ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-------------------
TRẦN THỊ PHƯƠNG THẢO
TIỂU THUYẾT DƯƠNG HƯỚNG
(Từ BẾN KHÔNG CHỒNG đến DƯỚI CHÍN TẦNG TRỜI)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 602234
Người hướng dẫn khoa học:
GS. PHONG LÊ
THÁI NGUYÊN - 2008
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Trang
1. Lý do chọn đề tài................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .....................................
101 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1716 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Tiểu thuyết Dương Hướng (từ bến không chồng đến dưới chín tầng mây), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
................................................ 2
3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu...................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................ 5
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 6
6. Đóng góp của luận văn ....................................................................... 6
7. Cấu trúc luận văn ................................................................................ 6
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng I
BỐI CẢNH CHUNG CỦA ĐỜI SỐNG VĂN HỌC VÀ DIỆN MẠO MỚI
CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986
1.1. Những chuyển động trong đời sống xã hội sau 1975 và sự tất yếu của
công cuộc đổi mới .......................................................................................
7
1.2. Những chuyển động trong đời sống văn học trước và sau 1986, trước
yêu cầu đổi mới............................................................................................
9
1.3. Những người viết đóng vai trò tiền trạm trong công cuộc đổi mới . 15
1.4. Về Giải thưởng Hội nhà văn năm 1991 cho Bến không chồng.
Về Dương Hướng và quá trình sáng tác......................................................
30
Chƣơng II
TỪ "BẾN KHÔNG CHỒNG", MỘT KHỞI ĐỘNG QUAN TRỌNG
TRONG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA DƢƠNG HƢỚNG...
2.1. Chiến tranh trong nhận thức của Dương Hướng .................................... 32
2.1.1. Qua hình ảnh người lính thời hậu chiến............................................... 32
2.1.2. Qua số phận người phụ nữ.................................................................... 41
2.2. Nông thôn qua các bước ngoặt cách mạng ............................................. 44
2.2.1. Bi kịch Cải cách ruộng đất .................................................................. 45
2.2.2. Bi kịch gia tộc, dòng họ . ........................................................................ 50
2.3. Nghệ thuật tự sự trong Bến không chồng................................................ 53
2.3.1. Cốt truyện. ........................................................................................... 53
2.3.2. Nhân vật ............................................................................................... 57
2.3.2.1. Tập trung vào số phận con người...................................................... 58
2.3.2.2. Nhân vật có số phận bất hạnh ........................................................... 59
2.3.2.3. Nhân vật vừa là nạn nhân vừa là tội nhân......................................... 62
Chƣơng III
.... ĐẾN "DƢỚI CHÍN TẦNG TRỜI", BƢỚC BỨT PHÁ NGOẠN MỤC
CỦA DƢƠNG HƢỚNG TRÊN CON ĐƢỜNG ĐỔI MỚI TIỂU THUYẾT
3.1. Biên độ phản ánh rộng, với xuất phát từ làng Đoài ............................... 66
3.2. Sự mở rộng của các kiểu dạng nhân vật ................................................. 68
3.2.1. Hệ nhân vật trong gia tộc Hoàng Kỳ ................................................... 70
3.2.2. Nhân vật ở phía bên kia........................................................................ 74
3.2.3. Nhân vật "lên voi xuống chó" với số phận thay đổi theo sự thay đổi
của thời cuộc..................................................................................................
75
3.2.4. Nhân vật là sản phẩm của thời đại, vừa là nạn nhân vừa là tội nhân............. 80
3.2.5. Nhân vật thánh thiện ........................................................................... 82
3.3. Sự tiếp cận đa chiều về các sự kiện và thái độ khách quan của người
trần thuật............................................................................................................
83
3.4. Nghệ thuật kể chuyện ............................................................................. 86
KẾT LUẬN................................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 89
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Dương Hướng là một trong những cây bút tên tuổi của văn xuôi
đương đại Việt Nam. Cùng với Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn
Khắc Trường, và Thân phận tình yêu của Bảo Ninh, Bến không chồng của
Dương Hướng là một trong ba tác phẩm nhận Giải thưởng Hội Nhà văn năm
1991, một giải thưởng sáng giá, ghi nhận thành tựu văn học Việt Nam sau 5
năm đổi mới.
1.2. Không thuộc đội ngũ "tiền trạm" xuất hiện từ đầu những năm 80
như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh
Tuấn (sinh năm 1948) người cùng thế hệ với mình, Dương Hướng vào nghề
viết ở tuổi 40, bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà
chỉ 2 năm sau, với Bến không chồng (in 1990), nhận Giải thưởng Hội nhà văn
(1991), Dương Hướng bỗng trở thành một "tên tuổi" và quan trọng hơn, trở
thành một gương mặt tiêu biểu trong công cuộc đổi mới văn học vào nửa đầu
những năm 90 của thế kỷ XX... Tác phẩm Bến không chồng đã đánh dấu một
bước "khởi động" quan trọng trong sự nghiệp sáng tác và là tác phẩm khẳng
định thành tựu mở đầu, đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao của văn
học thời kỳ đổi mới.
1.3. Trong khi Nguyễn Khắc Trường và Bảo Ninh, sau những thành
công rực rỡ được ghi nhận chưa có thêm tác phẩm nào lớn hơn, thì 15 năm
sau, Dương Hướng tiếp tục khẳng định tên tuổi của mình bằng sự trở lại bởi
một tác phẩm bề thế hơn, như một sự tiếp nối và mở rộng Bến không chồng,
có tên Dưới chín tầng trời với quy mô về số trang, phạm vi bao quát đề tài, số
lượng nhân vật đông đảo... Điều đó là minh chứng cho một sức viết dồi dào,
bền bỉ và còn nhiều hứa hẹn .
1.4. Từ Bến không chồng đến Dưới chín tầng trời trong khoảng cách
15 năm, ghi nhận những thành công vượt bậc trên con đường nghệ thuật của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Dương Hướng. Tiểu thuyết Dưới chín tầng trời là bước đột phá so với thành
công ở Bến không chồng, không chỉ ở độ lớn về quy mô số trang, đề tài, nhân
vật mà còn cho thấy sự thay đổi lớn về tư duy nghệ thuật. Vẫn trung thành với
cấu trúc truyền thống nhưng không nô lệ vào truyền thống mà đã có sự cách
tân nhất định, Dưới chín tầng trời chắc chắn sẽ có sức thu hút trong tầm đón
đợi của độc giả.
2. Lịch sử vấn đề.
2.1. Văn học Việt Nam từ sau đổi mới 1986 đến nay là thời kỳ văn học
có nhiều biến động, chưa hoàn tất, do đó không dễ đưa ra một cái nhìn bao
quát, tổng hợp, toàn diện hệ thống về nó.
Xét trên phương diện đổi mới trong văn xuôi, nhất là ở lĩnh vực tiểu
thuyết đã có rất nhiều bài viết, với các khía cạnh cụ thể như:
- Nguyên Ngọc: Văn xuôi Việt Nam, lôgic quanh co của các thể loại...
- Bùi Việt Thắng: Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975, nhìn từ góc độ thể loại.
- Nguyễn Phượng: Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh sau 1975.
- Nguyễn Thị Thu Nguyên: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết...
- Nguyễn Bích Thu: Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam...
Mỗi tác giả có góc nhìn khác nhau, song tất cả đều thống nhất ở mục
tiêu chỉ ra sự đổi mới trong cách tân tiểu thuyết, những nỗ lực đáng kể trong
sáng tạo của các cây bút văn xuôi Việt Nam, nhằm biểu đạt tư duy và
tâm hồn con người thời đại.
2.2. Những bài bình luận, đánh giá xung quanh tiểu thuyết Bến
không chồng.
* Những bài đánh giá, bình luận xung quanh tiểu thuyết Bến không chồng.
- Nhà văn Nguyên Ngọc đã có những nhận xét về tiểu thuyết Bến không
chồng như sau:
"Đến Bến không chồng của Dương Hướng thì tiếng kêu thét của cá
nhân bị vùi lấp càng mạnh mẽ, thống thiết hơn".
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
* Viết về vai trò của cá nhân, lại đụng đến nhiều vấn đề của làng quê
Việt Nam, Bến không chồng đặt ra rất nhiều vấn đề, nhưng nhà văn chỉ xoáy
sâu vào số phận của những nhân vật gắn với thời đoạn đó, trong hoàn cảnh
đó.
* "Dương Hướng là ngòi bút có tình khi nói về nỗi đau của con người".
2.3. Tiểu thuyết Bến không chồng đã được Lưu Trọng Văn chuyển thể
khá nhuần nhuyễn thành kịch bản phim vẫn dưới cái tên Bến không chồng.
Hầu như toàn bộ cốt truyện, nhân vật, tình huống, chi tiết, cả những lời thoại
mộc mạc, dân dã trong tiểu thuyết đều được tác giả khai thác triệt để. Song
đạo diễn Lưu Trọng Ninh đã có sự phát triển theo hướng sáng tạo riêng:
không dụng công lý giải nhân vật, phát triển tuyến truyện theo lôgíc thông
thường, mà dồn đẩy nhân vật vào những tình huống đầy tính đột biến, để nhân
vật tự bộc lộ tính cách. Bộ phim thực sự lôi cuốn người xem bởi toàn cảnh
bức tranh làng Đông được tái hiện lại một cách sinh động. Đặc biệt tác giả
khai thác triệt để dấu ấn văn hoá dân gian làng quê. Cách kết thúc truyện và
số phận các nhân vật trong phim cũng có khác đi ít nhiều, như cảnh con trai
chị Hơn hy sinh ngoài chiến trường, gây sự xúc động đạt tính nghệ thuật. Thế
nhưng cái chết của nhân vật Nguyễn Vạn trong phim lại chưa có sức thu hút
lớn so với tiểu thuyết, bởi kết thúc không đúng như dụng ý nhà văn muốn
truyền đạt. Kết thúc cuộc đời Nguyễn Vạn trong tiểu thuyết là sự đổ vỡ, vì hối
hận với tội lỗi gây ra cho Hạnh và vì cả hạnh phúc của Hạnh và Nghĩa nữa;
còn kịch bản phim lại hướng vào nguyên nhân cái chết của Vạn là do áp lực
của tập tục và dư luận.
Xuất phát từ nội dung sâu sắc trong cốt truyện được đạo diễn Lưu Trọng
Ninh chuyển thể thành phim truyện nhựa mà sau đó tác phẩm Bến không chồng
đã hai lần được dịch sang tiếng Italia và Pháp. Điều đó càng khẳng định chỗ
đứng của tác phẩm trong lòng độc giả trong nước và ngoài nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
2.4. Sau Bến không chồng Dương Hướng còn viết thêm một cuốn tiểu
thuyết có tên: Trần gian đời người sau đổi là Bóng đêm và mặt trời, và một
số truyện ngắn, truyện vừa, nhưng không được sự tiếp đón nồng nhiệt, bởi nó
bị "cái bóng" của Bến không chồng che khuất. Điều đó có nghĩa là tên tuổi tác
giả xem như bị lãng quên đi một thời gian. Dương Hướng trăn trở trong im
lặng suốt 15 năm rồi trở lại với công chúng bằng một tiểu thuyết bề thế, với
cái tên đầy vĩ mô: Dưới chín tầng trời. Và với tác phẩm này tên tuổi Dương
Hướng một lần nữa được khẳng định lại.
2.5. Về các ý kiến xung quanh Dưới chín tầng trời, đáng chú ý hơn cả
là lời bạt của nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến in vào cuối truyện có tên: Cách
nhìn của Dương Hướng trong tiểu thuyết "Dưới chín tầng trời", trong đó tác
giả khẳng định giá trị cuốn sách ở những điểm sau:
- Cốt truyện li kì, hấp dẫn, nhiều tuyến nhân vật có quan hệ éo le, số
phận ba chìm bảy nổi ...
- Nhiều tuyến hành động diễn ra khắp các miền Bắc, Trung, Nam, có
làng xóm và thành phố, có chiến trường ác liệt ở Miền Nam và sinh hoạt nhộn
nhạo, rối ren vùng biên giới phía Bắc ...
- Những câu triết lí vặt được xen lẫn giữa những lời bình nhằm giảm
bớt sự đơn điệu nhưng đôi khi đặt ra được những vấn đề có chiều sâu tư
tưởng.
- Là cuốn tiểu thuyết ngồn ngộn sức sống và đời sống, nóng hổi tư
tưởng của thời đại và những vấn đề thời sự của đất nước.
Có thể dự đoán đây là cuốn sách "ăn khách" nhất trong năm 2007.
Thế nhưng từ lúc ra mắt, tuy dư luận có xôn xao bàn tán, có người "dãy
nảy" lên như phải bỏng, có người lại "xì xầm" về những vấn đề nhạy cảm,
nhưng tới nay chưa có một ý kiến nào đánh giá nó một cách chính thống. Có
chăng cũng chỉ là những lời bình hời hợt, "điểm xuyết". Song vấn đề cốt lõi là
tầm tư tưởng chưa được ai nói rõ ràng bởi:
- Tác phẩm đặt ra những vấn đề gai góc xưa nay chưa ai dám nói.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Ví dụ: Bùi Việt Thắng trên trang net: Trannhuong.com (14/2/2008) cho
rằng: Dưới chín tầng trời, là cuốn tiểu thuyết xây cất được những tư tưởng thời
đại, thể hiện sinh động trong những số phận bi kịch, nhưng là những bi kịch lạc
quan.
- Đưa ra những phán quyết táo bạo, những vấn đề thời sự, đẩy nhân vật
đến những cực đối lập: từ lưu manh, cùng đinh, mạt hạng trở thành đại gia,
nhà tỉ phú đáng trọng (Đào Kinh); từ một đại gia trở thành trắng tay (gia đình
thương gia Đức Cường); từ một con người phản diện trở thành con người
chính diện, có tâm, có công (Đỗ Hiền).
- Và không né tránh những mặt khuất tối, ê chề của con người, của lịch
sử, có thể do vậy dư luận còn dè dặt trong cách đánh giá (thời kì quá độ là sự
lần tìm, những sai lầm, tội lỗi của con người do hạn chế của thời đại tạo nên,
song bên cạnh bộ mặt "ác quỷ" trong mỗi con người có một phần "người" để
trở về với chính nó. Đó là kiểu nhân vật "lưỡng phân" có sự dung hoà những
mặt xấu và tốt, từ đó tìm đến sự cảm thông cho mỗi nhân vật).
Riêng ý kiến của người làm luận văn: Tác phẩm là một thành công vượt
bậc của Dương Hướng. Ông đã hoá giải mọi sự kiện, hiện tượng qua cách
nghĩ suy sắc sảo, thấu tình, đạt lý của từng nhân vật. Để rồi khi gấp trang sách
ta thấy lòng dịu lại giống như bản thân mình được hoá giải trong đó.
3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu.
3.1. Khẳng định Dương Hướng với tư cách là một tác giả tiêu biểu
trong hai mươi năm văn học đổi mới.
3.2. Qua sáng tác của Dương Hướng giúp ta nhận ra diện mạo và sự
phát triển của tiểu thuyết thời kì đổi mới. Ông là người đóng vai trò trung
chuyển giữa thế hệ nhà văn tiền trạm như: Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải,
Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu... với thế hệ nhà văn mới như: Hồ Anh Thái, Tạ
Duy Anh, Nguyễn Bình Phương... Có thể xem, Dương Hướng là gạch nối,
thuộc thế hệ chuyển giao.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
4.1. Toàn bộ tác phẩm của Dương Hướng, trong đó trọng tâm là hai
tiểu thuyết Bến không chồng và Dưới chín tầng trời.
4.2. Một số tiểu thuyết về nông thôn và chiến tranh được viết cùng thời
với Dương Hướng như: Thời xa vắng của Lê Lựu, Mảnh đất lắm người nhiều
ma của Nguyễn Khắc Trường.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
5.1. Phương pháp phân tích văn học sử:
Từ việc trình bày khái quát sự đổi mới trên phương diện lý thuyết, luận
văn đi sâu vào phân tích những nét mới trong tiểu thuyết của Dương Hướng,
nằm trong tiến trình đổi mới văn học từ sau 1986.
5.2. Phương pháp so sánh đối chiếu:
Cùng với việc phân tích những nét mới trong tiểu thuyết của Dương
Hướng, tác giả luận văn tiến hành so sánh, đối chiếu với một số tác phẩm tiểu
thuyết cùng giai đoạn và trước nó, nhằm khẳng định vị trí và giá trị của tác phẩm.
5.3. Phương pháp khảo sát, thống kê:
Trong khi phân tích tác phẩm luận văn sử dụng các phương pháp khảo
sát, thống kê để tăng thêm độ tin cậy và sức thuyết phục, giúp cho việc triển
khai các luận điểm, luận cứ được sáng tỏ.
6. Đóng góp của luận văn.
Từ việc khẳng định Dương Hướng qua hai tác phẩm, và bước tiến từ
Bến không chồng ... đến Dưới chín tầng trời, trong khoảng cách 15 năm, để chỉ
ra thành tựu của tiểu thuyết trong thời kì đổi mới.
7. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Nội dung Luận văn gồm có 3 chương sau:
Chương I: Bối cảnh chung của đời sống văn học và diện mạo mới của
tiểu thuyết Việt Nam sau 1986.
Chương II: Từ Bến không chồng, một khởi động quan trọng trong sự
nghiệp sáng tác của Dương Hướng...
Chương III: ... Đến Dưới chín tầng trời, bước bứt phá ngoạn mục của
Dương Hướng trên con đường đổi mới tiểu thuyết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
NỘI DUNG
Chƣơng I
BỐI CẢNH CHUNG CỦA ĐỜI SỐNG VĂN HỌC VÀ DIỆN MẠO MỚI
CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986
1.1. Những chuyển động trong đời sống xã hội sau 1975 và sự tất
yếu của công cuộc đổi mới.
Văn học là một hình thái ý thức xã hội, một loại hình hoạt động nghệ
thuật đặc thù lấy con người làm đối tượng trung tâm, phản ánh và nhận thức
hiện thực đời sống thông qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Như một
lẽ tự nhiên, không một nhà văn nào tồn tại trong lịch sử mà lại không phải là
con người sống giữa muôn vàn những diễn biến phức tạp, những vận động đổi
thay của thời đại mình. Những vận động, đổi thay ấy là hệ quả tất yếu của lịch
sử trong quá trình vật lộn, kiếm tìm một hướng đi mới.
Như chúng ta đã biết, sau chiến thắng chống đế quốc Mỹ với biết bao
đau thương, quật cường đã khép lại trang sử hào hùng của dân tộc, một hiện
thực xã hội đầy vẻ vang, oanh liệt mà sử sách không thể nào nói khác đi được;
giờ đây khi chiến tranh đã lùi xa vào quá khứ nhưng hậu quả của nó vẫn còn
đó với những khó khăn chất chồng, những con người - chủ nhân của thời đại
lịch sử mới lại bộn bề với những lo toan, phải đối mặt với một hiện thực xã hội
mới đầy biến động, xáo trộn, phức tạp. Dường như những cái được xem là chân
lý của thời kỳ trước lại là cái có vấn đề của thời kỳ sau. Ngay cả chiến tranh
cũng vậy. Hàng loạt các vấn đề của cuộc sống thời hậu chiến lại được đặt ra, đòi
hỏi một cách nhìn mới, và những nhận thức mới, những cách thể hiện mới...
Cuộc sống sau chiến tranh vận hành một cách khó nhọc, đầy rẫy những
lo toan, phức tạp. Những tổn thất, đau thương trong chiến tranh dần dần tỏa
sức nặng. Đó là thời kỳ nền kinh tế - xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng
trầm trọng. Cơ chế quản lý quan liêu bao cấp tỏ ra bất lực và ngày càng bộc lộ
thêm những khuyết tật. Do đó, cùng với sự đổi thay mọi mặt trong đời sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
xã hội từ sau 1975 đã kéo theo sự thay đổi không chỉ ở bề mặt mà cả bề sâu
trong tâm lý và nhận thức ở mỗi con người. Nếu như trước kia tất cả mọi
người đồng lòng đồng sức cho chiến thắng dân tộc, thì ngày nay trong thời kỳ
hậu chiến con người phải đối mặt với bao nỗi lo toan cá nhân, cho cuộc sống
đời thường. Trong cuộc chiến không tiếng súng tưởng như yên ả ấy lại chất
chứa những biến động dữ dội, tác động sâu sắc đến tâm thức cá nhân mỗi
người.
Nhà văn Nguyễn Khải đã nhận xét: “Chiến tranh ồn ào, náo động mà
lại có cái yên tĩnh, giản dị của nó. Hòa bình yên tĩnh, thanh bình mà lại chứa
chấp những sóng ngầm, những gió xoáy bên trong. Nhiều người không thể
chết trong nhà tù, trên trận địa, trong chiến tranh mà lại chết trong “ao tù
trưởng giả” khi cả nước đã dành được tự do và độc lập” [36].
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội - đó là sự nghiệp vô cùng vinh
quang nhưng không ít những khó khăn thử thách. Hiện thực xã hội đó đòi hỏi
mỗi người cầm bút phải có một cách nhìn, một cách nghĩ mới, với trách
nhiệm và niềm tin. Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã nói về vấn đề này như sau:
“Trong chiến tranh, chúng ta như đi giữa cơn bão lửa thổi trên mặt đất.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay, không thấy có bão lửa, vậy mà
hình như mỗi người thấy đất động dưới chân mình”. [57].
Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, để giải quyết những khó khăn thử thách
trước mắt, nhằm xây dựng và phát triển đất nước thì đổi mới là một lựa chọn
khẩn thiết, dứt khoát, có ý nghĩa sống còn. Đổi mới là con đường tất yếu, duy
nhất đảm bảo cho sự phát triển đất nước và cũng là nỗi khát khao cháy bỏng,
là nguyện vọng của toàn dân tộc nhằm thoát khỏi những khó khăn, thách thức
của một đất nước sau hơn 30 năm chiến tranh.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã diễn ra với hai khẩu
hiệu:“Lấy dân làm gốc” và “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật’’. Hai khẩu hiệu đã thổi một luồng sinh khí mới vào đời sống xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
hội, đặc biệt là đời sống văn học nghệ thuật, mở ra một thời kỳ đổi mới cho
văn học Việt Nam, vì thế mà văn học sau 1986 thực sự đã có một khởi sắc
mới trên các phương diện. Song có thể thấy, một trong những điều cốt tử của
công cuộc đổi mới này chính là đổi mới tư duy, đổi mới cách làm, cách nghĩ
sao cho đúng quy luật khách quan vốn có của nó. Nói về vấn đề này, nhà
nghiên cứu Phan Cự Đệ đã đưa ra một quan niệm mới có cơ sở lý luận và ý
nghĩa thực tiễn như sau: “Đổi mới tư duy là nhiệm vụ cấp thiết trước mắt
nhưng đồng thời cũng là một công việc lâu dài, phải tiến hành một cách khoa
học, nghiêm túc… Trong quá trình đổi mới tư duy, tất nhiên không chỉ có phê
phán mà chủ yếu là phải suy nghĩ, khám phá, sáng tạo, cá nhân và tập thể
cùng đổi mới và sáng tạo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI”.
(Mấy ý kiến về đổi mới tư duy lý luận, phê bình văn học- Văn nghệ quân đội.
Tháng 12/1987. Tr 108 - 114).
Như vậy, cùng với những ý kiến nhận xét, đánh giá, nhằm minh chứng
cho những luận điểm lớn trên cho thấy những chuyển động trong đời sống xã hội
sau 1975 nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI/1986 là sự đổi mới mang tính
tất yếu của đời sống xã hội Việt Nam, nó là cơ sở, là tiền đề đổi mới trong đời
sống văn học nghệ thuật.
1.2. Những chuyển động trong đời sống văn học trƣớc và sau 1986,
trƣớc yêu cầu đổi mới.
Mốc lịch sử 1975 là gạch nối quan trọng đánh dấu sự chuyển hướng mang
tính chất bước ngoặt của cách mạng Việt Nam và những xáo động trong xã hội
sau giải phóng kéo theo sự xáo động của văn học với tư cách là một hình thái ý
thức xã hội. Nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh đã có những suy nghĩ khá xác đáng
khi cho rằng “Bối cảnh mới đã tạo nên những chấn động sâu xa trong ý thức
nghệ thuật” [1].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Như thế, những tác nhân trong đời sống xã hội đã gây nên những “chấn
động” mạnh trong đời sống văn học, tạo cho văn học một bước chuyển mới
phù hợp với xu thế chung có tính quy luật của cuộc sống.
Nền tảng của sự đổi mới văn học thời kỳ này bắt nguồn từ sự tự ý thức
của văn học, tức là văn học đã giác ngộ được về vai trò của nó trong xã hội,
trong mối quan hệ giữa văn học và chính trị. Nghị quyết 05 của Bộ chính trị
Đảng cộng sản Việt Nam (1987) tạo điều kiện cho văn học phát triển và mang
theo những tố chất mới so với thời kỳ trước đó, mà do yêu cầu của lịch sử,
văn học phục vụ chính trị trở thành nhu cầu cấp bách hợp với quy luật thời
chiến. Thậm chí, có những lúc người ta còn đồng nhất văn nghệ với chính trị,
xem văn nghệ phục vụ chính trị một cách giản đơn, máy móc. Cho đến thời
điểm này, văn học nghệ thuật không chỉ còn được hiểu một cách giản đơn,
máy móc như là công cụ chính trị, là vũ khí tư tưởng, mà là một bộ phận quan
trọng của cách mạng tư tưởng văn hóa, có tác dụng bồi dưỡng tư tưởng, tình
cảm, tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh các thế hệ công dân, xây dựng môi trường
đạo đức trong sáng, lành mạnh... Đặc biệt vào thời điểm đổi mới của đất
nước, thì mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị đã được giới nghiên cứu
đánh giá, nhìn nhận lại một cách cụ thể hơn, thực tế hơn và sâu sắc hơn.
Không những thế vấn đề này còn được đưa ra thảo luận công khai trên các
báo chí, tạo không khí dân chủ, khiến cho người cầm bút yên tâm và tự tin
hơn trong sáng tác, mạnh dạn đưa ra những kiến giải của mình về các vấn đề
phức tạp, tiêu cực của cuộc sống.
Như chúng ta đã biết, xã hội và con người Việt Nam đã vượt qua nhiều
khó khăn chồng chất với không ít thử thách hiểm nghèo của thời chiến và hậu
chiến, để đứng vững, hơn thế, có được những biến đổi to lớn, toàn diện, nhất là
từ khi công cuộc đổi mới được mở ra cho đến nay. Nền văn học cùng chung
vận mệnh và đồng hành cùng dân tộc qua những thăng trầm của lịch sử. Từ sau
1975 dù phải đối mặt với nhiều thách thức gay gắt song đã có nhiều biến đổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
sâu rộng trên mọi mặt của quá trình văn học. Nhìn một cách tổng thể, văn học
Việt Nam từ sau năm 1975, nhất là từ giữa những năm 80 trở lại đây đã bước
những bước xa hơn trên con đường hiện đại hóa, để hòa nhập vào tiến trình văn
học thế giới. Tựu trung, tiến trình văn học Việt Nam thế kỷ XX bao gồm 3 xu
hướng vận động chính, tương ứng với 3 thời kỳ phát triển của nền văn học.
- Từ đầu thế kỷ XX - 1945, văn học vận động theo hướng hiện đại hóa,
đó là đặc điểm bao trùm, làm nên sự thay đổi trong văn học để chuyển văn
học từ mô hình trung đại sang mô hình hiện đại.
- Trong 30 năm tiếp theo, từ 1945 - 1975 văn học phát triển trong hoàn
cảnh của chiến tranh và phục vụ cho yêu cầu của đời sống chính trị.
- Từ sau 1975, nhất là từ sau đổi mới năm 1986, dân chủ hóa là xu thế
lớn của xã hội và cả trong đời sống tinh thần của con người. Và cũng là xu
hướng vận động bao trùm của nền văn học. Đại hội Đảng lần thứ VI (1986)
với khẩu hiệu: “ Lấy dân làm gốc ”, “Nhìn thẳng vào sự thật”, đã tạo cơ sở
tư tưởng cho xu hướng dân chủ hóa trong văn học được khơi dòng và phát
triển mạnh mẽ.
Dân chủ hóa đã thấm nhuần và được thể hiện ở nhiều cấp độ, trên nhiều
bình diện của đời sống văn học. Trên bình diện ý thức nghệ thuật, xu hướng
dân chủ hóa đã đem lại những biến đổi quan trọng trong cách quan niệm về
vai trò, vị trí và chức năng của văn học, về nhà văn và quan niệm về hiện
thực. Văn học giai đoạn trước, chủ yếu được nhìn nhận như là vũ khí tư tưởng
của cách mạng, có nhiệm vụ phục vụ và đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp
cách mạng “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ
trên mặt trận ấy” (Hồ Chí Minh). Đó là chân lí hiển nhiên không một nghệ sĩ
chân chính nào không thừa nhận. Đến lúc này văn học đứng trước nhu cầu
phải đổi mới, tuy vậy nó vẫn không hề từ bỏ vai trò vũ khí tinh thần, tư tưởng
của nó, nhưng nó được nhấn mạnh trước hết ở sức mạnh khám phá thực tại và
thức tỉnh ý thức về cá nhân, và về sự thật, ở vai trò dự báo, dự cảm. Bởi hơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
nữa, trong xu hướng dân chủ hóa xã hội, văn học được xem là một phương
tiện cần thiết để tự biểu hiện, trong đó bao gồm cả việc thể hiện tư tưởng,
quan niệm, chính kiến của mỗi người nghệ sĩ về xã hội và con người. Văn học
lúc này không chỉ được xem là tiếng nói chung của dân tộc, thời đại, cộng
đồng, mà nó còn là phát ngôn cho tư tưởng riêng của mỗi cá nhân, phải chăng
đó cũng chính là lý do cho những đòi hỏi của cá nhân trước cuộc sống, cho
những khát vọng “rất người”, rất đời thường, và vấn đề nóng hổi, bức xúc,
được thường xuyên đề cập trong các trang viết giai đoạn mới này chính là
khát vọng dân chủ, nó là cơ sở tạo niềm tin cho việc khám phá bản chất
“người” trong bức tranh cuộc sống mới của người nghệ sĩ.
Gắn chặt với hiện thực trong bước chuyển từ chiến tranh sang hòa bình,
với đầy những phức tạp và những biến đổi bất ngờ, văn học những năm 80 đã
có những trăn trở cho một cuộc chuyển mình để theo kịp những vấn đề nóng
bỏng của hiện thực. Hiện thực lúc này không chỉ là hiện thực cách mạng với
các biến cố lịch sử và số phận cộng đồng, mà còn là hiện thực của đời sống
hàng ngày, với các quan hệ thế sự vốn dĩ đa đoan, phức tạp, chằng chịt, đan
dệt nên những mạch nổi và mạch ngầm của đời sống. Hiện thực đó còn là đời
sống cá nhân mỗi con người với những vấn đề riêng tư trong số phận cá nhân,
với khát vọng mọi mặt gồm cả hạnh phúc và khổ đau. Hiện thực mới đó trong
tính chỉnh thể toàn diện của nó đã mở ra những không gian vô tận cho văn
học thỏa sức chiếm lĩnh, khám phá.
Nói đến cảm hứng mới về sự thật là nói đến không chỉ những mặt tích
cực mà còn là những mặt trái của cuộc sống, những vấn đề mà văn học giai
đoạn trước không có điều kiện đề cập hay không dám đề cập đến.
Thời gian trôi qua, con người không còn bận rộn với sự sống và cái
chết của một thời bom đạn, để chuyển sang những vấn đề của thời bình, với
những nghiền ngẫm của được - mất, của cộng đồng và cá nhân... Con người
dám đối mặt, sòng phẳng với quá khứ để đón nhận kịp hơi thở của thời đại.
Cảm hứng sự thật đó không chỉ là của riêng ai trong cộng đồng này mà nó còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
là vấn đề của cả một thời đại. Ngay khi nói về chiến tranh cũng vậy. Mặc dù
tiếng súng đã ngừng nổ trên mảnh đất quê hương, nhưng mọi đau thương mất
mát ở con người đâu đã thành dĩ vãng! Nhà văn Chu Lai từng nói: “Chiến
tranh không phải là ngày hội lớn của dân tộc” mà là “luật chơi tàn bạo”; và
Chiến tranh không phải là cái gì khác là chuyện ngày nào cũng phải chôn
nhau mà chưa đến lượt chôn mình”. Bởi quả thực, chiến tranh tự bản thân nó
đã mang tính tàn bạo và bất thường rồi. Ở đó, tính người không có cơ hội
ươm mầm và phát triển. Trong “luật chơi tàn bạo” đó cánh cửa của sự sống
là rất hẹp. Bởi người lính dù ở chiến tuyến nào cũng đều “tồn tại trên bản
năng tự vệ quật cường. Mình không giết nó thì nó giết mình”. Nạn nhân của
chiến tranh không phải là cái gì khác mà chính là con người và môi trường
sống của con người. Cái chết không loại trừ ai, nó đến bất kỳ lúc nào không ai
định trước được. Chỉ có vậy, “chết là nhẹ nhất, là thoát hết tất cả …” (Nắng
đồng bằng - Chu Lai). Tuy nhiên, dù miêu tả nó dưới hình hài như thế nào, dù
nói bằng cách nào thì các tác giả khi viết về nó, về chiến tranh đều khẳng
định: “bên cạnh sự tàn sát bạo lực, guồng máy chiến tranh không thể nào phá
hủy hoàn toàn những giá trị tốt đẹp đã thấm sâu thành bản chất tiềm tàng
trong con người. Thực tế cho thấy, những giá trị cao đẹp lại nảy nở từ chính
nơi xông pha trận mạc, ngay trên mảnh đất bom đạn, và từ cõi chết trở về”
(Ăn mày dĩ vãng - Chu Lai).
Trong môi trường sống khắc nghiệt đó, nỗi ám ảnh về cái chết, về bệnh
tật, sự thiếu thốn về vật chất, cái đói, cái khát ập tới, song người ta không chỉ
nhìn thấy khả năng, sức mạnh vượt lên trên hoàn cảnh của con người mà còn nhận
ra sự bất lực của con người trước sức mạnh chi phối nghiệt ngã của hoàn cảnh.
Một hiện thực lớn nữa cũng bị kéo theo guồng máy tàn bạo của chiến
tranh là bên cạnh người đàn ông trên các tuyến lửa còn có sự góp mặt của
những người đàn bà ở hậu phương. Dù trực tiếp hay gián tiếp tham gia song
không thể phủ nhận hết được ý chí và nghị lực ngoan cường của họ.
Vì thế, vấn đề “hậu chiến tranh” là một vấn đề khá nhạy cảm và phức
tạp, lại càng phức tạp hơn khi công cuộc dựng xây, đổi mới đất nước đang mở
Số hóa bởi Trung ._.tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
ra, con người ta có điều kiện hơn, có thời gian hơn để suy nghĩ về những gì họ
đã bước qua. Hiện thực đời sống với nhiều biến động phức tạp của thời kỳ
hậu chiến thực sự là mảnh đất màu mỡ cho văn học, đặc biệt ở thể loại tiểu
thuyết, nơi có khả năng cất giữ, lưu lại được nhiều dữ kiện nhất trên phương diện
thể loại.
Đề cập vấn đề này, hầu hết các nhà văn viết về chiến tranh đều thừa
nhận: Chiến tranh đã lùi xa nhưng hậu quả của nó vẫn còn ám ảnh, trở thành
nỗi bức xúc trong cuộc sống thời bình.
Trước hết đó là những “di họa của chiến tranh” không ai khác - con
người phải gánh chịu. Một thực tế đau lòng là phần lớn những người lính sau
chiến tranh trở về với cuộc sống áo cơm đời thường, họ đều là những con
người mang đầy “vết dập xóa trên thân thể và trong tâm hồn” (Vạn, Nghĩa
trong Bến không chồng). Họ trở nên lạc lõng, xa lạ với những vấn đề “đa
đoan, đa sự” của ngày hôm nay. Chiến tranh đã thành quá vãng nhưng dư âm
của nó vẫn luôn đeo đẳng, bám riết lấy, trở thành một nỗi ám ảnh, thành “hội
chứng chiến tranh” trong tâm khảm của họ. Họ luôn khát khao “đi tìm thời
gian đã mất” để nhận lại hình ảnh của chính mình (Mảnh đất lắm người nhiều
ma, Bến không chồng)… Tất cả điều đó trở thành sự dày vò luôn thường trực.
Bởi hầu hết, họ - những người lính bước ra từ bom đạn, khói lửa mịt mùng
của cuộc chiến đều mang trong mình niềm tin, khoác lên mình màu áo của
người chiến thắng, họ thực sự là người chiến thắng trước mặt quân thù song
lại là kẻ chiến bại giữa cuộc sống đời thường, giữa cuộc sống không tiếng
bom, không mũi tên, hòn đạn. Họ trở nên lạc lõng, khắc khổ, cô đơn, bất lực
trước hoàn cảnh mới. Phần lớn họ không còn khả năng yêu và đem lại hạnh
phúc cho người mình yêu; họ bị chối từ thiên chức làm cha, làm chồng, bởi
chiến tranh đã cướp đi tuổi trẻ, lấy đi sinh lực của họ, khiến cho ngày hòa
bình trở lại cũng là lúc cánh cửa hạnh phúc sập xuống trước mắt họ một cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
nghiệt ngã Bến không chồng; Bóng đêm và mặt trời (Dương Hướng), Ăn mày
dĩ vãng (Chu Lai), Thân phận tình yêu (Bảo Ninh) .
Như vậy, những bi kịch đời tư bỗng được đặt ra trong hành trình con
người kiếm tìm hạnh phúc; con người đã kịp thời nhận ra “khối cô đơn khổng
lồ” đang chụp xuống thân phận họ, đang “đè bẹp” cuộc đời họ. Mở ra trước
mắt họ sự “tù túng” “chật chội” của không gian; len lỏi vào từng số phận
đáng thương của họ, là những “thước phim lộn trái cuộc đời”.
Hiện thực cuộc sống thay đổi, cũng là lúc tư duy nghệ thuật có sự
chuyển đổi. Khuynh hướng sử thi giai đoạn sau 1975 vẫn tiếp tục dòng chảy
của thời kỳ trước đó, tiếp tục mạch đi trong sáng tác của nhiều nhà văn, đặc
biệt là các nhà văn quân đội. Tuy nhiên, càng về sau khuynh hướng sử thi
càng có xu hướng thu hẹp lại, khuynh hướng thế sự dần dần trở thành khuynh
hướng chính trong văn xuôi đầu những năm 80. Lúc này văn xuôi đã thực sự
chuyển sang những vấn đề thế sự, những vấn đề của đời sống hàng ngày.
Xuất phát từ yêu cầu của hiện thực mới, đòi hỏi người nghệ sĩ phải thay đổi
cách nhìn nhận, cách tiếp cận đời sống. Những chuẩn mực cũ trong chiến
tranh nay không còn áp dụng được nữa. Giờ đây, khi chiến tranh đã qua đi,
con người trở lại với đời sống thường nhật với biết bao những vấn đề mới nảy
sinh. Sự trở về với con người của đời sống hàng ngày, với những số phận cá
nhân riêng biệt, đã làm thu hẹp dần khuynh hướng sử thi và khuynh hướng
thế sự đã trở thành khuynh hướng chính ở giai đoạn này.
1.3. Những ngƣời viết đóng vai trò tiền trạm trong công cuộc đổi
mới.
Văn học Việt Nam 1945-1975 tồn tại và phát triển trong hoàn cảnh đất
nước có chiến tranh. Đó là một nền văn học chủ yếu hướng về đại chúng nhân
dân lao động, tập trung cổ vũ cho hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân
tộc. Vì thế, đề tài chiến tranh là đề tài chủ yếu, hình ảnh con người lý tưởng là
con người công dân, người chiến sĩ được miêu tả với cảm hứng trữ tình cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
mạng và cảm hứng sử thi. Từ sau 1975, nền văn học Việt Nam nhìn chung
được tồn tại và phát triển trong điều kiện đất nước hòa bình, thống nhất. Vì
thế, nội dung, mục đích văn học không còn giữ nguyên như cũ. Nó đòi hỏi
phải có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thời đại và công chúng độc
giả. Tư duy văn học cũ không còn phù hợp với văn học mới, đòi hỏi một tiến
trình đổi mới toàn diện và sâu sắc nền văn học từ quan niệm nghệ thuật về
hiện thực và con người, đến các thủ pháp nghệ thuật; từ đội ngũ nhà văn đến
công chúng độc giả; từ chủ đề, đề tài đến cảm hứng sáng tác và đối tượng
phản ánh...
Trước diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, trước
sự chuyển động của môi trường, văn học không thể là sự thờ ơ mà phải là sự
kiếm tìm ráo riết những cách thức tiếp cận hiện thực mới sao cho phù hợp.
Hòa bình lập lại, hiện thực cuộc sống thời bình không cho phép các nhà
văn sáng tác theo lối cũ; với tình hình mới của cách mạng, đặt nhà văn trong
sự lựa chọn đầy tinh thần trách nhiệm, là phải sáng tác những tác phẩm chứa
đựng được hơi thở của thời đại, phản ánh chân thực những gì vốn có trong đời
sống của con người. Phải chăng vì thế mà các nhà văn đã chủ động, trăn trở,
tìm tòi cho mình một con đường, một hướng đi mới thích hợp. Ý thức được
điều này, văn học những năm đầu đổi mới, đặc biệt từ sau 1975 đã có sự
chuyển đổi mới trong tư duy sáng tác. Trong đó, phải kể đến các nhà văn
thuộc thế hệ đi tiên phong trong công cuộc đổi mới như: Nguyễn Mạnh Tuấn,
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Huy
Thiệp.... Nhà nghiên cứu Lã Nguyên đã khẳng định: “Trước khi làn sóng đổi
mới dâng lên mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của dân tộc, trong những
điều kiện cực kỳ khó khăn của đất nước, sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Ma
Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn… đã đốt lên nhiệt tình kiếm tìm chân
lý, hứa hẹn khả năng tự đổi mới của nền văn học, khi nó dám sòng phẳng với
quá khứ, bất chấp mọi thế lực ngăn cản” [50].
Cần gắn các tác giả này với bối cảnh chung để cho thấy sự nghiệp đổi
mới văn học là cả một quá trình; và thành tựu đổi mới mở ra trong giao điểm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
cuối những năm 80, đầu những năm 90 (thế kỉ xx) trong đó có Dương Hướng,
Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Trường là có được sự chuẩn bị tích cực liên tục của
một thế hệ tiền trạm .
1.3.1. Nguyễn Mạnh Tuấn.
Xã hội Việt Nam từ sau 1975 đứng trước một sự chuyển giao lịch sử từ
chiến tranh sang hòa bình. Trước hiện thực ngổn ngang, bề bộn, phong phú
nhưng có phần phức tạp đó đòi hỏi cần có sự phát triển của một thể loại văn
học vừa gần gũi với đời sống, vừa uyển chuyển, không bị đóng khung trong
những quy phạm phản ánh chật hẹp. Do vậy mà sự ra đời của thể loại tiểu
thuyết thế sự đời tư như đã tìm được mảnh đất màu mỡ cho sự khám phá và
sáng tạo. Nguyễn Mạnh Tuấn xuất hiện đem theo cả bầu nhiệt huyết sôi sục,
không né tránh sự thật với khả năng gây dư luận và làm sôi động đời sống văn
học đã góp phần đáng kể trong công tác chuẩn bị cho sự ra đời của một giai
đoạn văn học mới.
Là một cây bút năng động, một nhà văn trẻ, thuộc thế hệ ngoài 30,
Nguyễn Mạnh Tuấn sớm quan tâm đến yêu cầu rút ngắn khoảng cách giữa
văn chương và cuộc đời. Anh luôn tìm cho mình một cách tiếp cận mới, phấn
đấu sao cho tác phẩm của mình gắn bó trực tiếp với những vấn đề nóng bỏng
của cuộc sống. Đặc biệt, Nguyễn Mạnh Tuấn luôn nhấn mạnh đến sự “tỉnh
táo”, “bình tĩnh” của người cầm bút trước hiện thực của đất nước. Với hàng
loạt các tiểu thuyết - phóng sự ra đời đầu những năm 80 như: Những khoảng
cách còn lại (1980), Đứng trước biển (1983), Cù lao Tràm (1985), có thể xem
Nguyễn Mạnh Tuấn là người khởi xướng cho trào lưu văn học “chống tiêu
cực” phát triển rầm rộ vào mở đầu những năm 1980.
Bằng năng lực nắm bắt thực tế nhanh nhạy, ở Những khoảng cách còn
lại Nguyễn Mạnh Tuấn đã đề cập một cách trực diện vấn đề đấu tranh giai
cấp, đấu tranh ý thức hệ, một vấn đề phức tạp đang diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt
là ở các đô thị Miền Nam ngay sau khi chiến tranh kết thúc. Khoảng thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
điểm một năm sau ngày giải phóng, Nguyễn Mạnh Tuấn đã khéo léo xâu
chuỗi các tình tiết kịch tính với nhau, khai thác sâu vào những mâu thuẫn
xung đột trong gia đình. Mâu thuẫn nhỏ này lại được đặt trong mâu thuẫn lớn
đó là cơn lốc xoáy của lịch sử cách mạng, được thể hiện trong các mối quan
hệ chồng chéo vừa có nét riêng lại vừa có nét chung. Đó là cuộc đấu tranh vô
cùng phức tạp, quyết liệt, không tránh khỏi đau xót giữa những con người
ruột thịt trong gia đình sau 20 năm xa cách. Kết thúc tác phẩm là màn bi kịch
hợp - tan do chiến tranh đem lại những tưởng sẽ kết thúc khi chấm dứt chiến
tranh, nhưng nó lại hiện ra ở một khía cạnh mới. Đó là sự khác nhau về ý thức
hệ, về quan niệm sống, về tình cảm... khiến cho các thành viên trong gia đình
mỗi người đều phải trải qua “cơn lốc” của “những con đường đau khổ” theo
cách riêng của mình để xóa bỏ "những khoảng cách còn lại".
Bằng lối viết trung thực, thẳn thắn, đặt kinh nghiệm cá nhân ngang
bằng kinh nghiệm cộng đồng, Nguyễn Mạnh Tuấn đã trình bày tư tưởng riêng
của mình một cách trực diện thông qua những kiến nghị trực tiếp trước những
vấn đề đấu tranh nóng bỏng trong mâu thuẫn nội bộ các cấp lãnh đạo. Đứng
trước biển đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất trong thực trạng làm ăn của
xí nghiệp Sao Mai. Đó là cơ chế quản lý kinh tế đã lạc hậu, với những người
phụ trách có tâm huyết nhưng lại thiếu năng động linh hoạt, thiếu trình độ và
tư duy lãnh đạo. Qua đó, tác phẩm Đứng trước biển đã mạnh dạn đề nghị đưa
ra một phương thức làm ăn mới, bắt đầu bằng sự nhận diện đích thực năng lực
của mỗi con người, trước hết là người lãnh đạo. Đây cũng chính là sự vươn
lên để thực hiện một cách tổ chức quản lý xí nghiệp trong thời kỳ mới sao cho
phù hợp. Tác phẩm đã góp một tiếng nói khẳng khái vào cuộc đấu tranh
chống các hiện tượng tiêu cực và khẳng định sự tồn tại của cái mới.
Mang trong mình khát vọng lý giải, thẩm định các vấn đề nóng bỏng
của đời sống, từ góc độ phản ánh hiện thực cải tạo và xây dựng nông thôn
Nam Bộ, tiểu thuyết Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn đã nhấn mạnh đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
vấn đề phẩm chất và năng lực của người cán bộ nông thôn và vấn đề xác định
một đường lối, chính sách thích hợp trong cải tạo, xây dựng nông thôn Nam
Bộ. Với Cù lao Tràm Nguyễn Mạnh Tuấn đã “bước đầu chạm đúng vào điểm
nóng nhất của hiện thực, của mọi mối quan tâm”. Nó“đã thở được hơi thở
nóng hổi của nông thôn Nam Bộ” [39].
Nguyễn Mạnh Tuấn luôn cân nhắc trong cách viết, với mục đích là
phục vụ độc giả nên anh chỉ viết cho người đọc những điều mình tâm đắc,
nhằm truyền đủ lượng thông tin cần thiết. Vì lẽ đó mà tác phẩm của anh trước
hết nhằm thỏa mãn niềm mong đợi của người đọc, sau đó đồng thời nhằm
thỏa mãn nhu cầu tự thân với niềm khát khao được bộc lộ mình. Những tác
phẩm của anh ở buổi đầu những năm 80 đã tạo nguồn sinh khí mới cho đời
sống văn học đang có bề tĩnh lặng, xóa bỏ được “những khoảng cách còn lại”
với bạn đọc, cái “khoảng chân không văn học” giữa nhà văn với công chúng.
Từ những thay đổi về tư duy nghệ thuật, về quan niệm chung đã đem đến hệ
quả tất yếu, sự thúc đẩy nhà văn chú ý phản ánh những vấn đề phức tạp và
bức xúc của hiện thực, đáp ứng lại mong mỏi của người đọc, nhưng mặt khác
cũng cho ta thấy ít nhiều nhà văn chưa thực sự đặt yêu cầu cao trong trau dồi
nghệ thuật. Trong ý thức nghệ thuật, quan niệm riêng của Nguyễn Mạnh Tuấn
dường như ẩn chứa một sự “hy sinh” nghệ thuật, một sự hy sinh thành tâm tự
nguyện. Nói như nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến: “Nguyễn Mạnh Tuấn chỉ
quan tâm đến việc “kể lại nội dung” chứ chưa quan tâm đến “viết lại nội
dung”, tức là hình thức thể hiện của nội dung, hình thức mang tính quan
niệm.
Nhìn chung, Nguyễn Mạnh Tuấn là một trong số ít nhà văn nhận thức
rõ sức mạnh và sứ mệnh của nội dung, nhưng viết ra trước hết phải phục vụ
trực tiếp cho đời sống, cố gắng rút ngắn khoảng cách từ nội dung đến cuộc
đời, lấy tiêu chí chân thực làm mục đích, đối tượng. Tư tưởng, quan niệm ấy
đã chi phối phần lớn sáng tác của anh, từ quan niệm về hiện thực và con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
người đến việc xây dựng nhân vật, lựa chọn thể loại... để trở thành một dòng
chảy xuyên suốt sáng tác của anh trong mở đầu những năm 80 của thế kỷ XX.
1.3.2. Nguyễn Minh Châu.
Vào những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, giới văn nghệ sỹ và bạn
đọc thực sự ngỡ ngàng trước một lối viết mới: thẳng thắn, mạnh dạn của nhà
văn Nguyễn Minh Châu. Hai tập truyện ngắn: Người đàn bà trên chuyến tàu
tốc hành (1983) và Bến quê (1985) như tiến kèn xung trận, đánh thức các tiềm
năng của nhà văn bấy lâu nay dường như bị ngủ quên. Ngay khi hai tập truyện
ngắn này ra đời công chúng lập tức nhận ra được bước chuyển quyết định
trong lộ trình nghệ thuật của ông. Bước đột phá này khiến độc giả không khỏi
ngạc nhiên trước Nguyễn Minh Châu.
Một con người mang trong mình một dòng cảm xúc của hai thời kỳ.
Nếu đến với văn học thời chiến thì dường như độc giả chỉ biết ông qua những
trang văn xuôi đậm chất thơ đầy màu sắc trữ tình lãng mạn, ngợi ca vẻ đẹp
hào hùng của cuộc sống và con người thời chiến. Thế nhưng vào thời bình,
nếp sống và nếp nghĩ thay đổi đã làm cho ngòi bút của Nguyễn Minh Châu
chuyển hẳn sang một lối đi mới - một Nguyễn Minh Châu của những nỗi trăn
trở, day dứt khôn nguôi về số phận cá nhân con người và sự tồn tại, phát triển
của đất nước sau chiến tranh. Với ông, viết về chiến tranh không có nghĩa là
thi vị hóa những sự kiện hay con người vĩ đại, và mô phỏng nó theo một công
thức nhất định, mà ở chỗ chính con người là “Mảnh đất khám phá những quy
luật vĩnh hằng của các giá trị nhân bản” [48], là hạt nhân của tư duy nghệ
thuật, là hình thức bên trong của mọi sự chiếm lĩnh đời sống, là sự phân tích,
cắt nghĩa và lý giải về thế giới và con người. Điểm nhìn nghệ thuật mới này
về con người đã mở ra cho ngòi bút Nguyễn Minh Châu nhiều hướng tiếp cận
khác nhau về hiện thực, chống lại lối viết chạy theo đề tài.
Đi sâu khám phá chiều sâu của tính cách, khái quát bản chất trong tính
cách của mỗi con người chính là một hướng tìm tòi đổi mới tư duy nghệ thuật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
của Nguyễn Minh Châu. Nhân vật Quang trong Cơn giông chính là sự thể
hiện thành công theo hướng đó. Qua nhân vật Quang, nhà văn muốn phơi bày
bản chất ích kỷ, cơ hội của một kẻ phản bội. Nguyên nhân của sự phản bội đó
được bắt nguồn từ bản chất tráo trở, lật lọng, cơ hội đem lại và đồng thời thể
hiện quan niệm “tùy thời” của hắn khiến cho những người lương thiện phải
khổ sở, điêu đứng.
Nét độc đáo ở ngòi bút Nguyễn Minh Châu trong hai tập Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê còn là khả năng tiếp cận cuộc sống của
con người trong “muôn mặt đời thường”. Tôn Phương Lan trong khi tìm hiểu
tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu qua quan niệm nghệ thuật về con
người đã đưa ra những suy nghĩ mới mẻ khi cho rằng: “Điều đáng nói là ở
chỗ Nguyễn Minh Châu là cây bút sớm có ý thức đặt con người trong “mối
tổng hòa các quan hệ xã hội”mà trong đó đời thường là một tiêu điểm đáng
chú ý” [40].
Xuất phát từ khả năng và ý thức ấy đã cho phép Nguyễn Minh Châu
“nhìn đâu cũng ra truyện ngắn” [43 . Tập hợp các truyện ngắn này cho ta cái
nhìn gần và rõ hình hài cuộc sống dưới dạng đời thường mà vẫn lấp lánh
những khoảng sáng, soi vào những mặt mà bấy lâu nay bị bỏ quên, bị mờ nhạt
đi bên sự chói ngời của những sự kiện, những tình huống lớn. Từ đó lắng
đọng, bồi đắp và làm thanh lọc tâm hồn con người, giúp con người sống với
nhau “người” hơn như nghĩa vốn có của nó. Ở những câu chuyện bình
thường, tưởng không có gì đặc biệt như trong Một lần đối chứng, Đứa ăn cắp,
Một người đàn bà tốt bụng, Mẹ con chị Hằng, Hương và Pha…. ta thấy cuộc
sống đang vận động trong trạng thái tự nhiên với đầy những ngẫu nhiên, vô
thức, có cả những tốt - xấu - hay - dở vốn đã tồn tại trong bản tính của mỗi
con người. Với cách tiếp cận hiện thực con người theo hướng này Nguyễn
Minh Châu đã đem đến cho người đọc cái nhìn toàn diện trong dạng tồn tại
vốn có của nó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
Trên bình diện sinh hoạt thế sự, Nguyễn Minh Châu đã hướng sự chú ý
đến vấn đề đời sống cá nhân con người. Với quan niệm con người là một cá
thể độc lập, một thế giới riêng biệt đầy bí ẩn, mỗi cá nhân tự xác định cho
mình thông qua mối quan hệ với cộng đồng, với xã hội bằng một cuộc hành
trình tư tưởng từ bên trong hai tập truyện kể trên. Bên cạnh đó, hình ảnh
người nông dân và bức tranh nông thôn cũng được Nguyễn Minh Châu phát
hiện ra nhiều nét đặc sắc, độc đáo, mới mẻ, khác hẳn với cái nhìn về nông
thôn và người nông dân trong các sáng tác trước 1975. Với biên độ phản ánh
rộng, ngòi bút Nguyễn Minh Châu đã“thâu tóm” được hầu khắp những vấn
đề nhạy cảm của cuộc sống người nông dân, khiến cho bức chân dung của họ
trong văn xuôi đầu những năm 80 mang một vóc dáng khác trước rất nhiều,
góp phần làm phong phú thêm cho hình tượng nhân vật trong văn học Việt
Nam. Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã nhận xét: “Trong văn học hiếm
có những biểu tượng về người nông dân cao cả, hào hùng mang ý nghĩa lịch
sử nhân loại lớn lao đến như vậy” 12 .
Cuộc sống vốn “đa sự”, con người vốn “đa đoan” - đó là cách nói của
Nguyễn Minh Châu, điều tâm niệm này đã đi vào sáng tác của ông. Cuộc
sống vốn thuận theo chiều đồng đại của thời gian, ấy vậy mà con người luôn
phải sống trong sự phức hợp của hai chiều thời gian đồng đại và lịch đại với
những buồn, vui, khổ đau, bất hạnh. Phải chăng vì thế mà trong sáng tác của
mình Nguyễn Minh Châu đã chỉ ra những vấn đề tồn tại cốt lõi của cuộc sống
không chỉ là: tốt - xấu, đúng - sai, thiện - ác, mà văn học phải làm cho con
người đa dạng, phong phú, từng trải hơn và hiểu biết hơn để con người có thể
sống, “lăn xả” với hiện thực vốn đã đầy rẫy những phức tạp này. Song mục
tiêu của văn học có tính “hướng nội”, con người luôn đặt trong tư thế đối
diện với chính mình để chất vấn chính mình, đó là qúa trình phát triển tâm lý
phức tạp, là chiều sâu và sự phong phú của quá trình ý thức và vô thức - đó là
điểm mới trong tinh thần của con người hiện đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
Nguyễn Minh Châu quan niệm “chiến đấu cho quyền sống của từng
con người, làm sao cho con người ngày một tốt đẹp hơn”. Chính vì vậy, với
hai tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê,
Nguyễn Minh Châu đã dũng cảm nhìn về con người và cuộc đời trên nền tảng
của những nghiền ngẫm, suy tư có chiều sâu triết học. Nguyễn Minh Châu
xứng đáng là cây bút tiên phong và sự thực đã trở thành một trong số nhà văn
mở đường đáng kính của văn học Việt Nam thời đại mới, của công cuộc đổi
mới văn học.
1.3.3. Nguyễn Khải.
Trong chặng đường đổi mới văn học, Nguyễn Khải cũng như bao nhà
văn khác tự tìm cho mình một hướng đi riêng. Lấy con người làm đối tượng
phản ánh trung tâm Nguyễn Khải xác lập nhân cách con người trong khả năng
biết vượt lên số phận, vượt lên chính mình.
Tác phẩm ghi lại dấu ấn đổi mới quan niệm về hiện thực và con người
trong sáng tác Nguyễn Khải đầu tiên phải kể đến tiểu thuyết Cha và con, và …
(1979). Sự ra đời của tác phẩm đã khiến dư luận nhận ra một hướng đi mới,
một sự tìm tòi khám phá mới của Nguyễn Khải về tôn giáo. Xuất phát từ quan
niệm: Tôn giáo chính là sự hướng thiện trong tâm hồn con người, Nguyễn
Khải đã phân tích khá sâu sắc sự khủng hoảng niềm tin tôn giáo; sự khủng
hoảng này không chỉ xảy ra ở những giáo dân bình thường mà cả ở những
linh mục nhiệt thành, tâm huyết với lý tưởng tôn giáo, gánh vác trên vai sứ
mệnh cao cả của đấng bề trên dẫn dắt các con chiên. Cha Thư đã sống trong
nỗi phân vân với những dòng suy nghĩ giằng xé, xáo trộn, day dứt tâm hồn.
Những khoảnh khắc độc thoại đưa cha Thư đối diện với hàng loạt câu hỏi liên
tiếp, dồn dập, nhưng việc tìm ra lời giải đáp vẫn là ẩn số. Cha và con, và…. là
tiếng nói đối thoại vừa tự do, cởi mở, vừa nghiêm túc, chân thành giữa đức tin
tôn giáo và chủ nghĩa xã hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Tiếp mạch nguồn viết về tôn giáo, Thời gian của Người là một phát
hiện mới về tôn giáo, và con người, đó là sự gặp gỡ giữa niềm tin cách mạng
và niềm tin tôn giáo. Tôn giáo không chỉ đơn thuần có giá trị về mặt đạo đức
mà xét từ nhu cầu tự nhiên của đời sống tinh thần, tôn giáo đã và sẽ là một giá
trị văn hóa khi nó là bạn đồng hành của con người trên hành trình vươn tới
nấc thang cao nhất chân - thiện - mỹ. Nó trở thành niềm tin và cao hơn là đức
tin thiêng liêng, điểm tựa nâng đỡ tâm hồn con người trên đường đời, nguồn
mạch nuôi dưỡng, gìn giữ cho mảnh đất tâm hồn con người biết rung động,
nhạy cảm trước những ấm lạnh thăng trầm của cuộc đời, những vui buồn của
số phận đồng loại.
Lấy tôn giáo làm đối tượng quan sát, Nguyễn Khải đặt con người trên
cái phông ấy để tiếp cận, phân tích, cắt nghĩa, lý giải những lời nói, suy nghĩ
và hành động của con người. Dưới con mắt của Nguyễn Khải, con người
được khám phá từ góc độ tâm linh, góp phần bù đắp cái nhìn phiến diện, hạn
hẹp và ít nhiều cứng nhắc trong quan niệm về con người trong văn xuôi trước
1975, hướng tới xác lập mối quan hệ linh hoạt, mềm dẻo, chân thực hơn về
con người. Hơn nữa, các khía cạnh mới về hiện thực và con người được
Nguyễn Khải khai thác như một thế mạnh: cái vô hạn và cái hữu hạn, cái
được và cái mất, cái vận động và đứng yên, cái quá khứ và tương lai, đặc biệt
nhìn con người trong mối tương quan giữa các thế hệ lịch sử là một hướng
đào sâu trong cách tiếp cận hiện thực mới của Nguyễn Khải Gặp gỡ cuối năm
cho thấy sự hụt hẫng ngăn cách giữa các thế hệ là rất lớn, ở đó có những tiêu
chí, giá trị riêng cho những quan niệm khác nhau, những niềm tin và nguyện
vọng khác nhau, mặc dù họ đều có chung một mục đích, nhưng cách ứng xử
và thái độ, hành động trong cuộc sống thì trái ngược nhau, thậm chí đối lập
nhau như: Việt, Bình... Bên cạnh đó, lịch sử bên trong con người được
Nguyễn Khải quan sát, nghiên cứu và khám phá ở chiều sâu, linh hoạt, nhuần
nhị bởi nhà văn không đồng nhất con người với lịch sử, cuộc đời với chính trị,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
bởi lịch sử ôm trọn nhiều mảnh đời và cuộc đời bao giờ cũng rộng lớn hơn
chính trị. Thế giới tinh thần vô cùng phong phú và đầy bí ẩn, ý thức giai cấp
của con người không phải bao giờ cũng là một. Cùng với việc nghiên cứu con
người dưới góc nhìn lịch sử, Nguyễn Khải còn khám phá con người ở tư cách
cá nhân. Từ đó tác giả nhấn mạnh vai trò cá nhân nhưng không hòa tan cá
nhân vào cộng đồng; cái riêng và cái chung vừa là mối quan tâm hàng đầu,
vừa là nỗi ám ảnh, trăn trở trên những trang viết về con người, mà ở đó thước
đo giá trị của mỗi con người chính là nhân cách, với sự tự ý thức về nhân
cách, giá trị của mình, có đầy đủ bản lĩnh để “là mình” chứ không chịu “đánh
mất mình”. Con người của Nguyễn Khải luôn được đặt trong tình thế phải lựa
chọn, bởi qua mỗi lần lựa chọn là thể hiện khả năng sống của con người. Nếu
sự lựa chọn của họ đúng đắn thì con đường đi của họ sẽ hòa vào dòng chảy
chung của cộng đồng, nhưng một khi sự lựa chọn của họ vì lòng tham lam, vị
kỷ, vì những cám dỗ, những thú vui dung tục làm mờ lý trí thì kết cục họ sẽ bị
đào thải theo thời gian. Ngòi bút Nguyễn Khải còn đi sâu cắt nghĩa, lý giải
con người trong hiện thực là “tổng hóa các mối quan hệ xã hội” từ đó tránh
được cái nhìn phiến diện, méo mó khi miêu tả.
Như vậy, bằng các sáng tác đầu những năm 80 Nguyễn Khải cũng đã
góp được cái nhìn mới trong việc đánh giá con người và hiện thực ở nhiều
góc độ khác nhau. Qua đó thể hiện quan niệm, thái độ, cách nhìn nhận đánh giá
về con người và hiện thực trở nên sâu sắc, tỉnh táo và mang tính phổ quát sâu
rộng, đó là những dấu hiệu cơ bản cho quá trình tiền đổi mới văn học nước nhà.
1.3.4. Ma Văn Kháng.
Trước những năm 80 của thế kỷ XX, người đọc biết đến một Ma Văn
Kháng thấm đượm cái nhìn “sử thi” trong các sáng tác viết về đề tài miền
núi. Thế nhưng bước sang những năm đầu của thập kỷ 80 bằng sự ra đời của
hàng loạt các tác phẩm đậm chất đời thường dung dị là đặc điểm nổi bật của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
nghệ thuật tự sự trong các sáng tác về thế sự, đời tư của Ma Văn Kháng, đánh
dấu những đổi mới trong tư duy nghệ thuật về cuộc sống và con người.
Là người nhạy cảm trước những buồn vui, âu lo của cuộc sống, biết
đón đợi nguồn cảm xúc sáng tạo nghệ thuật từ những hanh phúc, khổ đau,
những thắng thua, được, mất của đời người, ngòi bút Ma Văn Kháng như gần
hơn với các giá trị tinh thần đã nâng đỡ con người vượt lên những lam lũ
khốn khó của cuộc đời.
Tìm cho mình điểm tựa là giá trị nhân văn chân chính cổ truyền, Ma
Văn Kháng không ngừng sáng tạo, không ngừng tự đổi mới ngòi bút. Khi
Mưa mùa hạ xuất hiện, làng văn đã ngỡ ngàng, sửng sốt trước một Ma Văn
Kháng rất lạ. Vì thế tác phẩm có không ít những lời bình phẩm khen, chê, trái
ngược nhau, tồn tại trong dư luận, song Ma Văn Kháng vẫn vững tin vào
bước chuyển mới mẻ của mình, bởi đó là nỗi niềm âu lo được toát ra từ lời
kêu cứu của tác phẩm. Tại sao những người tốt như bố con Trọng lại phải
chịu cảnh khổ cực, bất hạnh, còn những kẻ độc ác, đầy dã tâm như Hưng,
Hảo, Thưởng, mẹ Nhuần lại sống phè phỡn, sung túc? Những tiêu cực, bất
công này xuất hiện ngày càng nhiều trong xã hội, nó trở thành hiểm họa khôn
lường nếu trong mỗi người chúng ta không tự ý thức được. Với Ma Văn
Kháng cuộc sống đô thị cùng với quá trình hiện đại hóa đang diễn ra gấp gáp,
đã tạo ra một dòng xoáy dữ dội cuốn hút mọi tầng lớp cư dân. Sự phong phú,
ngổn ngang, bề bộn, trắng đen, phải trái lẫn lộn đan xen biết bao biến động
khiến con người bị chi phối bởi lối sống xô bồ, chạy theo đồng tiền mà quên
đi đạo lý trên đời. Đắm chìm trong môi trường ấy, con người không thể thuần
nhất trong tính cách của mình. Từ Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, đến
Ngày đẹp trời, Đám cưới không có giấy giá thú… là hàng loạt kiểu loại nhân
vật phong phú, đa dạng, trong các trạng thái phức thể của tâm hồn. Vì thế, các
sáng tác cuối thập kỷ 80, nhân vật trí thức như sợi chỉ đỏ xuyên suốt các sáng
tác của Ma Văn Kháng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
Trong tác phẩm Mưa mùa hạ Ma Văn Kháng đã dành nhiều tâm sức,
tình cảm để xây dựng nhân vật Trọng. Trọng là hiện thân cho mơ ước, hoài
bão mà tác giả muốn gửi gắm về một mẫu người trí thức tài năng, trong sáng,
đức độ, đối lập hoàn toàn với thói xấu xa, dung tục. Một trí thức trẻ, tài năng,
say sưa cống hiến sức mình cho công việc cùng đồng đội vượt qua mọi cám
dỗ về vật chất để giữ gìn những giá trị tinh thần cao quý của con người. Tiếp nối
mẫu người trí thức đích thực như: ông Bằng, Luận trong Mùa lá rụng trong
vườn, là thầy giáo Đặng Trần Tư, thầy giáo Thuật trong tác phẩm Đám cưới
không có giấy giá thú. Đó là những trí thức chân chính, tài năng, suốt đời theo
đuổi lý tưởng nhưng lại bị ném chìm vào một xã hội thực dụng, băng hoại về đạo
đức, nhân cách, sa sút về niềm tin và lẽ sống, kết cục cuộc đời là một tấm bi
kịch.
Ngòi bút Ma Văn Kháng dường như từng trải hơn, kinh nghiệm hơn
trong việc nghiên cứu, phát hiện ra con người phức tạp, con người lưỡng diện,
và không nhất quán với chính mình. Khả năng khám phá con người nhiều
chiều, ở nhiều bình diện, xuất phát từ cái nhìn nhân đạo về con người mong
kiếm tìm những điều kiện tốt đẹp cho sự phát triển nhân cách con người. Con
người vốn phức tạp nên không thể dùng một tiêu chí để đánh giá mà phải nhìn
nó trong thế uyển chuyển, linh hoạt mới có cái nhìn xác đáng, Ma Văn Kháng
đã cố gắng cắt nghĩa điều đó qua lời của nhân vật Luận: “Chị Lý không khác
chúng ta đâu. Trong chúng ta cũng vậy: Có xái xấu, có cái tốt. Cái xấu nói
chung mọi người đều biết nó là xấu. Vậy mà cuối cùng vẫn không tránh
được” 36 . Nó giống như nghệ thuật muốn trở thành một thứ “khoa học về
lòng người ” (Nguyễn Khải), khi nó khao khát “phát giác sự vật ở bề chưa
thấy. Ở cái bề sâu, ở cái bề xa”(Chế Lan Viên) thì nó phải tìm đến một quan
niệm đầy đủ, biện chứng hơn về con người. Ma Văn Kháng muốn qua đó
hướng con người tìm đến mối quan hệ với tự nhiên. Trong Ngày đẹp trời ông
nói: Con người phải sống hòa bình với thiên nhiên, núi rừng, tìm thấy trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
thế giới tĩnh tại của đất trời cảm giác được che chở, an ủi, vỗ về, để con người
sống thuần khiết hơn với ngay chính bản thân mình.
Với một chuỗi tác phẩm: Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, Đám
cưới không có giấy giá thú, Ngày đẹp trời ra đời vào những năm 80, Ma Văn
Kháng cho chúng ta nhận thấy đã xuất hiện một cách nhìn mới trong quan
niệm về hiện thực và con người. Hiện thực vốn dĩ là phức tạp, không thể biết
trước và không thể biết hết được, con người vốn là thế giới bí ẩn, cần phải
khám phá, tìm tòi. Nhà báo Luận trong Mùa lá rụng trong vườn đã nhận xét
rằng: “Đời phức tạp là do nó vốn thế chứ ai bịa ra được”. Nhà giáo Cừ khi
nói về vấn đề này cũng phải thốt lên một cách chua chát: “Cuộc sống là sự
phát hiện liên tục”; còn Đông - trung tá về hưu, quen nhìn đời bằng ánh mắt
đơn giản, cuối cùng thì cũng cay đắng nhận ra rằng: “Cuộc sống phức tạp lắm
chứ không đơn giản đâu”.
Như thế, cách nhìn cuộc sống và con người trong sáng tác văn xuôi của
Ma Văn Kháng nửa đầu._.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
83
ghế nọ” và cũng “sẵn sàng hạ bệ tống khứ một vị bộ trưởng tài ba vào tù
hoặc về vườn”(Tr393). Đến cả Đào Kinh cũng phải thừa nhận đó “là dòng
máu bất tử của Trần Tăng đích thực” (Tr396), “Nó mà là con đẻ của ta giờ
này chắc cũng chỉ biết cắm mặt xuống đồng đất làng Đoài cày cấy mà
thôi”(Tr399). Thậm chí Đào Thanh Măng đành phải “hư hỏng ngay với kẻ
định cách chức Trần Tăng” để cứu ông và cũng là cứu lấy mối làm ăn của
mình. “Sự sa đọa do đồng tiền và quyền uy chế ngự” khiến con người đã phải
đánh mất mình. Với tính cách gian ngoan, táo tợn Măng biết dựa vào quyền
lực để kiếm tiền và dùng tiền để mua quyền lực. Tuy thế, ở người đàn bà này,
bên cạnh sự gian ngoan, đáo để tác giả còn nhận ra ở bên trong vẫn còn “chất
quê mùa” và “tốt bụng”. “Đào Kinh nhận ra ánh mắt nó chất chứa nỗi cô
đơn buồn chán của đời sống vật chất phù hoa”(Tr403).“Dưới con mắt của
một số người dân bạc mồm thì Măng dù “đánh đĩ nhưng có lòng”.
Cùng xếp trong nhóm những nhân vật này, có lẽ đáng thương hơn cả là
gia đình Đức Cường, một tư sản giàu có, có lòng yêu nước, bảo vệ cách
mạng, bỗng rơi vào tận đáy của sự bất hạnh. Mỗi thân phận các cá nhân trong
gia đình thương gia Đức Cường mang một nỗi đau riêng - Đó là bi kịch của
chiến tranh, và từ chiến tranh chyển sang hòa bình.
Cái đau muôn thủa của chiến tranh là người có công trong chiến thắng
lại chịu nhiều thiệt thòi, mất mát hơn cả. Đức Cường là một thương gia yêu
nước, ông đã làm tất cả để bày tỏ lòng nhiệt tình của mình với chính quyền,
với cách mạng: đã đổ xương máu, đổ tiền của mong tới ngày hòa bình; ông
đào hầm tiếp tế, nuôi giấu cán bộ cách mạng; vô tư đem hiến hai nhà máy cho
chính quyền thành phố mới tiếp quản những mong được cách mạng chiếu cố
đến hoàn cảnh gia đình ông có con trai đi lính ngụy, đứa con gái Thương
Huyền có con với người Mỹ (thực chất Thương Huyền đã phải chấp nhận ngủ
với kẻ thù để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giao phó).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
84
Nhưng cuối cùng Thương Huyền vẫn phải chịu cảnh “đọa đày” dưới
cái nhìn soi mói, áp đặt cứng nhắc của một cán bộ cách mạng “kiên định lập
trường” là Thu Cúc - con của bà vú nuôi giúp việc. Thu Cúc đã biến Thương
Huyền thành nạn nhân giữa “hai làn đạn của cả hai phía”.
Song cái đau đớn nhất, kinh hoàng nhất, dữ dằn nhất là: Gia đình Đức
Cường trước 1975 giàu có bao nhiêu, đức độ bao nhiêu, kiêu hãnh, tự hào bao
nhiêu thì sau 1975 đành chấp nhận trắng tay: “Hai nhà máy kinh doanh liên
tiếp thua lỗ có nguy cơ phá sản” dù giờ không còn là của ông nữa, nhưng nó
là “công sức của cả đời ông đã lăn lộn với nó, giờ lâm vào cảnh lụi tàn ông
thấy đau đớn như chính mình bị mất mát những gì vô cùng quý giá”(Tr274).
“Mọi chuyện nó ào đến quá nhanh, quá bất ngờ và trớ trêu khiến ông bà Đức
Cường ngỡ ngàng”(Tr276). Và ông phải tự tử trong chính căn hầm nuôi giấu
cán bộ, để giải thoát cho mình khỏi nỗi đau trần thế; để ngày ngày khỏi phải
chứng kiến cảnh trái ngang của thời cuộc, của thế thái nhân tình. Ông chấp
nhận hy sinh cho con, cho cháu mà rốt cuộc không ai nói lời buông tha.
Thương Huyền phải ẵm đứa con thơ dại đi vùng kinh tế mới để gương mẫu
chấp hành chính sách, ông thương con mà không dám “chống chọi”; tòa nhà
chính của dinh thự Đức Cường đáng lẽ phải là của con trai Đức Thịnh, ông
cũng đã đem biếu bà Thu Cúc - phó Ban quân quản, để rồi ngày ngày ông vẫn
phải nghe từng tiếng nạng gỗ khắc khoải, nặng nề lê từng bước, tiếng xe ba
bánh của đứa con què quặt ra đường bán báo kiếm ăn. "Ông là kẻ thất bại
thảm hại nhất trên đời”; “Ông đã trở thành kẻ có tội với vợ con”(Tr279).
Ngoài các nhân vật trên, còn phải kể đến gia đình mấy mẹ con bà Cháo,
Muôi, Muỗng, Thìa, vốn là thành phần cốt cán trong Cải cách ruộng đất ở
làng Đoài, chịu nhiều vất vả khó khăn, ra biên giới làm ăn bằng vốn tự có
trong thời mở cửa. So với đám đông các nhân vật “giàu có” ở trên, họ không
phải là “đại gia” hay “tỉ phú” song “những kẻ bị coi rẻ như mẹ con bà Cháo,
giờ lại hả hê mát mặt”(Tr453).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
85
Hay “đến như Đỗ Hiền, là một kẻ phản dân hại nước, ác ôn khét tiếng
trong chính quyền ngụy mà bây giờ lại có những nghĩa cử cao đẹp lạ thường,
làm cả đường, xây cả chùa cho dân”(Tr453).
Còn Thu Cúc là nhân vật không thể không nhắc tới, với lý lịch đẹp:
xuất thân thành phần cơ bản (con người vú nuôi đi ở cho ông bà Đức Cường),
dù không phải là người làng Đoài, nhưng tác động của Thu Cúc là không nhỏ
đối với số phận của những con người làng Đoài. Một con người góp phần làm
nên chiến thắng lẫy lừng của dân tộc, tuổi trẻ “nếm mật nằm gai”; “mặt sắt
da chì” đã tự nguyện hy sinh cho một lý tưởng cách mạng cao đẹp. Sau 1975,
ông bà Đức Cường tuyên bố “ủng hộ hai mẹ con chị tòa nhà chính của dinh
thự này để cho Thu Cúc lấy chồng”(Tr277). “Cô lấy chồng ở tuổi 39, 40, làm
lên chức phó chủ tịch thành phố, có xe riêng, có biệt thự Hoa Cúc vàng bốn
mùa hoa nở, bốn mùa có bồn nước với những vòi nước trắng bạc phun lên
cao một màu sương khói”. Sống trong biệt thự này, mẹ Thu Cúc, người vú
nuôi xưa kia cũng được nể trọng như một “mẫu hậu”. Ngược lại với Thu
Cúc, sau 1975 gần kề đó, trên mảnh đất này, gia đình Đức Cường đang tan
hoang, lụn bại thảm hại, gần như là đối cực với sự sung túc đầy đủ của Thu
Cúc. Điều đáng nói ở đây là “con người bên trong” khó nắm bắt của Thu
Cúc, nó biểu hiện ở sắc diện “lúc nào cũng khó đăm đăm”, “mặt cứ đanh
lại”; cử chỉ đầy “quyền uy”; ánh mắt “gai lạnh”, đặc biệt ở lời nói, cách nói
lúc nào cũng “lập trường”, “quan điểm” với những lý lẽ “tàn nhẫn” áp đặt
dùng để quy kết, trói buộc con người không hề một chút tình cảm: giọng nói
lúc nào cũng như “rít lên”; nghe thấy“lành lạnh” ngay cả khi “ngọt ngào”
cũng cảm thấy“rờn rợn”... Nhà văn, nhà báo Hoàng Kỳ Nam là người có điều
kiện hơn cả để hiểu con người Thu Cúc; họ gặp nhau luôn để đối đầu với vấn
đề số phận của Thương Huyền; Thu Cúc luôn tìm cách tách hai mẹ con
Thương Huyền ra, như “cho đi vùng kinh tế mới; sang Mỹ; hay đến nhà
thương điên”. Để rồi cuối cùng: “Nam linh cảm thấy, Thu Cúc đã cố tình làm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
86
tan nát cả gia đình Thương Huyền”(Tr412). Ngay cả vú nuôi - mẹ Thu Cúc, dù
không máu mủ ruột rà với Thương Huyền, nhưng “bà cảm thấy có gì đó bất
nhẫn”(Tr283).
Thông qua việc xây dựng các nhân vật đa dạng về tính cách, số phận.
Dương Hướng như muốn “phác thảo” chân dung một thời đại mà trong đó
con người đóng những vai khác nhau trong một cuộc chơi lớn, trong những
biến động dữ dội của lịch sử. Dương Hướng không phán xét, không bào chữa
mà để cho nhân vật tự biểu hiện, tự sống sự sống khách quan của nó.
Điều gây ấn tượng là trong chương cuối của tác phẩm, có sự họp mặt
của mọi người dân làng Đoài; tất cả những ai ra đi, rồi trở về trên mảnh đất
quê hương làng Đoài để ăn mừng cho mọi “tai nạn” đã qua đi. Hình ảnh làng
Đoài trong đổi mới chính là hình ảnh thu nhỏ của đất nước trong thời hội nhập.
3.2.4. Nhân vật là sản phẩm của thời đại vừa là nạn nhân, vừa là tội nhân.
Hầu hết các kiểu nhân vật này đều đóng vai trò quan trọng đối lịch sử;
với Dưới chín tầng trời đó là các tên tuổi: Đào Kinh, Trần Tăng, Đỗ Hiền,
Hoàng Kỳ Trung...
Thời Cải cách ruộng đất, Hoàng Kỳ Trung, Trần Tăng và Đào Kinh
được xem là những con người do lịch sử để lại. Họ phải gánh vác trên vai sứ
mệnh lịch sử to lớn, không thể là ai khác. Điểm giống nhau giữa họ là những
cán bộ cốt cán thực thi nhiệm vụ mà cách mạng giao cho, song khác nhau ở
chỗ: Hoàng Kỳ Trung đã nhìn ra mặt hạn chế của cách mạng, tuy nhiên cá
nhân ông không thể chống đỡ được "cơn lũ" lịch sử. Bởi vậy Hoàng Kỳ
Trung đành phải "chịu đựng", "chấp nhận" thảm hoạ gia đình mà Trần Tăng
và Đào Kinh đã gây ra cho ông bà Hoàng Kỳ Bắc. Và những sai lầm này lại
được Hoàng Kỳ Trung lặp lại một lần nữa khi ông một mực quy cho gia đình
ông bà Đức Cường và Thương Huyền "là kẻ thù không đội trời chung".
Nhân vật Trần Tăng một cán bộ cấp cao từ cơ sở rồi leo lên tỉnh và
trung ương, luôn có mặt ở hàng ghế đầu những hội nghị, luôn tham dự vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
87
những sự kiện quan trọng của cách mạng, suốt đời say sưa với quyền lực, bị
bố mẹ, vợ con nguyền rủa, bị dân làng nơi ông sinh ra đối xử ghẻ lạnh. Đi gần
hết cuộc đời ông mới nhận ra chính ông là kẻ thù to lớn, trực tiếp gây ra biết
bao cảnh tủi nhục, khiến mẹ con bà Cháo phải bỏ làng ra đi, vợ chồng con cái
bà phải chia rẽ; khiến cho Đào Kinh không còn đất dung thân phải chạy sang
Trung Quốc kiếm sống; phá tan gia tộc Hoàng Kỳ; phá tan chùa Đông, đình
Đoài... để đến bây giờ những kẻ từng có lúc bị xem là phản bội tổ quốc như
Đỗ Hiền xin được về xây dựng lại.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt hạn chế của họ, Dương Hướng cũng
chỉ ra mặt tích cực, đó là sự đóng góp công sức cho dân làng. Trần Tăng là
người gây ra nhiều tai hoạ cho người dân làng Đoài nhưng cũng là người bỏ
ra nhiều tâm lực cho mảnh đất này. Đào Kinh với những sai lầm trong Cải
cách ruộng đất, cuối đời ăn nên làm ra đã trở về xin lỗi dân làng và xây dựng
lại vùng đất quê hương. Đỗ Hiền là kẻ đứng ở bên kia chiến tuyến đã ăn năn,
xin chuộc lại lỗi lầm, xây dựng lại những gì mà trước kia Trần Tăng phá bỏ.
Với kiểu loại nhân vật này, Dương Hướng chỉ ra mặt tiêu cực tồn tại
song song với mặt tích cực trong mỗi con người. Họ là “tội nhân” nhưng cũng
là "nạn nhân" của lịch sử. Điều đó giúp cho ta có cái nhìn không thiên lệch về
các nhân vật, nói cách khác, nhân vật của ông không quá xấu, cũng không quá
tốt. Những gì họ gây ra là nằm trong những hạn chế không thể vượt qua của
thời đại, những "tai nạn" họ nhận cũng có thể xảy ra với bất cứ ai. Bởi vậy,
cuộc gặp mặt của cả dân làng trong ngày hội ở chương cuối tác phẩm là cuộc
gặp mặt ăn mừng cái "tai nạn" qua đi, để bắt đầu một tương lai mới.
3.2.5. Nhân vật thánh thiện.
Trong số rất đông các nhân vật của Dưới chín tầng trời, Hoàng Kỳ
Nam, Hoàng Kỳ Trung, Yến Quyên được coi là nhân vật ít nhiều thánh thiện,
bởi ở họ tuyệt nhiên không có chất “điếm”, “lưu manh” nào - nói như nhà
phê bình Hoàng Ngọc Hiến.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
88
Với nhân vật Hoàng Kỳ Nam sự thánh thiện tỏa ra từ lời nói đến việc
làm. Khi cầm súng cũng như cầm bút anh không có gì đáng chê trách. Tình
yêu của Nam với Thương Huyền từ đầu đến cuối tác phẩm là một mối tình
đắm đuối, ngoài nhục cảm. Trong thế giới thực dụng ngày nay, tình yêu đó có
thể xem là một mê sảng, lạc lõng. Bởi ở Nam cá tính tự do là điểm mạnh
nhằm phát triển năng lực nhân tính chứa đựng trong nhân cách, chính điều
này đã thúc đẩy Nam đi đến hai quyết định quan trọng trong cuộc đời là: “bỏ
vợ” để “thành người tự do một nửa”, và “bỏ nghề” để “thành người tự do
hoàn toàn”. Do vậy, vào tuổi 50, Nam ly hôn Tuyết - người vợ anh chưa từng
yêu, là sợi dây trói buộc Nam với những gì không phải là tự do của mình. Hay
trong hoạt động làm báo, Nam giống như một con rối viết theo sự sắp đặt của
ông Tổng biên tập, Nam thấy xấu hổ, khi phải viết lên những suy nghĩ không
phải của mình. Cá tính tự do trong sự nghiệp và tình yêu của con người một
khi đã bị hạn chế nó sẽ biến con người giống như một cỗ máy, bởi vậy, một
tâm hồn tự do đầy ý thức trách nhiệm đã dẫn Nam đi đúng con đường mà mình
đã chọn. Tình yêu tự do biến thành sức mạnh, thôi thúc anh tìm đến với Thương
Huyền, chăm sóc cho người yêu trong hoàn cảnh chỉ còn là thân tàn ma dại. Để
rồi số phận không hắt hủi tấm lòng bao dung của con người, Nam đã tìm lại
được Thương Huyền của anh ngày xưa.
Tiếp đó là nhân vật Hoàng Kỳ Trung, về cơ bản nhân vật này là con
người thánh thiện, ông trao cả cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh dân tộc. Tuy
cuộc đời có nhiều biến thiên do lịch sử, ông cũng bị mắc cạn trong khung
cảnh hỗn độn ấy, song là người biết nhìn xa trông rộng, ông đã nhìn thấy
những hạn chế của thời đại, của lịch sử. Do vậy, Hoàng Kỳ Trung vừa bị cuốn
theo dòng chảy, để mà vừa “chịu đựng”, vừa gắng giữ cho “cơ ngơi gia tộc”
ông không bị tan tành. Song ưu điểm lớn trong con người ông đó là sự bao
dung với những kẻ trước đây là kẻ thù của mình, ông cho tất cả là “tai nạn”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
của thời cuộc, nó có thể nhấn chìm bất kỳ ai, và con người chính là “nạn
nhân” của các “tai nạn” đó.
Còn Yến Quyên - vợ Hoàng Kỳ Trung, mẹ Hoàng Kỳ Nam chịu nhiều
bất hạnh trước hoàn cảnh xô đẩy song không bị cuốn trôi. Ở Yến Quyên là
vóc dáng hiền thục của người phụ nữ phương Đông truyền thống, chồng đi
biền biệt vẫn một mực kiên trinh chờ chồng, vừa chăm lo vừa chống đỡ trước
“cơn lũ” lịch sử ập đến gia tộc Hoàng Kỳ. Không chỉ có vậy, với “tấm lòng
bao dung, một tình yêu thật sự với người dân làng Đoài nghèo khổ”, Yến
Quyên giống như “những bông sen hồng thơm ngát giữa bùn đất”(Tr341)
luôn luôn sốt sắng với công việc của làng xã. Mặc dù là nạn nhân thảm
thương trong Cải cách ruộng đất, song Yến Quyên vẫn hăng say với phong
trào hợp tác, vừa góp công xây dựng nó, vừa sớm nhận ra những khiếm
khuyết của nó.
3.3. Sự tiếp cận đa chiều về các sự kiện và thái độ khách quan của
ngƣời trần thuật.
Nằm trong mạch chuyển động của văn học thời kỳ đổi mới, Dương
Hướng cũng như các nhà văn đương thời không lấy số lượng sự kiện làm mục
đích miêu tả, mà sự kiện được đưa vào tác phẩm là những sự kiện có tính chất
“điển hình”,“tiêu biểu” mang tính thời sự, in đậm những dấu ấn thời đại. Như
nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã xa gần nói đến trong phần cuối bài giới
thiệu: “một cuốn tiểu thuyết ngồn ngộn sức sống và đời sống, nóng hổi những
tư tưởng của thời đại và những vấn đề thời sự của đất nước …”
Lâu nay một số người vẫn cho rằng thời đại sử thi trong văn chương
bây giờ đã “hết thời” để nhường chỗ cho văn chương đời thường. Nhưng trên
thực tế thì chất sử thi vẫn còn tồn tại, thậm chí phát triển song song với văn
chương đời thường. Ở cuốn tiểu thuyết mới này của Dương Hướng chất sử thi
vẫn còn thể hiện khá rõ nét. Tác phẩm mở ra với một thời gian dài (ngót nửa
thế kỷ) và một không gian rộng (khắp mọi miền đất nước, thậm chí mở ra cả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
không gian rộng lớn ở nước ngoài) và bao gồm cả một gia hệ với ba lớp nhân
vật (Hoàng Kỳ Bắc, Hoàng Kỳ Trung đến Hoàng Kỳ Nam) gói trọn hình ảnh
đời sống trong tính “toàn vẹn”,“đa chiều”, “phức tạp”. Cái khéo léo đem lại
thành công cho nhà tiểu thuyết là biết tổ chức, đan cài lịch sử - sự kiện và lịch
sử - tâm hồn, điều đó đòi hỏi nhà văn phải có tay nghề cao trong xử lý chất
liệu, điều khiển nhân vật và cấu trúc tác phẩm. Dương Hướng đã làm được
điều đó.
Các sự kiện lớn đặt ra trong tác phẩm là những sự kiện có tính chất
“điển hình”, trở thành những biến cố lịch sử có tính chất “bước ngoặt” của
dân tộc như: Cuộc Cải cách ruộng đất; hai cuộc chiến tranh; hợp tác hoá nông
nghiệp, công cuộc đổi mới; đất nước thời mở cửa... đã được Dương Hướng
lựa chọn, chắt lọc thông qua nhiều kiểu loại nhân vật. Ví như Trần Tăng -
nhân vật đại diện cho kiểu người chạy đuổi theo quyền lực và tha hoá vì
quyền lực. Bước đường quan lộ của ông ta gắn liền với những biến cố lịch sử
của đất nước từ: Cải cách ruộng đất - chiến tranh - hoà bình và đổi mới xã hội.
Có thể nói, ở giai đoạn lịch sử nào của dân tộc cũng có mặt Trần Tăng. Trong
thời kỳ Cải cách ruộng đất Trần Tăng giống như một vị chúa tể, có quyền
sinh, quyền sát trong tay, Trần Tăng có thể trừ khử bất cứ ai, để phục vụ cho
mục đích ham muốn cá nhân. Gia đình Hoàng Kỳ là một trong số nạn nhân bi
thương nhất. Những sai lầm, ngu muội một thời khiến cho Trần Tăng cuối đời
vẫn không được sống yên thân, bị dân làng ghẻ lạnh, đến lúc sắp sang thế giới
bên kia Trần Tăng vẫn chìm trong cơn mộng mị hãi hùng của 45 năm về trước
như vừa mới xảy ra: “Không, ta không giết người, ta đâu muốn thế. Chẳng
qua do thời cuộc, do hoàn cảnh lịch sử mà ta là người thừa hành nhiệm vụ
mà thời đại giao cho”(Tr497).
Hay trong vấn đề hợp tác hoá nông nghiệp, Trần Tăng cũng phải thừa
nhận: "Ngẫm lại từ cái thời ông còn làm chủ tịch huyện, rồi lên tỉnh, lên trung
ương tới giờ ông chẳng làm được gì tốt đẹp cho miền đất này. Cái dự án phiêu
lưu quai đê lấn biển của ông ngày ấy thất bại đau đớn. Cái dự án điên rồ của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
ông phải trả giá quá đắt bằng mồ hôi công sức của hàng vạn con người chỉ vì sự
ngu dốt, cộng với cảm hứng chí háo danh của ông... Nhìn những con sông bạc
đầu từ biển xa liên tiếp xô vào bãi cát lúc này, ông cảm thấy rờn rợn”(Tr472).
Những sai lầm của Trần Tăng trong phong trào hợp tác hóa cũng được
Yến Quyên vạch ra: “Từ ngày có hợp tác xã, người nông dân dửng dưng với
đồng ruộng. Làm ăn chểnh mảng, ai cũng chỉ nghĩ làm thế nào để có nhiều
thóc”(Tr187); “Trông ngóng vào hợp tác xã, chưa hết mùa đã hết thóc, tháng
ba ngày tám đói rã họng”(Tr195). “Đó là cơ chế quan liêu hình thức của
thành tích… làm hư hỏng cả một thế hệ người nông dân xưa vốn cần cù một
nắng hai sương. Nông thôn ta đang bị phá vỡ dần gốc rễ nền móng tốt đẹp đã
có từ ngàn đời nay”(Tr193) “Điểm thì nhiều, nhưng thóc lại ít, dân bắt đầu
hoang mang, tháng ba ngày tám nhà nào cũng hết thóc đói vàng
mắt”(Tr116), “Thật ngược đời, đi làm hợp tác ngày công chỉ được lạng thóc,
cô Lùn bỏ đi mót ngày lại được năm cân”(Tr116). Hay để có thành tích chăn
nuôi giỏi, Đào Kinh sáng kiến: “Vận động tất cả các gia đình xã viên có lợn
tự giác dong đến thả vào trại lợn cho hợp tác mượn một ngày để chào mừng
đón đoàn cán bộ huyện về thăm quan”(Tr117).
Hay đến thời mở cửa, lợi dụng quyền lực và tiền bạc sẵn có trong tay,
Trần Tăng đã thăng tiến trên con đường quan lộ, không chỉ vậy còn đứng
đằng sau giúp Măng và Đào Kinh làm ăn phi pháp.
Như thế, sự tiếp cận đa chiều các sự kiện có tính bước ngoặt từ Cải
cách ruộng đất, đến những vấn đề sau đổi mới thể hiện thái độ khách quan của
người trần thuật. Dương Hướng giúp bạn đọc đi sâu vào các vấn đề nóng
bỏng của thời đại và chỉ ra căn nguyên của nó. Tất cả như một xâu chuỗi, nối
tiếp sự kiện này đến sự kiện khác như một dòng chảy. Dù dòng chảy lịch sử
có lúc đứt quãng nhưng cuộc sống con người vẫn nối tiếp.
3.4. Nghệ thuật kể chuyện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
Một trong những vấn đề quan trọng có tính “đột biến” từ tác phẩm Bến
không chồng đến Dưới chín tầng trời đó là sự mới lạ trong nghệ thuật kể
chuyện của tác giả, chuyển từ bản năng, chân phương (trong Bến không
chồng) tới sự hoà quyện giữa bản năng và trí tuệ trong tiểu thuyết mới này.
Đó là cả một quá trình rèn luyện, phấn đấu không ngừng để tích luỹ vốn sống,
và kinh nghiệm nghề nghiệp.
Nếu lối kể chuyện mộc mạc, chân phương truyền thống, mang lại cho
tác phẩm Bến không chồng vẻ đẹp giản dị, tự nhiên, thì đến Dưới chín tầng
trời đã có sự phá cách cốt truyện với lối kết cấu không theo tuyến tính thời
gian mà là sự lắp ghép, cấu trúc các khối đời, vừa độc lập, vừa xen cài vào
nhau, làm cho những tình huống, cảnh ngộ, biến cố, sự kiện, số phận con
người tưởng như không có quan hệ liên đới nhưng lại xích lại gần nhau, đặt
cạnh nhau, nối kết với nhau tạo nên mạch cốt truyện lôgíc, hấp dẫn. Đó là đặc
điểm của thi pháp tiểu thuyết hiện đại. Nhờ đó tác phẩm được viết ra một
cách tự nhiên, không bị ràng buộc bởi thi pháp truyền thống. Sự lắp ghép này
luôn gắn với việc di chuyển điểm nhìn hết sức tinh tế, linh hoạt của người trần
thuật, làm cho mạch kể tưởng như rời rạc, phóng túng mà ngược lại rất chặt chẽ.
Khác cách mở đầu bằng các sự kiện diễn ra trong quá khứ của Bến
không chồng, Dưới chín tầng trời được mở đầu ở thời hiện tại và kết thúc
truyện lại trở về thì hiện tại, ở giữa là ngổn ngang bề bộn biết bao chuyện đời
đã diễn ra trong hơn nửa thế kỷ, giúp ta có cái nhìn trải rộng, nhưng rồi vẫn có
thể thu gom lại trong mấy chương cuối kết thúc truyện nói đến cuộc hội ngộ
của người dân làng Đoài, và phác ra viễn cảnh những “con đường mới”...
Điều đó chứng tỏ sự trải nghiệm của tác giả đã chạm được “độ chín” cần thiết
cho sự ra đời một tác phẩm nghệ thuật có giá trị đích thực. Phải chăng, đó là
thành quả của 15 năm ấp ủ, im lặng trong trăn trở để một ngày trở lại quyết
liệt bằng một tiểu thuyết bề thế, với cái tên đầy vĩ mô: Dưới chín tầng trời.
Tuy nhiên, cách kết thúc truyện bằng đám ma trên cánh đồng Mả Rốt ở
Dưới chín tầng trời lại giống như cái đám tang tiễn đưa Vạn trong Bến không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
chồng. Bởi cả hai cái chết của hai con người như một sự “hoá giải” cho biết
bao xót xa, lầm lạc. Cuộc tiễn đưa Trần Tăng và Vạn có một ý vị đặc biệt,
giống như cuộc tiễn đưa quá khứ, không theo lối“vui vẻ” như Mác nói. Bởi
sự “hoá giải” này như là một thông điệp gửi gắm cho những ai còn ở lại;
cách kết thúc bằng cái chết của một con người nhưng lại như bắt đầu mở ra
một chân trời mới, một cuộc sống mới có thể là một thế hệ khác đến sau họ,
có thể là từ đứa con của Hạnh trong Bến không chồng.
Với cái chết của Trần Tăng, ngoài ý nghĩa là một sự giải thoát bi kịch
cá nhân, nó còn được xem là một nhát cắt để dứt khoát giã từ một quá khứ có
nhiều lầm lạc, mở ra một chân trời mới cho người dân làng Đoài.
Điều đáng chú ý, ở chương cuối tiểu thuyết xuất hiện hình ảnh “Con
đường mới” như một biểu tượng bao hàm nhiều ý nghĩa. Hoàng Ngọc Hiến
cho rằng:“… đó là biểu tượng vặt không hơn không kém”. Song thiết nghĩ, đó
là một tìm tòi, sáng tạo mới của Dương Hướng. Bởi một khi đã là biểu tượng
là có khả năng gây ấn tượng, nó sẽ trở đi trở lại và rồi đọng lại trong lòng
người đọc sau toàn cảnh chằng chịt các nẻo đi về của hai trục không gian và
thời gian. Dương Hướng không phán xét, ông chỉ “phác thảo” lại chân dung
thời đại mà chúng ta đã sống. Để cho mỗi người tự nhận mà phát xét lấy chính
mình.
Hơn nữa, theo tôi, với lối kết cấu truyền thống, kết thúc có hậu, hình
ảnh con đường mới, dù là giản đơn nhưng cũng là sự thoả đáng, có giá trị
nhân văn. Dù xã hội có biến thiên, con người trong đời sống dù ở giai tầng
nào, thì cuối đời mảnh đất quê hương quen thuộc vẫn dành cho họ sự bằng an
và là nơi yên nghỉ vĩnh hằng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
KẾT LUẬN
1. Dương Hướng là một trong số gương mặt tiêu biểu của tiểu thuyết
đương đại Việt Nam, dù không thuộc lớp người viết đóng vai trò“tiền trạm”
như Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Lựu,
Nguyễn Huy Thiệp... Nối tiếp họ, ông đã có đóng góp xứng đáng trong tư
cách một nhà văn ở độ tuổi 60, chưa thật già, nhưng cũng không còn trẻ.
2. Sáng tác của Dương Hướng nằm trọn trong giai đoạn văn học đổi
mới tính từ 1986 cho đến 2007. Tuy số lượng tác phẩm không nhiều, chỉ với
ba cuốn tiểu thuyết và hai tập truyện ngắn song sự thành công của tác phẩm là
kết quả đích thực có ý nghĩa to lớn đóng góp vào sự phát triển của văn xuôi
đương đại.
3. Từ Bến không chồng đến Dưới chín tầng trời cho ta thấy diện mạo
phát triển chung của nền tiểu thuyết Việt Nam trong thời kì chuyển giao giữa
hai thế kỷ. Có thể khẳng định: Dương Hướng là một trong số tác giả tiêu biểu
của văn học đổi mới, với khởi đầu là Bến không chồng, cái mốc mà 15 năm
trước đã từng giúp đưa cái tên Dương Hướng lên văn đàn, và với sự tiếp tục
trở lại bằng một tiểu thuyết bề thế, Dưới chín tầng trời như một bước phát
triển ngoạn mục trên tất cả các phương diện: từ biên độ phản ánh; sự mở rộng
các kiểu dạng nhân vật; cách nhận thức và đào sâu vào nhiều vấn đề nhân sinh
có ý nghĩa thời đại.
4. Tác phẩm Dưới chín tầng trời đã đánh dấu sự đổi mới tư duy nghệ
thuật theo xu hướng phát triển tiểu thuyết hiện nay ở sự đa dạng, phong phú
trên các phương diện của chất liệu, của chủ đề, của thế giới nhân vật... nhưng
về căn bản vẫn tuân thủ theo kiểu dạng tiểu thuyết truyền thống. Nó giống
như một cuộc đi tìm cái mới trong khuôn hình cổ điển, và đó là điều khiến
chúng tôi tin tác phẩm sẽ có được sự đón đợi của công chúng. Luận văn này
mong góp thêm một tiếng nói để hưởng ứng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
95
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh, Đổi mới văn học vì sự phát triển. Tạp chí văn học tháng 4/1995.
2. Tạ Duy Anh (2002), Lão Khổ, NXB Văn hoá thông tin, H.
3. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Bình (1996) : Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam từ
1986 đến nay, Luận án Tiến sĩ ĐHSP Hà Nội.
5. M.Bakhtin: (2003): Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn.
6. Nguyễn Văn Chung (2006) Tiểu thuyết Chu Lai thời kỳ đổi mới - Luận văn
Thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên.
7. Nguyễn Minh Châu (1987) : Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ
minh hoạ, Văn nghệ số 49-50.
8. Tuyển tập Nguyễn Minh Châu (1999), Nxb Văn Học.H.
9. Phan Cự Đệ (1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập 1,2, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
10. Hà Minh Đức, Lê Bá Hán (1985), Cơ sở lý luận văn học, tập 2, Nxb Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
11. A.Rôp.Griê - Vì một nền tiểu thuyết mới, Nxb Hội nhà văn Việt Nam,H.
12. Hoàng Ngọc Hiến (1990), Văn học - học văn, Trường Cao đẳng Sư phạm
TP Hồ Chí Minh, Trường viết văn Nguyễn Du.
13. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ
Văn học, Nxb Giáo dục - Hà Nội.
14. Nguyễn Văn Hạnh (1993), Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi
mới cách nhìn về con người. Tạp chí văn học số 3.
15. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình (1995): Quan niệm nghệ thuật về con
người trong văn xuôi từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay, NXB Hà Nội.
16. Lê Thanh Hùng (2006), Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ đầu đổi mới
(giai đoạn 1980 - 1989) - ĐHSP Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
96
17. Lê Thị Hằng (2002): Một số đặc điểm của văn xuôi Việt Nam sau 1985 (qua
những truyện ngắn và tiểu thuyết tiêu biểu) - Luận văn Thạc sĩ - ĐHSP Vinh.
18. Dương Hướng (1989) - Gót Son.
19. Dương Hướng (1990) - Bến không chồng.
20. Dương Hướng (1991) - Trần gian đời người.
21. Dương Hướng (1995) - Người đàn bà trên bãi tắm.
22. Dương Hướng (1998) - Bóng đêm và mặt trời.
23. Dương Hướng (2007), Dưới chín tầng trời
24. Dương Hướng (2000), "Nỗi đau từ Bến không chồng", Báo Lao động (14/11).
25. Dương Hướng (2000), "Dấu ấn thầy văn, bạn văn", Báo Hạ Long (5/9).
26. Dương Hướng (2001), "Nhà văn của những Bến không chồng", Báo Tiền
phong online.com.vn (08/2).
27. Dương Hướng (2001), Trò chuyện với tác giả "Bến không chồng", Báo
Bình Định.com.vn (8/2).
28. Dương Hướng (2007), "Hãy cứ để cuốn sách bước ra cuộc đời", Báo Lao động (19/10).
29. Dương Hướng (2007), "Tác giả Bến không chồng trở lại", Báo Tuổi trẻ (30/11).
30. Dương Hướng (2007), "Người dám chơi đùa với áo cơm", Báo Thể thao
và Văn hóa cuối tuần (9/11).
31. Dương Hướng (2008), "Tản mạn về Dương Hướng", trannhuong.com.vn
(14/2).
32. Dương Hướng (2008), "Chuyện làm phim Bến không chồng"
33. Một số bài báo, Tạp chí, trang net xung quanh tiểu thuyết Bến không
chồng và Dưới chín tầng trời.
34. Milan Kundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, Nxb Đà Nẵng.
35. Ma Văn Kháng - Tiểu thuyết (2003); Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
36. Nguyễn Khải - Văn xuôi một chặng đường (1963 - 1983) in trong Văn học
trong giai đoạn cách mạng mới.
37. Nhiều tác giả (1996), 50 năm Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng 8,
Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
97
38. Nhiều tác giả (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển
học.
39. Lê Phú Khải (1988). Đọc "Cù Lao Tràm". Văn nghệ (4).
40. Tôn Phương Lan (1993), Tìm hiểu tư tưởng nghệ thuận của Nguyễn Minh
Châu qua quan niệm nghệ thuật về con người, Văn học (6).
41. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội nhà văn. H.
42. Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình của thế kỉ XX, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
43. Nguyễn Văn Long, Lã Nhân Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975,
Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
44. Lê Lựu (1985), ý kiến phát biểu trong cuộc trao đổi về truyện ngắn những
năm gần đây của Nguyễn Minh Châu, Văn nghệ (4), Nxb Hội nhà văn. Hà Nội.
45. Lê Lựu (2003), Thời xa vắng. NXB Hội nhà văn. Hà Nội.
46. Nguyễn Đăng Mạnh (1985), Về một xu hướng tiểu thuyết đang phát triển,
Báo Nhân dân.
47. Bảo Ninh (1990), Nỗi buồn chiến tranh. NXB Hội nhà văn.
48. Nguyên Ngọc (1991), Văn xuôi sau 1975, thử thách thăm dò đôi nét về
quy luật phát triển, Văn học (4).
49. Nhà văn hiện đại Việt Nam (2007), Nxb Hội nhà văn Việt Nam, H.
50. Lã Nguyên (1991), “Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi mới
tư duy nghệ thuật”, in trong Nguyễn Minh Châu - Con người và tác phẩm,
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
51. Bùi Việt Thắng (2008), "Dưới chín tầng trời". Trannhuong.com.vn (14/2).
52. Lê Thị Thịnh (2007), Vị trí hai tiểu thuyết “Thời xa vắng” của Lê Lựu và
“Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng trong tiến trình đổi mới văn
học - Luận văn Thạc sĩ - ĐHSP Vinh.
53. Đỗ Phương Thảo (2007) - Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn
Kháng - Luận án Tiến sĩ - Viện Văn học.
54. Trần Thị Phương Thảo (7/2008), “Dương Hướng sau Bến không chồng” -
Văn nghệ quân đội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
98
55. Nguyễn Khắc Trường (2006), Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nxb Hội Nhà
văn.
56. Nguyễn Thị Minh Thuỷ (2005) “Những cách tân nghệ thuật trong tiểu
thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay”. Luận văn Thạc sĩ - ĐHSP Vinh.
57. Nguyễn Đình Thi "Văn học ta trong giai đoạn mới của cách mạng" - Báo
cáo của BCH Hội nhà văn Việt Nam - NXB tác phẩm mới.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9531.pdf