,8 10,7 9,2 3 lần 36,8 23,6 15,4 Hơn 3 lần 58,2 24,3 16,7 Sau các giờ học căng thẳng, sinh viên có nhiều cách giải trí khác nhau như đọc sách báo, đọc truyện, chơi thể thao, chat, đi chơi với bạn bè…Nhưng họ vẫn dành một khoảng thời gian thư giãn của mình cho điện ảnh. Hình thức xem phim của học chủ yếu là xem trên ti vi. Đến với những khu trọ sinh viên, người viết thấy rất rõ điều này. Các khu nhà trọ thường chỉ có vài cái ti vi, và mỗi tối sinh viên tập trung rất đông ở một phòng để cùng xem một bộ phim yêu thích. Đây là một trong những minh chứng thể hiện sự yêu thích điện ảnh của họ. Sinh viên thích xem phim, họ đã tìm đến với điện ảnh bằng nhiều hình thức khác nhau như xem đĩa hoặc xem trên Internet. Những bộ phim nổi tiếng của điện ảnh Việt Nam và thế giới sinh được họ thuê đĩa về xem. Và một cách đơn giản để sinh viên xem phim hiệu quả và phổ biến nhất là “lướt web”. Họ có thể lựa chọn vô vàn trang để xem khi vào các trang web như www.phim24g.net, www.ephim.com, www.loadphim.com. Cả thế giới phim online mở ra cho sinh viên thưởng thức phim cũ, phim mới kể cả những phim rạp chưa chiếu, truyền hình chưa phát. Những sinh viên có điều kiện thì đến các rạp để xem phim. Họ yêu thích đến rạp bởi vì rạp là nơi thưởng thức tốt nhất các tác phẩm điện ảnh. Rạp có phục vụ tốt, phương tiện máy móc hiện đại. Hơn nữa đi xem rạp mỗi người đều cảm nhận được không khí thưởng thức nghệ thuật và được giao lưu cảm xúc nghệ thuật. Nhưng không phải sinh viên nào cũng có điều kiện đến rạp. Chỉ có 18,4 % bạn lựa chọn đến xem phim 1 lần/tháng, 7% là 2 lần/ tháng, còn lại đều không lần nào. Bảng điều tra số lần đến xem phim ở rạp 1 tháng (đơn vị %) Số lần đến xem phim ở rạp 1 tháng 0 lần 1 lần 2 lần 3 lần Hơn 3 lần 74,6 18,4 7,0 0 0 2.2.1.3. Những yêu thích của sinh viên trong thưởng thức điện ảnh Sự lựa chọn thể loại điện ảnh của sinh viên Trong điện ảnh có rất nhiều thể loại phim như phim tài liệu, thời sự, phổ biến khoa học, phim truyện, phim hoạt hình. Những lựa chọn của sinh viên đối với các thể loại này thể hiện sự yêu thích hay không yêu thích của họ, người ta gọi là thị hiếu. Thái độ mong muốn lựa chọn thể loại điện ảnh của sinh viên được thể hiện như sau: Bảng điều tra các thể loại điện ảnh sinh viên yêu thích (đơn vị: %) TT Thể loại điện ảnh Mức độ yêu thích Rất thích Thích Bình thường Ko thích 1 Tài liệu, phóng sự, khoa học 7,3 14,7 36,6 41,4 2 Phim truyện 43,7 36,1 15,4 4,8 3 Phim hoạt hình 10,4 13,1 42,2 34,3 Qua bảng số liệu thấy rằng sinh viên thích xem phim truyện nhất, tiếp đến là phim hoạt hình, cuối cùng là phim tài liệu, phóng sự khoa học. Câu hỏi đặt ra ở đây là sinh viên chỉ thích xem phim truyện mà không thích xem các thể loại khác nhất là phim phóng sự, tài liệu, khoa học. Mỗi thể loại phim khác nhau có đặc điểm, chức năng khác nhau và các tác giả sử dụng thể loại này vào mục đích khác nhau khi muốn chuyển tải những vấn đề của xã hội, con người đến người xem. Các thể hiện của phim truyện phù hợp với sinh viên hơn các thể loại khác. Mang tính chính luận, ít tính giải trí, phim tài liệu, phóng sự khoa học là thể loại báo chí mang nhiều thông tin và tính chân thật. Chức năng chủ yếu của thể loại này là phổ biến kiến thức người xem nên không có kịch tính, lời nói chủ yếu của người thuyết minh chứ không phải của diễn viên. Do vậy thể loại này kém hấp dẫn, ít thu hút với người xem. Như đã nói ở trên sinh viên đến với điện ảnh với mục đích giải trí là chính nên ít bạn chọn thể loại này (chỉ có 7,3%). Phim truyện là loại phim do diễn viên đóng, có hư cấu với chủ định của tác giả được gọi là phim nghệ thuật. Với tính nghệ thuật cao ở nội dung và cách thức thể hiện bằng ngôn ngữ điện ảnh mà mặc nhiên người ta coi phim truyện là tiêu biểu cho nền điện ảnh quốc gia. Qua các tác phẩm phim truyện, người xem thấy được các vấn đề của xã hội, con người. Phim truyện phản ánh toàn vẹn và sinh động hiện thực cuộc sống theo hướng tiếp xúc gần gũi nhất. Người xem có thể tìm thấy hình ảnh của mình, của người thân, bạn bè trong phim. Mặt khác với độ dài thích hợp, khả năng mô tả, mổ xẻ những vấn đề thực tiễn được thể hiện khúc triết hơn, đầy đủ hơn giúp cho người xem dễ theo dõi, dễ đồng cảm hơn đối với nhân vật. Bên cạnh đó, cùng với sự phối hợp một cách nhuần nhuyễn của các bộ môn nghệ thuật khác nhau như nghệ thuật biểu diễn, âm nhạc, hội hoạ đem lại hiệu quả cảm xúc cho người xem. Phim truyện với những lợi thế đó đã tác động mạnh mẽ vào tình cảm của nhận thức của công chúng điện ảnh đặc biệt là sinh viên - những trí thức có nhiều hoài bão, mong muốn hoàn thiện mình. Phim truyện mang lại cho sinh viên những giá trị tinh thần, giúp cho tầm mắt họ được mở rộng hơn về nhiều lĩnh vực, hướng dẫn họ cách sống, các làm việc. Cách thể hiện sinh động của phim truyện tất yếu sẽ thu hút những người đề cao tính giải trí như sinh viên (có 43,7% lựa chọn với mức độ rất thích) Phim hoạt hình cũng là một thể loại phim truyện, với nhiều yếu tố nghệ thuật và giải trí, nhưng bối cảnh, nhân vật được thể hiện bằng nhiều chất liệu mang tính hội hoạ (búp bê, cắt giấy…) và gần đây là hoạt hình 3D (three dimensions animal). Xuất phát từ sự ngộ nghĩnh dễ thương của các nhân vật cũng như bối cảnh của phim, thể loại này thường dành cho trẻ em. Sinh viên là những người từ 18 tuổi trở lên, có thể gọi là người lớn tuy nhiên tính trẻ con nhiều khi vẫn còn trong họ. Do vậy không phải bàn tại sao sinh viên lại yêu thích xem phim hoạt hình. Hơn nữa sinh viên còn yêu thích những cái mới lạ, đầy hấp dẫn do kĩ xảo của hoạt hình mang lại. Các bộ phim như Fantaxi, Shrek…với hình ảnh đẹp mắt, kĩ sảo tuyệt vời đã được nhiều bạn yêu thích. Người viết đã làm một cuộc điều tra về những thể loại phim truyện được sinh viên hay xem và thu được kết quả như sau: Bảng điều tra về những thể loại phim yêu thích của sinh viên (đơn vị:%) TT Thể loại phim truyện Mức độ yêu thích Rất thích Thích Bình thường Ko thích 1 Phim tâm lý xã hội 46,5 21,6 15,6 16,3 2 Chuyển thể văn học 30,5 22,6 12,7 34,2 3 Phim hành động 32,9 23,7 13,8 29,6 4 Phim viễn tưởng 28,6 24,3 19,4 27,7 5 Phim thần thoại 19,8 15,9 21,5 42,8 6 Phim lịch sử 15,6 14,3 23,8 46,3 7 Phim chưởng 13,6 18,8 23,2 44,4 Trên đây người viết xin đưa ra một số thể loại phim tiêu biểu. Việc gọi tên phim chỉ là một cách tương đối. Tác phẩm điện ảnh đặt ra ở lĩnh vực gì, yêu tố nào trong nó thì đặt nó vào thể loại đó.Chẳng hạn như tác phẩm đặt vấn đề xã hội, với nhiều yếu tố tâm lý xã hội thì gọi là phim tâm lý xã hội, yếu tố hành động đuổi bắt nhiều thì được gọi là phim hành động, phim dựng trên cơ sở kịch bản chuyển thể từ tác phẩm văn học được gọi là phim chuyển thể, yếu tố lịch sử nhiều thì được gọi là phim lịch sử… Sinh viên thích xem nhất thể loại phim tâm lý xã hội (46,5% với mức độ rất thích) chứng tỏ sinh viên quan tâm nhiều đến diễn biến xã hội và đời sống tâm lý con người. Trong thể loại này thường có biểu hiện của đời sống lứa đôi, một loại tình cảm đặc biệt của con người. Loại tình cảm này thường xuất hiện và phát triển mạnh ở lứa tuổi thanh niên, sinh viên. Khi xem thể loại phim này con người thường cảm nhận và thường liên hệ tới bản thân mình. Phim tâm lý xã hội thường khai thác những mâu thuẫn nội tâm, những dằn vặt toan tính, những xúc cảm từ sâu thẳm con người. Do vậy người xem như được trải nghiệm những rung động của mình từ đó nhận thức rõ hơn và xuất hiện nhiều cảm xúc hơn. Và như thế những khúc mắc trong cuộc sống, trong tình cảm đã được lý giải. Thời kỳ sinh viên là thời kỳ con người ta vừa thực tế vừa dễ rung động, lãng mạn. Họ luôn có nhu cầu lý giải một cách chính xác những vấn đề xác thực của đời sống vì họ nhìn cuộc sống rất thực tế. Nhưng nhiều khi sinh viên lại cần những cái lãng mạn trong cuộc sống để thấy lạc quan, yêu đời hơn. Tính thực tế và cả tính lãng mạn luôn tồn tại trong họ và là nguyên nhân khiến họ yêu thích thể loại phim này. Tính ly kỳ mạnh mẽ làm cho sinh viên thích xem phim hành động. Phim hành động đứng vị trí thứ hai trong lựa chọn thể loại phim yêu thích của sinh viên. Những pha rượt đuổi gay cấn, những cú lia súng điêu luyện luôn làm cho các bạn sinh viên thán phục khi xem thể loại phim này (32,9% với mức độ rất thích). Những sinh viên thích phiêu lưu mạo hiểm lại thích xem phim khoa học viễn tưởng. Bạn Vũ Kim Dung, Đại học Kinh tế quốc dân đã nói rằng: “Phim viễn tưởng đã cho tôi những thứ mà ngoài đời thực không có”. Những bộ phim như thế này làm giàu thêm trí tưởng tượng của sinh viên và chắp thêm đôi cánh cho những ý tưởng sáng tạo của họ. Nhiều khi những sáng kiến của sinh viên lại xuất phát từ ý tưởng của một bộ phim viễn tưởng nào đó. Sinh viên đa phần không thích xem phim lịch sử (46,3 % với mức độ không thích) vì họ cho rằng nó quá khô khan, không có tính thời sự chỉ phản ánh những cái đã qua, mang tính khô cứng, ít có tình tiết tình cảm riêng tư, và do đó ít phù hợp với sinh viên. Còn phim chưởng một thời cũng làm say mê giới trẻ hay tò mò thích xem những cảnh đánh nhau. Nhưng sinh viên bây giờ thì không thích nữa (44,4% với mức độ không thích) vì phim chưởng hay có những tình tiết giống nhau, đánh nhau nhiều quá mà không đi vào thực tiễn con người. Người viết có làm một cuộc phỏng vấn nhỏ đối với các bạn sinh viên thuộc hai khối khoa học xã hội và khoa học tự nhiên về thị hiếu xem phim chưởng và phim lịch sử. Kết quả thấy rằng có lẽ là do tính chất khối học nên các bạn khoa học xã hội thường yêu thích xem phim lịch sử hơn và phim chưởng lại là sự lựa chọn của các bạn khối tự nhiên. Sự lựa chọn đề tài phim truyện của sinh viên Phim truyện được chia thành các thể loại, mỗi thể loại có những nội dung khác nhau phản ánh các mặt hoạt động của xã hội, của con người. Người ta gọi đó là đề tài. Đề tài nào phản ánh được những vấn đề mà khán giả quan tâm thì chiếm được sự yêu thích và mong muốn được xem của khán giả. Người xem thường quan tâm đến những đề tài gắn liền với cuộc sống, nghề nghiệp và tính chất hoạt động của họ. Tuổi sinh viên là thời kỳ phát triển tích cực nhất của những tính cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ. Những tình cảm này biểu hiện rất phong phú trong hoạt động và đời sống của sinh viên. Vì thế người viết đã chọn một số đề tài tiêu biểu phù hợp với họ sinh viên để làm cuộc trắc nghiệm và thu đuợc kết quả như sau: Bảng điều tra về đề tài phim truyện yêu thích của sinh viên (đơn vị: %) TT Đề tài phim truyện Mức độ yêu thích Rất thích Thích Bình thường Ko thích 1 Chiến tranh 11,0 15,2 27,4 46,4 2 Sản xuất, kinh doanh, học tập 27,4 32,4 14,6 25,6 3 Các vấn đề gia đình 25,4 28,3 16,3 30,0 4 Các vấn đề xã hội 29,0 27,9 13,2 29,9 5 Tình bạn, tình yêu 43,3 29,4 10,7 16,6 6 Lịch sử 16,6 16,3 21,3 45,8 Nhìn vào bảng trên thì chúng ta đều thấy rằng sinh viên yêu thích nhất đề tài tình bạn, tình yêu trong thể loại phim truyện (43,3 % với mức độ rất thích). Tình bạn đã làm phong phú thêm tâm hồn nhân cách của họ. Bên cạnh tình bạn, tình yêu là một loại tình cảm đặc trưng mà họ đặc biệt quan tâm vì thế có thể dễ hiểu vì sao sinh viên lại yêu thích những thể loại về tình bạn, tình yêu. Nó như một món ăn tinh thần không thể thiếu được đối với sinh viên. Bởi nhiều khi họ lúng túng chưa biết phải bắt đầu từ đâu trong các mối quan hệ tình cảm thì nhờ có xem phim họ lại tìm ra cách giải quyết riêng cho mình. Sức thu hút của những bộ phim nói về chủ đề tình bạn, tình yêu là rất lớn vì đó là tình cảm thiêng liêng nhất của con người. Đối với các bạn sinh viên lại càng lớn hơn Đề tài về các vấn đề xã hội được sinh viên quan tâm thứ hai (29,0% mức độ rất thích) vì như trên đã nói sinh viên sống khá lãng mạn nhưng là trong lĩnh vực tình cảm còn họ nhìn vào cuộc sống nhiều khi rất thực tế. Họ rất cần nắm bắt những vấn đề của xã hội, những tình huống xảy ra trong cuộc sống và cách giải quyết nó như thế nào. Đề tài về các vấn đề xã hội trong phim truyện đã đáp ứng được điều đó. Bộ phim hình sự “Chạy án” là một bộ phim được các khán giả nhất là sinh viên yêu thích bởi nó đặt ra những vấn đề “nóng hổi” của xã hội, là tham ô, là hối lộ, là các tệ nạn xã hội như cờ bạc, mại dâm…Bộ phim đã cho sinh viên thấy nhiều mặt của xã hội và đặt ra những vấn đề cần giải quyết. Đề tài về sản xuất, kinh doanh, học tập cũng được sinh viên khá quan tâm(27,4 % với mức độ rất thích) . Hoạt động học tập là hoạt động chính của họ. Hằng ngày sinh viên luôn lên giảng đường để thực hiện nghĩa vụ cao cả ấy. Không chỉ học trên giảng đường mà họ còn học tập ở mọi nơi. Ngay cả khi xem phim họ cũng có nhu cầu học tập, làm giàu kiến thức cho mình. Sinh viên rất thích những bộ phim phục vụ cho công việc học tập hay sản xuất kinh doanh. Nhiều sinh viên nhờ xem phim mà nảy ra ý tưởng kinh doanh và đã rất thành công. Người viết có gặp một bạn trường kinh tế quốc dân, là chủ của một cửa hàng kinh doanh máy tính đã nói rằng: “Sau khi xem xong phim Hướng nghiệp mình thấy cách kinh doanh máy tính ở đó hay quá lại sẵn kiến thức vi tính nên mình quyết định mở cửa hàng này. Đúng là nhờ phim mà nên nghiệp”. Đề tài về vấn đề gia đình luôn được sự quan tâm của các khán giả. Tục ngữ thường có câu “mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”. Do vậy khai thác về đề tài gia đình không bao giờ cạn. Và nhu cầu được xem các vấn đề về gia đình cũng không bao giờ hết. Sinh viên là lứa tuổi cũng đã có những suy nghĩ nghiêm túc về vấn đề gia đình, họ luôn mong muốn giải đáp những khúc mắc trong gia đình, bởi gia đình luôn là một phần quan trọng trong cuộc sống của họ. Không phải đâu xa họ tìm đến điện ảnh như một câu trả lời xác đáng nhất. Bộ phim phim “Của để dành” phát đi phát lại nhiều lần nhưng vẫn được các bạn yêu thích cũng vì lẽ đó. Đề tài về lịch sử cũng như về chiến tranh không được sinh viên lựa chọn nhiều (45,8% với mức độ không thích). Có lẽ là do chiến tranh đã quá xa với họ. Và nếu như bộ phim nào cũng chỉ nói về chiến tranh hay lịch sử đơn thuần mà không xen vào những câu chuyện tình yêu nào đó thì người chắc chắn rằng sẽ rất ít sinh viên lựa chọn. Bạn Lương Thành Trung, sinh viên trường đại học Bách khoa Hà Nội đã nói rằng: “Những bộ phim như thế này chẳng khác nào phim tài liệu”. Tính khô khan của những đề tài này không phù hợp với các bạn sinh viên. Sự lựa chọn chủ đề phim truyện của sinh viên Bảng điều tra về chủ đề phim truyện yêu thích của sinh viên (đơn vị:%) TT Chủ đề phim Mức độ yêu thích Rất thích Thích Bình thường Ko thích 1 Các vấn đề chính trị, xã hội 16,5 26,3 29,6 27,6 2 Các vấn đề gia đình 43,6 18,2 4,2 34,0 3 Tình bạn, tình yêu 65,5 19,3 0 15,2 4 Cuộc sống sinh viên 62,8 20,8 0 16,4 Ở đây ta cần phân biệt giữa chủ đề và đề tài phim truyện. Đề tài phim chuyện là khái niệm rộng hơn. Trong mỗi đề tài, tác giả có thể chọn rất nhiều chủ đề khác nhau.Trên đây người viết đã lựa chọn một vài chủ đề mà sinh viên thường xem để làm một cuộc điều tra. Kết quả điều tra cho thấy sinh viên vẫn yêu thích các chủ đề về tình bạn, tình yêu nhất (65,5%) bởi đó là nhu cầu cần thiết của lứa tuổi này. Người ta thường có câu “Tình yêu sinh viên”, đó là thứ tình cảm đẹp đẽ nhất tuổi sinh viên. Vấn đề thứ hai mà sinh viên quan tâm đó là cuộc sống sinh viên. Còn rất nhiều vấn đề khúc mắc trong cuộc sống của mình mà các bạn sinh viên chưa tìm ra câu trả lời thích hợp nhất. Do thế những bộ phim có đề tài này được sinh viên đón nhận rất nồng nhiệt. Bạn Lê Thị Thuý, sinh viên Đại học Văn hoá đã nói rằng: “Tớ rất thích xem phim về sinh viên như Phía trước là bầu trời, xin hãy tin em, hướng nghiệp… vì nó nói lên chân thực cuộc sống sinh viên của bọn tớ”. Các bạn tìm thấy những cảnh quen thuộc trong ký túc xá của mình khi xem phim như tranh nhau từng xô nước, nấu cơm trong phòng bị quản trị ký túc xá mắng, tổ chức sinh nhật… Các nhà làm phim như đạo diễn Đỗ Thanh Hải đã nắm bắt sâu sắc tâm lý của sinh viên và đã xây dựng rất thành công các bộ phim về sinh viên. Có bạn còn yêu quý đến mức phong là “đạo diễn phim sinh viên” cũng bắt đầu từ khi xem phim của đạo diễn. Điều đó cũng nói lên sự yêu thích xem các bộ phim có chủ đề về sinh viên của các bạn. Chủ đề tiếp theo mà sinh viên đã chọn là các chủ đề về gia đình, về chính trị, xã hội và cuối cùng là các vấn đề về con người. Sở dĩ các bạn ít chọn các chủ đề về vấn đề khác của con người vì các bạn ít quan tâm đến nó trong thời gian này. Sự lựa chọn của sinh viên đối với các yếu tố trong tác phẩm điện ảnh Các yếu tố mà người viết đặt ra ở đây là nội dung tác phẩm, vấn đề đặt ra trong tác phẩm, yếu tố nghệ thuật, diễn xuất của diễn viên và các yếu tố khác. Bảng điều tra về sự lựa chọn các yếu tố trong tác phẩm điện ảnh của sinh viên (đơn vị:%) TT Các yếu tố Mức độ quan tâm Quan tâm Bình thường Không quan tâm 1 Nội dung của tác phẩm 82,3 15,2 2,5 2 Vấn đề đặt ra trong tác phẩm 60,7 14,3 25 3 Yếu tố nghệ thuật: âm thanh, ánh sáng, quay phim… 25,2 11,6 63,2 4 Diễn xuất của diễn viên 58,0 15,7 26,3 5 Các yếu tố khác 24,2 13,0 62,8 Sinh viên quan tâm đến nội dung của tác phẩm, vấn đề đặt ra trong tác phẩm, diễn xuất của diễn viên chứ chưa quan tâm nhiều đến các yếu tố nghệ thuật trong tác phẩm. Phỏng vấn một số sinh viên thì họ đều có quan điểm rằng khi xem phim chỉ quan tâm đến câu chuyện phim diễn ra như thế nào, tình tiết ra làm sao, kết thúc ra thế nào. Cùng với sự quan tâm nội dung câu chuyện thì sinh viên chú ý đến nữ diễn viên chính, nam diễn viên chính là ai, là diễn viên đã quen mặt hay chưa gặp trên phim bao giờ. Họ thường không để ý tới các yếu tố nghệ thuật trong phim như âm thanh, ánh sang quay phim…Người viết có đem một số bộ phim nổi tiếng, được các bạn sinh viên hay xem để hỏi các bạn về tên người quay phim hay người làm tiếng động thì các bạn đều trả lời rằng không biết. Có bạn còn nói ngay rằng: “Chẳng cần quan tâm đến các yếu tố đó làm gì”. Câu trả lời của các bạn đã đặt ra một vấn đề rằng nhận thức về xem phim của sinh viên chưa sâu, phải chăng là họ còn thiếu những kiến thức về điện ảnh? Sự yêu thích của sinh viên đối với một số yếu tố nội dung có trong tác phẩm Các yếu tố có trong tác phẩm điện ảnh giữ vai trò quan trọng, tạo ra sự hấp dẫn, ấn tượng làm tăng giải trí ý nghĩa tác phẩm đối với người xem. Đó là các yếu tố vui vẻ nhẹ nhàng, yếu tố tình cảm sâu sắc, yếu tố hồi hộp, ly kỳ và các yếu tố có ý nghĩa giáo dục. Các yếu tố này còn thể hiện phong cách sáng tác của tác giả. Bảng điều tra về một số yếu tố nội dung trong tác phẩm điện ảnh của sinh viên (đơn vị: %) TT Các yếu tố trong tác phẩm điện ảnh Mức độ yêu thích Rất thích Thích Bình thường Không thích 1 Vui vẻ, nhẹ nhàng 46,8 31,5 16,9 4,8 2 Tình cảm sâu lắng 41,4 29,5 21,3 7,8 3 Hồi hộp ly kỳ 34,8 25,8 38,4 1,4 4 Có ý nghĩa giáo dục 32,8 24,6 14,2 28,4 Trong tác phẩm điện ảnh, yếu tố vui vẻ, nhẹ nhàng đem lại cảm giác dễ chịu cho người xem. Sinh viên rất thích xem những bộ phim có nội dung nhất (với mức độ rất thích là 46,8%) bởi chúng đem đến những tiếng cười sảng khoái sau những giờ học căng thẳng. Yếu tố tình cảm sâu lắng là sự lựa chọn thứ hai của sinh viên (41,4 % với mức độ rất thích). Tác phẩm điện ảnh có nội dung tình cảm sâu sắc thường làm người xem rung động, làm sống lại những ký ức hay lắng đọng trong họ những suy nghĩ sâu xa, những triết lý cuộc đời. Với sinh viên, những nội dung đậm màu sắc tình cảm, thường được họ cảm nhận nhanh nhạy và xuất hiện những rung động. Nhiều sinh viên cho rằng khi xem phim họ đồng cảm với nhân vật hay nhiều khi họ chứng kiến được những tình cảm của mình trong những hoàn cảnh tương tự. Xếp thứ ba là phim có những yếu tố hồi hộp, ly kỳ. Với mức độ rất thích chỉ có 34,8% lựa chọn; mức độ thích là 25,8%. Mặc dù yếu tố ly kỳ hồi hộp làm tăng sự hấp dấn của tác phẩm điện ảnh nhưng không phải là yếu tố đầu tiên được sinh viên lựa chọn. Xếp bậc cuối là những tác phẩm có ý nghĩa giáo dục. Sinh viên có quan niệm rằng những tác phẩm có ý nghĩa giáo dục thì thường khô khan. Một số thị hiếu không lành mạnh của sinh viên trong thưởng thức điện ảnh: Ở các quán nước gần trường, nhiều nhóm sinh viên nam tụ tập nhau và để cùng say sưa thưởng thức một bộ phim chưởng hay những bộ phim hành động Mỹ. Trong phim chưởng thì không ngớt những cảnh đánh nhau đổ máu, nhiều khi nội dung chẳng có gì nhưng sinh viên vẫn xem một cách hào hứng. Đa số các bộ phim Mỹ đều có những cuộc ruợt đuổi để sát hại nhau, những pha đọ súng tơi bời giữa đám siêu nhân đeo mặt nạ, những trận đấu tay bo, trên những tầng gác cheo leo, những cảnh vật lộn cắn xé nhau giữa trùng sóng lớn, máu đỏ hoà nước biển…Và một cách vô thức những tính bạo lực đã hình thành trong sinh viên. Nhiều vụ xô sát nhau cũng chỉ vì một nhân vật trong phim. Từ “ấn tượng bạo lực” sẽ ảnh hưởng tới nhân cách của cả một thế hệ khán giả trẻ. Ngày ngày vẫn tiếp xúc với những cuốn phim bạo lực đó thì sinh viên sẽ không có đủ thì giờ và bản lĩnh để phân biệt rạch ròi “bạo lực chính nghĩa” và “bạo lực phi nghĩa”. Phim bạo lực là một chuyện, một thị hiếu không lành mạnh nữa của sinh viên là xem những bộ phim sex, có thể gọi là những bộ phim kích dục. Trên diễn đàn www.dienanh.net, một sinh viên đã nói rằng: “Cuộc đời như giấc chiêm bao, xem phim sex cũng thấy hay hay”, và rất nhiều sinh viên cũng đồng ý như thế. Trong thế giới phim online có nguồn phim đen vô tận. Theo báo cáo của thanh tra văn hoá, tỷ lệ thanh niên xem phim đen là quá nhiều, trong đó không ít là sinh viên. Trong nhiều máy tính cá nhân của sinh viên nhất là sinh viên nam đều tải những bộ phim có nhiều cảnh mát mẻ . Những sinh viên không có máy nối mạng thì họ dùng USB để tải ở quán Internet về xem. Thậm chí, nhiều sinh viên còn ngồi ngay ở quán để xem “hàng độc” và khi bị công an văn hoá bắt được thì họ trả lời rằng: “Đó là do vào mạng tự có mà chưa kịp thoát ra”. Đây cũng là một trong những nguyên nhân lý giải rằng tại sao tình trạng “sống thử” ngày một gia tăng trong sinh viên, tại sao các vụ mại dâm của sinh viên lại ngày càng nhiều. Một số thị hiếu thấp của sinh viên trong thưởng thức điện ảnh Như trong phần chương I, người viết đã đề cập tới phân biệt thị hiếu lành mạnh và thị hiếu không lành mạnh, thị hiếu thấp và thị hiếu cao. Thị hiếu thấp không có nghĩa là thị hiếu không lành mạnh. Bởi vậy dưới đây người viết xin đề cập tới một số thị hiếu thấp của sinh viên. Sinh viên thích xem thể loại phim tâm ý tình cảm. Điều đó rất phù hợp với tâm lý tình cảm của sinh viên, lứa tuổi có đời sống tình cảm phong phú và nhu cầu tình cảm lớn. Nhưng tình cảm nhẹ nhàng chứ không phải là uỷ mỵ ướt át. Đó là những bộ phim trong đó có cảnh chàng và nàng yêu nhau nhưng vì một lý do nào đó không thể đến được với nhau, thất tình buồn chán nghĩ tới điều xấu. Những bộ phim như thế này đã lấy được không ít nước mắt của các sinh viên nữ. Bạn Bùi Thị Hiền, sinh viên Đại học Văn hoá đã nói rằng: “Tớ rất thích xem những bộ phim này nhất là khi buồn, nó phù hợp với tâm trạng của bọn tớ”. Cũng từ ý thích đó đã đem lại hậu quả khôn lường. Nhiều bạn cũng rơi vào tình cảnh như nhân vật trong phim và cũng hành động như vậy, đó là tìm đến với cái chết. Vô tình những sở thích xem phim đã làm sinh viên có tư tưởng không tích cực vào cuộc sống. Xem phim hoạt hình ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0021.doc