Tìm hiểu công tác kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần công nghiệp tàu thuỷ Nam Hà

Tài liệu Tìm hiểu công tác kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần công nghiệp tàu thuỷ Nam Hà: PHẦN I MỞ ĐẦU 1.1.Tính cấp thiết của đề tài Trước năm 1986 khi nền kinh tế nước ta còn là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, trong hệ thống lý luận cũng như thực tiễn về kế toán người ta chỉ sử dụng duy nhAất khái niệm “kế toán” để nói về hệ thống kế toán doanh nghiệp. Hiện nay, kinh tế đất nước đã và đang phát triển mạnh mẽ theo xu hướng đa dạng hoá các thành phần kinh tế, đặc biệt là có sự tham gia của các công ty liên doanh, công ty cổ phần, công ty có vốn đầu tư nước ngoài… làm cho hệ ... Ebook Tìm hiểu công tác kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần công nghiệp tàu thuỷ Nam Hà

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1389 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tìm hiểu công tác kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần công nghiệp tàu thuỷ Nam Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thống kế toán trong các doanh nghiệp đã ít nhiều có sự thay đổi nhằm đảm bảo thực hiện được vai trò quan trọng của nó. Xuất phát từ những yêu cầu của thực tế, đòi hỏi kế toán không chỉ cung cấp những thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp mà còn phải cung cấp thông tin về chi phí, giá thành, doanh thu và kết quả của doanh nghiệp để các nhà quản trị doanh nghiệp có kiểm tra, ra quyết định về giá cả, đầu tư và lựa chọn phương án sản xuất. Chính vì vậy kế toán quản trị đã ra đời và tồn tại cho đến nay như một tất yếu khách quan. KTQT nói chung và KTQT về chi phí, giá thành nói riêng trong các doanh nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt trong việc thiết lập hệ thống thông tin một cách chi tiết phục vụ cho việc điều hành và quản lý nội bộ doanh nghiệp. Tuy nhiên, do đặc thù về hoàn cảnh ra đời cũng như mục đích trong việc cung cấp thông tin, cho đến nay khái niệm về KTQT nói chung và KTQT chi phí, giá thành nói riêng vẫn còn là một vấn đề tương đối mới mẻ trong hầu hết các doanh nghiệp. Điều này cho thấy công tác về quản trị trong hệ thống kế toán ở nước ta còn chưa thật phát huy được vai trò của mình, đòi hỏi các nhà quản lý doanh nghiệp phải luôn có cái nhìn đúng đắn để có thể sử dụng thông tin một cách hữu ích nhất và ra quyết định một cách chính xác nhất. Việt Nam là một nước có lợi thế rất lớn về địa lý, nằm ngay trên trung tâm đường hàng hải quốc tế nên dễ dàng giao lưu kinh tế với các quốc gia trên thế giới, đặc biệt nước ta còn có tới trên 3.200km đường bờ biển, 12 cửa sông và nhiều cảng lớn (Hải phòng, Đà Nẵng, Cái Lân…) đáp ứng đủ tiêu chuẩn quốc tế và hơn 2 triệu km2 thềm lục địa, 4 triệu km2 mặt nước, do đó công nghiệp chế tạo, đóng mới tàu thuỷ nước ta lại càng có điều kiện phát triển mạnh.Tuy nhiên, công cuộc cải cách kinh tế cùng sự hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam đã đặt ra một thách thức to lớn đối với nhà máy đóng tàu trong nước, đòi hỏi toàn ngành phải nâng cao năng lực và khả năng cạnh tranh. Công ty CPCNTT Nam Hà là công ty đóng mới sửa chữa tàu thuỷ thuộc Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam. Để kịp được sự phát triển và sự phát triển của ngành tàu thuỷ nói riêng, Công ty cần phải có chính sách và những bước đi vững chắc, hiệu quả làm cơ sở cho sự tăng trưởng cũng như sự phát triển vững mạnh của Công ty.  Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu công tác kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần công nghiệp tàu thuỷ Nam Hà”. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 1.2.1. Mục tiêu chung Tìm hiểu công tác KTQT chi phí, giá thành tại Công ty cổ phần công nghiệp tàu thuỷ Nam Hà, từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác KTQT chi phí, giá thành tại Công ty. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể - Trình bày các vấn đề lý luận và cơ sở thực tiễn về KTQT chi phí, giá thành - Tìm hiểu công tác KTQT chi phí, giá thành tại Công ty cổ phần công nghiệp đóng tàu Nam Hà. - Đánh giá thực trạng KTQT chi phí, giá thành tại Công ty. - Đề xuất một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác KTQT tại Công ty cổ phần công nghịêp tàu thuỷ Nam Hà. 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu trong đề tài là công tác quản trị chi phí sản xuất, giá thành tại Công ty cổ phần công nghiệp tàu thuỷ Nam Hà. 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu - Nội dung: Đề tài đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu về tình hình công tác KTQT chi phí, giá thành tại Công ty cổ phần công nghiệp tàu thuỷ Nam Hà. - Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu tại Công ty cổ phần công nghiệp tàu thuỷ Nam Hà. - Phạm vi thời gian: + Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 1/2009 đến hết tháng 4/2009. + Số liệu sử dụng trong đề tài được thu thập trong phạm vi 3 năm 2006 – 2008 và kế hoạch năm 2009. PHẦN II TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Tổng quan tài liệu 2.1.1 Tổng quan về kế toán quản trị 2.1.1.1 Khái quát và mục đích của kế toán quản trị 2.1.1.1.1. Khái niệm về kế toán quản trị Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghịêp, kế toán góp phần rất quan trọng vào công tác quản lý các hoạt động kinh tế, tài chính. Việc thu nhận, xử lý và cung cấp các thông tin về tình hình thu nhập, chi phí, so sánh thu nhập với chi phí để xác định kết quả là một trong những yêu cầu của KTTC. Song doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm, kinh doanh nhiều loại hàng hoá, dịch vụ khác nhau, muốn biết chi phí, thu nhập và kết quả của từng loại sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ nhằm tổng hợp lại trong một cơ cấu hệ thống kế toán phục vụ cho yêu cầu của quản trị doanh nghiệp thì KTTC không đáp ứng được yêu cầu này. Do đó, các doanh nghiệp tổ chức hệ thống KTQT để trước hết nhằm xây dựng các dự toán chi phí, dự toán thu nhập và kết quả của từng loại sản phẩm hang hoá, dịch vụ. Sau đó phải tiến hành theo dõi, kiểm tra suốt quá trình chi phí sản xuất, mua bán hàng hoá dịch vụ, tính toán giá thành sản phẩm, giá vốn hàng mua, hàng bán, doanh thu và kết quả của từng loại sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ để đáp ứng yêu cầu quản lý cụ thể của doanh nghiệp. Xuất phát điểm của KTQT là kế toán chi phí, nghiên cứu chủ yếu về quá trình tính toán giá phí sản phẩm như giá phí tiếp liệu, giá phí sản xuất nhằm đề ra các quyết định cho phù hợp, xác định giá trị hàng tồn kho và kết quả kinh doanh theo từng hoạt động. Dần dần cùng với sự phát triển của khoa học quản lý nói chung, khoa học kế toán cũng có những bước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt từ năm 1957 trở lại đây, nhiều quốc gia có nền kinh tế phát triển trên thế giới đã đi sâu nghiên cứu, áp dụng và sử dụng những thông tin kế toán phục vụ cho yêu cầu quản lý. Sự phát triển mạnh mẽ của kế toán đã đặt ra hướng nghiên cứu các công cụ kiểm soát và lập kế hoạch, thu nhận và xử lý thông tin phục vụ cho công việc ra quyết định gọi là KTQT. Cho đến nay đã tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về KTQT. Theo Ronakd W. Hiton, giáo sư Đại học Cornell (Mỹ): “KTQT là một bộ phận của hệ thống thông tin quản trị trong tổ chức mà nhà quản trị dựa vào để hoạch định và kiểm soát các hoạt động của tổ chức” [2]. Theo Ray H.Garrison: “KTQT có liên hệ với việc cung cấp các tài liệu cho các nhà quản lý là những người bên trong tổ chức kinh tế và có trách nhiệm trong việc điều hành và kiểm soát mọi hoạt động của tổ chức đó” [2]. Theo các giáo sư Đại học South Florida: “KTQT là một hệ thống kế toán cung cấp cho các nhà quản trị những thông tin định lượng mà họ cần để hoạch định và kiểm soát” [2]. Theo luật Kế toán Việt Nam: “KTQT là việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán” [4]. Theo từ điển thuật ngữ kế toán Mỹ: “KTQT là lĩnh vực kế toán liên quan đến thu thập và xử lý các thông tin kinh tế nhằm hỗ trợ những nhà quản lý trong việc đưa ra các quyết định tài chính đặc biệt trong hoạch định kế hoạch và quản lý giá thành” [5]. Theo hiệp hội kế toán viên Hoa Kỳ năm 1982: “KTQT là quy trình định dạng, đo lường, tổng hợp, phân tích, lập bảng biểu, giải thích và thông đạt các số liệu tài chính và phi tài chính cho ban giám đốc để lập kế hoạch, đánh giá, theo dõi việc thực hiện trong phạm vi nội bộ doanh nghiệp và để đảm bảo việc sử dụng có hiệu quả các tài sản và quản lý chặt chẽ các tài sản này” [6]. Từ những quan điểm trên, có thể hiểu KTQT là một khoa học thu thập, xử lý và cung cấp những thông tin định lượng về hoạt động của đơn vị một cách cụ thể, giúp các nhà quản lý trong quá trình ra quyết định liên quan đến việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra, kiểm soát và đánh giá tình hình thực hiện các hoạt động của đơn vị. Như vậy, cùng với sự xuất hiện của nền kinh tế thị trường, KTQT đã ra đời và trở thành công cụ quan trọng trợ giúp cho những người làm công tác quản lý ra quyết định sản xuất kinh doanh và là phương tiện để thực hiện kiểm soát quản lý trong doanh nghiệp. 2.1.1.1.2. Mục đích của kế toán quản trị KTQT là loại kế toán dành riêng cho các nhà quản lý, trợ giúp cho việc ra quyết định theo từng tình huống cụ thể. Các quyết định của nhà quản lý hầu hết đều liên quan đến vấn đề chi phí (tiêu dùng nguồn lực) và giá trị thu được (lợi ích) do các chi phí tạo ra. Vì vậy mục tiêu của kế toán quản trị tập trung vào hai mục tiêu chủ yếu sau: - Nhằm liên kết giữa việc tiêu dùng các nguồn lực (chi phí) và nhu cầu tài trợ với các nguyên nhân của việc tiêu dùng các nguồn lực đó (chi phí phát sinh) để thực hiện các mục đích cụ thể của đơn vị. - Tìm cách tối ưu hoá mối quan hệ giữa chi phí với giá trị (lợi ích) mà chi phí đó tạo ra. Song song với việc thực hiện nhiệm vụ của kế toán nói chung như: thu thập, xử lý, phân tích thông tin, số liệu; Kiểm tra, giám sát tình hình tài chính, tài sản; cung cấp thông tin, tham mưu, đề xuất các giải pháp phục vụ yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính của đơn vị, KTQT còn thực hiện nhiệm vụ sau: - Tính toán đưa ra mô hình nhu cầu vốn cho một hoạt động hay một quyết định cụ thể. -Đo lường, tính toán chi phí cho một hoạt động, sản phẩm hoặc một quyết định cụ thể. - Tìm ra những giải pháp tác động lên các chi phí để tối ưu hoá mối quan hệ Chi phí- Khối lượng- Lợi nhuận. 2.1.1.2 Nội dung và vai trò của KTQT trong doanh nghiệp 2.1.1.2.1. Nội dung của KTQT trong doanh nghiệp Xuất phát từ những đặc thù về cung cấp thông tin như đối tượng sử dụng thông tin mà KTQT bao hàm rất nhiều nội dung và nó được phản ánh một cách chi tiết, tỉ mỉ cho từng vấn đề nhằm thực hiện vai trò là cơ sở để ra quyết định của nhà quản trị. Có thể tìm hiểu KTQT trên hai bình diện cơ bản sau: * Xét trên nội dung các thông tin mà KTQT cung cấp: - KTQT các yếu tố sản xuất kinh doanh: mua sắm, sử dụng đối tượng lao động- hàng tồn kho; Tư liệu lao động- tài sản cố định; Tuyển dụng và sử dụng lao động – lao động và tiền lương… - KTQT chi phí, giá thành sản phẩm: nhận diện, phân loại chi phí, giá thành; Lập dự toán chi phí sản xuất; tập hợp, tính toán, phân bổ chi phí, giá thành; Lập báo cáo phân tích chi phí theo bộ phận, theo các tình huống quyết định… - KTQT doanh thu và kết quả kinh doanh: phân loại doanh thu, xác định giá bán, lập dự toán doanh thu; tính toán, hạch toán chi tiết doanh thu, phân bổ chi phí chung, xác định kết quả chi tiết; Lập các báo cáo phân tích kết quả chi tiết theo bộ phận, theo các tình huống ra quyết định… - KTQT về các hoạt động đầu tư tài chính. - KTQT các hoạt động khác của doanh nghiệp. Trong tất cả các nội dung trên thì chi phí được coi là trọng tâm của KTQT. Chính vì vậy đã có một số quan điểm cho rằng KTQT là kế toán chi phí. *Xét theo quá trình KTQT trong mối quan hệ với chức năng quản lý. - Chính thức hoá các mục tiêu của đơn vị thành các chỉ tiêu kinh tế. - Lập dự toán chung và các dự toán chi tiết. - Thu thập, cung cấp thông tin về kết quả thực hiện các mục tiêu. - Lập các báo cáo KTQT. 2.1.1.2.2. Vai trò của KTQT trong doanh nghiệp KTQT là công cụ quản trị, một công cụ rất quan trọng trong quá trình hoạch định và kiểm soát chi phí, thu nhập, tính toán hiệu quả quá trình kinh doanh nhằm đưa ra các quyết định quản trị đúng đắn. Thật vậy, quá trình sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp ở bất kỳ hình thái kinh tế xã hội nào, thành phần kinh tế nào muốn đạt được hiệu quả cao cũng cần phải biết được thông tin về tình hình hoạt động kinh tế tài chính một cách kịp thời, đầy đủ, chính xác và trung thực. Những thông tin về tình hình chi phí mà các doanh nghiệp đã chi ra cho từng hoạt động kinh doanh, từng địa điểm kinh doanh hoặc từng loại sản phẩm. Những thông tin về thu nhập và xác định kết quả sản xuất kinh doanh theo từng hoạt động, địa điểm hoặc sản phẩm đó chỉ có thể nhận biết được một cách cụ thể thông qua việc thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin của KTQT. Trên cơ sở các thông tin đã thu nhận được, KTQT có nhiệm vụ phân tích, diễn giải, lập dự toán chi tiết để phục vụ cho nhà quản trị lựa chọn, quyết định phương án tối ưu nhất trong quản lý. Việc quyết định đưa vào sản xuất sản phẩm nào đó, sản lượng là bao nhiêu, chi phi và lợi nhuận ở mức nào, tại sao chi phí thực tế với dự tính vượt và phải có biện pháp gì để giảm thấp chi phí, tăng lợi nhuận. Những vấn đề này chỉ có thể quyết định được khi nhà quản trị có đầy đủ số liệu do KTQT cung cấp. Hoạt động quản trị doanh nghiệp là quá trình liên tục từ khâu lập kế hoạch đến khâu tổ chức kiểm tra thực hiện kế hoạch vì thế không thể thiếu những thông tin do KTQT cung cấp. Mục đích và yêu cầu của KTQT là phải tính toán được chi phí của từng hoạt động kinh doanh, từng loại sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ hoặc từng địa điểm kinh doanh; phân tích chi tiết được kết quả của từng hoạt động, từng sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ đó. Tập hợp được các số liệu cần thiết để phác hoạ, lập kế hoạch kinh doanh cho tương lai. Ngoài ra, KTQT còn phải tính toán nhu cầu thị trường nhằm có kế hoạch ổn định chương trình sản xuất, bán hàng hợp lý và đưa ra các biện pháp cạnh tranh, mở rộng thị trường và phát triển doanh nghiệp theo hướng có lợi nhất. 2.1.2 Tổng quan về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. 2.1.2.1 Chi phí sản xuất và các cách phân loại chi phí sản xuất 2.1.2.1.1. Chi phí sản xuất Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực chất là quá trình tiêu dùng các yếu tố sản xuất và kinh doanh bao gồm: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động để tạo ra các sản phẩm, công việc, lao vụ nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Trong quá trình này doanh nghiệp đã tiêu dùng một bộ phận nguồn lực làm phát sinh chi phí đồng thời tạo ra nguồn lực mới dưới dạng công việc, sản phẩm, lao vụ. Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp chỉ ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh biểu hiện bằng thước đo tiền tệ, được tính cho một thời kỳ nhất định. Trong các doanh nghiệp chi phí sản xuất là một khoản mục quan trọng có ảnh hưởng lớn tới giá thành sản phẩm và có bản chất như sau: - Những phí tổn về các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, kinh doanh gắn liền với mục đích kinh doanh. - Lượng chi phí phụ thuộc vào khối lượng các yếu tố sản xuất đã tiêu hao trong kỳ và giá cả của một đơn vị yếu tố sản đã hao phí. - Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải được đo lường bằng thước đo tiền tệ và được xác định trong một khoảng thời gian xác định. 2.1.2.1.2. Phân loại chi phí sản xuất Dưới góc độ của KTQT, chi phí sản xuất được chia thành: 2.1.2.1.2.1. Theo mối quan hệ của chi phí với các khoản mục trên bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. + Chi phí sản xuất: Là những khoản chi phí gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm hoặc quá trình mua hàng hoá để bán. Đây là một khái niệm tương đối rộng và có sự khác nhau đối với từng loại hình doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp có hoạt động sản xuất kinh doanh thì chi phí sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất là chi phí ở khâu sản xuất tính cho sản phẩm đã hoàn thành và sản phẩm chưa hoàn thành trong sản xuất và khi sản phẩm đã được bán thì chi phí sản phẩm lại trở thành giá vốn hàng bán. Còn trong các doanh nghiệp kinh doanh thương mại thì chi phí sản xuất là giá vốn hàng mua vào hoặc bán ra bao gồm giá của hàng hoá và các chi phí liên quan. + Chi phí thời kỳ: Là các chi phí cho hoạt động kinh doanh trong kỳ không tạo nên giá trị của hàng tồn kho – tài sản mà trực tiếp ảnh hưởng đến lợi nhuận trong kỳ. Chi phí thời kỳ bao gồm: CPBH, CPQL doanh nghiệp. 2.1.2.1.2.2. Theo khả năng quy nạp chi phí vào các đối tượng kế toán chi phí. + Chi phí trực tiếp: Là những chi phí liên quan trực tiếp đến từng đối tượng kế toán tập hợp chi phí và được quy nạp trực tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí. Chính vì vậy nếu loại chi phí này chiếm đa số trong tổng chi phí thì sẽ thuận lợi cho việc kiểm soát chi phí và xác định nguyên nhân tạo ra chi phí. + Chi phí gián tiếp: Là những chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng kế toán tập hợp khác nhau. Chính vì vậy phải tập hợp chi phí theo từng nơi phát sinh và sau đó phân bổ gián tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí. Cách phân loại này có ý nghĩa về mặt kỹ thuật, quy nạp chi phí vào các đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. Thông qua đó kế toán có thể tư vấn các nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra và thực hiện một cơ cấu tổ chức sản xuất, kinh doanh hợp lý nhằm mục đích có thể quy nạp trực tiếp các khoản chi phí cho từng đối tượng tập hợp chi phí. Từ đó giúp cho việc kiểm soát chi phí được thuận lợi hơn. 2.1.2.1.2.3. Theo mối quan hệ của chi phí với quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm và quy trình kinh doanh. + Chi phí cơ bản: Là các chi phí có liên quan trực tiếp đến quy trình công nghệ sản xuất, chế tạo sản phẩm như: CPNVLTT, CPNCTT, chi phí công cụ, dụng cụ sản xuất, chi phí khấu hao tài sản cố định dùng trực tiếp vào sản xuất sản phẩm… + Chi phí chung: Là các chi phí liên quan đến phục vụ và quản lý phân xưởng có tính chất chung như: Chi phí quản lý ở các phân xưởng sản xuất, chi phí quản lý doanh nghiệp. Cách phân loại chi phí này có thể giúp các nhà quản trị đưa ra các phương án tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm bằng cách quản lý và sử dụng chi phí theo định mức tiêu hao, cải tiến quy trình công nghệ đối với các chi phí cơ bản, đồng thời hạn chế hoặc loại trừ những khoản chi phí chung không cần thiết, tăng cường công tác quản lý theo dự toán. 2.1.2.1.2.4. Các cách phân loại khác sử dụng trong việc lập kế hoạch, kiểm tra và ra quyết định. + Theo mối quan hệ giữa chí phí và mức độ hoạt động: - Chi phí khả biến (chi phí biến đổi, biến phí): Là bao gồm những chi phí có sự thay đổi về tổng số khi có thay đổi mức độ hoạt động của doanh nghiệp. Mức độ hoạt động của doanh nghiệp ở đây có thể là số lượng sản phẩm sản xuất, số lượng sản phẩm tiêu thụ, doanh thu bán hàng thực hiện…Loại chi phí này có đặc điểm, nếu xét theo tổng số thì biến phí thay đổi tỉ lệ thuận với mức độ hoạt động nhưng khi xét trên một đơn vị khối lượng hoạt động thì biến phí có thể là một hằng số. Sơ đồ 01: Chi phí khả biến Tổng biến phí(Bp) Biến phí đơn vị(bp) Bp = ax bp= a Mức độ hoạt động Mức độ hoạt động - Chi phí bất biến (chi phí cố định, định biến): Là những chi phí mà về tổng số không thay đổi khi có sự thay đổi về mức độ hoạt động của đơn vị. Loại chi phí này có đặc điểm, nếu xét theo tổng số thì định phí là không đổi, ngược lại, xét theo trên một đơn vị khối lượng hoạt động thì định phí tỉ lệ nghịch với mức độ hoạt động. Như vậy đối với loại chi phí này thì doanh nghiệp có hoạt động hay không thì luôn tồn tại định phí và ngược lại, khi doanh nghiệp tăng cường mức độ hoạt động thì định phí sẽ giảm dần. Sơ đồ 02: Chi phí bất biến Tổng định phí (Đp) Định phí đơn vị(đp) Đp = C Đp = C/x Mức độ hoạt động x Mức độ hoạt động x -Chi phí hỗn hợp: Là loại chi phí mà trong đó bao gồm cả chi phí cố định và chi phí biến đổi. Sơ đồ 03: Chi phí hỗn hợp Yếu tố biến đổi Yêú tố cố định + Theo thẩm quyền ra quyết định: - Chi phí kiểm soát được: Là những chi phí mà các nhà quản trị ở một cấp quản lý nào đó xác định được lượng phát sinh của nó và có thẩm quyền quyết định về sự phát sinh chi phí đó. - Chi phí không kiểm soát được: Là những chi phí mà nhà quản trị ở một cấp quản lý nào đó không thể dự đoán được chính xác sự phát sinh của nó và không có thẩm quyền quyết định đối với các khoản chi phí đó. Thông qua cách phân loại này giúp cho các nhà quản trị ở từng cấp hoạch định được dự toán chi phí đúng đắn hơn, hạn chế sự bị động về việc huy động nguồn lực để đảm bảo cho các khoản chi phí. Đồng thời giúp cho các nhà quản trị cấp cao đưa ra phương hướng để tăng cường chi phí kiểm soát được cho từng cấp đưa ra phương hướng để tăng cường chi phí kiểm soát được cho từng cấp như mở rộng, phát triển các quy trình sản xuất kinh doanh có tỷ lệ định phí cao hơn, phân cấp quản lý chi tiết rõ ràng hơn về những chi phí gián tiếp phục vụ cho quản lý sản xuất kinh doanh. + Các loại chi phí được sử dụng trong việc lựa chọn các phương án: - Chi phí chênh lệch: Là những khoản chi phí có ở phương án sản xuất kinh doanh này nhưng không có hoặc chỉ có một phần ở phương án sản xuất kinh doanh khác. Có thể nói đây là thông tin thích đáng cho việc xem xét, lựa chọn phương án tối ưu. - Chi phí cơ hội: Là những lợi ích bị mất đi khi lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh này thay vì lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh khác. Loại chi phí này không được phản ánh trên sổ sách kế toán nhưng lại có vai trò rất quan trọng, đòi hỏi nhà quản lý phải cân nhắc và xem xét trước khi đưa ra quyết định. Trong việc lựa chọn các phương án sản xuất thì chi phí cơ hội được xem là thông tin thích đáng. - Chi phí chìm: Là những chi phí đã phát sinh mà buộc nhà quản trị phải chấp nhận và nó tồn tại trong tất cả các phương án sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy không thể loại bỏ chi phí này, đây là thông tin không thích đáng cho việc xem xét, lựa chọn phương án tối ưu và do vậy khi lựa chọn phương án tối ưu không cần phải xét tới chi phí này. 2.1.2.1.3. Phương pháp xác định chi phí trong KTQT Trên góc độ của KTTC, chi phí được nhìn nhận như những khoản phí tổn đã phát sinh gắn liền với các hoạt động của doanh nghiệp bao gồm các chi phí đã phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường của doanh nghiệp và các chi phí khác. Những khoản chi phí này được kế toán ghi nhận trên cơ sở các chứng từ, tài liệu phản ánh các nghiệp vụ phát sinh trong kỳ. Chẳng hạn như khi xuất kho NVL sử dụng vào sản xuất thì khi đó chi phí nguyên vật liệu tăng lên và giá trị hàng tồn kho giảm xuống. Nghiệp vụ này được chứng minh bằng các phiếu xuất kho. Trong khi đó, dưới cái nhìn của KTQT thì mục đích của KTQT chi phí là cung cấp các thông tin thích hợp về chi phí, kịp thời đưa ra các quyết định về sản xuất, kinh doanh. Bởi vậy KTQT không chỉ đơn thuần là nhận diện các chi phí như KTTC mà đó còn là sự nhận diện thông tin phục vụ cho các cấp quản lý. Vì vậy chi phí được phản ánh có thể là những chi phí hiện tại diễn ra hàng ngày hoặc cũng có thể đó là những chi phí ước tính, dự đoán nhằm thông qua đó có thể lựa chọn được phương án tối ưu nhất và đưa ra quyết định đúng đắn nhất. Việc xác định chi phí thường được thực hiện theo 2 phương pháp: Phương pháp xác định chi phí theo công việc và phương pháp xác định chi phí theo quá trình sản xuất. 2.1.2.1.3.1. Phương pháp xác định chi phí theo công việc: Phương pháp này được sử dụng trong các doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng của khách hàng. Để áp dụng theo phương pháp này thì sản phẩm phải đảm bảo ít nhất một trong các đặc điểm sau: - Có tính độc đáo theo yêu cầu của từng đơn đặt hàng. - Có giá trị lớn - Có kích thước lớn - Được đặt mua trước khi sản xuất Đặc điểm nổi bật của phương pháp xác định chi phí theo công việc là việc tính toán, phân bổ chi phí theo từng công việc cụ thể. Kế toán phải cộng dồn CPNVLTT, CPNCTT, CPSXC mỗi công việc để người quản lý có thể nắm được giá thành của từng bước công việc nhằm tính lỗ lãi cho từng công việc cụ thể. Đó chính là việc kiểm soát chi phí vì nếu giá thành quá cao sẽ làm giảm lợi nhuận hoặc có thể bị lỗ. Các nhà quản lý điều khiển công việc để đảm bảo chi phí luôn nằm trong giới hạn kế hoạch cho phép, nếu nằm ngoài giới hạn đó thì phải tìm hiểu nguyên nhân để xử lý, điều khiển kịp thời. Quá trình tập hợp chi phí theo phương pháp này được thể hiện qua sơ đồ chữ T như sau: Sơ đồ 04: Quá trình tập hợp chi phí công việc Chi phí NVL Chi phí SXKD Thành phẩm Trực tiếp (621) dở dang (154) (155) Z sản phẩm Chi phí NC trực tiếp (622) Giá vốn Hàng bán (632) Chi phí SXC (627) CP CP thực tế phân bổ Mức phân Mức phân bổ thiếu bổ thừa 2.1.2.1.3.2. Phương pháp xác định chi phí theo quá trình sản xuất. Phương pháp này áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất đại trà một loại sản phẩm và quá trình sản xuất đi qua nhiều công đoạn khác nhau. Theo phương pháp này thì các sản phẩm thường có đặc điểm sau: - Có cùng hình thái vật chất và kích thước (sữa, ximăng) - Có kích thước nhỏ, giá trị không lớn (giấy, vở học sinh) - Được đặt mua sau khi sản xuất vì sản phẩm do doanh nghiệp tự nghiên cứu, sản xuất đại trà rồi mới đưa ra tiêu thụ trên thị trường. Quá trình sản xuất của doanh nghiệp thường tổ chức theo hai quy trình công nghệ: Quy trình sản xuất liên tục và quy trình sản xuất song song. Với quy trình sản xuất liên tục, phân xưởng là bộ phận sản xuất cơ sở, là nơi phát sinh chi phí của quá trình sản xuất đó, hoạt động sản xuất diễn ra liên tục ở các phân xưởng kế tiếp nhau, sản phẩm có sự vận động và chuyển đổi từ phân xưởng này sang phân xưởng khác. Các chi phí sản xuất được tập hợp theo từng phân xưởng được thể hiện qua sơ đồ chữ T như sau trong trường hợp doanh nghiệp có 2 phân xưởng sản xuất theo quy trình khép kín. Sơ đồ 05: Sơ đồ tập hợp chi phí theo quá trình sản xuất Chi phí NVL trực tiếp (621) Giá vốn hàng bán (632) Chi phí NC trực tiếp (622) Chi phí SXC (627) Chi phí SXKD dở dang PXII (154) Chi phí SXKD Thành phẩm dở dang PXI (154) (155) 2.1.2.2. Giá thành sản phẩm và các cách phân loại giá thành 2.1.2.2.1. Giá thành sản phẩm Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành. 2.1.2.2.2. Các cách phân loại giá thành 2.1.2.2.2.1. Theo phạm vi tính toán + Giá thành sản xuất theo biến phí: Giá thành sản xuất theo biến phí là giá thành mà trong đó chỉ bao gồm biến phí thuộc CPNVLTT, CPNCTT, CPSXC tính cho sản phẩm hoàn thành. Theo phương pháp này thì toàn bộ định phí sản xuất được tính vào báo cáo kết quả kinh doanh trong kỳ mà không nằm trong giá thành sản xuất sản phẩm. Giá thành sản xuất theo biến phí là một bộ phận trong giá thành toàn bộ theo biến phí. Thông qua đó doanh nghiệp sẽ xác định lãi gộp trên biến phí (lãi đóng góp, số dư đảm phí) và cho phép mô hình hoá một cách đơn giản mối quan hệ Chi phí - Khối lượng - Lợi nhuận. Thông tin về giá thành sản xuất theo biến phí có vai trò quan trọng trong việc phục vụ cho việc đưa ra các quyết định ngắn hạn, mang tính sách lược, là cơ sở để xác định điểm hoà vốn. Nó thường được sử dụng chủ yếu trong môi trường kiểm soát hoạt động, ở đó nhà quản trị phải đưa ra các quyết định ngắn hạn, tức thời hoặc đột xuất. + Giá thành sản phẩm có phân bổ hợp lý chi phí cố định: Nội dung của giá thành sản phẩm có phân bổ hợp lý chi phí cố định bao gồm: Toàn bộ biến phí sản xuất (trực tiếp, gián tiếp); phần định phí được phân bổ trên cơ sở mức hoạt động thực tế so với mức hoạt động chuẩn (theo công suất thiết kế và định mức). Phần định phí còn lại là chi phí hoạt động dưới công suất được coi là chi phí thời kỳ. + Giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ: Giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ bao gồm giá thành sản xuất cộng với CPBH và CPQL doanh nghiệp. Chỉ tiêu này chỉ xác định khi sản phẩm đã được tiêu thụ và được sử dụng để xác định kết quả. 2.1.2.2.2.2. Thời gian và cơ sở số liệu tính giá thành + Giá thành kế hoạch: Là loại giá thành được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Loại giá thành này được xác định trước khi tiến hành sản xuất và đó là mục tiêu của các doanh nghiệp nhằm tiết kiệm được chi phí sản xuất đồng thời đánh giá tình hình tổ chức thực hiện kế hoạch để hạ giá thành sản phẩm. + Giá thành định mức: Là loại giá thành được tính trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho đơn vị sản xuất. Loại giá thành này cũng được xác định trước khi tiến hành sản xuất. Giá thành định mức là công cụ để quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm; Là thước đo chính xác để xác định hiệu quả sử dụng tài sản, lao động, tiền vốn trong sản xuất; Là căn cứ để đánh giá đúng đắn kết quả thực hiện các giải pháp kinh tế, kỹ thuật mà doanh nghiệp đã đề ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. + Giá thành sản xuất thực tế: Là loại giá thành được xác định trên cơ sở các chi phí thực tế đã phát sinh và số lượng sản phẩm được sản xuất thực tế trong kỳ. Loại giá thành này được xác định sau khi đã hoàn thành quá trình sản xuất. Đây là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc sử dụng các giải pháp tổ chức kinh tế, kỹ thuật để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm. Giá thành sản xuất thực tế là căn cứ để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.1.2.3. Kế toán quản trị chi phí, giá thành 2.1.2.3.1. Khái niệm KTQT chi phí, giá thành KTQT chi phí, giá thành là một chức năng quản trị có ý thức chứ không phải là một chương trình cụ thể, nó mang tính liên tục và đều đặn nhằm kiểm soát tốt chi phí, giá thành để thu lợi và tái đầu tư cho tương lai. 2.1.2.3.2. Ý nghĩa của KTQT chi phí, giá thành Chi phí và giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ là các chỉ tiêu quan trọng trong hệ thống các chỉ tiêu kinh tế phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp và có mối quan hệ mật thiết với doanh thu, kết quả (lãi, lỗ) hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy đây là chỉ tiêu rất được các nhà quản lý doanh nghiệp quan tâm. Mục đích sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp luôn là lợi nhuận tối đa. Vì thế họ quan tâm đến công tác quản lý chi phí, giá thành để xem phải bỏ ra những chi phí nào, mức độ bao nhiêu và kết quả sản xuất thu được là gì?...Song nếu chỉ biết một cách tổng thể, khái quát như vậy thì chưa đủ để đảm bảo một quá trình sản xuất kinh doanh hiệu quả. Một trong những yêu cầu của quản lý doanh nghiệp là phải chi tiết hoá các nội dung về chi phí, giá thành đối với từng loại hoạt động, từng loại sản phẩm, dịch vụ do vậy khi bước vào nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp đã tiến hành đa dạng hoá các hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp có thể tiến hành nhiều loại hoạt động khác nhau trên cơ sở ngành nghề, giấy phép kinh doanh đã được cấp: vừa sản xuất tiêu thụ sản phẩm, vừa mua - bán vật tư, hàng hoá…Trong mỗi hoạt động lại bao gồm nhiều sản phẩm, vật tư, hàng hoá, dịch vụ khác nhau. Một câu hỏi đặt ra là phải làm thế nào để có thể qu._.ản lý hiệu quả các hoạt động đó và kiểm soát các khoản mục phát sinh một cách tốt nhất?. Câu hỏi này chỉ được trả lời khi có sự tham gia của KTQT chi phí, giá thành, doanh thu và kết quả. Do vậy, KTQT chi phí, giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch cụ là nội dung không thể thiếu được trong toàn bộ nội dung tổ chức công tác kế toán của doanh nghiệp và nó có ý nghĩa thiết thực đối với các nhà quản trị doanh nghiệp bởi một số lý do chủ yếu sau: - Giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp có thông tin hữu ích về chi phí, giá thành của từng hoạt động, sản phẩm, lao vụ, dịch vụ. - Giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp doanh nghiệp đưa ra được các quyết định phù hợp cho việc mở rộng hoặc thu hẹp quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông qua số KTQT chi phí, giá thành cùng với số liệu của KTQT doanh thu, kết quả mà các nhà quản lý có quyết định đúng đắn trong việc mở rộng một hoạt động nào đó hoặc trong từng loại hoạt động thì mở rộng đối với loại sản phẩm, dịch vụ nào và ngược lại. Điều này có ý nghĩa quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. - Giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp quyết định ngừng hay tiếp tục sản xuất kinh doanh cũng như các quyết định nên tự sản xuất hay nên đi mua hoặc chuyển hướng kinh doanh, đầu tư… - Giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp định được giá bán sản phẩm dịch vụ, hàng tồn kho…từ đó có chính sách giá cả hợp lý. Có thể nhận thấy những thông tin mà KTQT chi phí, giá thành sản phẩm, dịch vụ, lao vụ cung cấp là những thông tin cần thiết, nhanh chóng, kịp thời giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp đề ra được các quyết định phù hợp với tình hình thực tế và có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận trong kỳ. Tuy nhiên cũng cần phải khẳng định một điều rằng KTQT chi phí, giá thành là công việc hết sức phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian, công sức và chỉ khi nào doanh nghiệp thực hiện tốt, đầy đủ các nội dung liên quan thì KTQT chi phí, giá thành mới có thể phát huy được hết vai trò to lớn của nó. 2.1.2.3.3. Nội dung của KTQT chi phí, giá thành KTQT chi phí, giá thành cũng giống như KTQT trong các lĩnh vực khác của quá trình sản xuất kinh doanh, tức là cũng bao gồm đầy đủ các nội dung của quản trị , từ giai đoạn lập kế hoạch đến tổ chức thực hiện, kiểm tra đánh giá cho tới khâu ra quyết định. Sơ đồ 06: Nội dung của KTQT chi phí, giá thành Lập kế hoạch Kiểm tra Thực hiện Ghi chép Tập hợp CPSX Phân bổ CPSX Tính giá thành sản phẩm Ra quyết định * Lập kế hoạch chi phí, giá thành: Đây là một chức năng cơ bản của quản trị nói chung và là một nội dung quan trọng của quản trị chi phí, giá thành nhằm tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm. Lập kế hoạch chi phí, giá thành là xây dựng các mục tiêu phải đạt và vạch ra các bước thực hiện để đạt được những mục tiêu đó. Các kế hoạch này có thể là kế hoạch ngắn hạn hoặc dài hạn. Việc lập kế hoạch được cụ thể hoá thông qua các dự toán về chi phí, giá thành. Đây cũng là kế hoạch nhằm liên kết các mục tiêu và chỉ rõ cách huy động, sử dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu. Có thể lập dự toán qua một số phương pháp sau: - Phương pháp lập dự toán chi phí căn cứ vào các bộ phận khác. Phương pháp này được dựa trên kết quả tính toán của các kế hoạch về lao động, tiền lương, cung nguyên liệu. - Phương pháp lập dự toán chi phí căn cứ vào kế hoạch giá thành được tính theo từng khoản mục chi phí. - Phương pháp lập dự toán chi phí căn cứ vào dự toán chi phí của từng phân xưởng đơn vị nội bộ của các bộ phận. KTQT thu thập thông tin thực hiện (thông tin quá khứ) và những thông tin liên quan đến tương lai (thông tin dự đoán) để phục vụ cho lập dự toán nhằm: - Cung cấp thông tin một cách có hệ thống về toàn bộ kế hoạch chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Xác định mục tiêu cụ thể cho từng chỉ tiêu chi phí trong từng giai đoạn. - Dự kiến được những tình huống để sử dụng và huy động các nguồn lực cũng như dự kiến những thuận lợi và khó khăn về vốn trong sản xuất kinh doanh. - Dự toán chi phí sản xuất còn là căn cứ để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch chi phí, giá thành. - Dự toán chi phí sản xuất là cơ sở để kiểm soát chi phí trong sản xuất, kinh doanh. * Tổ chức thực hiện chi phí, giá thành: Việc thực hiện dựa trên các kế hoạch đã được lập nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Trong khâu tổ chức thực hiện đòi hỏi các nhà quản trị phải biết cách liên kết giữa các yếu tố sao cho kế hoạch được thực hiện ở mức cao nhất và đạt hiệu quả cao nhất. KTQT có vai trò thu thập và cung cấp các thông tin đã và đang thực hiện để phục vụ cho việc ra quyết định kinh doanh của nhà quản trị và chỉ đạo thực hiện các quyết định cả trong ngắn hạn và trong dài hạn. Ngoài ra KTQT còn thu thập thông tin thực hiện để phục vụ cho việc kiểm tra, đánh giá sau này. * Tổ chức ghi chép phản ánh các khoản chi phí và tính giá thành sản phẩm: Cũng giống như KTTC, khi phát sinh các nghiệp vụ kinh tế, KTQT tiến hành phản ánh các khoản chi phí vào sổ sách có liên quan một cách đầy đủ, kịp thời và chi tiết cho từng loại sản phẩm, công việc khác nhau cùng với chi phí chung của toàn doanh nghiệp. Thông qua những con số đã được phản ánh, các nhà quản trị có được hình dung về tình hình thực tế của doanh nghiệp để có biện pháp kết hợp các nguồn lực, đồng thời có cơ sở phát hiện những sai sót, những chi phí bất hợp lý để điều chỉnh kịp thời. Cuối cùng, KTQT thực hiện việc phân bổ chi phí và giá thành sản phẩm, cung cấp số liệu trên các báo cáo chi tiết và tổng hợp cho bộ phận quản lý. *Tổ chức kiểm tra, đánh giá: Để cho việc quản trị được hiệu quả thì sau khi lập kế hoạch đầy đủ và tổ chức thực hiện hợp lý, đòi hỏi nhà quản trị phải tiến hành kiểm tra và đánh giá việc thực hiện với số liệu của kế hoạch và dự toán, xác định những sai biệt giữa kết quả đạt được với mục tiêu đề ra. Do đo, KTQT có vai trò cung cấp thông tin thực hiện từng bộ phận, giúp nhà quản lý nhận diện và đánh giá kết quả thực hiện đồng thời phục vụ cho việc lập kế hoạch trong các kỳ sau. * Thực hiện việc ra quyết định: Mục đích của KTQT không chỉ dừng lại ở việc chi tiết hoá các khoản mục mà quan trọng hơn nữa đó là giúp các nhà quản trị đưa ra các quyết định sản xuất kinh doanh. Đó là cả một quá trình xuyên suốt các khâu quản trị doanh nghiệp, từ khâu lập kế hoạch cho đến việc tổ chức thực hiện và kiểm tra, đánh giá. KTQT có vai trò cung cấp thông tin, lập các báo cáo quản trị để phân tích việc thực hiện các phương án, tư vấn cho các nhà quản trị lựa chọn phương án tối ưu nhất và đưa ra quyết định phù hợp nhất. 2.1.3. Một số mô hình tổ chức KTQT chi phí, giá thành và kinh nghiệm một số nước trên thế giới 2.1.3.1. Một số mô hình tổ chức KTQT chi phí, giá thành Cùng với những thăng trầm của nền kinh tế, kế toán cũng đã được hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn và đã có nhiều thay đổi để phù hợp với sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Một trong những thay đổi được coi là bước ngoặt đó là sự phân tách giữa KTTC và KTQT. Trong quá trình đó, KTQT thực sự đã phát huy được vai trò to lớn của mình và dần trở thành bộ phận quan trọng trong việc cung cấp thông tin phục vụ cho công tác quản lý và điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quá trình hình thành và phát triển của KTQT ở các nước đều gắn liền với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, đều mang trọng tâm là giải quyết các vấn đề quản trị doanh nghiệp. Song ở mỗi nước vào mỗi thời kỳ lại có những quan niệm khác nhau. Có thể khái quát sự khác nhau đó qua một số mô hình như sau: 2.1.3.1.1. Mô hình kết hợp Mô hình này nói lên rằng, KTQT kết hợp với KTTC cùng sử dụng một chế độ kế toán thống nhất, một hệ thống tài khoản chi tiết, các loại sổ sách và các báo cáo giống nhau. Tuy nhiên hoạt động trong cùng một bộ máy như vậy, để mỗi loại kế toán có thể độc lập phát huy được chức năng của mình thì ngay trong việc tổ chức cũng đã có sự phân chia cụ thể. KTTC sử dụng các tài khoản kế toán tổng hợp, hệ thống báo cáo tài chính theo quy định của Bộ tài chính. Còn KTQT đi sâu vào các tài khoản chi tiết, sử dụng báo cáo KTQT cung cấp thông tin theo từng bộ phận, từng tình huống ra quyết định và được linh hoạt theo yêu cầu của quản lý. Sự kết hợp giữa hai chức năng kế toán trên nhằm mục đích cung cấp thông tin cho cả đối tượng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Mô hình này được sử dụng phổ biến ở hầu hết các nước, đặc biệt là ở Mỹ và các nước áp dụng kế toán Mỹ hoặc đã tổ chức kế toán theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Theo mô hình này, KTQT đặt trọng tâm vào việc hoạch định, kiểm tra, xác định các chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó để hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm, doanh nghiệp có thể áp dụng phương pháp kế toán chi phí, giá thành sau: * Kế toán chi phí, giá thành sản xuất theo công việc: Hệ thống kế toán này được áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm đơn chiếc hoặc từng lô hàng khác nhau về quy cách, nguyên liệu hay kỹ thuật sử dụng. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là các đơn đặt hàng, lô sản phẩm hoặc từng sản phẩm đơn lẻ. Đối tượng tính giá thành là từng đơn đặt hàng, lô sản phẩm hoặc từng sản phẩm hoàn chỉnh. Với đặc trưng là các khoản chi phí phát sinh trong kỳ được kế toán tổng hợp và cộng dồn theo công việc đã giúp cho các nhà quản trị có thể so sánh giá thành thực tế với giá thành kế hoạch nhằm kiểm soát chi phí. Kế toán chi phí, giá thành sản xuất theo công việc có đặc điểm: - Đối với khoản mục CPNVLTT và CPNCTT: Do có liên quan trực tiếp tới từng đối tượng chịu chi phí nên chi phí sẽ được tập hợp trực tiếp cho từng đơn đặt hàng. Trong trường hợp một phân xưởng đảm nhận thực hiện nhiều đơn đặt hàng thì chi phí được tập hợp theo phân xưởng và chi tiết theo từng đơn đặt hàng. - Đối với khoản mục CPSXC: Nếu mỗi phân xưởng tiến hành thực hiện một đơn đặt hàng riêng biệt thì CPSXC cũng là chi phí trực tiếp nên sẽ được tập hợp trực tiếp cho từng đơn đặt hàng. Ngược lại, nếu phân xưởng đó thực hiện đảm nhận nhiều đơn đặt hàng thì CPSXC sẽ tập hợp theo từng phân xưởng sau đó tiến hành phân bổ cho từng đối tượng chịu chi phí theo tiêu thức thích hợp. * Kế toán chi phí, giá thành sản xuất theo quá trình sản xuất: Đây là phương pháp được áp dụng cho các doanh nghiệp mà quá trình sản xuất phải trải qua nhiều công đoạn khác nhau và sản xuất hàng loạt một loại sản phẩm. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất theo từng công đoạn hoặc từng bộ phận khác nhau của doanh nghiệp. Đối tượng tính giá thành là sản phẩm hoàn thành ở mỗi giai đoạn hoặc sản phẩm hoàn thành ở giai đoạn công nghệ cuối cùng. Hình thức kế toán này được tổ chức tương ứng với từng quy trình sản xuất ở từng doanh nghiệp: quy trình sản xuất liên tục, quy trình sản xuất song song hay quy trình sản xuất hỗn hợp. Kế toán chi phí, giá thành sản xuất theo quá trình sản xuất có đặc điểm: - Quá trình tập hợp chi phí được thực hiện đơn giản, chi phí phát sinh gắn liền với quá trình sản xuất ở từng phân xưởng và được luân chuyển từ phân xưởng này đến sang phân xưởng khác. - Việc tính giá thành đơn vị bán thành phẩm và lập báo cáo chi phí sản xuất được thực hiện ở từng phân xưởng. - Chi phí sản xuất phát sinh ở phân xưởng nào thì tập hợp trực tiếp cho phân xưởng đó. Sau đó những chi phí đó được chuyển cho phân xưởng kế tiếp. Chi phí mỗi phân xưởng sau bao gồm giá trị bán thành phẩm của phân xưởng trước chuyển sang và chi phí phát sinh tại phân xưởng đó. Bán thành phẩm của phân xưởng trước là đối tượng chế biến của phân xưởng sau và sẽ được vận động qua các phân xưởng sản xuất. Ở phân xưởng cuối cùng, bán thành phẩm được hoàn thành và trở thành thành phẩm của doanh nghiệp. 2.3.1.2. Mô hình tách rời Theo mô hình này thì KTTC và KTQT hoạt động độc lập với nhau. KTQT được tổ chức thành một bộ phận riêng biệt, tách rời với KTTC cả về hệ thống tài khoản, sổ sách kế toán và các báo cáo kế toán. KTTC thu thập, xử lý, lập các báo cáo tài chính phục vụ sự quan tâm của các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp. Còn KTQT cung cấp thông tin, cho đối tượng bên trong doanh nghiệp, phục vụ cho mục tiêu quản trị. Mô hình này áp dụng chủ yếu ở Cộng hoà Pháp và những nước thực hiện theo kế toán Pháp. Trong mô hình này, KTQT đặt trọng tâm vào việc xác định và kiểm soát chi phí ở các doanh nghịêp sản xuất bằng cách chia chi phí theo các trung tâm trách nhiệm quản lý, phân tích và đánh giá tìm ra các nguyên nhân làm sai lệch chi phí và điều hoà mối quan hệ giữa KTTC và KTQT. Chi phí sẽ được lập dự toán và tất cả các chi phí sẽ được tập hợp theo các bộ phận tạo thành các trung tâm phân tích, bao gồm trung tâm chính và trung tâm phụ. Ở đây, những khoản chi phí phát sinh ở trung tâm nào thì sẽ được phản ánh vào các trung tâm đó. Cuối kỳ chi phí của các trung tâm phụ được phân bổ cho các trung tâm chính sau đó được phân bổ vào giá thành theo những tiêu thức thích hợp. Đặc điểm nổi bật là các chi phi trong KTTC được phân loại theo bản chất kinh tế, việc phân loại này chỉ mang tính tổng quát mà chưa cung cấp được các thông tin cần thiết để tính toán giá thành trong KTQT. Do đó các chi phí của KTTC khi chuyển sang KTQT, đại bộ phận chi phí được đưa vào giá thành, những khoản chi phí này gọi là chi phí phân bổ. Tuy nhiên có một số khoản chi phí không được đưa vào giá thành, gọi là chi phí không phân bổ. Như vậy, chi phí không phân bổ là những chi phí mà ở KTTC được coi là chi phí nhưng ở KTQT lại không coi đó là chi phí và không được tính vào giá thành. Ngược lại, có một số khoản mục ở KTTC không coi là chi phí như tiền lương của chủ doanh nghiệp, lãi cố định hàng năm của cổ đông…nhưng được KTQT phản ánh vào giá thành. Các khoản này được KTQT gọi là chi phí bổ sung. Mối quan hệ giữa chi phí của KTTC và KTQT được thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ 07: Mối quan hệ giữa chi phí của KTTC và KTQT Chi phí kế toán tổng quát (KTTC) Chi phí không phân bổ Chi phí phân bổ Chi phí phân tích (KTQT) Chi phí bổ sung Chi phí trực tiếp Chi phí gián tiếp Các trung tâm chính Trung tâm hành chính quản trị Trung tâm tài chính Trung tâm quản lý dịch vụ … Trung tâm tiếp liệu(mua hàng) Trung tâm chế tạo(sản xuất) Trung tâm thương mại bán hàng … Giá phí và giá thành sản phẩm 2.1.3.2. Một số kinh nghiệm về lĩnh vực KTQT của một số nước trên thế giới Qua hai mô hình nêu trên có thể nhận thấy, mặc dù kế toán đã có sự phân chia song KTTC và KTQT vẫn tồn tại song song với nhau và KTQT đang dần phát huy vai trò quan trọng tron việc cung cấp thông tin cho công tác quản lý và kiểm soát chi phí. KTQT sử dụng thông tin do KTTC cung cấp đồng thời thu thập thông tin liên quan tới tương lai một cách cụ thể và chi tiết nhằm thực hiện chức năng quản lý. Ở các nước như Mỹ, Pháp – nơi có hệ thống kế toán phát triển và tương đối hoàn chỉnh thì kế toán đều nhấn mạnh đến tính linh hoạt, kịp thời trong việc xác định chi phí, không bị ràng buộc bởi các quy định, pháp lý mà thể hiện mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là đạt được lợi nhuận cao nhất. Ở mỗi nước, do có sự khác nhau về kinh tế và tài chính nên việc áp dụng theo mô hình nào tuỳ thuộc vào điều kiện thực tế của nước đó. Song qua thực tế áp dụng hai mô hình trên ở một số nước trên thế giới mà tiêu biểu là Mỹ và Pháp, có thể rút ra một số kinh nghiệm sau: Thứ nhất, đối với mô hình kết hợp: Mô hình này có ưu điểm: - Kết hợp chặt chẽ giữa quản lý tổng hợp do KTTC đảm nhiệm và quản lyd chi tiết theo từng chỉ tiêu do KTQT phụ trách. - Việc phân công trách nhiệm cho từng người được thực hiện dễ dàng, đơn giản và tạo điều kiện kiểm soát được khối lượng công việc của từng nhân viên trong phòng kế toán. - Quá trình thu thập và xử lý thông tin được kế toán tiến hành nhanh chóng. - Tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng máy tính trong quá trình làm việc, tiết kiệm công sức và thời gian cho kế toán. Tuy nhiên, mô hình này lại mang nhược điểm nổi bật là không tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyên môn hoá giữa KTTC và KTQT, không phát huy được chức năng của từng loại kế toán đó. Từ đó hạn chế đến công tác quản lý nội bộ. Thứ hai, đối với mô hình tách rời: Mô hình này khắc phục được nhược điểm của mô hình kết hợp, tạo điều kiện phát huy vai trò của KTTC và KTQT trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, mô hình này cũng mang một số nhược điểm chủ yếu sau: - Do KTTC và KTQT hoạt động độc lập nên không có sự kết hợp chặt chẽ giữa việc quản lý tổng hợp và quản lý cụ thể. - Do có sự luân chuyển chứng từ giữa các bộ phận nên làm giảm thời gian thu nhận và xử lý các thông tin. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Phương pháp phân tổ Phân loại các khoản mục chi phí theo yêu cầu của quản trị thông qua các tiêu thức chi phí thích hợp nhằm đánh giá chính xác mức độ hợp lý của các khoản mục chi phí đó trong doanh nghiệp và từ đó rút ra kết luận. Áp dụng trong đề tài là các bảng chi phí đựơc tập hợp theo tiêu thức, theo yếu tố chi phí… 2.2.2. Phương pháp thống kê kinh tế Phương pháp này nghiên cứu các hiện tượng kinh tế xã hội số lớn, xảy ra ở nhiều nơi trong nhiều điều kiện. Chính vì vậy với mục tiêu là tìm ra tính quy luật của những hiện tượng phức tạp đó, phương pháp đi sâu tiến hành điều tra thu thập tài liệu trên cơ sở quan sát số lớn, tổng hợp và hệ thống hoá các tài liệu trên cơ sở phân tổ thống kê và cuối cùng phân tích mối quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau giữa các hiện tượng. Áp dụng trong đề tài là các bảng so sánh tình hình thực hiện chi phí qua các kỳ… 2.2.3. Phương pháp chuyên gia Đây là phương pháp nghiên cứu khoa học dựa trên ý kiến của các chuyên gia. Thông qua đó có thể nắm bắt được cả về lý luận và thực trạng của vấn đề nhằm đưa ra định hướng phù hợp. Trong đề tài, phương pháp này được xưyên suốt quá trình nghiên cứu, đó là các ý kiến về xây dựng định mức chi phí và kiểm soát chi phí của các phòng ban có liên quan. 2.2.4. Phương pháp cân đối Phương pháp này dựa trên những tính toán cân đối để rút ra kết luận. Áp dụng trong đề tài là việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới chi phí sản xuất trong kỳ từ đó có sự điều chỉnh kịp thời những ảnh hưởng xấu, lập lại sự cân đối trong sự phát triển chung. 2.2.5. Phương pháp kế toán quản trị Phương pháp này dựa trên các báo cáo về quan hệ giữa thu nhập- chi phí- lợi nhuận để cung cấp cho thông tin cho nhà quản lý Công ty. Từ đó nhà quản lý đưa ra quyết định trong ngắn hạn, dài hạn đồng thời cung cấp thông tin cho việc lập kế hoạch sản xuất, định gia sản phẩm. Áp dụng trong đề tài là dựa trên các báo cáo thu nhập theo phương pháp lãi đóng góp của các năm, của các sản phẩm từ đó đưa ra quyết định có nên đầu tư cho hợp đồng kinh tế này không, có nên nhận đơn đặt hàng không?.... PHẦN III KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Giới thiệu điểm nghiên cứu 3.1.1. Giới thiệu chung về Công ty - Tên tổ chức kinh doanh: Công ty cổ phần công nghiệp tàu thuỷ Nam Hà - Địa chỉ: Số 2 Đê sông Đào - phường Trần Quang Khải –TP Nam Định - Tên giám đốc: PHẠM HÀO QUANG - Điện thoại: 03503849797 Fax: 03503867132 - Tài khoản số: 1020000363178 Tại Ngân hàng: Công thương tỉnh NĐ - Mã số thuế: 0600340784 3.1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Công ty cổ phần công nghiệp tàu thuỷ Nam Hà trực thuộc Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam, nay là Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam là một thành viên thuộc tổng công ty 91 do nhà nước điều hành và quản lý. Nó được ra đời từ tháng 12 năm 1960, toàn bộ nguồn vốn xây dựng, mua sắm máy móc thiết bị, nguyên liệu đều do Nhà nước cấp. Tiền thân của công ty cổ phần công nghiệp tàu thuỷ Nam Hà là xí nghiệp 1-5 thuộc tỉnh Nam Hà cũ kết hợp với xí nghiệp Xà Lan 1-5. Năm 1993, sau khi chia tách tỉnh Ninh Bình ra xí nghiệp Xà Lan 1-5 đổi tên là Nhà máy đóng tàu Nam Hà thuộc sở giao thông tỉnh Nam Hà cũ quản lý. Đến ngày 01/07/1996 Nhà máy đóng tàu Nam Hà chuyển về Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam quản lý. Ngày 12/05/2008 nhà máy đóng tàu Nam Hà đổi tên thành công ty cổ phần công nghiệp tàu thuỷ Nam Hà. Công ty cổ phần công nghiệp tàu thuỷ Nam Hà hình thành là một trong những công ty đóng tàu đủ điều kiện hạn chế đóng tàu đi biển trong khu vực Đông Nam Á thoả mãn cấp II, là nhà máy lớn thuộc khu vực Đồng bằng Sông Hồng. Cho đến nay công ty cổ phần công nghiệp tàu thuỷ Nam Hà luôn được Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam đặt ở vị trí chiến lược đóng phương tiện có trọng tải 5000T trở lại. 3.1.1.2 Đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty 3.1.1.2.1. Sản phẩm chủ yếu + Đóng mới phương tiện vận tải đường sông, đường biển có trọng tải từ 1.000T đến 5.000T. + Sửa chữa phương tiện vận tải đường sông và đường biển có trọng tải từ 1.000T đến 5.000T. 3.1.1.2.2. Nhiệm vụ: + Đóng mới, sửa chữa và phục hồi phương tiện vận tải tàu thuỷ, sản xuất sản phẩm công nghiệp khác. + Tổ chức thiết kế các loại sà lan tự hành vừa và nhỏ có công suất máy tính nhỏ hơn hoặc bằng 200 mã lực. + Nạo vét luồng lạch, san lấp mặt bằng. + Sản xuất xây dựng khung nhà thép. 3.1.1.2.3. Thị trường của Công ty Sản phẩm của Công ty hiện nay đang có mặt ở hầu hết các tỉnh thuộc đồng bằng Sông Hồng. Công ty cổ phần công nghiệp đóng tàu Nam Hà đã tham gia xây dựng cầu cáp Nam định, tàu đẩy, tàu kéo. Với thành tích trên Công ty đã được trao tặng huân chương hạng 2 và hạng 3. Năm 2002, chính phủ quyết định chỉ thị đầu tư cung cấp cho ngành đóng tàu trong nước và đầu tư dự án cho vay để đóng tàu vận tải thúc đẩy kinh tế thương mại dịch vụ phát triển. Với thực trạng của Công ty, được sự quan tâm của Bộ giao thông vận tải, Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam công ty được nâng cấp cơ sở hạ tầng với dự án 29 tỷ đồng. Đây cũng là cơ hội hiếm có đóng dấu một bước ngoặt lịch sử sang một trang khác trong quá trình hình thành và phát triển của Công ty. Qua 49 năm xây dựng và trưởng thành, vừa mua sắm đổi mới, đầu tư máy móc thiết bị, nâng cao trình độ sản xuẩt đổi mới công nghệ, nên sản phẩm của Công ty phong phú, chất lượng sản phẩm cao, mẫu mã đẹp có uy tín trên thị trường. Nhờ đổi mới cơ chế Công ty cổ phần công nghiệp tàu thuỷ Nam Hà đã năng động khai thác khách hàng có nhu cầu sản xuất… Chính vì thế đến nay (năm 2008) doanh thu của Nhà máy đạt 235 tỷ đồng. 3.1.1.3. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý tại Công ty CPCNTT Nam Hà Sơ đồ 08: Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty CPCNTT Giám đốc Phó giám đốc phụ trách kinh doanh Phó giám đốc phụ trách sản xuất Phòng tài chính kế toán Phòng vật tư Phòng tổ chức hành chính Phòng kế hoạch kỹ thuật Phân xưởng vỏ tàu Phân xưởng máy cơ điện (Nguồn: Phòng tổ chức hành chính) Qua quá trình hoàn thiện tổ chức cơ cấu, hiện nay Công ty có bộ máy quản lý gọn nhẹ, phù hợp với quy mô hiện tại. Bộ máy quản lý của Công ty bao gồm: Ban giám đốc, các phòng ban, phân xưởng. Ban giám đốc: Hiện nay ban giám đốc của Công ty bao gồm: 1 giám đốc và 2 phó giám đốc. Giám đốc Công ty là người đứng đầu Công ty đại diện cho cán bộ công nhân viên Công ty điều hành và chỉ huy mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, đời sống vật chất và là người chịu trách nhiệm cao nhất với Nhà nước về hoạt động kinh doanh của Nhà nước. Các phòng ban: Được tổ chức theo yêu cầu quản lý sản xuất kinh doanh chịu sự chỉ đạo trực tiếp của ban Giám đốc, là bộ máy tham mưu cho Ban giám đốc có quan hệ mật thiết cùng nhau quản lý kiểm soát quá trình sản xuất của Công ty từ đó tính toán được hiệu quả kinh doanh. Đề xuất với ban Giám đốc những biện pháp tháo gỡ khó khăn đẩy mạnh sản xuất với mục đích sản xuất liên tục, ổn định, phát triển. Công ty cổ phần công nghiệp tàu thuỷ Nam Hà có 4 phòng ban chức năng: * Phòng tài chính kế toán: Gồm 7 người chịu trách nhiệm trong việc tổ chức công tác kế toán theo đúng chế độ nguyên tắc của Nhà nước ban hành, theo dõi quản lý chặt chẽ vốn và tài sản, giám sát các khoản thu chi trong mọi hoạt động kinh doanh. Tập hợp chi phí tính giá thành một cách chính xác đầy đủ, cung cấp kịp thời những thông tin kinh tế cho giám đốc để ban giám đốc nắm bắt được tình hình sản xuất từ đó có những biện pháp hữu hiệu tháo gỡ khó khăn thúc đẩy sản xuất phát triển, phát huy luân chuyển vốn nhanh. * Phòng vật tư: Gồm 4 người cung cấp đầy đủ vật tư phục vụ kịp thời cho sản xuất, giám sát cấp phát đúng định mức vật tư theo đúng phương án kỹ thuật, quản lý kho tàng, vật tư đảm bảo chất lượng an toàn không bị thất thoát. * Phòng tổ chức hành chính: Gồm 8 người chịu trách nhiệm sắp xếp nơi làm việc, chỗ ăn, ở sinh hoạt và chăm lo sức khoẻ cho CBCNV, hỗ trợ những đơn vị khác cùng hoàn thành nhiệm vụ của Công ty giao cho. * Phòng kế hoạch kỹ thuật: Gồm 10 người có chức năng lập kế hoạch sản xuất theo kỳ báo cáo, ký hợp đồng nghiệm thu và thanh toán các sản phẩm theo dõi giám sát quá trình thi công, quản lý vật tư bằng những phương pháp kỹ thuật cụ thể qua từng sản phẩm đồng thời theo dõi chất lượng sản phẩm. 3.1.1.4. Hệ thống tổ chức sản xuất và quy trình công nghệ của Công ty 3.1.1.4.1. Hệ thống tổ chức sản xuất Hoạt động sản xuất tại Công ty diễn ra ở 2 phân xưởng mỗi phân xưởng có 1 quản đốc điều hành. Phân xưởng vỏ tàu: Chủ yếu thực hiện thi công chế tạo phần vỏ tàu gồm: - 10 tổ sắt hàn - 1 tổ sơn trang trí Phân xưởng máy cơ điện: Chủ yếu thực hiện thi công chế tạo lắp ráp phần động cơ và sửa chữa động cơ gồm: - 3 tổ máy chuyên lắp đặt và sửa chữa - 1 tổ điện phay tiện các thiết bị cho tàu và dụng cụ cơ khí sản xuất - 1 tổ điện chuyên lắp đặt và sửa chữa điện cho các con tàu và Công ty - 1 kích kéo để lên đà và hạ thuỷ các sản phẩm - 3 tổ sắt hàn chuyên sửa chữa các phương tiện Sơ đồ 09: Tổ chức sản xuất của Công ty Bộ phận sản xuất Bộ phận sản xuất chính Bộ phận phục vụ sản xuất Bộ phận sản xuất phụ Cắt Xử lý bề mặt Đường và kiểu mẫu Hàn Sửa chữa máy thiết bị Dụng cụ điện Lắp ráp xử lý thiết bị Gọt (Nguồn: Phòng kỹ thuật) 3.1.1.4.2. Quy trình công nghệ đóng mới và sửa chữa Để sản xuất thành một con tàu hoàn thiện Công ty phải ứng dụng những công nghệ như: cắt, gọt, hàn, công nghệ mạ, xử lý bề mặt, lắp ráp máy móc thiết bị, thực hiện khâu trực tiếp sản xuất có các phân xưởng cơ khí, phân xưởng máy cơ điện, qua đó ta có quy trình sản xuất như sau: Khi nhận được đơn đặt hàng dựa trên hợp đồng kinh tế Công ty mua hoặc thiết kế bản vẽ theo đơn đặt hàng, sau khi có bản vẽ phòng kỹ thuật phóng dạng hạ liệu với các thông số kỹ thuật của tàu từ đó lập phương án kỹ thuật của từng phần, từng công đoạn, đồng thời bố trí sàn gá để lắp ráp vỏ tàu. Khi vỏ tàu đã được lắp ráp tiến hành hàn, sơn khi phần vỏ tàu hoàn thành tiến hành lắp máy. Khi tàu hoàn thiện cho hạ thuỷ chạy thử 48 giờ tại bến để theo dõi. Nếu đảm bảo cho chạy thử đường dài theo yêu cầu của khách hàng. Cuối cùng khi được sự chấp thuận của khách hàng hai bên tiến hành giao xuất xưởng. * Quy trình công nghệ đóng mới tàu được thực hiện như sau: (1) Khi nhận được đơn đặt hàng của khách, khách hàng gặp nhân viên kỹ thuật để vẽ thiết kế tàu. (2) Bản vẽ kỹ thuật sau khi hoàn thành được dùng làm căn cứ để phóng dạng tàu. (3), (4) sau khi phóng dạng tàu xác định được các thông số kỹ thuật phòng kế hoạch lập phương án sản xuất đồng thời làm sản xuất đông thời làm sản gá để đỡ khung tàu. (5), (6) Sau khi làm sàn gá và lập phương án kỹ thuật triển khai lắp ráp vỏ tàu. (7) Khi lắp ráp vỏ tàu cần phải hàn, sơn, lắp máy (8) Sau khi tàu đã hoàn thành lắp ráp khung tàu và trang bị máy móc thì hạ thuỷ tàu. (9) Hoàn chỉnh trang thiết bị cho tàu sau đó tiến hành cho chạy thử tại bến (10) Tiến hành cho chạy thử đường dài (11) Chạy thử đường dài thành công tiến hành cho xuất xưởng và bàn giao. Sơ đồ 10: Quy trình sản xuất đóng mới tàu Đơn đặt hàng Phóng dạng Bản vẽ thiết kế Lập phương án Sàn gá Sơn Hàn Lắp ráp vỏ tàu Hạ thuỷ Lắp ráp Bàn giao xuất xưởng Chạy thử đường dài Chạy thử tại bến (1) (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (8) (9) (10) (11) (Nguồn:Phòng kỹ thuật) * Quy trình công nghệ sửa chữa tàu Sơ đồ 11: Quy trình công nghệ sửa chữa tàu Máy Đơn đặt hàng Sắt Phương án sửa chữa Kiểm tu Sơn chống rỉ Hàn Nghiệm thu thanh toán Chạy thử Hạ thuỷ H¹ thñy Ch¹y thö NghiÖm thu thanh to¸n Hµn M¸y S¬n gØ Ph­¬ng ¸n söa ch÷a S¾t (1) (1) (2) (3) (3) (4) (5) (6) (Nguồn: Phòng kỹ thuật) Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất sửa chữa tàu được giải thích như sau: Khi nhận được đơn đặt hàng phòng kế hoạch- kỹ thuật của Công ty tiến hành kiểm tra mức độ sửa chữa để lập phương án sửa chữa dự trù vật tư, nhân công…làm căn cứ để xuất kho vật tư giao cho từng bộ phận tiến hành hàn, sơn gỉ, lắp máy. Khi hoàn thành công việc sửa chữa cho tàu hạ thuỷ, chạy thử để nghiệm thu và thanh toán hợp lý hợp đồng. (1) Sau khi Công ty nhận được đơn đặt hàng phòng kỹ thuật tiến hành kiểm tra mức độ hư hỏng của tàu. (2) Sau khi kiểm tra lập phương án kỹ thuật để sửa chữa tàu (3) Chuẩn bị vật tư, nhân công để sửa chữa tàu như hàn, sơn lại (4) Hạ thuỷ tàu (5) Cho tàu chạy thử (6) Nghiệm thu thanh toán hợp đồng kinh tế. 3.1.1.5. Tổ chức công tác kế toán của Công ty 3.1.1.5.1. Bộ máy kế toán Xuất phát từ tổ chức sản xuất kinh doanh để phù hợp với yêu cầu quản lý, Công ty cổ phần công nghiệp đóng tàu Nam Hà được tổ chức theo hình thức kế toán tập trung. Theo hình thức này, phòng kế toán thực hiện công việc kế toán của đơn vị từ các phân xưởng đến các bộ phận trực thuộc. Các bộ phận trực thuộc không tổ chức bộ máy kế toán riêng mà các tổ trưởng làm nhiệm vụ ghi chép ban đầu thu nhận chứng từ gửi về phòng kế toán. - Kế toán trưởng: Là người đứng đầu điều hành mọi công việc trong phòng kế toán, tổ chức công tác tài chính của Công ty. - Phó trưởng phòng: Là người chịu trách nhiệm tham mưu giúp việc, điều hành, ngoài ra phải tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm, theo dõi kế toán thuế và nghiệm thu thanh toán các sản phẩm. - Kế toán tổng hợp: Là người chịu trách nhiệm lập báo cáo tài chính. - Kế toán thanh toán: chịu trách nhiệm thu chi, quan hệ giao dịch ngân hàng, theo dõi thanh toán các khoản nợ. - Kế toán quỹ: Thu chi các khoản liên quan đến tiền, ngoài ra còn theo dõi các khoản BHXH, BHYT, KPCĐ, hàng tháng thanh toán lương. - Kế toán vật liệu và TSCĐ: theo dõi nhập, xuất, tồn vật liệu, theo dõi sự biến động về tài sản, tính khấu hao TSCĐ. - Kế toán lương các bộ phận: chấm công và thanh toán lương, chế độ ốm đau thai sản, tai nạn lao động. Sơ đ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbao cao hoan chinh sua.doc
Tài liệu liên quan