lời mở đầu
Chúng ta đang sống trong một thời kỳ khá sôi động của sự phát triển xã hội, dưới tác động của một nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Nhịp sống khẩn trương và sức hấp dẫn của các hoạt động nhằm mang lại lợi ích kinh tế, nhiều khi đã làm mất đi những giá trị truyền thống tốt đẹp mà bao thế hệ tiền thân đã chắt chiu, hun đúc lên, đồng thời nó phá vỡ sự cân bằng vốn có của cơ cấu vật chất - tinh thần. Di tích lịch sử văn hoá của mỗi dân tộc là nơi lưu giữ các giá trị truyền thống và nhữ
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1668 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Tìm hiểu di tích lịch sử văn hoá đền Đào Động - Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng sinh hoạt văn hoá tại các di tích là sự ôn lại truyền thống đo, hướng người ta tìm về với cội nguồn dân tộc và đưa con người ta trở về với Chân - Thiện - Mỹ. Việc nghiên cứu để bảo vệ, tôn tạo, phát huy tác dụng của các di tích lịch sử văn hoá là nhằm vào việc làm sáng tỏ cái giá trị văn hoá tinh thần của nhân dân ta góp phần vào việc xây dựng nếp sống văn hoá mới.
Từ thời xa xưa người Việt ta đã rất tin vào thần thánh. Người vùng cao thì thờ thần núi, thần hổ, người đồng bằng thì thờ thần đất, thần sông, dân vạn chài thì thờ thần sông biển. Lại có tập tục thờ những anh hùng dân tộc "Những người sinh vì tướng tử vi thần". Sự tin cậy đến mức dân đi lập nghiệp trên vùng đất mới đều thỉnh thần quê nhà đi theo làm điểm tưạ tinh thần. Mỗi khi có việc hệ trọng đều đến cúi xin thần chỉ bảo, phù trợ. Thần và người vừa cao xa, vừa gần gũi. Đôi khi dân chủ dễ tính như người cùng cảnh ngộ, không đòi hỏi, chỉ cần hai chữ "lòng thành". Chính vì thế đền, miếu nhiều như nấm, làng nào cũng có.
Đền Đào Động thuộc làng Đào Động (dân gian quen gọi là Đồng bình đọc chệch là Đồng Bằng thuộc xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình). Trong đền có nhiều cổ vật quí hiếm được trưng bày phong phú, đặc biệt nơi đây chứa đựng giá trị đặc sắc về lịch sử văn hoá và nghệ thuật.
Ngày 22/12/1986, Bộ Văn hoá thông tin ra Quyết định số 225VH/QĐ, công nhận đền Đào Động là di tích lịch sử văn hoá kiến trúc quốc gia.
Tìm hiểu về di tích lịch sử văn hoá đền Đào Động, với lòng nhiệt thành em muốn được nâng cao kiến thức, sự hiểu biết về đền nói riêng và các di tích lịch sử Việt Nam nói chung.
Tiểu luận gồm 3 chương:
Chương I: Tên gọi, vị trí địa lý và lịch sử di tích đền Đào Động.
Chương II: Giá trị văn hoá, nghệ thuật đền Đào Động
Chương III: Công tác quản lý, khai thác và phát huy tác dụng di tích đền Đào Động.
Chương I- Tên gọi, vị trí địa lý và lịch sử di tích đền đào động.
I- Tên gọi di tích.
Đề có tên là đền Đào Động thuộc xã Đào Động, tổng vọng lỗ, các sách Thái bình phong vật chí, Đại nam nhất thống chí đều chép như vậy.
Vào thời Trần, Đào Động nằm trong trung tâm căn cứ lưu vực sông hoá của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Vương. Vương sai tướng Phạm Ngũ Lão và phò mã Nguyễn Chế Nghĩa về đắp thành luỹ lập căn cứ ở thôn Đào, thôn Lãng (Đào Động), đền thờ hai ông vẫn còn, dấu vết chiến luỹ vẫn còn, đây là hậu cứ vững như "thánh đồng" nên làng Đào Động còn có tên gọi "Đồng Bình" - bức chắn bằng kim loại trên phòng tuyến chống quân xâm lược Nguyên. Vì không căn cứ vào tự dạng và nội dung chữ, các quan chức thời hiện đại (năm 1975) cho chữ Bình (bức chắn) đồng nghĩa với chữ bình (Đồng Bằng) nên tên làng ghi trên bản đồ địa chính từ năm (1975) có tên là Đồng Bằng.
Tại trước cổng đền và dốc cầu Vật (trên quốc lộ 10) có hai tấm biển bê tông đề "đề Đức vua" cách 300m và trên bảng văn cổng chính đền đề 4 chữ "Bát Hải động đình". Hai danh từ trên tuy khác nhau nhưng chung một gốc lịch sử. Từ đời Lê Trung Hưng, đạo tứ phủ phát triển mạnh, thần chủ đền Đào Động được tôn vinh là Vua cha Bát Hải trị vì thuỷ phủ là phụ thận của Mẫu Thoái, vì thế có từ đến đức Vua cha hoặc Bát Hải động đình.
II- Vị trí địa lý đền đào động.
1. Một vài nét về lịch sử chiến lược của trang Đào Động thời cổ đại và cận đại.
Theo sách Đại Nam nhất thống chí: Làng Đào Động xưa chung rẻo đất tỉnh Nam Định, thời Hùng Vương thuộc về Bộ Thang Truyền, thời tiền Lê (giữa thế kỷ X) thuộc phủ Thái Bình, thời Lý thuộc phủ Long Hưng, cuối đời Trần thuộc huyền Cà Côi, phủ An Tiêm, thời Lê thuộc tổng Vọng Lỗ, huyện Phụ Thượng, phủ Thái Bình. Năm 1969 UBND tỉnh Thái bình sát nhập Đào Động vào xã An Lễ, thuộc huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
Theo tài liệu điền dã lưu tại bảo tàng Thái Bình và tập tài liệu "hướng dẫn tham quan đền Động Bằng" của tác giả Vũ Đức Thơm cho rằng: Đào Động là một làng cổ nằm trong khu vực đất cổ phía Bắc tỉnh Thái Bình, có niên đại khoảng cuối sơ kỳ đồ sắt, cách ngày nay khoảng trên dưới 2.000 năm.
Trong tài liệu của UBND xã An Lễ trang 1 "phần mảnh đất và con người Đào Động" viết "Trên đôi bờ dòng sông Đồng Bằng xuất hiện nhiều đống, đường… đã bị phá huỷ, còn lại phế tích gạch Hán, Tuỳ, Đường". Đúng vậy, tại các địa điểm trên hiện đang bảo lưu hàng trăm tiêu bản gạch mộ hình lưỡi búa, mặt trong khắc nổi hoa văn trám lồng, rất nhiều mảnh gốm xốp với hoa văn kẻ vạch thuộc nhóm gốm Đường Cồ. Vươn khỏi Đào Động về phía Bắc từ 2 đến 5 km ta gặp nhiều mộ Hán ở các xã An Quí, An Thái tại làng Ô Cách, xã Quỳnh Xá, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Thái Bình tìm được hàng trăm mũi tên đồng, 2 mũi giáo đồng, 2 lục lạp đồng, nhiều rìu đồng được các chuyên gia khảo cổ xếp vào nhóm đồng Đông Sơn muộn lùi xuống phía biển xa thêm 7km, người ta tìm thấy nhiều mẫu gạch xây mộ cổ tương tự như trên. Có thể nói làng Đào Động được hình thành cách chúng ta ngày nay khoảng 2.000 năm, hoặc trên dưới 2.000 năm một chút.
Người công dân được ghi vào sự tích thần điển làng là ông già cất vó trên bến sông Vĩnh (có công nuôi dưỡng Thành Hoàng), tên là Nguyễn Minh. Lớp cư dân ban đầu dựa vào các cồn cao như đống Phan, đống Hưng, đống He để dựng lều trại. Nghe nói thời ấy cá he vào tận bến sỗng vì thể còn địa danh Đống He truyền đến ngày nay. Sông Vĩnh bây giờ đã hình thành song sông sâu nước cả hơn bây giờ bội phần. Hai địa bàn cư trú đầu tiên là xóm Đào (nước dậy sóng), xóm Lãng (sóng lớn). Đến giữa thiên niên kỷ thứ nhất thì dân xóm đã động, bước đầu hình thành hương Đào Động (làng đầy sóng gió).
Từ đầu triều Lý (1010), với chính sách khuyến nông của Vương triều, dân trong Đào Động có bước vươn mình, chuyển hẳn ngư nghiệp sang nông nghiệp. Sự kiện chính biến: Quách Bốc đánh chiếm kinh thành Thăng Long, gia đình Trần Lý, Trần Thư Độ, Trần Tự Khánh, Trần Liễu mộ hương dũng Long Hưng (Thái Bình) Thiên trường (Nam Định) cất quân đát dẹp, rước Lý Cao tôn về kinh, tiếp đến năm 1211 phù Lý Huệ Tôn lên ngôi, thanh thế họ Trần càng mạnh. Để chuẩn bị cho việc lớn, Trần Thị Dung mở ấp ở vùng Khuông Phù, Phù Ngự (xã Liên Hiệp). Trần Thừa đặt phủ đệ ở Tinh Cương (vùng xã Tiến Đức, bắc Hưng Hà)… Trần Liễu về tị nhậm vùng Hà Côi - Phụ Phượng (sách ngàn năm đất và người Thái Bình).
A Sào cách Đào Động 6 km xưa là bản doanh của Phụng Kiền vương Trần Liễu, ông đã xây dựng 4 trang: Đào Động, Lộng Khê, Tô Đê, ASào ven lưu vực sông Hoá, sông Vĩnh Thành 4 trung tâm kinh tế phồn thịnh được coi là: "Tứ cố cảnh triều Lý".
Từ giữa thế kỷ XIII Đào Động là địa điểm được Trần Hưng Đạo rất quan tâm. Sách ngàn năm đất và người Thái Bình chép: "Theo lệnh quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo, yết kiêu đã dưa cả đội quân thuỷ lừng danh dưới tướng về đóng ở ngã ba sông Nông (Hưng Hà)… xuôi dòng Luộc, Hoá xa hơn nữa về phía Đông lại có cả một khu căn cứ lớn của nhà Trần: Đào Động, lộng Khê, Tô đê, ASào.. phụ phượng tứ cố cảnh triều Lý,4 nơi có cảnh sắc phong quang, dân cư trú một đều được xây dựng thành nơi tập trung quân lương quan trọng. ASào với một bên là sông Luộc, một bên là sông Hoá - nơi điền trang xưa của Phụng Kiền Vương đã được lấy làm đại bản doanh chính của vịquốc công tiết chế đố. Mặt phía Bắc có tiền đồn là Lộng Khê, chệch về phía Nam cách ASào 6km là căn cứ thuỷ bộ Đào Động được giao cho Phạm Ngũ Lão - vị tướng nổi tiếng quê làng Phù Đổng (Hải Dương) cai quản và dùng làm nơi tập luyện cả hai đạo bình thuỷ và bộ"
Trên địa bàn thuộc Đào Động và xã An Lễ tìm thấy miếu ông thời điện tiền tướng quân Phạm Ngũ Lão và quân phu nhân Anh Nguyên (tưởng truyền bà quê làng này, được Trần Hưng Đạo nhận làm con nuôi, sau gả cho Phạm Tướng quân. Lại tìm được bài vị "Trần Triều phò mã đô uý Nguyễn Thế Nghĩa" Tương truyền: Phạm Ngũ Lão coi luyện quân thuỷ, Nguyễn Chế Nghĩa coi bộ, các điểm tập trung ngày xưa như: đình Rất, đình Sinh, đình Bến, đình Bơi, đình Đào đều là bến đón quân về, tiễn quân đi. Khi trừ xong giặp Bắc dân lập đình để thờ các vị quan tướng thời Trần và các vị Thành Hoàng cũ thuộc trong ấp.
Cách đền Đồng Bằng 600m hiện còn đoạn luỹ thời Trần dài 200m, có địa danh cổng Tây. Trước đây còn cổng Đông, cổng Nam, cổng Bắc.. Đào Động từng được mệnh danh là bức thành đồng, tên làng Đồng Bình có từ sự kiện này. Xuôi cần Vật 100m là cánh dầm Bà, thực ấp của Hoa đào Anh Nguyên - quận chúa, xưa là bãi đỗ thuyền của đại quân nhà Trần Cầu Vật vốn là sới vật và bãi tập của quân thánh Dực do Trần Hưng Đạo quản lĩnh, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Chế Nghĩa phụ trách. Từ niên hiệu Trung Hưng (1285 - Trần Nhân Tông) đến các triều Anh Tôn (1293 - 1314), Minh Tôn (1314 - 1329)… Để tri ân dân bình Đào Động đã nhường cơm sẻ áo nuôi quân, nhà nhà là trại lính, xóm xóm là quân doanh Trần triều phò mã Đô Uy và Phạm Điện Soái đã ưu tiên hỗ trỡ việc khẩn điền. Nhiều binh sỹ trong các quân doanh trở lại làm dâu rẻ đưa người thân về xây dựng quê mới từ đó đất đai được khẩn hoang từ các thôn: Đào Lãng, Cúi Dất…. phát triển thêm các khu: Trung, Cầu, Đông, Đào, từ đây làng Đào Đông trở thành "Đào Động bát trang" một làng giàu có nổi tiếng của lộ An Tiêm.
Trong 20 năm chống giặc Minh xâm lược, Đào Động là căn cứ lớn của tướng Phạm Bội (quê xã An Bài cách Đào Động 2km). Trai làng nổi tiếng bởi tinh thần dũng cảm trung thành. Năm 1417 gần 100 trai làng đã theo thủ lĩnh Phạm Bội vào Lam Sơn tụ nghĩa dự lễ thề Lũng Nhai, theo Bình Định Vương 10 năm đánh đuổi giặc Minh.
Dưới triều Mạc Mậu Hợp, Đào Động và Tô Xuyên là hai tiền đồn quan trọng của phòng tuyến Đông Quynh - chạy từ Quỳnh Phụ sang Hưng Hà của binh bộ thượng thư Vũ ảm.
Trong phong trào Cần Vương chống Pháp, gần 100 dân binh Đào Động đã giúp Đôi chuẩn xây đồn cổ tiết, giữ phía Tây Cầu Vật thuộc làng, cùng đội Duẫn xây đồng Vũ Hạ (xã An Vũ) giữ ngã tư môi tại phía đông làng, nhiều lần đánh trả quân tuần tiễn nguỵ quyền các đồn Quỳnh Côi, Thuỵ Anh góp phần bắt sống và giết bang biện Nam triều Mai Đức Văn.
Ngay từ những năm 30 thế kỷ 20 dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam Đào Động đã có sở sở cách mạng.
Năm 1950, quân Viễn Chinh Pháp sử dụng khu đình Chợ làng Đào Động làm phủ lỵ huyện Phụ Dực, đóng bốt tại cầu Nghìn (An Bài), ngã tư Môi (An Vũ), chợ Đình, Cầu Vật (Đào Động) với số trên 1.000 lính quân dân Đào Động bám đất chiếm đến cùng. Ngày 23/6/1954 du kích xã đã cùng bộ đội tiểu đoàn 64 đại đoàn Đồng Bằng hạ bốt Cầu Vật, bao vây bức bốt quận (chợ Đồng Bằng) phải bỏ tháo chạy về Setơ Kiến An.
Trong kháng chiến chống Mỹ, trên 200 thanh niên Đào Động lớp lớp tòng quân. Tại địa phương trung đội trực chiến của thôn đã kết hợp với bộ độ huyện chiến đấu bảo vệ Cầu Vật trên quốc lộ 10 và ngày 20/8/1979 đã bắn rơi máy bay phản lực Mỹ được Quốc hội tặng huân chương chiến thắng hạng II.
2. Vị trí địa lý đền Đào Động.
Đào Động nằm giữa lưu vực sông Hoá và sông Đại Lẫm, ngược lên phía Bắc gặp sông Luộc ở khu vực Tuần Tranh (Ninh Giang), ngược về phía Tây 18km là cửa Hải Thị, tiếp vào sông Hồng, xuôi về phía Đông 7km gặp sông Thái Bình tại Cầu Xe. Theo dòng sông Hoá có đường ra cửa sông Thái Bình, theo dòng Đại Lẫm hợp với sông Diêm đổ ra cửa Trần (tức cảng Diêm Điền). Khách từ kinh thành có thể theo sông Hồng vào cửa Hải thị về sông Đại Lẫm, khách từ đông Bắc theo sông Thái Bình xuống ngã ba Cầu Xe xuống Tuần Tranh voà sông Hoá để đến Đào Động đều thuận lợi.
Khách từ mạn biển hoặc theo cửa Thái Bình qua sông Hoá hoặc cửa Diêm Điền qua sông Diêm đếu có thể đến tận sân đền Đồng Bằng. Năm 1910, người Pháp mở quốc lộ 10 từ Ninh Bình qua Nam Định sang thị xã Thái Bình, đi thị xã Kiến An và thành phố Hải Phòng, đường quốc lộ kề sát cạnh đền Đồng Bằng, việc giao thông đi lại về đền càng thuận tiện. Đền sát cạnh Cầu Vật cách thị xã Thái Bình 20km, cách thành phố Hải Phòng 70km, cách thị xã Kiến An 59 km.
III- Lịch sử di tích đền đào động.
1. Niên đại xây dựng đền.
Theo truyền thuyết đền là phủ đệ của thuỷ thần Vĩnh Công đại vương trấn Tam Kỳ giang linh ứng đại vương, có công phù vừa Hùng Duệ Vương dẹp loạn. Ngày 26/8 năm Mậu Thìn đời Duệ Vương ông tạ thế, vua cho tiền sửa sang phủ đệ thành đền miếu cho dân phụng thờ.
Đền thời Lý đền được củng cố, sách "Ngàn năm đất và người Thái Bình" xếp đền là "Một trong 4 tứ cổ cảnh triều Lý". Đến thời Trần đền miếu lộng lẫy, uy nghi. Điện tiền Phạm Ngũ Lão ngợi khen "Đây là cõi thần tiên nhất nước nhà".
Sang thời Lê, đền đã có đủ năm cung để đủ chỗ thờ Vĩnh Công đại vương và bốn ban công đồng tứ phủ (được đưa vào thờ).
Năm Thành Thái kỷ sửu (1889) được sự đỡ đầu của Thái Tử thiếu bảo Hoàng Trọng Phu, dân Đào Động mở rộng quy mô đền rộng 6000m2. Năm Khải Định thứ 9 (1925) có sự bảo lãnh của uỷ viên hội đồng tỉnh Thái Bình, Nghị viện dân biểu Bắc kỳ (chức vụ này đến 1937 mới bẩu), một điền chủ lớn ở phủ Kiến Xương là Phạm Luận đã sửa toà cấm điện từ kiến trúc hồi văn thành phương đình chồng diêm.
Trận bão tháng 9/1983 làm đỏ toà Phương Đình trên. Tháng 8/1984 bảo tàng Thái Bình kết hợp với UBND xã An Lễ đã phục hồi toà cấm này theo phong cách hồi văn mái chảy như trước năm 1926.
Kiến trúc ngày nay của đền Đào Động gần như giữ trọn vẹn lần đại tu cuối cùng năm 1889.
2. Đền Đào Động thờ thuỷ thần Vĩnh Công Đại Vương.
Sách Đại Nam Nhất Thống Chí (tập III, NXB Khoa học xã hội). Phần tỉnh Nam Định, mục linh tích, chép: Đền Đào Động thuộc tổng Vọng Lỗ, huyện Phụ Dực thờ thuỷ thần Vĩnh Công Đại Vương, tương truyền là thái tử long cung giáng sinh ở Đào Động phù vua Hùng Duệ Vương dẹp loạn, sau hiển thánh được dân làng thờ. Phàm trong vùng có hạn hán, hoàng trùng, dịch bệnh … dân đến kêu cầu, đảo vũ… đều rất linh nghiệm….
Sách Thái Bình phong vật phú cũng chép tương tự.
Cuốn "Vĩnh Công Đại Vương - Hùng Triều Công Thần" do người quản giáo bách thần, Đông Các Đại học sỹ Nguyễn Bính viết:
"…. triệu tổ nước Việt ta khởi tử Lạc Long Quân, con trai vua Kinh Dương Vương, cháu ngoại vua Thần Nông, trị vì nước Sích Quỉ. Lạc Long Quân đi tuần thú phương Nam, tới hồ Động Đình, gặp tiên nữ Âu Cơ, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra 100 người con trai. Một hôm Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng: ta là vốn Rồng, nang là giống Tiên, thuỷ hoả tương khắc, khó cùng ở lâu bền. Nay ta chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo ta xuống biển là việc lớn lâu dài, đoạn chia tay dắt 50 con xuống biển. Người con trưởng làm vua nước ta, đó là vua Hùng Vương đặt tên nước ta là Văn Lang, dựng đô ở Phong Châu, xây điện trên núi Ngũ Lĩnh, chọn người tài giỏi chia thành hai ban văn võ trị vì, phù truyền tử kế 18 đời, đều xưng hiệu Hùng Vương…
Vào đời Hùng Duệ Vương, tại trang An Cố, tổng Bình Lãng, huyện Thuỵ Vân (sau đổi là Thuỵ Anh nay là huyện Thái Thuỵ) có một người tên là Phạm Công, tinh tường nho, y, lý, số, làm nghề dạy học, sắc thuốc lấy vợ người làm Mai Diêm (nay là xã Thuỵ Hà, huyện Thái Thuỵ) họ Trần tên Lưu. Nhà này vợ chồng sống hạnh phúc, thích làm việc thiện như: góp tiền đúc chuông, tô tượng, sửa chùa không bao giờ thích cúng tiền, luôn giúp người nghèo, cho cơm kẻ đói…. chỉ hiềm một nỗi ngoài 40 tuổi mà chưa có con nên tâm trạng nhiều lúc rất buồn. Ông bà thường rủ nhau đi lễ các đền phủ lớn hoặc chu du các danh lam cổ tích và càng hết lòng chăm lo việc phúc….
Một hôm ông bà vãng cảnh trang Đào Động, bỗng gặp một cô gái đến vái lạy, thưa rằng: "Con là kẻ tha hương, cha mẹ mất sớm, không nơi nương tựa. Nay gặp ông bà hiền đức xin động lòng thường, cho con được về hầu hạ" Phạm Công, Trần Thị ngoảnh nhìn thấy thiếu nữ hình dung yểu điệu, tư chất thông minh, nói năng phải đạo… liền nhận đưa về nhà nuôi, đặt tên là Quí Nương.
Quí Nương càng lớn càng xinh đẹp, mặt hoa da phấn, mắt phượng mày ngài, tư chất thông minh, công dung ngôn hạnh đều đẹp. Một nhà hoà hiếu vui vầy.
Một hôm Quí Nương ra bãi biển tắm gội, trời đang xanh trong, bỗng nhiên trở gió, mua bão ầm ầm, chớp giật sấm rền và có một thần Giảo Long thần dài 8 thước (3,2m) hiện hình cuộn lấy Quí Nương 3 vòng. Lát sau, trời quang mây tạnh, Quí Nương tỉnh dậy vội trở lại nhà, từ đó trong người chuyển động và tự mang thai, ở nghén 13 tháng. Đến kỳ mãn nguyệt khai hoa, thẹn nỗi không chồng có con, Quí Nương ra biển trở dạ sinh đẻ một mình, sinh ra một bọc máu đỏ, nang hoảng hốt đẩy bọc kia xuống biển. Hôm ấy là ngày 10 tháng giêng năm Đinh Tỵ (rắn có tài). Điềm trời xui khiến gặp lúc triều dâng đưa bọc thiêng vào sâu trong nội đồng.
Thời bấy giờ ở trang Đào Động có một ông già nghèo khó, đức hạnh tên là Nguyễn Minh làm nghề đánh cá bên sông. Đêm ấy buông vó đã sang giờ Tý (nửa đêm) mà không bắt được con cá nào. Mãi quá nửa đêm kéo vó thấy nặng, cố kéo lên thì thấy một bọc đỏ như máu, ông già sợ quá dùng sào đẩy ra, lát sau cất lên lại gặp bào thiêng, ông già càng sợ, lại dùng sào đẩy bào ra xa. Đến lần thứ ba vẫn gặp bào thiêng, già Nguyễn Minh vái lạy rằng: Nếu là điềm trời báo ứng, thánh chỉ thần đưa…. xin linh bào tự phanh xuất cho con dân được tỏ. Tức thì một tiếng sấm động trời, hương thơm toả ngát, ánh sáng chói loà, bọc thiêng tự nứt đôi sinh 3 thần xà. Đệ Nhất Xà ở lại Đào Động, Đệ Nhị Xà xuôi sông Đào Động về Ngự tại trang Thanh Do (nay là xã Thuỵ Thanh, huyện Thái Thuỵ), Đệ Tam Xà về với mẫu thần ở Hoa Diêm.
Biết điều kỳ là đêm qua, hương lão Đào Động sáng hôm sau đều đến thảo xá Nguyễn Minh, thấy long xà hùng dũng, tất cả bái lạy, tôn là linh xà, xin phép được nhận làm thần tử.
Từ khi Đệ Nhất linh xà ngự cử Đào Động, dân chúng đánh lưới nhiều cá, cất vó nhiều tôm, công việc làm ăn thuận lợi.
Ngày tháng thoi đưa kể đến vài năm, một hôm thần xà vái lạy dưỡng phụ (Nguyễn Minh) thưa rằng: "Ta vốn là hoàng tử Đức Long Vương ở biển Nam Hải vâng lệnh Ngọc Hoàng đại đế giáng vào cửa ngươi để thưởng công cho người hiền đức. Nay mai nước nhà có loạn lớn, vâng lệnh vua cha nay phải về thuỷ cung để luyện thuỷ quân dùng vào việc lớn về sau".
Triều hùng trị vì nối tiếp 17 đời. Đến đời vua Hùng Duệ Vương, vua sinh hạ toàn con gái. Trưởng công chúa đã gả cho thần núi Tản viên, thứ công chúa Tiên Dung chỉ thích du sơn, du thuỷ, sau theo chồng là Chử Đồng Tử về trời, vua hội đình thần truyền ngôi cho Tản Viên sơn thánh.
Bấy giờ có người cháu ngoại vua Hùng, họ Thục, tên Phán nghe tin vua định truyền ngôi cho phò mã, quên mình là cháu thì giận lắm liền chiêu mộ binh tướng, lại mượn quân nước láng giềng…. quân Thanh lững lẫy, chia thành 5 đạo từ các chấn hùng dũng tiến đánh Hùng Vương. Các tướng biên thuỳ chống cự không nổi đều dâng biểu xin cứu viện. Vua cho thêm tướng giỏi, quân đông đi cứu nguy, vẫn bị thua trận, nguy càng nguy gấp.
Hùng Vương cho lập đàn cao tế cáo trời đất, bách linh bách thần, đến giờ Tý ngày thứ 3 mơ thấy sứ giả nhà trời cưỡi mây hạ đàn bảo rằng: "Vận hội nhà Hùng chưa hết, nếu triệu được thần núi Tản Viên, thuỷ thần làng Đào Động hợp sức mà đánh thì quá 1 tuần là yên".
Đức vua tỉnh dậy, một mặt sai sứ đi triệu Tản Viếnơn thành, một mặt cử sứ xuống vùng biển về Đào Động trang để vời đức thuỷ thần. Sứ giả vừa tới đầu trang ấp (chỗ Tam Kỳ gặp sông Đào Đông - bến cửa Vĩnh) thì thấy gió mưa thét gào, đầy trời sấm chớp, nước cửa Vĩnh gầm lên, nước sông Tam Kỳ cuộn sóng và một thuỷ thần cưỡi sóng giữ nói lớn: "Ta là thuỷ thần sông Vĩnh, tự là Vĩnh Công chờ sứ giả ở đây" sứ giả vui mừng khôn xiết rước thần về kinh đô. Vĩnh Công triệu vương lão, trai tráng Đào Động chọn lấy 9 chàng trai khoẻ nhất sung làm gia thần thủ túc, lại cùng sứ giả xuống xuống Thanh Do, Mai Diêm đón đệ nhị linh xà, đệ tam linh xà về kinh bái yết vua. Vua Duệ thấy 3 ông, thân người đầu cá, dáng vóc như rồng, tiếng nói như sấm, lực địch vạn người, bàn mưu tính kế như thần thì cả mừng; phong thần Tản Viên là tướng tiên phong lo đánh các đạo sơn lâm. Vĩnh Công và nhị vị linh xã làm trung quân lo việc lấy quân vùng biển Sơn Nam và ái Châu để đánh vùng ven biển và hải đảo, lại cử thêm 1.000 tướng lĩnh, 12 vạn hùng binh theo 2 ông đánh giặc. Thần Vĩnh Công làng Đào Động và nhị vị long xà đi đến đâu, các loài ba ba, thuồng luồng và muôn trùng thuỷ tộc đều theo sóng cồn cùng kéo ra đảo, chỉ đánh vài trận quân Thục phải qui hàng. Phía vùng rừng núi, thần Tản Viên đưa cả hùm, beo, gấu ra trận, giặc khiếp đảm mà chết. Hai ông làm biểu tiếp báo về kinh, vua cho quân hai đạo được ca khúc khải hoàn.
Trong lễ mừng công, Vua Duệ Vương phong đức Vĩnh Công là thượng đẳng công thần, Vĩnh Công và các em vái tạ ơn vua không nhận chức tước, chỉ xin xá hết tô, binh, tạp dịch cho dân trang Đào Động để trả nghĩa tình mảnh đất và con người đã gắn bó với ông. Vua Hùng chuẩn tấu. Thần Vĩnh Công về Đào Động, tổ chức yến tiệc linh đình khen thưởng nam phụ, lão ấu. Thưởng công cho 9 gia thần thủ túc làng Đào theo mình xông pha trận mạc. Từ đó ông và dân Đào Động tình như cha con. Thần dạy dân cấy lúa trồng dâu, chăn tằm dệt lưới, dân làng Đào Động ngày càng no dư, xóm dưới làng trên luôn tiếng hát hò.
Lưu tại Đào trong vài tháng Vĩnh Công trở về phụng dưỡng song thân. ít lâu sau song thân qua đời, Vĩnh Công lo việc tang lễ chu đáo, phúng lễ 3 năm. Sau ngày đoạn tang, thần lại về Đào Động trang ở với dưỡng phụ, thọ trên 100 tuổi.
Một hôm, Vĩnh Công vời hương lão đến nhà dặn rằng: "Ta cùng các vị là dân lân dân ấp, ăn ở với nhau tình như ruột thịt, nghĩa như cha con. Nay ta vâng mệnh phải về hầu vua cha Long Vương, may ngày có nhớ đến ta thì lấy nhà ta đây là miếu sở, ngày ta ra đi làm ngày giỗ". Hương lão tất cả nức nở, bùi ngùi không nỡ chia tay, bỗng trời đất tối sầm, sấm chớp dữ dội, lát sau trời quang mây tạnh, chỉ còn lại áo xiêm của thần. Hôm ấy là ngày 25/8/Mậu Thìn. Dân lòng dâng biểu về kinh Vua Hùng Duệ Vương thương sót ban phong mỹ tự; chấn Tam Kỳ giang linh ứng, Vĩnh Công đại vương, Bát Hải Động Đình, lại cấp cho dân Đào Động 400 quan tiền, lo việc tang lễ, tu sửa lều tranh của thần Vĩnh Công thành miếu điện; hạ sắc miễn thuế cho dân, lấy lộc ấy thờ thần. Điểm lệ ấy truyền qua các đời, vì thế mà điện thần ngàn năm hương lửa không bao giờ tắt.
3. Đền Đào Động thờ công đồng tứ phủ.
Trên bảng văn trước đền Đào Động đề 4 chữ lớn: "Bát Hải Động Đình" - đình làng thờ Bát Hải, cũng có thể hiểu là nơi ngự của vua cha Bát Hải. Theo quan niệm của một số tín đồ ảnh hưởng đạo giáo cho rằng: Cõi trời là nơi ngự trị của vua cha Ngọc Hoàng. Cõi âm phủ do vua cha Diêm Vương trị vì, cõi sông biển do vua cha Bát Hải.
Mẫu Thoải là công chúa, con vua cha Bát Hải, các hương lão làng Đào Động còn nhớ một câu chuyện truyền kỳ : mẫu là người chuẩn mực của sự hoàn mỹ : mặt hoa da phấn, mắt phượng mày ngài, đức đủ công dung ngôn hạnh, có tài cầm kỳ thi hoạ được phụ vương cho thị nữ Tiểu Mai theo hầu. Thấy cảnh trần gian tươi đẹp, bà nhiều lần hoá thành nữ khách đi du lang các nơi danh lam Đại Việt. Một lần gặp được trang nam tử khôi ngô tuấn tú, đó là tiến sỹ Trương Kính Xuyên. Hai người đọc thơ, ngâm vịnh, tâm đầu ý hợp liền kết nghĩa tào khang; vợ chồng từng một thuở hạnh phúc. Thế rồi Tiểu Mai điêu ngoa đơm đặt nói xấu long cung công chúa, kính xuyên tin lời đầy đoạ nàng nơi sơn cùng thuỷ tận, sống với vườn trúc, rừng mai và chim muông cầm thú, phải ăn quả rừng, uống nước suối … May gặp tú tài Liễu Nghị tận tình đưa thư về thủ phủ. Vua cha sai Thái tử đem kiệu đón công chúa về, sai Xích Lân bắt Kính Xuyên, Thảo Mai trị tội, lại gả công chúa cho Liễu Nghị và phong cho công chúa chức Mẫu Nghi Thoải phủ, lưu cạnh bên điện vua cha.
Sự tích ấy mấy ngàn năm không ai biết tới, mãi đến khi bà Lê Thị Liễu Hạnh là cung nga hầu cận Ngọc Hoàng vì đánh vỡ chén quỳnh bị vua cha Ngọc Hoàng giáng vào cửa họ Lê làng Vân Cát, huyện Vụ Bản, phủ Thiên Trường kể lại, dân Đào Động mới hay chuyện cũ, tích xưa, liền tả bị thần vị, lập cung thờ. Rước thánh mẫu Thoải thờ bên cạnh đức vua cha.
Khi mà Mẫu Thoải được hội nhập vào đền Đào Động thì tam toà thánh mẫu: Thiên Phủ, mẫu thượng ngàn cũng có mặt trong thần điện vua cha Bát Hải.
Khoảng từ niên hiệu Vĩnh Tộ, Đức Long, Dương Hoà… Thịnh Đức, triều Lê Thần tôn (1619 - 1662) chùa chiền mọc thiêm như nấm.
Tại trang Đào Động ngoài chùa Đào, dân bản xã lập thêm chùa Đồng Ông , chùa Đoài, có đủ tam bảo, chùa ông Hộ, ban phủ Mẫu Liễu. Đây cũng là thời kỳ Đào Động hồi sức sau nội chiến Nam Bắc triều, có điều kiện tu bổ mở rộng đền, lập thêm cung thờ từ vị Chầu Bà, Ngũ vị tôn ông, Tứ phủ quan hoàng, lập ban cô, ban cậu. Thế là đền làng Đào Động chính thức được tôn vinh là vua cha Bát Hải (phụ vương Mẫu Thoải). Từ đây Đào Động có danh nghĩa: Một trong những nôi sinh của đạo Mẫu. Đền Đào Động là chính từ của Mẫu Thoải.
Chương II: Giá trị văn hoá nghệ thuật
đền đào động
I. Nghệ thuật kiến trúc Đền Đào Động
1. Thế đất Đền Đào Động
Trước tiên ta tìm hiểu về thế đất làng Đào Động. Làng Đào Động là tâm điểm khu vực 9 sông khu vực hạ lưu sông Thái Bình phía Bắc có sông luộc, sông vĩnh, phía Đông có sông Hoá, sông vĩnh Bảo phía Nam có sông Diêm sông Lô, phía Tây có sông Đại lẫm Sông Tiên Hưng, trực tiếp vây bọc bởi sông vĩnh, sông Lẫm, sông Cô. Các thầy phòng thuỷ gọi là đất: Cửu Long quần thực, trên thực tế là vũng đất trũng, một vùng như trường “ Ba đào thuỷ động” được coi là nơi tụ hội linh khí của trời đất từ thời trần.
Đền Đào Động mở hướng Tây Nam, toạ lạc trên một triền đất cao rộng 20.520m2 (5 mẫu 5 sào Bắc Bộ) tự lưng vào sông vĩnh và 3 gò lớn: gò Đồng Hưng, gò Voi Phục, gò Ông He (cá he) trước mặt là sông Lẫm, xa hơn là Đầm Bà. Bên tả có trại Cúi, bên hữu có trại Cầu: gò đống lô xô chính giữa đền có giếng thiêng mnạh ngầm chẩy ra tận sông Đào Động. Tương truyền ai có lòng thành kinh được vào cung kêu cầu, thả lòng xuống giếng thiêng, nửa canh giờ sau bưởi chui qua lòng trôi trước cửa đền. Đố là miệng rồng. Thầy địa lý phán đây là mạch đất “ Cửu long quần thực, tiền tụ thuỷ, hậu tam sơn, tả Cúi, hữu Cầu, địa linh nhân kiệt, nhanh đăng bất tuyệt, phúc mãn thiên niên”.
Theo cụ già làng Đinh Văn Thiếp (sinh năm 1901) những kiểu đất trên là do cụ Tả Ao khi đi qua đền nói cho dân biết. Chuyện đó chưa tường hư thực. Xét các gò Đồng Ông Đống Hưng đều có mộ Hán, không rõ xưa vẫn là cồn, người Tầu lợi dụng đất ấy đặt mộ hay do con người sau khi đặt mộ trở đất đắp cao. Song dù sao cảnh đền quả có đẹp, phía trước mặt cạnh vườn là sông Đại Lẫm như dòng xà giang chảy qua, phía Bắc, phía Đông là sông Vĩnh uốn lượn như dải lụa nối vào sông cô Lạo thành 9 khúc, chia 2 ngả đổ vào sông Hoá và sông Diêm, xuôi ra cửa Trần và cửa Thái Bình. Phía nam đều là Cầu Vật và quốc lộ số 10 nối với thị xã Thái Bình, thành phố Nam Định, tỉnh lỵ kiến an , thành phố Hải Phòng. Giao thông thuỷ bộ đều tiện lợi.
2. Tổng thể kiến trúc đền Đào Động.
Đền Đào Động gồm 16 toà nhà lớn, cộng 82 gian. Nếu kể cả khu vực nhà bếp và công trình phụ thì tới 18 toà 100 gian xây dựng trên diện tích 2.000m2. Trừ cung điện nhà Vua và một vài chùa lớn như Ninh Phúc Tự (Bút Tháp, Hà Bắc) Thần Quang Tự (keo Thái Bình) có số toà, số gian trên dưới 100 gian... còn cả nước không có đền phủ nào to rộng, sánh với ngôi đền này.
Quần thể kiến trúc đền chia thành 4 tiểu khu, phía trước là 3 toà Đại Tiền Môn, tả hữu gồm 6 toà. Nhà lính (dành cho lính về gác trong hội đền) hành lang tả hữu, phía sau là 2 toà của thủ tự và nhân viên trị sự. 3 khu vực trên bao quanh 7 cung thờ thánh như khuôn viên chữ quốc lấy tim toà Trung Môn và Cấm Điện làm trục thần đạo, đền xây dựng đối xứng từng vì, từng toà. Khu vực trung tâm cao đẹp, khu vực ngoại biên và hành lang khiêm nhường liên kết thành một tổ hợp kiến trúc chặt chẽ, nổi bật điểm sáng mới Thờ Tự, dẫn dắt khách lễ qua đúng cửa từ thấp đến cao, từ cửa trình cô, trình cậu rồi vào cửa Công Đồng, qua tứ phủ Quan Hoàng rồi lên cửa chầu Bà, Tôn Ông. Nơi thân nghiêm nhất là cửa Mẫu và điện Vua Cha.
Khách tham quan có thể vào cửa tả ra cửa hữu, vào cổng, Đông ra cổng Tây thuận đường cửa đông đi tiếp các đền đài từ quan lớn Đệ nhất đến quan Lớn đệ Bát...
Nhà đến có 40 gian hành lang cho khách sắp lễ, tề chỉnh khăn áo (khi đến tế lễ, dự hội đền), rồi từ hành lang theo các mạnh vào 6 phủ dâng lễ. Lại có 3 gian nhà lính án cửa tả cạnh đền giám sát khách ra vào, có nhà thường trực trên trục sấn hành lang tả tiện việc giao dịch. Tổng thể kiến trúc đều vừa đẹp vừa khoa học, tôn được sự thiêng liêng thần điện.
3. Nghệ thuật kiến trúc cổng đến.
Từ trục thần đạo vào đến Đào Động có thể theo 3 công đó là Đại Tiền Môn (3 toà cổng chính), Đông Mô và Tây Môn. Đại Tiền Môn là cổng dẫn vào chính tâm cửa đền. Đông Môn dẫn khách vào hành lang Tả, Tây Môn dẫn vào hành lang bên hữu. Theo duy tâm ( và cũng vì thuận đường từ quốc lộ 10 vào). Vào cổng Đông ra cổng Tây là thuận đạo, phải phép, được lộc ( và cũng là lối ra đi lễ các đền khác như Đình Sinh, đền quan lớn Đệ Tam, Đệ Ngũ, Đệ Thất, chùa Tây..).
Hai cổng Đông Môn và Tây Môn
Đi từ dốc cầu vật, men theo 300m đường láng nhựa theo sông Đại Lẫm tới một sân lớn, giữa đào hồ tròn đường kính 16m chung quanh xây gạch, giữa hố đắp núi ngũ nhạc. Bốn mặt trồng cây cảnh và hoa bốn mùa. Phía Đông là đường lớn rẽ vào cổng Đông, phía Tây là đường lớn rẽ vào cổng Tây, gặp sân cổng rộng gần 2 sào Bắc Bộ, rẽ vào trung tâm là tới Đại Tiền Môn.
Kiến trúc hai toà cổng này khá đơn giảm. Đó là hai cột trụ rộng, trên đắp trụ đấu vuông 2 tầng. Cánh gà một bên ăn vào tường sân đền, một bên bắt vào hồ hành lang, phía trong phát triển cửa cuốn tò vò, trên trán xây một biển văn, đỉnh đắp văn hiệu, thành trên bên dưới soi chỉ mớ thành một bẳng văn. Trụ cột công soi chỉ kép, dưới đắp tảng vuông, 2 mặt sau cẩn cầu đối chữ Hán, Bảng văn cổng phía Đông đề 2 chữ lớn “Tả Môn” cổng Tây đề 2 chữ “ Hữu Môn”. Cả hai cửa đều lắp 2 cánh gỗ kiểu thượng sơn hạ mặt dưới bưng kín, sơn son, trên chạy song con bài.
Cổng chính: Đại Tiền Môn
Đại Tiền Môn gồm 3 ngôi lầu lớn trải dài 24m, lòng rộng 2m trung môn cao 8m (sấp sỉ nhà 3 tầng ), tả môn cao 6m. Riêng 2 cột đồng trụ góc cánh gà cao tới 5,6 m, gương tảng thứt cổ bông cao 1,08m mỗi mặt rộng 1,2m phần quả găng cao 2,4m, bền mặt mỗi chiều rộng 1m tạo dáng đứng vững chãi, bề thế không đâu có bằng.
Toà Trung Môn hùng dũng như cổng toà thành lớn, tầng thượng xây kiểu Mon đình, 3 toà, 10 mái, cao 3m, dài 3m, lòng rộng 1,2m. Mái tầng thượng đắp ngạc long ngậm đại bờ, góc bờ cánh đắp nghé hý cầu, đạo hay chỉ kép. Cả 3 toà đều bổ trụ đấu, cửa cuốn vòn. Bảng văn tầng thượng đắp 2 chữ lớn Thuân Thiên” bảng văn tầng cửa dưới đắp 4 chữ lớn “ Bát Hải Động Đình”
Phần thân cổng xây 4 trụ lớn: cao 5m bản rộng 0,6m trên chạy bao hơn hoa, dưới cuốn vòn trổ cổng rộng 2,4m cao 3m, đủ tầm cao khi rước kiệu không cần p._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35146.doc