Tìm hiểu biện pháp gây hứng thú học tập môn tiếng Anh của HS lớp 10 trường Trung học phổ thông (THPT) Trần Văn Thànnh

Đề tài nghiên cứu khoa học Lý Thị Thanh Trúc 1 MỤC LỤC Phần I : Những vấn đề chung I. Lí do chọn đề tài II. ĐốI tượng và phạm vi nghiên cứu III. Mục tiêu nghiên cứu IV. Nhiệm vụ nghiên cứu V. Phương pháp nghiên cứu VI. Giả thiết khoa học VII. Cơ sở và thờI gian nghiên cứu Phần II : Kết quả nghiên cứu Chương I :Cơ sở lí luận về biện pháp gây hứng thú học tập môn tiếng Anh cho học sinh I. Khái niệm II. Vai trò của môn tiếng Anh trong chương trình đào tạo III. Bản chất

pdf44 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 11473 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Tìm hiểu biện pháp gây hứng thú học tập môn tiếng Anh của HS lớp 10 trường Trung học phổ thông (THPT) Trần Văn Thànnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quá trình dạy và học môn tiếng Anh IV. Vai trò của hứng thú đốI vớI việc học môn tiếng Anh V. Các biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh khi giảng dạy môn tiếng Anh Chương II : Thực trạng hứng thú học tập môn tiếng Anh khốI 10 trường trung học phổ thông Trần Văn Thành I. Vài nét về tình hình của trường THPT Trần Văn Thành 1.Vài nét về tình hình kinh tế xã hộI địa phương 2. Tình hình trường THPT Trần Văn Thành II. Thực trạng về biện pháp gây hứng thú học tập môn tiếng Anh của giáo viên trường THPT Trần Văn Thành III. Mức độ hứng thú học tạâp môn tiếng Anh của học sinh khốI 10 trường tHPT Trần Văn Thành IV. Kết quả học tập môn tiếng Anh của học sinh khốI 10 trường THPT Trần Văn Thành V. Đánh giá chung Phần III : Kết luận và đề xuất ý kiến về cảI tiến biện pháp gây hứng thú học tập môn tiếng Anh cho học sinh I. Kết luận II. Những ý kiến đề xuất về cảI tiến biện pháp gây hứng thú học tập môn tiếng Anh cho học sinh Phụ lục 1 Phụ lục 2 Tài liệu tham khảo Đề tài nghiên cứu khoa học Lý Thị Thanh Trúc 2 Phần một: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Cùng với xu thế hội nhập toàn cầu và giao lưu văn hoá giữa các nước như hiện nay, sự gia tăng về nhu cầu học ngoại ngữ là điều không thể tránh khỏi. Được xem là ngôn ngữ chung trên thế giới, từ lâu tiếng Anh đã trở nên vô cùng phổ biến và là ngôn ngữ thứ hai của rất nhiều quốc gia trên thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng. Do đó, có thể khẳng định rằng việc dạy và học môn tiếng Anh chiếm vị trí rất quan trọng trong công tác giáo dục và đào tạo ở nước ta. Chính vì ý thức được tầm quan trọng cùng với sự tác động to lớn của tiếng Anh đối với sự phát triển to lớn của xã hội, Nhà nước cũng như Ngành Giáo Dục đã đề ra các chính sách khuyến khích học tập, phổ biến chương trình dạy tiếng Anh đến các bậc học và gần đây là cả ở bậc tiểu học. Việc phổ cập tiếng Anh ở các trường đại học, cao đẳng, trung học phổ thông ngày càng phát sinh những đòi hỏi ngày càng cao không chỉ về trình độ mà còn về phương pháp giảng dạy của giáo viên. Vì vậy nhiệm vụ cấp thiết được đặt ra là làm thế nào nâng cao được chất lượng đào tạo bên cạnh việc thúc đẩy hứng thú, khơi gợi niềm say mê học tập tiếng Anh nơi học sinh. Và có thể nói, vấn đề này đã, đang và sẽ không ngừng thu hút sự quan tâm của nhiều giáo viên có tâm huyết trong nghề. Đầu học kỳ II năm học 2002-2003, theo sự phân công thực tập của nhà trường, tôi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm và giảng dạy ở khối lớp 10 trường Trung học phổ thông Trần Văn Thành. Qua quá trình quan sát và giảng dạy, tôi nhận thấy rằng bên cạnh phần lớn các học sinh rất nhiệt tình say mê học tiếng Anh, vẫn có không ít những học sinh xem thường và không thích học môn này. Điều này dẫn đến kết quả bộ môn lẫn kết quả học tập toàn diện của các em không được khả quan. Với vai trò của một giáo viên giảng dạy bộ môn, tôi rất băn khoăn và cảm thấy mình có trách nhiệm phải suy nghĩ biện pháp để giúp các em thay đổi thái độ học tập, có cái nhìn mới đúng đắn hơn và hứng thú hơn đối với việc học tiếng Anh. Ngoài ra, do đã được trang bị những kiến thức về tâm lý học, giáo dục học, phương pháp giảng dạy bộ môn, tôi muốn vận dụng những gì mình đã tiếp thu ở trường sư phạm để giúp đỡ những học sinh chưa học tốt môn tiếng Anh, tăng hứng thú học tập của các em và qua đó rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân nhằm góp phần thiết thực nâng cao chất lượng Đề tài nghiên cứu khoa học Lý Thị Thanh Trúc 3 dạy học. Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “Tìm hiểu biện pháp gây hứng thú học tập môn tiếng Anh của học sinh khối lớp 10 trường trung học phổ thông Trần Văn Thành”. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: 1. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp gây hứng thú học tiếng Anh của học sinh. 2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ nghiên cứu các biện pháp gây hứng thú học tập bộ môn tiếng Anh của học sinh khối 10 trường THPT Trần Văn Thành huyện Châu Phú. Không đi sâu vào nghiên cứu cơ chế tâm lý. Đề tài nghiên cứu thực trạng diễn ra trong năm học 2003-2004. III. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: Hiểu được thực trạng và biện pháp gây hứng thú học tập bộ môn tiếng Anh của học sinh để từ đó có biện pháp làm cho học sinh thích thú học tập môn này. IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: 1. Nghiên cứu lý luận về học tập, phương pháp dạy học môn tiếng Anh ở trường trung học phổ thông. 2. Khảo sát thực trạng về hứng thú và kết quả học tập bộ môn tiếng Anh khối lớp 10 trường Trung học phổ thông Trần Văn Thành và biện pháp gây hứng thú học tập của giáo viên. 3. Đánh giá kết quả đạt được, rút ra kết luận và đề xuất ý kiến về cải tiến biện pháp gây hứng thú học tập môn tiếng Anh cho học sinh. Đề tài nghiên cứu khoa học Lý Thị Thanh Trúc 4 V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: V.1. Cơ sở phương pháp luận: -Các quan điểm triết học Mác-Lênin là cơ sở chủ yếu. -Lý thuyết hệ thống. V.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: 1. Phương pháp đọc sách và nghiên cứu tài liệu (các tài liệu có liên quan đến đề tài) để tìm hiểu cơ sở lý luận. 2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: -Mục đích sử dụng: dùng phương pháp điều tra bằng phiếu để biết hứng thú học tập cuả học sinh. -Chọn mẫu: chọn 03 lớp 10 một cách ngẫu nhiên (do vào đầu năm học, học sinh lớp 10 đã được phân bố đều theo trình độ vào các lớp) tổng số 120 phiếu. 3. Phương pháp quan sát: Dự 06 tiết dạy tiếng Anh của giáo viên (rải đều ở 03 lớp). Dự 03 buổi tự học, học thêm của học sinh. 4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Xem hồ sơ, sổ sách của giáo viên. Xem tập học, bài làm của học sinh. Xem các số liệu sơ kết, tổng kết của các đợt kiểm tra chất lượng, thi học kỳ. 5. Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn: Mục đích: tìm hiểu động cơ, tinh thần, thái độ dạy và học, biện pháp gây hứng thú học tập. Chọn mẫu phỏng vấn: • 03 giáo viên tiếng Anh dạy khối lớp 10. • Tổ trưởng chuyên môn tiếng Anh. • Phó Hiệu trưởng chuyên môn Đề tài nghiên cứu khoa học Lý Thị Thanh Trúc 5 • Hiệu trưởng • 10 học sinh lớp 10 (chọn ngẫu nhiên) VI. GIẢ THHUYẾT KHOA HỌC: Còn một bộ phận học sinh khối lớp 10 thiếu hứng thú học tập môn tiếng Anh và làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy học bộ môn. Nếu như có biện pháp tốt hơn gây hứng thú học tập cho học sinh thì chất lượng học tập sẽ tốt hơn. VII. CƠ SỞ VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU: 1. Cơ sở: Trường trung học phổ thông Trần Văn Thành thị trấn Cái Dầu, huyện Châu Phú. 2. Thời gian: Từ 02/2004 đến 04/2004. Đề tài nghiên cứu khoa học Lý Thị Thanh Trúc 6 Phần hai: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ HỌC TẬP BỘ MÔN TIẾNG ANH CHO HỌC SINH I. KHÁI NIỆM: 1. Hứng thú: Theo từ điển bách khoa tiếng Việt: “Hứng thú là hình thức biểu hiện tình cảm và nhu cầu nhận thức của con người nhằm ý thức một cách hào hứng về mục đích hoạt động, nhằm tìm hiểu sâu hơn, phản ánh đầy đủ hơn đối tượng trong đời sống hiện thực” và “Hứng thú tạo nên ở chủ thể khát vọng được tiếp cận và đi sâu vào đối tượng, làm nảy sinh cảm xúc tích cực (hài lòng, phấn khởi, yêu thích,...), nâng cao mức tập trung, chú ý và khả năng làm việc. Khi được làm việc phù hợp với hứng thú, dù phải vượt qua khó khăn, con người vẫn cảm thấy thoải mái và đạt kết quả cao”. Trong tâm lý học,cho đến nay, vấn đề tìm hiểu hứng thú như thế nào vẫn đang là vấn đề được tranh luận. Theo X. A. Ananhin: “Hứng thú là một hiện tượng độc lập trong đời sống tâm lý cá nhân”. Không tán thành với ý kiến của ông, một số nhà tâm lý học Xô Viết lại quy cho hứng thú là: “nhu cầu đã được nhận thức”. Trong khi đó, một số người coi hứng thú là thái độ nhận thức, một số coi là xu hướng chú ý và gần đây đa số các nhà tâm lý học lại có xu hướng thiên về định nghĩa: “Hứng thú là thái độ nhận thức của cá nhân đối với hiện thực”. [5,Tr.234] Quan niệm này mang tính phiến diện.Thế còn mối quan hệ giữa nhận thức và hứng thú thì sao? Mỗi hứng thú đều bao hàm một mức độ nào đó, một thái độ nhận thức của cá nhân đối với đối tượng; tuy nhiên, không thể quy hứng thú về thái độ này. Còn hứng thú và chú ý? Thật ra, hứng thú ,dĩ nhiên cũng không thể đồng nhất với chú ý. Chú ý có thể hướng về những đối tượng mà ta không thấy thích thú gì nhưng vì lý do có ý thức về tầm quan trọng, về sự cần thiết mà phải nghiên cứu đối tượng đó. Bên cạnh đó, không phải bất kỳ một thái độ cảm xúc nào cũng gây nên hứng thú – là một biểu hiện Đề tài nghiên cứu khoa học Lý Thị Thanh Trúc 7 xu hướng đặc biệt của cá nhân nhằm nhận thức những hiện tượng nhất định của cuộc sống xung quanh, đồng thời biểu hiện thiên hướng tương đối cố định của con người đối với các hoạt động. Hứng thú có ý nghĩa quan trọng trong đời sống và trong hoạt động của con người. Con người thường cảm thấy sống hạnh phúc và đầy đủ khi có hứng thú. Hứng thú muôn màu, muôn vẻ cũng như những hoạt động đa dạng của con người. Căn cứ vào nội dung và chiều hướng của hứng thú mà người ta chia nó thành nhiều loại, chẳng hạn như hứng thú vật chất, hứng thú đọc sách, hứng thú phát minh,… Từ những khái niệm về hứng thú như trên, tôi nhận thấy rằng hứng thú là thái độ lựa chọn đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng đem lại niềm thích thú, khoái cảm cho cá nhân đó trong quá trình hoạt động. Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung chú ý cao độ, ở sự say mê hấp dẫn bởi nội dung hoạt động ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú. 2. Học tập: Học tập là quá trình hoạt động của học sinh một cách tự giác, tích cực; nhận sự chỉ dẫn của giáo viên nhằm tiếp thu nền văn hoá của nhân loại để chuyển thành trí tuệ và nhân cách của bản thân để trở thành người lao động thông minh và sáng tạo. Hứng thú học tập là thái độ lựa chọn đặc biệt của cá nhân khi đứng trước mâu thuẫn giữa nhiệm vụ học tập do giáo viên đề ra với trình độ tri thức của học sinh, làm cho các em say mê tìm tòi sáng tạo để tìm ra lời giải đáp phù hợp với yêu cầu của giáo viên đề ra. Giáo viên là người tổ chức nhận thức cho học sinh; học sinh là chủ thể của nhận thức, sử dụng các phương tiện học tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên và sự hỗ trợ của tập thể lớp để tiếp thu tri thức thành kỹ năng, kỹ xảo. Quá trình nhận thức của học sinh đi theo quy luật nhận thức chung của loài người: “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng trở về thực tiễn”, và như vậy, yếu tố trực quan sinh động trong quá trình dạy học như những sự vật, hiện tượng, mô hình, tranh vẽ, chuyện kể của giáo viên tác động vào giác quan của học sinh tạo nên những biểu tượng – đó là những tài liệu cảm tính cần thiết. Trên cơ sở những tài liệu cảm tính ấy, học sinh tư duy trừu tượng, và Đề tài nghiên cứu khoa học Lý Thị Thanh Trúc 8 dưới sự hướng dẫn của giáo viên, các em sẽ gạt bỏ những cái vụn vặt, thứ yếu, chỉ giữ lại những dấu hiệu bản chất. Kết quả là học sinh nắm được những khái niệm khoa học dưới dạng định nghĩa, định lý, công thức hay nguyên tắc. Sau đó, người giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh vận dụng các khái niệm mới hình thành vào thực tiễn thông qua việc giải bài tập thực hành hay thí nghiệm, giải quyết những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn trong cuộc sống. 3. Hứng thú học tập môn tiếng Anh: Hứng thú học tập môn tiếng Anh là xu hướng tâm lý của học sinh có nhu cầu đúng đắn về học tập môn này. Học sinh có hứng thú thường chú ý cao độ trong học tập trên lớp và ngoài giờ; thường xuyên say mê rèn luyện kỹ năng nghe, đọc, nói, viết ; tích cực vận dụng vào giao tiếp và cuộc sống; đam mê tìm hiểu, nghiên cứu; không ngừng nâng cao trình độ học tiếng Anh và luôn thực hiện tốt những yêu cầu do giáo viên đề ra. Chính vì thế, ta có thể nói khi có được hứng thú, học sinh sẽ say mê tìm tòi trong học tập và một khi đã có hứng thú học tập môn tiếng Anh thì việc học giỏi môn này sẽ không là trở ngại lớn đối với các em. II. VAI TRÒ CỦA MÔN TIẾNG ANH TRONG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG: Trong giai đoạn giao lưu hội nhập, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở đất nước ta hiện nay, việc tự trang bị tri thức khoa học hiện đại đã trở thành một nhu cầu tất yếu đối với giới trẻ. Trong đó, ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh đóng vai trò rất quan trọng vừa là chìa khoá mở ra thành công trong tương lai, vừa là yếu tố cơ hội mang đến những vận may cho nghề nghiệp và thành đạt sau này. Xét theo khía cạnh xã hội, việc học tiếng Anh đã trở thành trào lưu ở Việt Nam hay đơn giản hơn có thể gọi là “mốt”. Tuy vẫn có trường hợp chưa xác định được mục đích rõ ràng cho việc học của mình nhưng đa số các bạn trẻ đều nhận thấy tầm quan trọng của khả năng biết thêm một ngoại ngữ quốc tế như thế nào. Điều này lí giải tại sao hàng loạt các trung tâm ngoại ngữ đã mở ra trên cả nước với hình thức và quy mô đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng này. Đối với học sinh, sinh viên, tiếng Anh đã trở thành công cụ để tiếp nhận tri thức khoa học tiên tiến, có được tiêu chuẩn thiết yếu khi du học, tìm kiếm được việc làm tốt trong tương lai. Và không chỉ riêng họ ý thức được Đề tài nghiên cứu khoa học Lý Thị Thanh Trúc 9 điều này, ngay đến cán bộ, công nhân viên chức ở các lĩnh vực ngành nghề không phân biệt tuổi tác ngày ngày vẫn đến các trung tâm ngoại ngữ trau dồi kiến thức. Bởi họ hiểu rằng việc học tiếng Anh không những giúp họ hoàn thành tốt công tác của mình, đặc biệt trong lĩnh vực giao tiếp mà còn là hình thức giúp họ không bị tụt hậu so với thời đại. Thậm chí đến lứa tuổi thiếu nhi cũng thích học tiếng Anh để giao tiếp với người nước ngoài, chơi game và sâu xa hơn là để có được kiến thức nền về ngoại ngữ ngay từ nhỏ. Như vậy, không có gì là quá phóng đại khi nhận định rằng trong xã hội hiện nay mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề đều cần đến tiếng Anh. Xét theo khía cạnh văn hóa, tiếng Anh đả trở thành nhịp cầu nối liền các nền văn hoá trên thế giới. Bởi như chúng ta đã biết về việc học một ngoại ngữ không có nghĩa chỉ học về ngôn ngữ mà còn là cả một quá trình tìm hiểu về con người, đất nước, truyền thống của quốc gia ấy. Thông qua việc học tiếng Anh, chúng ta hiểu thêm về nền văn minh khác đầy hấp dẫn và mới lạ. Vì vậy, lúc này ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh – xét theo khía cạnh lớn hơn đã trở thành một phần của việc giao lưu văn hoá nhân loại. Chính từ việc ý thức rõ tầm quan trọng và khả năng tác động to lớn của tiếng Anh đối với sự phát triển của xã hội, trong những năm gần đây, Chính phủ ta, cụ thể là ngành giáo dục đã sớm phổ biến chương trình dạy tiếng Anh vào các bậc học từ đại học, cao đẳng đến phổ thông và cả bậc tiểu học. Cụ thể, theo qui định của Bộ giáo dục về phân phối chương trình môn Anh văn thì tổng thời gian trong một năm học là 99 tiết đối với các khối lớp 10, 11,12; chiếm thời lượng khá lớn so với tổng số tiết các môn học khác. Học ngoại ngữ - tiếng Anh không còn là sự bắt buộc về tính chất mà thực tế đã trở thành nhu cầu chung xuất phát từ lợi ích hiển nhiên của nó. Và thực tế này khiến chúng ta nhận thức được nhiệm vụ quan trọng của những nhà sư phạm trong thời điểm hiện tại là làm thế nào nâng cao chất lượng học tập môn tiếng Anh của học sinh, thúc đẩy các em hứng thú học tập đạt kết quả cao hơn, tốt hơn cũng chính là góp phần củng cố vị thế xứng đáng của môn tiếng Anh trong chương trình đào tạo. III. BẢN CHẤT QUÁ TRÌNH DẠY VÀ HỌC MÔN TIẾNG ANH: Xuất phát từ tính chất đặc thù của môn tiếng Anh, quan điểm giao tiếp (communicative) mang tính chủ đạo. Quan điểm giao tiếp quy định “tính giáo Đề tài nghiên cứu khoa học Lý Thị Thanh Trúc 10 tiếp” của hoạt động dạy-học ngoại ngữ. Môn ngoại ngữ đòi hỏi nhận thức và sự giải quyết hợp lý các mối quan hệ giữa kiến thức và kỹ năng đây cũng chính là trung tâm, là mục đích cuối cùng của quá trình dạy-học. Kiến thức là phương tiện, là nền tảng. Tuy nhiên, nếu chỉ có kiến thức mà không có kỹ năng thì sẽ không có khả năng giao tiếp, ngược lại nếu chỉ có kỹ năng mà không có kiến thức thì khả năng giao tiếp cũng bị hạn chế, không phát triển được. Quá trình dạy-học ngoại ngữ thực chất là quá trình hoạt động rèn luyện kỹ năng dưới các hình thức nghe-nói-đọc-viết. Muốn rèn luyện được đòi hỏi phải có môi trường tình huống đa đạng trong cuộc sống. Môi trường này chủ yếu do người giáo viên tạo ra dưới dạng các tình huống giao tiếp và học sinh phải tìm cách ứng xử bằng ngoại ngữ sao cho phù hợp với từng tình huống giao tiếp cụ thể. Khi học ngoại ngữ nói chung, tiếng Anh nói riêng, học sinh vừa học ngôn ngữ đồng thời tiếp cận với một đất nước khác, một nền văn hoá xa lạ. Mức động tiếp cận càng cao thì quá trình dạy học sẽ diễn ra càng thuận lợi và đạt hiệu quả. Điều này đòi hỏi sự vận dụng nhiều phương tiện dạy học, thiết bị nghe nhìn, nghe nói và nhiều hình thức dạy học linh hoạt. Chính vì tầm quan trọng to lớn của tiếng Anh, nhiệm vụ được đặt ra hiện tại là làm sao để học sinh nhận thức được tầm quan trọng ấy và nhiệm vụ trọng yếu của người giáo viên làm kích thích niềm hứng thú của học sinh đối với việc học môn này bằng sự vận dụng đa dạng phù hợp với các biện pháp. IV. VAI TRÒ CỦA HỨNG THÚ ĐỐI VỚI VIỆC HỌC MÔN TIẾNG ANH: Trong các tuyển tập tài liệu về tâm lý và giáo dục học, chúng ta đã xét đến một số quy luận chung của quá trình nắm vững kiến thức, những phương pháp và thủ thụât quan trọng nhất của việc phát huy tính tích cực trong nhận thức của học sinh nhằm hiểu và lĩnh hội được tài liệu học tập. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy rằng ngay cả những phương pháp hoàn hảo nhất không phải bao giờ cũng dẫn tới mục đích như mong muốn. Về thực chất, hệ thống các phương pháp và thủ thuật mà giáo viên áp dụng trong bài giảng thi lên lớp là chung cho mọi học sinh. Thế nhưng, sự tiếp thu của các em là khác nhau dẫn đến kết quả khác nhau mà phát triển cũng khác nhau. Trong số này sẽ có những học sinh yếu bên cạnh những em học khá, giỏi, những em nhanh trí hay chậm hiểu, có Đề tài nghiên cứu khoa học Lý Thị Thanh Trúc 11 em ham tìm tòi, hiểu biết nhưng cũng có em lại bàng quang với việc học. Như thế có nghĩa là vấn đề không chỉ dừng ở bản thân các phương pháp giảng dạy. Còn có điều gì đó ảnh hưởng cơ bản đến kết quả học tập và những nhà sư phạm phải tính đến khi tổ chức công tác dạy học ở nhà trường. Hàng loạt những công trình nghiên cứu sinh lý học cho thấy rằng khả năng tiềm tàng của bộ óc trong hoạt động trí tuệ của con người còn lâu mới được sử dụng hết. Thực tế, chỉ khoảng 10-15% khả năng đó được sử dụng và do vậy dẫn đến sự khác biệt về khả năng trí tuệ mà ta có thể nhận thấy giữa người này với người khác. Điều này không hẳn phụ thuộc vào bản tính sinh học của họ mà chủ yếu là vào những ảnh hưởng khác nhau của môi trường và sự giáo dục. Chính điều này cũng được thể hiện qua những dẫn liệu thực tiễn ở trường học. Thực tế có rất nhiều trường hợp học sinh học kém ở tiểu học nhưng khi được trải qua quá trình giảng dạy rèn luyện của giáo viên giỏi ở các lớp trung học cơ sở lại bắt đầu có những tiến bộ rõ rệt và bộc lộ tiềm năng lớn trong học tập. Tuy nhiên, cũng thật đáng tiếc khi không có ít những trường học những học sinh giỏi hoặc xuất sắc ở tiểu học, trung học cơ sở lại đột nhiên có biểu hiện sút kém ở bậc trung học phổ thông. Hiển nhiên trong những trường hợp trên, nguyên nhân không phải là bản tính sinh học mà là những biến đổi trong chất lượng học tập khi học sinh chuyển từ giáo viên này sang giáo viên khác. Trong khi đó, cũng có trường hợp giáo viên giỏi, nắm vững phương pháp dạy bộ môn của mình nhưng một số học sinh vẫn không đặc biệt say sưa học tập và có thái độ thụ động trong giờ học. Điều này sẽ được lý giải như thế nào? Ở đây, ta đã đụng chạm đến một “nhân tố bên trong” có ảnh hưởng đến tính tích cực nhận thức của học sinh, bất kỳ một tác động bên ngoài nào cũng thông qua sự tiếp ứng tâm lý học nhất định – tích cực hoặc tiêu cực. Chính phản ứng này sẽ xác định tính chất của tính tích cực của học sinh. Khi tiếp nhận những tác động bên ngoài (sự giảng dạy) một cách tích cực, các em dễ biểu lộ tính tích cực nhận thức và cố gắng lĩnh hội bài. Ngược lại nếu tác động bên ngoài là tiêu cực thì tính tích cực của các em (thái độ trong lớp) sẽ mang tính tiêu cực. Chính vì thế vấn đề đặt ra cho mỗi giáo viên là phải hình thành ở học sinh tâm trạng tích cực đối với học tập và khiêu gợi những kích thích bên trong của sự tích cực nhận thức. Hay nói cách khác, khi vận dụng những phương pháp và thủ thuật giảng dạy nào đó, giáo viên phải quan tâm, đầu tư sao cho chúng có tác dụng xúc cảm cần thiết và làm cho chúng vừa trở nên những tài liệu dễ Đề tài nghiên cứu khoa học Lý Thị Thanh Trúc 12 hiểu, sinh động hơn vừa để kích thích tâm trạng bên trong của học sinh đối với học tập. Không phải ngẫu nhiên mà nhà tâm lý học L. I. Bôgiôvích đã viết rằng: “Tuyệt đại đa số học sinh kém thường có thái độ tiêu cực đối với học tập”. Bà nhận xét: “Một số em thì… không thích học tập, một số khác thì lại càng bàng quang đối với kết quả của mình, số em khác nữa thì thiếu tin tưởng vào bản thân và lo sợ học kém”. Theo L. I. Bôgiôvích [1,Tr167]. Điều này có nghĩa là nếu chúng ta muốn học sinh chăm chú nghe giảng thì việc chỉ nêu tên của đề tài tiết học và thông báo những vấn đề cơ bản của bài giảng là hoàn toàn chưa đủ. Cần phải gây cho học sinh một tâm tư xúc động tích cực (thái độ) có liên quan trực tiếp với lòng mong muốn hoạt động nhận thức. Do đó, không thể thiếu được yếu tố gây hứng thú cho hoạt động nhận thức của học sinh. Hứng thú đó là nhu cầu nhuốm màu sắc xúc cảm đi trước giai đoạn gây động cơ và làm cho hoạt động của con người có tính chất hấp dẫn. Khi hoạt động nhận thức của học sinh dựa trên cơ sở hứng thú, nó sẽ trở nên hào hứng, thoải mái và dễ dàng. Khi đó, học sinh sẽ không cần đến sự động viên bên ngoài đối với học tập mà làm việc với sức mạnh của sự say mê bên trong nhằm đáp ứng nguyện vọng của bản thân. Nó lý giải tại sao việc gây ra hứng thú nắm vững kiến thức của học sinh lại tạo nên những kích thích bên trong mạnh mẽ đối với học tập. Trên cơ sở của nhu cầu và hứng thú sẽ hình thành động cơ học tập đúng đắn của học sinh. Nhưng làm thế nào để kích thích học sinh niềm hứng thú học tập? Chúng ta cần phải tạo nên mâu thuẫn trong quá trình nghiên cứu tài liệu mới, đưa ra những ví dụ và sự kiện rõ ràng, những khái quát lý thuyết trình bày có nội dung sâu sắc, sinh động – đó là những phương pháp quan trọng nhất. Đặc điểm riêng của việc gây hứng thú ở học sinh sẽ giúp các em cảm giác niềm vui sướng của thành công, tin tưởng vào sức mình, vào khả năng vượt qua những khó khăn thử thách. Khi giáo dục hứng thú học tập của học sinh cần lưu ý rằng học sinh không thể hứng thú với tất cả các môn học. Hứng thú mang tính chất chọn lọc và thông thường mỗi học sinh chỉ thật sự say mê một vài môn học mà thôi. Tuy vậy, khi đã có hứng thú vững chắc đối với một môn nào đó, các môn khác cũng sẽ có được sự ảnh hưởng tích cực về thái độ học tập. Ở đây cả những nhân tố trí tuệ cũng như những nhân tố đạo đức đều có ý nghĩa. Sự phát triển mạnh mẽ về trí tuệ do việc nghiên cứu sâu sắc một môn học sẽ góp phần làm cho việc Đề tài nghiên cứu khoa học Lý Thị Thanh Trúc 13 học tập các môn khác được dễ dàng và có hiệu quả cao hơn. Mặt khác, những tiến bộ trong học tập ở bất kỳ môn học nào cũng sẽ củng cố ở học sinh lòng tự hào về bản thân và thúc đẩy các em làm việc một cách chuyên cần. Sự có mặt của những hứng thú học tập là hình thức biểu hiện của thái độ học tập tốt. Hứng thú học tập phụ thuộc vào ý nghĩa của tài liệu học sinh nghiên cứu rõ ràng ở mức độ nào đối với các em, tài liệu đó có liên quan như thế nào với những hứng thú bên ngoài phạm vi học tập, phụ thuộc vào các phương pháp dạy học có tính chất đa dạng như thế nào. Tuy nhiên trong khi giáo dục hứng thú học tập cho học sinh, không nên lạm dụng tính chất lý thú vào không nên để cho học sinh chỉ quen với những hứng thú gián tiếp. Những hứng thú được tạo ra không nên chỉ do tính lý thú quyết định mà còn phải do sự nhận thức sâu sắc được ý nghĩa của môn học, tầm quan trọng của tri thức đối với cuộc sống. Trong trường hợp đó, học sinh sẽ toàn tâm toàn lực làm cả những việc trước đây không hứng thú. V. CÁC BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH: Xuất phát từ vai trò quan trọng của hứng thú, chúng ta nhận thấy rằng làm thế nào để gây được hứng thú nơi người học là việc làm rất quan trọng và cần thiết. Điều này đòi hỏi người dạy phải thiết kế sao cho phù hợp với ý đồ dạy học của mình và thực hiện trên lớp. Nội dung ngôn ngữ của các hoạt động đó có thể là một trong các thành tố ngôn ngữ như ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng hay một trong bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết hoặc phối hợp cùng một lúc hai hay nhiều những yếu tố trên. Một hoạt động có thể tập trung vào sự chuẩn xác ngôn ngữ hay khả năng sử dụng trôi chảy về ngôn ngữ. Các hoạt động phổ biến trên lớp cho dù theo quan điểm và phương pháp khác nhau nhưng cũng đều hướng đến một số nhận thức chung của quá trình dạy và học. Dựa vào mục đích của các hoạt động dạy và học ngoại ngữ, có thể xếp các hoạt động thành những nhóm sau: 1) Các hoạt động vào bài / chuẩn bị bài mới. 2) Các hoạt động giới thiệu. 3) Các hoạt động thực hành. 4) Các hoạt động ghi nhớ. Đề tài nghiên cứu khoa học Lý Thị Thanh Trúc 14 5) Các hoạt động tiếp thu. 6) Các hoạt động ứng dụng. 7) Các hoạt động nhằm phát triển kỹ năng học. 8) Các hoạt động nhằm cung cấp phản hồi. 9) Các hoạt động đánh giá. * Các hoạt động vào bài: Là các hoạt động nhằm tạo dựng một không khí thuận lợi cho tiết học hoặc chuẩn bị về tâm lý và kiến thức cho bài học mới. * Các hoạt động giới thiệu: Là các hoạt động mà thông qua chúng, nội dung mới được giới thiệu. Nội dung mới với những quan điểm dạy học và soạn sách giáo khoa ngày nay không chỉ là ngữ liệu mới như cấu trúc ngữ pháp hay từ vựng mới mà còn có thể là một chức năng ngôn ngữ, một đặc điểm ngôn bản hoặc một thủ pháp học. Và không phải là bài học nào cũng có hoạt động giới thiệu. Ví dụ trong một bài dạy nghe thì không nhất thiết phải có hoạt động giới thiệu cách nghe. Nhưng trong một bài nghe khác thì được bắt đầu bằng một hoạt động giúp người học cách thực hiện bài nghe đó. Các hoạt động giới thiệu lúc này có thể tương đương với các hoạt động trước khi nghe và cũng tương tự như vậy đối với dạng bài học đọc hiểu. * Các hoạt động thực hành: Đây là những hoạt động được thực hiện sau phần giới thiệu để học sinh tự thực hành, củng cố những gì đã học và tự điều chỉnh nếu có những vấp váp. Những hoạt động này thường để giúp học sinh củng cố những gì đã học và chuẩn bị cho hoạt động mới tiếp theo. * Các hoạt động ghi nhớ: Là các hoạt động mà thông qua chúng học sinh ghi nhớ được các thông tin ngữ liệu cần thiết, những hoạt động này thường được dùng để giúp học sinh củng cố những điều đã học . * Các hoạt động tiếp thu: Bao gồm các hoạt động nghe hiểu, đọc hiểu để phát triển hoặc thể hiện khả năng hiểu biết ngôn bản hoặc văn bản của học sinh. Các hoạt động hiểu có Đề tài nghiên cứu khoa học Lý Thị Thanh Trúc 15 thể ở các cấp độ khác nhau như hiểu nghĩa đen của bài, hiểu hàm ý, hiểu để rút ra ý kiến, kết luận, dự đoán vào thông tin hiểu được, đánh giá dựa vào nội dung có kết hợp với quan điểm cá nhân. * Các hoạt động ứng dụng: Là các hoạt động đòi hỏi người học sử dụng một cách sáng tạo những điều đã được giới thiệu và đã thực hành nhưng hoạt động này thường còn đòi hỏi học sinh phải phối hợp các kiến thức và kỹ năng từ các nguồn khác nhau để ứng dụng điều đã học vào một tình huống, ngữ cảnh mới để diễn đạt ý tưởng, tình cảm, nhu cầu hoặc để diễn đạt kinh nghiệm riêng của mình. * Các hoạt động nhằm phát triển kỹ năng học: Là các hoạt động nhằm phát triển những thủ pháp học cụ thể. Ví dụ, thủ pháp đoán nghĩa từ hệ thống của từ pháp thông dụng qua các bài tập chú trọng vào tiền tố, hậu tố, trật tự từ hoặc nghe hiểu, sử dụng các yếu tố đã biết để đoán nghĩa các câu, đoán nội dung qua đầu đề của bài. * Các hoạt động phản hồi: Là các hoạt động qua đó người học có được những phản hồi về học tập, dựa vào đó có thể so sánh biết được mức độ nắm bắt và tiến bộ của mình. * Các hoạt động đánh giá: Là những hoạt động giúp cho cả người dạy và người học đánh giá được mức độ thành công của một hoạt động hay của một bài học nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho việc giảng dạy sau này hoặc chỉ để thuần tuý đánh giá trình độ học sinh. Đối với các giờ học trên lớp dù đó là bài học nào, dạy ngữ liệu (ngữ pháp, từ vựng) hay dạy kỹ năng (nghe, nói, đọc, viết) đều phải sử dụng một hoặc nhiều hoạt động kể trên dựa vào mục đích đã đặt ra, người dạy lựa chọn và sắp xếp các hoạt động sao cho phù hợp với giờ dạy cụ thể của mình, công việc ấy sẽ tạo nên sự khác biệt của một giờ dạy có phương pháp với một giờ dạy không có phương pháp và thành công của việc lựa chọn, sắp xếp các hoạt động đó cũng chính là thành công của giờ dạy và từ đó có thể gây cho học sinh sự hứng thú say mê học tập môn tiếng Anh. Ngoài ra, trong giảng dạy nói chung và trong việc dạy ngoại ngữ nói riêng, những giáo cụ trực quan (tranh ảnh, vật thật, bưu thiếp, bìa hình, bản đồ, bản Đề tài nghiên cứu khoa học Lý Thị Thanh Trúc 16 biểu, phim ảnh,…) đóng vai trò rất quan trọng và hỗ trợ rất tích cực cho việc nâng cao hiệu quả dạy học. Giáo cụ trực quan có thể được sử dụng trong mọi hoạt động của quá trình dạy học từ bước giới thiệu ngữ liệu đến bước thực hành làm đa dạng và phong phú hơn rất nhiều các thủ thuật và hoạt động dạy học khác nhau. Tùy điều kiện cụ thể, người dạy sẽ áp dụng vào các hoạt động một các phù hợp và đúng đắn. Từ đó, làm cho tiết học sinh động hơn, khiến học sinh cảm thấy phấn khởi và hứng thú hơn trong học tập các môn đặc biệt là môn tiếng Anh nói riêng. Đề tài nghiên cứu khoa học Lý Thị Thanh Trúc 17 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7139.pdf
Tài liệu liên quan