Tiểu thuyết Dương Hướng (từ bến không chồng đến dưới chín tầng mây)

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ------------------- TRẦN THỊ PHƯƠNG THẢO TIỂU THUYẾT DƯƠNG HƯỚNG (Từ BẾN KHÔNG CHỒNG đến DƯỚI CHÍN TẦNG TRỜI) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 602234 Người hướng dẫn khoa học: GS. PHONG LÊ THÁI NGUYÊN - 2008 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU Trang 1. Lý do chọn đề tài................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề .....................................

pdf101 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1716 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Tiểu thuyết Dương Hướng (từ bến không chồng đến dưới chín tầng mây), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
................................................ 2 3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu...................................................... 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................ 5 5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 6 6. Đóng góp của luận văn ....................................................................... 6 7. Cấu trúc luận văn ................................................................................ 6 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng I BỐI CẢNH CHUNG CỦA ĐỜI SỐNG VĂN HỌC VÀ DIỆN MẠO MỚI CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986 1.1. Những chuyển động trong đời sống xã hội sau 1975 và sự tất yếu của công cuộc đổi mới ....................................................................................... 7 1.2. Những chuyển động trong đời sống văn học trước và sau 1986, trước yêu cầu đổi mới............................................................................................ 9 1.3. Những người viết đóng vai trò tiền trạm trong công cuộc đổi mới . 15 1.4. Về Giải thưởng Hội nhà văn năm 1991 cho Bến không chồng. Về Dương Hướng và quá trình sáng tác...................................................... 30 Chƣơng II TỪ "BẾN KHÔNG CHỒNG", MỘT KHỞI ĐỘNG QUAN TRỌNG TRONG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA DƢƠNG HƢỚNG... 2.1. Chiến tranh trong nhận thức của Dương Hướng .................................... 32 2.1.1. Qua hình ảnh người lính thời hậu chiến............................................... 32 2.1.2. Qua số phận người phụ nữ.................................................................... 41 2.2. Nông thôn qua các bước ngoặt cách mạng ............................................. 44 2.2.1. Bi kịch Cải cách ruộng đất .................................................................. 45 2.2.2. Bi kịch gia tộc, dòng họ . ........................................................................ 50 2.3. Nghệ thuật tự sự trong Bến không chồng................................................ 53 2.3.1. Cốt truyện. ........................................................................................... 53 2.3.2. Nhân vật ............................................................................................... 57 2.3.2.1. Tập trung vào số phận con người...................................................... 58 2.3.2.2. Nhân vật có số phận bất hạnh ........................................................... 59 2.3.2.3. Nhân vật vừa là nạn nhân vừa là tội nhân......................................... 62 Chƣơng III .... ĐẾN "DƢỚI CHÍN TẦNG TRỜI", BƢỚC BỨT PHÁ NGOẠN MỤC CỦA DƢƠNG HƢỚNG TRÊN CON ĐƢỜNG ĐỔI MỚI TIỂU THUYẾT 3.1. Biên độ phản ánh rộng, với xuất phát từ làng Đoài ............................... 66 3.2. Sự mở rộng của các kiểu dạng nhân vật ................................................. 68 3.2.1. Hệ nhân vật trong gia tộc Hoàng Kỳ ................................................... 70 3.2.2. Nhân vật ở phía bên kia........................................................................ 74 3.2.3. Nhân vật "lên voi xuống chó" với số phận thay đổi theo sự thay đổi của thời cuộc.................................................................................................. 75 3.2.4. Nhân vật là sản phẩm của thời đại, vừa là nạn nhân vừa là tội nhân............. 80 3.2.5. Nhân vật thánh thiện ........................................................................... 82 3.3. Sự tiếp cận đa chiều về các sự kiện và thái độ khách quan của người trần thuật............................................................................................................ 83 3.4. Nghệ thuật kể chuyện ............................................................................. 86 KẾT LUẬN................................................................................................... 88 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 89 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. 1.1. Dương Hướng là một trong những cây bút tên tuổi của văn xuôi đương đại Việt Nam. Cùng với Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, và Thân phận tình yêu của Bảo Ninh, Bến không chồng của Dương Hướng là một trong ba tác phẩm nhận Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991, một giải thưởng sáng giá, ghi nhận thành tựu văn học Việt Nam sau 5 năm đổi mới. 1.2. Không thuộc đội ngũ "tiền trạm" xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) người cùng thế hệ với mình, Dương Hướng vào nghề viết ở tuổi 40, bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, với Bến không chồng (in 1990), nhận Giải thưởng Hội nhà văn (1991), Dương Hướng bỗng trở thành một "tên tuổi" và quan trọng hơn, trở thành một gương mặt tiêu biểu trong công cuộc đổi mới văn học vào nửa đầu những năm 90 của thế kỷ XX... Tác phẩm Bến không chồng đã đánh dấu một bước "khởi động" quan trọng trong sự nghiệp sáng tác và là tác phẩm khẳng định thành tựu mở đầu, đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao của văn học thời kỳ đổi mới. 1.3. Trong khi Nguyễn Khắc Trường và Bảo Ninh, sau những thành công rực rỡ được ghi nhận chưa có thêm tác phẩm nào lớn hơn, thì 15 năm sau, Dương Hướng tiếp tục khẳng định tên tuổi của mình bằng sự trở lại bởi một tác phẩm bề thế hơn, như một sự tiếp nối và mở rộng Bến không chồng, có tên Dưới chín tầng trời với quy mô về số trang, phạm vi bao quát đề tài, số lượng nhân vật đông đảo... Điều đó là minh chứng cho một sức viết dồi dào, bền bỉ và còn nhiều hứa hẹn . 1.4. Từ Bến không chồng đến Dưới chín tầng trời trong khoảng cách 15 năm, ghi nhận những thành công vượt bậc trên con đường nghệ thuật của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 Dương Hướng. Tiểu thuyết Dưới chín tầng trời là bước đột phá so với thành công ở Bến không chồng, không chỉ ở độ lớn về quy mô số trang, đề tài, nhân vật mà còn cho thấy sự thay đổi lớn về tư duy nghệ thuật. Vẫn trung thành với cấu trúc truyền thống nhưng không nô lệ vào truyền thống mà đã có sự cách tân nhất định, Dưới chín tầng trời chắc chắn sẽ có sức thu hút trong tầm đón đợi của độc giả. 2. Lịch sử vấn đề. 2.1. Văn học Việt Nam từ sau đổi mới 1986 đến nay là thời kỳ văn học có nhiều biến động, chưa hoàn tất, do đó không dễ đưa ra một cái nhìn bao quát, tổng hợp, toàn diện hệ thống về nó. Xét trên phương diện đổi mới trong văn xuôi, nhất là ở lĩnh vực tiểu thuyết đã có rất nhiều bài viết, với các khía cạnh cụ thể như: - Nguyên Ngọc: Văn xuôi Việt Nam, lôgic quanh co của các thể loại... - Bùi Việt Thắng: Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975, nhìn từ góc độ thể loại. - Nguyễn Phượng: Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh sau 1975. - Nguyễn Thị Thu Nguyên: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết... - Nguyễn Bích Thu: Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam... Mỗi tác giả có góc nhìn khác nhau, song tất cả đều thống nhất ở mục tiêu chỉ ra sự đổi mới trong cách tân tiểu thuyết, những nỗ lực đáng kể trong sáng tạo của các cây bút văn xuôi Việt Nam, nhằm biểu đạt tư duy và tâm hồn con người thời đại. 2.2. Những bài bình luận, đánh giá xung quanh tiểu thuyết Bến không chồng. * Những bài đánh giá, bình luận xung quanh tiểu thuyết Bến không chồng. - Nhà văn Nguyên Ngọc đã có những nhận xét về tiểu thuyết Bến không chồng như sau: "Đến Bến không chồng của Dương Hướng thì tiếng kêu thét của cá nhân bị vùi lấp càng mạnh mẽ, thống thiết hơn". Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 * Viết về vai trò của cá nhân, lại đụng đến nhiều vấn đề của làng quê Việt Nam, Bến không chồng đặt ra rất nhiều vấn đề, nhưng nhà văn chỉ xoáy sâu vào số phận của những nhân vật gắn với thời đoạn đó, trong hoàn cảnh đó. * "Dương Hướng là ngòi bút có tình khi nói về nỗi đau của con người". 2.3. Tiểu thuyết Bến không chồng đã được Lưu Trọng Văn chuyển thể khá nhuần nhuyễn thành kịch bản phim vẫn dưới cái tên Bến không chồng. Hầu như toàn bộ cốt truyện, nhân vật, tình huống, chi tiết, cả những lời thoại mộc mạc, dân dã trong tiểu thuyết đều được tác giả khai thác triệt để. Song đạo diễn Lưu Trọng Ninh đã có sự phát triển theo hướng sáng tạo riêng: không dụng công lý giải nhân vật, phát triển tuyến truyện theo lôgíc thông thường, mà dồn đẩy nhân vật vào những tình huống đầy tính đột biến, để nhân vật tự bộc lộ tính cách. Bộ phim thực sự lôi cuốn người xem bởi toàn cảnh bức tranh làng Đông được tái hiện lại một cách sinh động. Đặc biệt tác giả khai thác triệt để dấu ấn văn hoá dân gian làng quê. Cách kết thúc truyện và số phận các nhân vật trong phim cũng có khác đi ít nhiều, như cảnh con trai chị Hơn hy sinh ngoài chiến trường, gây sự xúc động đạt tính nghệ thuật. Thế nhưng cái chết của nhân vật Nguyễn Vạn trong phim lại chưa có sức thu hút lớn so với tiểu thuyết, bởi kết thúc không đúng như dụng ý nhà văn muốn truyền đạt. Kết thúc cuộc đời Nguyễn Vạn trong tiểu thuyết là sự đổ vỡ, vì hối hận với tội lỗi gây ra cho Hạnh và vì cả hạnh phúc của Hạnh và Nghĩa nữa; còn kịch bản phim lại hướng vào nguyên nhân cái chết của Vạn là do áp lực của tập tục và dư luận. Xuất phát từ nội dung sâu sắc trong cốt truyện được đạo diễn Lưu Trọng Ninh chuyển thể thành phim truyện nhựa mà sau đó tác phẩm Bến không chồng đã hai lần được dịch sang tiếng Italia và Pháp. Điều đó càng khẳng định chỗ đứng của tác phẩm trong lòng độc giả trong nước và ngoài nước. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 2.4. Sau Bến không chồng Dương Hướng còn viết thêm một cuốn tiểu thuyết có tên: Trần gian đời người sau đổi là Bóng đêm và mặt trời, và một số truyện ngắn, truyện vừa, nhưng không được sự tiếp đón nồng nhiệt, bởi nó bị "cái bóng" của Bến không chồng che khuất. Điều đó có nghĩa là tên tuổi tác giả xem như bị lãng quên đi một thời gian. Dương Hướng trăn trở trong im lặng suốt 15 năm rồi trở lại với công chúng bằng một tiểu thuyết bề thế, với cái tên đầy vĩ mô: Dưới chín tầng trời. Và với tác phẩm này tên tuổi Dương Hướng một lần nữa được khẳng định lại. 2.5. Về các ý kiến xung quanh Dưới chín tầng trời, đáng chú ý hơn cả là lời bạt của nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến in vào cuối truyện có tên: Cách nhìn của Dương Hướng trong tiểu thuyết "Dưới chín tầng trời", trong đó tác giả khẳng định giá trị cuốn sách ở những điểm sau: - Cốt truyện li kì, hấp dẫn, nhiều tuyến nhân vật có quan hệ éo le, số phận ba chìm bảy nổi ... - Nhiều tuyến hành động diễn ra khắp các miền Bắc, Trung, Nam, có làng xóm và thành phố, có chiến trường ác liệt ở Miền Nam và sinh hoạt nhộn nhạo, rối ren vùng biên giới phía Bắc ... - Những câu triết lí vặt được xen lẫn giữa những lời bình nhằm giảm bớt sự đơn điệu nhưng đôi khi đặt ra được những vấn đề có chiều sâu tư tưởng. - Là cuốn tiểu thuyết ngồn ngộn sức sống và đời sống, nóng hổi tư tưởng của thời đại và những vấn đề thời sự của đất nước. Có thể dự đoán đây là cuốn sách "ăn khách" nhất trong năm 2007. Thế nhưng từ lúc ra mắt, tuy dư luận có xôn xao bàn tán, có người "dãy nảy" lên như phải bỏng, có người lại "xì xầm" về những vấn đề nhạy cảm, nhưng tới nay chưa có một ý kiến nào đánh giá nó một cách chính thống. Có chăng cũng chỉ là những lời bình hời hợt, "điểm xuyết". Song vấn đề cốt lõi là tầm tư tưởng chưa được ai nói rõ ràng bởi: - Tác phẩm đặt ra những vấn đề gai góc xưa nay chưa ai dám nói. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 Ví dụ: Bùi Việt Thắng trên trang net: Trannhuong.com (14/2/2008) cho rằng: Dưới chín tầng trời, là cuốn tiểu thuyết xây cất được những tư tưởng thời đại, thể hiện sinh động trong những số phận bi kịch, nhưng là những bi kịch lạc quan. - Đưa ra những phán quyết táo bạo, những vấn đề thời sự, đẩy nhân vật đến những cực đối lập: từ lưu manh, cùng đinh, mạt hạng trở thành đại gia, nhà tỉ phú đáng trọng (Đào Kinh); từ một đại gia trở thành trắng tay (gia đình thương gia Đức Cường); từ một con người phản diện trở thành con người chính diện, có tâm, có công (Đỗ Hiền). - Và không né tránh những mặt khuất tối, ê chề của con người, của lịch sử, có thể do vậy dư luận còn dè dặt trong cách đánh giá (thời kì quá độ là sự lần tìm, những sai lầm, tội lỗi của con người do hạn chế của thời đại tạo nên, song bên cạnh bộ mặt "ác quỷ" trong mỗi con người có một phần "người" để trở về với chính nó. Đó là kiểu nhân vật "lưỡng phân" có sự dung hoà những mặt xấu và tốt, từ đó tìm đến sự cảm thông cho mỗi nhân vật). Riêng ý kiến của người làm luận văn: Tác phẩm là một thành công vượt bậc của Dương Hướng. Ông đã hoá giải mọi sự kiện, hiện tượng qua cách nghĩ suy sắc sảo, thấu tình, đạt lý của từng nhân vật. Để rồi khi gấp trang sách ta thấy lòng dịu lại giống như bản thân mình được hoá giải trong đó. 3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu. 3.1. Khẳng định Dương Hướng với tư cách là một tác giả tiêu biểu trong hai mươi năm văn học đổi mới. 3.2. Qua sáng tác của Dương Hướng giúp ta nhận ra diện mạo và sự phát triển của tiểu thuyết thời kì đổi mới. Ông là người đóng vai trò trung chuyển giữa thế hệ nhà văn tiền trạm như: Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu... với thế hệ nhà văn mới như: Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương... Có thể xem, Dương Hướng là gạch nối, thuộc thế hệ chuyển giao. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 4.1. Toàn bộ tác phẩm của Dương Hướng, trong đó trọng tâm là hai tiểu thuyết Bến không chồng và Dưới chín tầng trời. 4.2. Một số tiểu thuyết về nông thôn và chiến tranh được viết cùng thời với Dương Hướng như: Thời xa vắng của Lê Lựu, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: 5.1. Phương pháp phân tích văn học sử: Từ việc trình bày khái quát sự đổi mới trên phương diện lý thuyết, luận văn đi sâu vào phân tích những nét mới trong tiểu thuyết của Dương Hướng, nằm trong tiến trình đổi mới văn học từ sau 1986. 5.2. Phương pháp so sánh đối chiếu: Cùng với việc phân tích những nét mới trong tiểu thuyết của Dương Hướng, tác giả luận văn tiến hành so sánh, đối chiếu với một số tác phẩm tiểu thuyết cùng giai đoạn và trước nó, nhằm khẳng định vị trí và giá trị của tác phẩm. 5.3. Phương pháp khảo sát, thống kê: Trong khi phân tích tác phẩm luận văn sử dụng các phương pháp khảo sát, thống kê để tăng thêm độ tin cậy và sức thuyết phục, giúp cho việc triển khai các luận điểm, luận cứ được sáng tỏ. 6. Đóng góp của luận văn. Từ việc khẳng định Dương Hướng qua hai tác phẩm, và bước tiến từ Bến không chồng ... đến Dưới chín tầng trời, trong khoảng cách 15 năm, để chỉ ra thành tựu của tiểu thuyết trong thời kì đổi mới. 7. Cấu trúc của luận văn. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Nội dung Luận văn gồm có 3 chương sau: Chương I: Bối cảnh chung của đời sống văn học và diện mạo mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986. Chương II: Từ Bến không chồng, một khởi động quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Dương Hướng... Chương III: ... Đến Dưới chín tầng trời, bước bứt phá ngoạn mục của Dương Hướng trên con đường đổi mới tiểu thuyết. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 NỘI DUNG Chƣơng I BỐI CẢNH CHUNG CỦA ĐỜI SỐNG VĂN HỌC VÀ DIỆN MẠO MỚI CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986 1.1. Những chuyển động trong đời sống xã hội sau 1975 và sự tất yếu của công cuộc đổi mới. Văn học là một hình thái ý thức xã hội, một loại hình hoạt động nghệ thuật đặc thù lấy con người làm đối tượng trung tâm, phản ánh và nhận thức hiện thực đời sống thông qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Như một lẽ tự nhiên, không một nhà văn nào tồn tại trong lịch sử mà lại không phải là con người sống giữa muôn vàn những diễn biến phức tạp, những vận động đổi thay của thời đại mình. Những vận động, đổi thay ấy là hệ quả tất yếu của lịch sử trong quá trình vật lộn, kiếm tìm một hướng đi mới. Như chúng ta đã biết, sau chiến thắng chống đế quốc Mỹ với biết bao đau thương, quật cường đã khép lại trang sử hào hùng của dân tộc, một hiện thực xã hội đầy vẻ vang, oanh liệt mà sử sách không thể nào nói khác đi được; giờ đây khi chiến tranh đã lùi xa vào quá khứ nhưng hậu quả của nó vẫn còn đó với những khó khăn chất chồng, những con người - chủ nhân của thời đại lịch sử mới lại bộn bề với những lo toan, phải đối mặt với một hiện thực xã hội mới đầy biến động, xáo trộn, phức tạp. Dường như những cái được xem là chân lý của thời kỳ trước lại là cái có vấn đề của thời kỳ sau. Ngay cả chiến tranh cũng vậy. Hàng loạt các vấn đề của cuộc sống thời hậu chiến lại được đặt ra, đòi hỏi một cách nhìn mới, và những nhận thức mới, những cách thể hiện mới... Cuộc sống sau chiến tranh vận hành một cách khó nhọc, đầy rẫy những lo toan, phức tạp. Những tổn thất, đau thương trong chiến tranh dần dần tỏa sức nặng. Đó là thời kỳ nền kinh tế - xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Cơ chế quản lý quan liêu bao cấp tỏ ra bất lực và ngày càng bộc lộ thêm những khuyết tật. Do đó, cùng với sự đổi thay mọi mặt trong đời sống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 xã hội từ sau 1975 đã kéo theo sự thay đổi không chỉ ở bề mặt mà cả bề sâu trong tâm lý và nhận thức ở mỗi con người. Nếu như trước kia tất cả mọi người đồng lòng đồng sức cho chiến thắng dân tộc, thì ngày nay trong thời kỳ hậu chiến con người phải đối mặt với bao nỗi lo toan cá nhân, cho cuộc sống đời thường. Trong cuộc chiến không tiếng súng tưởng như yên ả ấy lại chất chứa những biến động dữ dội, tác động sâu sắc đến tâm thức cá nhân mỗi người. Nhà văn Nguyễn Khải đã nhận xét: “Chiến tranh ồn ào, náo động mà lại có cái yên tĩnh, giản dị của nó. Hòa bình yên tĩnh, thanh bình mà lại chứa chấp những sóng ngầm, những gió xoáy bên trong. Nhiều người không thể chết trong nhà tù, trên trận địa, trong chiến tranh mà lại chết trong “ao tù trưởng giả” khi cả nước đã dành được tự do và độc lập” [36]. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội - đó là sự nghiệp vô cùng vinh quang nhưng không ít những khó khăn thử thách. Hiện thực xã hội đó đòi hỏi mỗi người cầm bút phải có một cách nhìn, một cách nghĩ mới, với trách nhiệm và niềm tin. Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã nói về vấn đề này như sau: “Trong chiến tranh, chúng ta như đi giữa cơn bão lửa thổi trên mặt đất. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay, không thấy có bão lửa, vậy mà hình như mỗi người thấy đất động dưới chân mình”. [57]. Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, để giải quyết những khó khăn thử thách trước mắt, nhằm xây dựng và phát triển đất nước thì đổi mới là một lựa chọn khẩn thiết, dứt khoát, có ý nghĩa sống còn. Đổi mới là con đường tất yếu, duy nhất đảm bảo cho sự phát triển đất nước và cũng là nỗi khát khao cháy bỏng, là nguyện vọng của toàn dân tộc nhằm thoát khỏi những khó khăn, thách thức của một đất nước sau hơn 30 năm chiến tranh. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã diễn ra với hai khẩu hiệu:“Lấy dân làm gốc” và “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật’’. Hai khẩu hiệu đã thổi một luồng sinh khí mới vào đời sống xã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 hội, đặc biệt là đời sống văn học nghệ thuật, mở ra một thời kỳ đổi mới cho văn học Việt Nam, vì thế mà văn học sau 1986 thực sự đã có một khởi sắc mới trên các phương diện. Song có thể thấy, một trong những điều cốt tử của công cuộc đổi mới này chính là đổi mới tư duy, đổi mới cách làm, cách nghĩ sao cho đúng quy luật khách quan vốn có của nó. Nói về vấn đề này, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ đã đưa ra một quan niệm mới có cơ sở lý luận và ý nghĩa thực tiễn như sau: “Đổi mới tư duy là nhiệm vụ cấp thiết trước mắt nhưng đồng thời cũng là một công việc lâu dài, phải tiến hành một cách khoa học, nghiêm túc… Trong quá trình đổi mới tư duy, tất nhiên không chỉ có phê phán mà chủ yếu là phải suy nghĩ, khám phá, sáng tạo, cá nhân và tập thể cùng đổi mới và sáng tạo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI”. (Mấy ý kiến về đổi mới tư duy lý luận, phê bình văn học- Văn nghệ quân đội. Tháng 12/1987. Tr 108 - 114). Như vậy, cùng với những ý kiến nhận xét, đánh giá, nhằm minh chứng cho những luận điểm lớn trên cho thấy những chuyển động trong đời sống xã hội sau 1975 nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI/1986 là sự đổi mới mang tính tất yếu của đời sống xã hội Việt Nam, nó là cơ sở, là tiền đề đổi mới trong đời sống văn học nghệ thuật. 1.2. Những chuyển động trong đời sống văn học trƣớc và sau 1986, trƣớc yêu cầu đổi mới. Mốc lịch sử 1975 là gạch nối quan trọng đánh dấu sự chuyển hướng mang tính chất bước ngoặt của cách mạng Việt Nam và những xáo động trong xã hội sau giải phóng kéo theo sự xáo động của văn học với tư cách là một hình thái ý thức xã hội. Nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh đã có những suy nghĩ khá xác đáng khi cho rằng “Bối cảnh mới đã tạo nên những chấn động sâu xa trong ý thức nghệ thuật” [1]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 Như thế, những tác nhân trong đời sống xã hội đã gây nên những “chấn động” mạnh trong đời sống văn học, tạo cho văn học một bước chuyển mới phù hợp với xu thế chung có tính quy luật của cuộc sống. Nền tảng của sự đổi mới văn học thời kỳ này bắt nguồn từ sự tự ý thức của văn học, tức là văn học đã giác ngộ được về vai trò của nó trong xã hội, trong mối quan hệ giữa văn học và chính trị. Nghị quyết 05 của Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam (1987) tạo điều kiện cho văn học phát triển và mang theo những tố chất mới so với thời kỳ trước đó, mà do yêu cầu của lịch sử, văn học phục vụ chính trị trở thành nhu cầu cấp bách hợp với quy luật thời chiến. Thậm chí, có những lúc người ta còn đồng nhất văn nghệ với chính trị, xem văn nghệ phục vụ chính trị một cách giản đơn, máy móc. Cho đến thời điểm này, văn học nghệ thuật không chỉ còn được hiểu một cách giản đơn, máy móc như là công cụ chính trị, là vũ khí tư tưởng, mà là một bộ phận quan trọng của cách mạng tư tưởng văn hóa, có tác dụng bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh các thế hệ công dân, xây dựng môi trường đạo đức trong sáng, lành mạnh... Đặc biệt vào thời điểm đổi mới của đất nước, thì mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị đã được giới nghiên cứu đánh giá, nhìn nhận lại một cách cụ thể hơn, thực tế hơn và sâu sắc hơn. Không những thế vấn đề này còn được đưa ra thảo luận công khai trên các báo chí, tạo không khí dân chủ, khiến cho người cầm bút yên tâm và tự tin hơn trong sáng tác, mạnh dạn đưa ra những kiến giải của mình về các vấn đề phức tạp, tiêu cực của cuộc sống. Như chúng ta đã biết, xã hội và con người Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn chồng chất với không ít thử thách hiểm nghèo của thời chiến và hậu chiến, để đứng vững, hơn thế, có được những biến đổi to lớn, toàn diện, nhất là từ khi công cuộc đổi mới được mở ra cho đến nay. Nền văn học cùng chung vận mệnh và đồng hành cùng dân tộc qua những thăng trầm của lịch sử. Từ sau 1975 dù phải đối mặt với nhiều thách thức gay gắt song đã có nhiều biến đổi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 sâu rộng trên mọi mặt của quá trình văn học. Nhìn một cách tổng thể, văn học Việt Nam từ sau năm 1975, nhất là từ giữa những năm 80 trở lại đây đã bước những bước xa hơn trên con đường hiện đại hóa, để hòa nhập vào tiến trình văn học thế giới. Tựu trung, tiến trình văn học Việt Nam thế kỷ XX bao gồm 3 xu hướng vận động chính, tương ứng với 3 thời kỳ phát triển của nền văn học. - Từ đầu thế kỷ XX - 1945, văn học vận động theo hướng hiện đại hóa, đó là đặc điểm bao trùm, làm nên sự thay đổi trong văn học để chuyển văn học từ mô hình trung đại sang mô hình hiện đại. - Trong 30 năm tiếp theo, từ 1945 - 1975 văn học phát triển trong hoàn cảnh của chiến tranh và phục vụ cho yêu cầu của đời sống chính trị. - Từ sau 1975, nhất là từ sau đổi mới năm 1986, dân chủ hóa là xu thế lớn của xã hội và cả trong đời sống tinh thần của con người. Và cũng là xu hướng vận động bao trùm của nền văn học. Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) với khẩu hiệu: “ Lấy dân làm gốc ”, “Nhìn thẳng vào sự thật”, đã tạo cơ sở tư tưởng cho xu hướng dân chủ hóa trong văn học được khơi dòng và phát triển mạnh mẽ. Dân chủ hóa đã thấm nhuần và được thể hiện ở nhiều cấp độ, trên nhiều bình diện của đời sống văn học. Trên bình diện ý thức nghệ thuật, xu hướng dân chủ hóa đã đem lại những biến đổi quan trọng trong cách quan niệm về vai trò, vị trí và chức năng của văn học, về nhà văn và quan niệm về hiện thực. Văn học giai đoạn trước, chủ yếu được nhìn nhận như là vũ khí tư tưởng của cách mạng, có nhiệm vụ phục vụ và đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp cách mạng “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy” (Hồ Chí Minh). Đó là chân lí hiển nhiên không một nghệ sĩ chân chính nào không thừa nhận. Đến lúc này văn học đứng trước nhu cầu phải đổi mới, tuy vậy nó vẫn không hề từ bỏ vai trò vũ khí tinh thần, tư tưởng của nó, nhưng nó được nhấn mạnh trước hết ở sức mạnh khám phá thực tại và thức tỉnh ý thức về cá nhân, và về sự thật, ở vai trò dự báo, dự cảm. Bởi hơn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 nữa, trong xu hướng dân chủ hóa xã hội, văn học được xem là một phương tiện cần thiết để tự biểu hiện, trong đó bao gồm cả việc thể hiện tư tưởng, quan niệm, chính kiến của mỗi người nghệ sĩ về xã hội và con người. Văn học lúc này không chỉ được xem là tiếng nói chung của dân tộc, thời đại, cộng đồng, mà nó còn là phát ngôn cho tư tưởng riêng của mỗi cá nhân, phải chăng đó cũng chính là lý do cho những đòi hỏi của cá nhân trước cuộc sống, cho những khát vọng “rất người”, rất đời thường, và vấn đề nóng hổi, bức xúc, được thường xuyên đề cập trong các trang viết giai đoạn mới này chính là khát vọng dân chủ, nó là cơ sở tạo niềm tin cho việc khám phá bản chất “người” trong bức tranh cuộc sống mới của người nghệ sĩ. Gắn chặt với hiện thực trong bước chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, với đầy những phức tạp và những biến đổi bất ngờ, văn học những năm 80 đã có những trăn trở cho một cuộc chuyển mình để theo kịp những vấn đề nóng bỏng của hiện thực. Hiện thực lúc này không chỉ là hiện thực cách mạng với các biến cố lịch sử và số phận cộng đồng, mà còn là hiện thực của đời sống hàng ngày, với các quan hệ thế sự vốn dĩ đa đoan, phức tạp, chằng chịt, đan dệt nên những mạch nổi và mạch ngầm của đời sống. Hiện thực đó còn là đời sống cá nhân mỗi con người với những vấn đề riêng tư trong số phận cá nhân, với khát vọng mọi mặt gồm cả hạnh phúc và khổ đau. Hiện thực mới đó trong tính chỉnh thể toàn diện của nó đã mở ra những không gian vô tận cho văn học thỏa sức chiếm lĩnh, khám phá. Nói đến cảm hứng mới về sự thật là nói đến không chỉ những mặt tích cực mà còn là những mặt trái của cuộc sống, những vấn đề mà văn học giai đoạn trước không có điều kiện đề cập hay không dám đề cập đến. Thời gian trôi qua, con người không còn bận rộn với sự sống và cái chết của một thời bom đạn, để chuyển sang những vấn đề của thời bình, với những nghiền ngẫm của được - mất, của cộng đồng và cá nhân... Con người dám đối mặt, sòng phẳng với quá khứ để đón nhận kịp hơi thở của thời đại. Cảm hứng sự thật đó không chỉ là của riêng ai trong cộng đồng này mà nó còn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 là vấn đề của cả một thời đại. Ngay khi nói về chiến tranh cũng vậy. Mặc dù tiếng súng đã ngừng nổ trên mảnh đất quê hương, nhưng mọi đau thương mất mát ở con người đâu đã thành dĩ vãng! Nhà văn Chu Lai từng nói: “Chiến tranh không phải là ngày hội lớn của dân tộc” mà là “luật chơi tàn bạo”; và Chiến tranh không phải là cái gì khác là chuyện ngày nào cũng phải chôn nhau mà chưa đến lượt chôn mình”. Bởi quả thực, chiến tranh tự bản thân nó đã mang tính tàn bạo và bất thường rồi. Ở đó, tính người không có cơ hội ươm mầm và phát triển. Trong “luật chơi tàn bạo” đó cánh cửa của sự sống là rất hẹp. Bởi người lính dù ở chiến tuyến nào cũng đều “tồn tại trên bản năng tự vệ quật cường. Mình không giết nó thì nó giết mình”. Nạn nhân của chiến tranh không phải là cái gì khác mà chính là con người và môi trường sống của con người. Cái chết không loại trừ ai, nó đến bất kỳ lúc nào không ai định trước được. Chỉ có vậy, “chết là nhẹ nhất, là thoát hết tất cả …” (Nắng đồng bằng - Chu Lai). Tuy nhiên, dù miêu tả nó dưới hình hài như thế nào, dù nói bằng cách nào thì các tác giả khi viết về nó, về chiến tranh đều khẳng định: “bên cạnh sự tàn sát bạo lực, guồng máy chiến tranh không thể nào phá hủy hoàn toàn những giá trị tốt đẹp đã thấm sâu thành bản chất tiềm tàng trong con người. Thực tế cho thấy, những giá trị cao đẹp lại nảy nở từ chính nơi xông pha trận mạc, ngay trên mảnh đất bom đạn, và từ cõi chết trở về” (Ăn mày dĩ vãng - Chu Lai). Trong môi trường sống khắc nghiệt đó, nỗi ám ảnh về cái chết, về bệnh tật, sự thiếu thốn về vật chất, cái đói, cái khát ập tới, song người ta không chỉ nhìn thấy khả năng, sức mạnh vượt lên trên hoàn cảnh của con người mà còn nhận ra sự bất lực của con người trước sức mạnh chi phối nghiệt ngã của hoàn cảnh. Một hiện thực lớn nữa cũng bị kéo theo guồng máy tàn bạo của chiến tranh là bên cạnh người đàn ông trên các tuyến lửa còn có sự góp mặt của những người đàn bà ở hậu phương. Dù trực tiếp hay gián tiếp tham gia song không thể phủ nhận hết được ý chí và nghị lực ngoan cường của họ. Vì thế, vấn đề “hậu chiến tranh” là một vấn đề khá nhạy cảm và phức tạp, lại càng phức tạp hơn khi công cuộc dựng xây, đổi mới đất nước đang mở Số hóa bởi Trung ._.tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 ra, con người ta có điều kiện hơn, có thời gian hơn để suy nghĩ về những gì họ đã bước qua. Hiện thực đời sống với nhiều biến động phức tạp của thời kỳ hậu chiến thực sự là mảnh đất màu mỡ cho văn học, đặc biệt ở thể loại tiểu thuyết, nơi có khả năng cất giữ, lưu lại được nhiều dữ kiện nhất trên phương diện thể loại. Đề cập vấn đề này, hầu hết các nhà văn viết về chiến tranh đều thừa nhận: Chiến tranh đã lùi xa nhưng hậu quả của nó vẫn còn ám ảnh, trở thành nỗi bức xúc trong cuộc sống thời bình. Trước hết đó là những “di họa của chiến tranh” không ai khác - con người phải gánh chịu. Một thực tế đau lòng là phần lớn những người lính sau chiến tranh trở về với cuộc sống áo cơm đời thường, họ đều là những con người mang đầy “vết dập xóa trên thân thể và trong tâm hồn” (Vạn, Nghĩa trong Bến không chồng). Họ trở nên lạc lõng, xa lạ với những vấn đề “đa đoan, đa sự” của ngày hôm nay. Chiến tranh đã thành quá vãng nhưng dư âm của nó vẫn luôn đeo đẳng, bám riết lấy, trở thành một nỗi ám ảnh, thành “hội chứng chiến tranh” trong tâm khảm của họ. Họ luôn khát khao “đi tìm thời gian đã mất” để nhận lại hình ảnh của chính mình (Mảnh đất lắm người nhiều ma, Bến không chồng)… Tất cả điều đó trở thành sự dày vò luôn thường trực. Bởi hầu hết, họ - những người lính bước ra từ bom đạn, khói lửa mịt mùng của cuộc chiến đều mang trong mình niềm tin, khoác lên mình màu áo của người chiến thắng, họ thực sự là người chiến thắng trước mặt quân thù song lại là kẻ chiến bại giữa cuộc sống đời thường, giữa cuộc sống không tiếng bom, không mũi tên, hòn đạn. Họ trở nên lạc lõng, khắc khổ, cô đơn, bất lực trước hoàn cảnh mới. Phần lớn họ không còn khả năng yêu và đem lại hạnh phúc cho người mình yêu; họ bị chối từ thiên chức làm cha, làm chồng, bởi chiến tranh đã cướp đi tuổi trẻ, lấy đi sinh lực của họ, khiến cho ngày hòa bình trở lại cũng là lúc cánh cửa hạnh phúc sập xuống trước mắt họ một cách Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 nghiệt ngã Bến không chồng; Bóng đêm và mặt trời (Dương Hướng), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Thân phận tình yêu (Bảo Ninh) . Như vậy, những bi kịch đời tư bỗng được đặt ra trong hành trình con người kiếm tìm hạnh phúc; con người đã kịp thời nhận ra “khối cô đơn khổng lồ” đang chụp xuống thân phận họ, đang “đè bẹp” cuộc đời họ. Mở ra trước mắt họ sự “tù túng” “chật chội” của không gian; len lỏi vào từng số phận đáng thương của họ, là những “thước phim lộn trái cuộc đời”. Hiện thực cuộc sống thay đổi, cũng là lúc tư duy nghệ thuật có sự chuyển đổi. Khuynh hướng sử thi giai đoạn sau 1975 vẫn tiếp tục dòng chảy của thời kỳ trước đó, tiếp tục mạch đi trong sáng tác của nhiều nhà văn, đặc biệt là các nhà văn quân đội. Tuy nhiên, càng về sau khuynh hướng sử thi càng có xu hướng thu hẹp lại, khuynh hướng thế sự dần dần trở thành khuynh hướng chính trong văn xuôi đầu những năm 80. Lúc này văn xuôi đã thực sự chuyển sang những vấn đề thế sự, những vấn đề của đời sống hàng ngày. Xuất phát từ yêu cầu của hiện thực mới, đòi hỏi người nghệ sĩ phải thay đổi cách nhìn nhận, cách tiếp cận đời sống. Những chuẩn mực cũ trong chiến tranh nay không còn áp dụng được nữa. Giờ đây, khi chiến tranh đã qua đi, con người trở lại với đời sống thường nhật với biết bao những vấn đề mới nảy sinh. Sự trở về với con người của đời sống hàng ngày, với những số phận cá nhân riêng biệt, đã làm thu hẹp dần khuynh hướng sử thi và khuynh hướng thế sự đã trở thành khuynh hướng chính ở giai đoạn này. 1.3. Những ngƣời viết đóng vai trò tiền trạm trong công cuộc đổi mới. Văn học Việt Nam 1945-1975 tồn tại và phát triển trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Đó là một nền văn học chủ yếu hướng về đại chúng nhân dân lao động, tập trung cổ vũ cho hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Vì thế, đề tài chiến tranh là đề tài chủ yếu, hình ảnh con người lý tưởng là con người công dân, người chiến sĩ được miêu tả với cảm hứng trữ tình cách Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 mạng và cảm hứng sử thi. Từ sau 1975, nền văn học Việt Nam nhìn chung được tồn tại và phát triển trong điều kiện đất nước hòa bình, thống nhất. Vì thế, nội dung, mục đích văn học không còn giữ nguyên như cũ. Nó đòi hỏi phải có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thời đại và công chúng độc giả. Tư duy văn học cũ không còn phù hợp với văn học mới, đòi hỏi một tiến trình đổi mới toàn diện và sâu sắc nền văn học từ quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người, đến các thủ pháp nghệ thuật; từ đội ngũ nhà văn đến công chúng độc giả; từ chủ đề, đề tài đến cảm hứng sáng tác và đối tượng phản ánh... Trước diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, trước sự chuyển động của môi trường, văn học không thể là sự thờ ơ mà phải là sự kiếm tìm ráo riết những cách thức tiếp cận hiện thực mới sao cho phù hợp. Hòa bình lập lại, hiện thực cuộc sống thời bình không cho phép các nhà văn sáng tác theo lối cũ; với tình hình mới của cách mạng, đặt nhà văn trong sự lựa chọn đầy tinh thần trách nhiệm, là phải sáng tác những tác phẩm chứa đựng được hơi thở của thời đại, phản ánh chân thực những gì vốn có trong đời sống của con người. Phải chăng vì thế mà các nhà văn đã chủ động, trăn trở, tìm tòi cho mình một con đường, một hướng đi mới thích hợp. Ý thức được điều này, văn học những năm đầu đổi mới, đặc biệt từ sau 1975 đã có sự chuyển đổi mới trong tư duy sáng tác. Trong đó, phải kể đến các nhà văn thuộc thế hệ đi tiên phong trong công cuộc đổi mới như: Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Huy Thiệp.... Nhà nghiên cứu Lã Nguyên đã khẳng định: “Trước khi làn sóng đổi mới dâng lên mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của dân tộc, trong những điều kiện cực kỳ khó khăn của đất nước, sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn… đã đốt lên nhiệt tình kiếm tìm chân lý, hứa hẹn khả năng tự đổi mới của nền văn học, khi nó dám sòng phẳng với quá khứ, bất chấp mọi thế lực ngăn cản” [50]. Cần gắn các tác giả này với bối cảnh chung để cho thấy sự nghiệp đổi mới văn học là cả một quá trình; và thành tựu đổi mới mở ra trong giao điểm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 cuối những năm 80, đầu những năm 90 (thế kỉ xx) trong đó có Dương Hướng, Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Trường là có được sự chuẩn bị tích cực liên tục của một thế hệ tiền trạm . 1.3.1. Nguyễn Mạnh Tuấn. Xã hội Việt Nam từ sau 1975 đứng trước một sự chuyển giao lịch sử từ chiến tranh sang hòa bình. Trước hiện thực ngổn ngang, bề bộn, phong phú nhưng có phần phức tạp đó đòi hỏi cần có sự phát triển của một thể loại văn học vừa gần gũi với đời sống, vừa uyển chuyển, không bị đóng khung trong những quy phạm phản ánh chật hẹp. Do vậy mà sự ra đời của thể loại tiểu thuyết thế sự đời tư như đã tìm được mảnh đất màu mỡ cho sự khám phá và sáng tạo. Nguyễn Mạnh Tuấn xuất hiện đem theo cả bầu nhiệt huyết sôi sục, không né tránh sự thật với khả năng gây dư luận và làm sôi động đời sống văn học đã góp phần đáng kể trong công tác chuẩn bị cho sự ra đời của một giai đoạn văn học mới. Là một cây bút năng động, một nhà văn trẻ, thuộc thế hệ ngoài 30, Nguyễn Mạnh Tuấn sớm quan tâm đến yêu cầu rút ngắn khoảng cách giữa văn chương và cuộc đời. Anh luôn tìm cho mình một cách tiếp cận mới, phấn đấu sao cho tác phẩm của mình gắn bó trực tiếp với những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống. Đặc biệt, Nguyễn Mạnh Tuấn luôn nhấn mạnh đến sự “tỉnh táo”, “bình tĩnh” của người cầm bút trước hiện thực của đất nước. Với hàng loạt các tiểu thuyết - phóng sự ra đời đầu những năm 80 như: Những khoảng cách còn lại (1980), Đứng trước biển (1983), Cù lao Tràm (1985), có thể xem Nguyễn Mạnh Tuấn là người khởi xướng cho trào lưu văn học “chống tiêu cực” phát triển rầm rộ vào mở đầu những năm 1980. Bằng năng lực nắm bắt thực tế nhanh nhạy, ở Những khoảng cách còn lại Nguyễn Mạnh Tuấn đã đề cập một cách trực diện vấn đề đấu tranh giai cấp, đấu tranh ý thức hệ, một vấn đề phức tạp đang diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là ở các đô thị Miền Nam ngay sau khi chiến tranh kết thúc. Khoảng thời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 điểm một năm sau ngày giải phóng, Nguyễn Mạnh Tuấn đã khéo léo xâu chuỗi các tình tiết kịch tính với nhau, khai thác sâu vào những mâu thuẫn xung đột trong gia đình. Mâu thuẫn nhỏ này lại được đặt trong mâu thuẫn lớn đó là cơn lốc xoáy của lịch sử cách mạng, được thể hiện trong các mối quan hệ chồng chéo vừa có nét riêng lại vừa có nét chung. Đó là cuộc đấu tranh vô cùng phức tạp, quyết liệt, không tránh khỏi đau xót giữa những con người ruột thịt trong gia đình sau 20 năm xa cách. Kết thúc tác phẩm là màn bi kịch hợp - tan do chiến tranh đem lại những tưởng sẽ kết thúc khi chấm dứt chiến tranh, nhưng nó lại hiện ra ở một khía cạnh mới. Đó là sự khác nhau về ý thức hệ, về quan niệm sống, về tình cảm... khiến cho các thành viên trong gia đình mỗi người đều phải trải qua “cơn lốc” của “những con đường đau khổ” theo cách riêng của mình để xóa bỏ "những khoảng cách còn lại". Bằng lối viết trung thực, thẳn thắn, đặt kinh nghiệm cá nhân ngang bằng kinh nghiệm cộng đồng, Nguyễn Mạnh Tuấn đã trình bày tư tưởng riêng của mình một cách trực diện thông qua những kiến nghị trực tiếp trước những vấn đề đấu tranh nóng bỏng trong mâu thuẫn nội bộ các cấp lãnh đạo. Đứng trước biển đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất trong thực trạng làm ăn của xí nghiệp Sao Mai. Đó là cơ chế quản lý kinh tế đã lạc hậu, với những người phụ trách có tâm huyết nhưng lại thiếu năng động linh hoạt, thiếu trình độ và tư duy lãnh đạo. Qua đó, tác phẩm Đứng trước biển đã mạnh dạn đề nghị đưa ra một phương thức làm ăn mới, bắt đầu bằng sự nhận diện đích thực năng lực của mỗi con người, trước hết là người lãnh đạo. Đây cũng chính là sự vươn lên để thực hiện một cách tổ chức quản lý xí nghiệp trong thời kỳ mới sao cho phù hợp. Tác phẩm đã góp một tiếng nói khẳng khái vào cuộc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực và khẳng định sự tồn tại của cái mới. Mang trong mình khát vọng lý giải, thẩm định các vấn đề nóng bỏng của đời sống, từ góc độ phản ánh hiện thực cải tạo và xây dựng nông thôn Nam Bộ, tiểu thuyết Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn đã nhấn mạnh đến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 vấn đề phẩm chất và năng lực của người cán bộ nông thôn và vấn đề xác định một đường lối, chính sách thích hợp trong cải tạo, xây dựng nông thôn Nam Bộ. Với Cù lao Tràm Nguyễn Mạnh Tuấn đã “bước đầu chạm đúng vào điểm nóng nhất của hiện thực, của mọi mối quan tâm”. Nó“đã thở được hơi thở nóng hổi của nông thôn Nam Bộ” [39]. Nguyễn Mạnh Tuấn luôn cân nhắc trong cách viết, với mục đích là phục vụ độc giả nên anh chỉ viết cho người đọc những điều mình tâm đắc, nhằm truyền đủ lượng thông tin cần thiết. Vì lẽ đó mà tác phẩm của anh trước hết nhằm thỏa mãn niềm mong đợi của người đọc, sau đó đồng thời nhằm thỏa mãn nhu cầu tự thân với niềm khát khao được bộc lộ mình. Những tác phẩm của anh ở buổi đầu những năm 80 đã tạo nguồn sinh khí mới cho đời sống văn học đang có bề tĩnh lặng, xóa bỏ được “những khoảng cách còn lại” với bạn đọc, cái “khoảng chân không văn học” giữa nhà văn với công chúng. Từ những thay đổi về tư duy nghệ thuật, về quan niệm chung đã đem đến hệ quả tất yếu, sự thúc đẩy nhà văn chú ý phản ánh những vấn đề phức tạp và bức xúc của hiện thực, đáp ứng lại mong mỏi của người đọc, nhưng mặt khác cũng cho ta thấy ít nhiều nhà văn chưa thực sự đặt yêu cầu cao trong trau dồi nghệ thuật. Trong ý thức nghệ thuật, quan niệm riêng của Nguyễn Mạnh Tuấn dường như ẩn chứa một sự “hy sinh” nghệ thuật, một sự hy sinh thành tâm tự nguyện. Nói như nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến: “Nguyễn Mạnh Tuấn chỉ quan tâm đến việc “kể lại nội dung” chứ chưa quan tâm đến “viết lại nội dung”, tức là hình thức thể hiện của nội dung, hình thức mang tính quan niệm. Nhìn chung, Nguyễn Mạnh Tuấn là một trong số ít nhà văn nhận thức rõ sức mạnh và sứ mệnh của nội dung, nhưng viết ra trước hết phải phục vụ trực tiếp cho đời sống, cố gắng rút ngắn khoảng cách từ nội dung đến cuộc đời, lấy tiêu chí chân thực làm mục đích, đối tượng. Tư tưởng, quan niệm ấy đã chi phối phần lớn sáng tác của anh, từ quan niệm về hiện thực và con Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 người đến việc xây dựng nhân vật, lựa chọn thể loại... để trở thành một dòng chảy xuyên suốt sáng tác của anh trong mở đầu những năm 80 của thế kỷ XX. 1.3.2. Nguyễn Minh Châu. Vào những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, giới văn nghệ sỹ và bạn đọc thực sự ngỡ ngàng trước một lối viết mới: thẳng thắn, mạnh dạn của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Hai tập truyện ngắn: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983) và Bến quê (1985) như tiến kèn xung trận, đánh thức các tiềm năng của nhà văn bấy lâu nay dường như bị ngủ quên. Ngay khi hai tập truyện ngắn này ra đời công chúng lập tức nhận ra được bước chuyển quyết định trong lộ trình nghệ thuật của ông. Bước đột phá này khiến độc giả không khỏi ngạc nhiên trước Nguyễn Minh Châu. Một con người mang trong mình một dòng cảm xúc của hai thời kỳ. Nếu đến với văn học thời chiến thì dường như độc giả chỉ biết ông qua những trang văn xuôi đậm chất thơ đầy màu sắc trữ tình lãng mạn, ngợi ca vẻ đẹp hào hùng của cuộc sống và con người thời chiến. Thế nhưng vào thời bình, nếp sống và nếp nghĩ thay đổi đã làm cho ngòi bút của Nguyễn Minh Châu chuyển hẳn sang một lối đi mới - một Nguyễn Minh Châu của những nỗi trăn trở, day dứt khôn nguôi về số phận cá nhân con người và sự tồn tại, phát triển của đất nước sau chiến tranh. Với ông, viết về chiến tranh không có nghĩa là thi vị hóa những sự kiện hay con người vĩ đại, và mô phỏng nó theo một công thức nhất định, mà ở chỗ chính con người là “Mảnh đất khám phá những quy luật vĩnh hằng của các giá trị nhân bản” [48], là hạt nhân của tư duy nghệ thuật, là hình thức bên trong của mọi sự chiếm lĩnh đời sống, là sự phân tích, cắt nghĩa và lý giải về thế giới và con người. Điểm nhìn nghệ thuật mới này về con người đã mở ra cho ngòi bút Nguyễn Minh Châu nhiều hướng tiếp cận khác nhau về hiện thực, chống lại lối viết chạy theo đề tài. Đi sâu khám phá chiều sâu của tính cách, khái quát bản chất trong tính cách của mỗi con người chính là một hướng tìm tòi đổi mới tư duy nghệ thuật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 của Nguyễn Minh Châu. Nhân vật Quang trong Cơn giông chính là sự thể hiện thành công theo hướng đó. Qua nhân vật Quang, nhà văn muốn phơi bày bản chất ích kỷ, cơ hội của một kẻ phản bội. Nguyên nhân của sự phản bội đó được bắt nguồn từ bản chất tráo trở, lật lọng, cơ hội đem lại và đồng thời thể hiện quan niệm “tùy thời” của hắn khiến cho những người lương thiện phải khổ sở, điêu đứng. Nét độc đáo ở ngòi bút Nguyễn Minh Châu trong hai tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê còn là khả năng tiếp cận cuộc sống của con người trong “muôn mặt đời thường”. Tôn Phương Lan trong khi tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu qua quan niệm nghệ thuật về con người đã đưa ra những suy nghĩ mới mẻ khi cho rằng: “Điều đáng nói là ở chỗ Nguyễn Minh Châu là cây bút sớm có ý thức đặt con người trong “mối tổng hòa các quan hệ xã hội”mà trong đó đời thường là một tiêu điểm đáng chú ý” [40]. Xuất phát từ khả năng và ý thức ấy đã cho phép Nguyễn Minh Châu “nhìn đâu cũng ra truyện ngắn” [43 . Tập hợp các truyện ngắn này cho ta cái nhìn gần và rõ hình hài cuộc sống dưới dạng đời thường mà vẫn lấp lánh những khoảng sáng, soi vào những mặt mà bấy lâu nay bị bỏ quên, bị mờ nhạt đi bên sự chói ngời của những sự kiện, những tình huống lớn. Từ đó lắng đọng, bồi đắp và làm thanh lọc tâm hồn con người, giúp con người sống với nhau “người” hơn như nghĩa vốn có của nó. Ở những câu chuyện bình thường, tưởng không có gì đặc biệt như trong Một lần đối chứng, Đứa ăn cắp, Một người đàn bà tốt bụng, Mẹ con chị Hằng, Hương và Pha…. ta thấy cuộc sống đang vận động trong trạng thái tự nhiên với đầy những ngẫu nhiên, vô thức, có cả những tốt - xấu - hay - dở vốn đã tồn tại trong bản tính của mỗi con người. Với cách tiếp cận hiện thực con người theo hướng này Nguyễn Minh Châu đã đem đến cho người đọc cái nhìn toàn diện trong dạng tồn tại vốn có của nó. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 Trên bình diện sinh hoạt thế sự, Nguyễn Minh Châu đã hướng sự chú ý đến vấn đề đời sống cá nhân con người. Với quan niệm con người là một cá thể độc lập, một thế giới riêng biệt đầy bí ẩn, mỗi cá nhân tự xác định cho mình thông qua mối quan hệ với cộng đồng, với xã hội bằng một cuộc hành trình tư tưởng từ bên trong hai tập truyện kể trên. Bên cạnh đó, hình ảnh người nông dân và bức tranh nông thôn cũng được Nguyễn Minh Châu phát hiện ra nhiều nét đặc sắc, độc đáo, mới mẻ, khác hẳn với cái nhìn về nông thôn và người nông dân trong các sáng tác trước 1975. Với biên độ phản ánh rộng, ngòi bút Nguyễn Minh Châu đã“thâu tóm” được hầu khắp những vấn đề nhạy cảm của cuộc sống người nông dân, khiến cho bức chân dung của họ trong văn xuôi đầu những năm 80 mang một vóc dáng khác trước rất nhiều, góp phần làm phong phú thêm cho hình tượng nhân vật trong văn học Việt Nam. Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã nhận xét: “Trong văn học hiếm có những biểu tượng về người nông dân cao cả, hào hùng mang ý nghĩa lịch sử nhân loại lớn lao đến như vậy” 12 . Cuộc sống vốn “đa sự”, con người vốn “đa đoan” - đó là cách nói của Nguyễn Minh Châu, điều tâm niệm này đã đi vào sáng tác của ông. Cuộc sống vốn thuận theo chiều đồng đại của thời gian, ấy vậy mà con người luôn phải sống trong sự phức hợp của hai chiều thời gian đồng đại và lịch đại với những buồn, vui, khổ đau, bất hạnh. Phải chăng vì thế mà trong sáng tác của mình Nguyễn Minh Châu đã chỉ ra những vấn đề tồn tại cốt lõi của cuộc sống không chỉ là: tốt - xấu, đúng - sai, thiện - ác, mà văn học phải làm cho con người đa dạng, phong phú, từng trải hơn và hiểu biết hơn để con người có thể sống, “lăn xả” với hiện thực vốn đã đầy rẫy những phức tạp này. Song mục tiêu của văn học có tính “hướng nội”, con người luôn đặt trong tư thế đối diện với chính mình để chất vấn chính mình, đó là qúa trình phát triển tâm lý phức tạp, là chiều sâu và sự phong phú của quá trình ý thức và vô thức - đó là điểm mới trong tinh thần của con người hiện đại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 Nguyễn Minh Châu quan niệm “chiến đấu cho quyền sống của từng con người, làm sao cho con người ngày một tốt đẹp hơn”. Chính vì vậy, với hai tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê, Nguyễn Minh Châu đã dũng cảm nhìn về con người và cuộc đời trên nền tảng của những nghiền ngẫm, suy tư có chiều sâu triết học. Nguyễn Minh Châu xứng đáng là cây bút tiên phong và sự thực đã trở thành một trong số nhà văn mở đường đáng kính của văn học Việt Nam thời đại mới, của công cuộc đổi mới văn học. 1.3.3. Nguyễn Khải. Trong chặng đường đổi mới văn học, Nguyễn Khải cũng như bao nhà văn khác tự tìm cho mình một hướng đi riêng. Lấy con người làm đối tượng phản ánh trung tâm Nguyễn Khải xác lập nhân cách con người trong khả năng biết vượt lên số phận, vượt lên chính mình. Tác phẩm ghi lại dấu ấn đổi mới quan niệm về hiện thực và con người trong sáng tác Nguyễn Khải đầu tiên phải kể đến tiểu thuyết Cha và con, và … (1979). Sự ra đời của tác phẩm đã khiến dư luận nhận ra một hướng đi mới, một sự tìm tòi khám phá mới của Nguyễn Khải về tôn giáo. Xuất phát từ quan niệm: Tôn giáo chính là sự hướng thiện trong tâm hồn con người, Nguyễn Khải đã phân tích khá sâu sắc sự khủng hoảng niềm tin tôn giáo; sự khủng hoảng này không chỉ xảy ra ở những giáo dân bình thường mà cả ở những linh mục nhiệt thành, tâm huyết với lý tưởng tôn giáo, gánh vác trên vai sứ mệnh cao cả của đấng bề trên dẫn dắt các con chiên. Cha Thư đã sống trong nỗi phân vân với những dòng suy nghĩ giằng xé, xáo trộn, day dứt tâm hồn. Những khoảnh khắc độc thoại đưa cha Thư đối diện với hàng loạt câu hỏi liên tiếp, dồn dập, nhưng việc tìm ra lời giải đáp vẫn là ẩn số. Cha và con, và…. là tiếng nói đối thoại vừa tự do, cởi mở, vừa nghiêm túc, chân thành giữa đức tin tôn giáo và chủ nghĩa xã hội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 Tiếp mạch nguồn viết về tôn giáo, Thời gian của Người là một phát hiện mới về tôn giáo, và con người, đó là sự gặp gỡ giữa niềm tin cách mạng và niềm tin tôn giáo. Tôn giáo không chỉ đơn thuần có giá trị về mặt đạo đức mà xét từ nhu cầu tự nhiên của đời sống tinh thần, tôn giáo đã và sẽ là một giá trị văn hóa khi nó là bạn đồng hành của con người trên hành trình vươn tới nấc thang cao nhất chân - thiện - mỹ. Nó trở thành niềm tin và cao hơn là đức tin thiêng liêng, điểm tựa nâng đỡ tâm hồn con người trên đường đời, nguồn mạch nuôi dưỡng, gìn giữ cho mảnh đất tâm hồn con người biết rung động, nhạy cảm trước những ấm lạnh thăng trầm của cuộc đời, những vui buồn của số phận đồng loại. Lấy tôn giáo làm đối tượng quan sát, Nguyễn Khải đặt con người trên cái phông ấy để tiếp cận, phân tích, cắt nghĩa, lý giải những lời nói, suy nghĩ và hành động của con người. Dưới con mắt của Nguyễn Khải, con người được khám phá từ góc độ tâm linh, góp phần bù đắp cái nhìn phiến diện, hạn hẹp và ít nhiều cứng nhắc trong quan niệm về con người trong văn xuôi trước 1975, hướng tới xác lập mối quan hệ linh hoạt, mềm dẻo, chân thực hơn về con người. Hơn nữa, các khía cạnh mới về hiện thực và con người được Nguyễn Khải khai thác như một thế mạnh: cái vô hạn và cái hữu hạn, cái được và cái mất, cái vận động và đứng yên, cái quá khứ và tương lai, đặc biệt nhìn con người trong mối tương quan giữa các thế hệ lịch sử là một hướng đào sâu trong cách tiếp cận hiện thực mới của Nguyễn Khải Gặp gỡ cuối năm cho thấy sự hụt hẫng ngăn cách giữa các thế hệ là rất lớn, ở đó có những tiêu chí, giá trị riêng cho những quan niệm khác nhau, những niềm tin và nguyện vọng khác nhau, mặc dù họ đều có chung một mục đích, nhưng cách ứng xử và thái độ, hành động trong cuộc sống thì trái ngược nhau, thậm chí đối lập nhau như: Việt, Bình... Bên cạnh đó, lịch sử bên trong con người được Nguyễn Khải quan sát, nghiên cứu và khám phá ở chiều sâu, linh hoạt, nhuần nhị bởi nhà văn không đồng nhất con người với lịch sử, cuộc đời với chính trị, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 bởi lịch sử ôm trọn nhiều mảnh đời và cuộc đời bao giờ cũng rộng lớn hơn chính trị. Thế giới tinh thần vô cùng phong phú và đầy bí ẩn, ý thức giai cấp của con người không phải bao giờ cũng là một. Cùng với việc nghiên cứu con người dưới góc nhìn lịch sử, Nguyễn Khải còn khám phá con người ở tư cách cá nhân. Từ đó tác giả nhấn mạnh vai trò cá nhân nhưng không hòa tan cá nhân vào cộng đồng; cái riêng và cái chung vừa là mối quan tâm hàng đầu, vừa là nỗi ám ảnh, trăn trở trên những trang viết về con người, mà ở đó thước đo giá trị của mỗi con người chính là nhân cách, với sự tự ý thức về nhân cách, giá trị của mình, có đầy đủ bản lĩnh để “là mình” chứ không chịu “đánh mất mình”. Con người của Nguyễn Khải luôn được đặt trong tình thế phải lựa chọn, bởi qua mỗi lần lựa chọn là thể hiện khả năng sống của con người. Nếu sự lựa chọn của họ đúng đắn thì con đường đi của họ sẽ hòa vào dòng chảy chung của cộng đồng, nhưng một khi sự lựa chọn của họ vì lòng tham lam, vị kỷ, vì những cám dỗ, những thú vui dung tục làm mờ lý trí thì kết cục họ sẽ bị đào thải theo thời gian. Ngòi bút Nguyễn Khải còn đi sâu cắt nghĩa, lý giải con người trong hiện thực là “tổng hóa các mối quan hệ xã hội” từ đó tránh được cái nhìn phiến diện, méo mó khi miêu tả. Như vậy, bằng các sáng tác đầu những năm 80 Nguyễn Khải cũng đã góp được cái nhìn mới trong việc đánh giá con người và hiện thực ở nhiều góc độ khác nhau. Qua đó thể hiện quan niệm, thái độ, cách nhìn nhận đánh giá về con người và hiện thực trở nên sâu sắc, tỉnh táo và mang tính phổ quát sâu rộng, đó là những dấu hiệu cơ bản cho quá trình tiền đổi mới văn học nước nhà. 1.3.4. Ma Văn Kháng. Trước những năm 80 của thế kỷ XX, người đọc biết đến một Ma Văn Kháng thấm đượm cái nhìn “sử thi” trong các sáng tác viết về đề tài miền núi. Thế nhưng bước sang những năm đầu của thập kỷ 80 bằng sự ra đời của hàng loạt các tác phẩm đậm chất đời thường dung dị là đặc điểm nổi bật của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 nghệ thuật tự sự trong các sáng tác về thế sự, đời tư của Ma Văn Kháng, đánh dấu những đổi mới trong tư duy nghệ thuật về cuộc sống và con người. Là người nhạy cảm trước những buồn vui, âu lo của cuộc sống, biết đón đợi nguồn cảm xúc sáng tạo nghệ thuật từ những hanh phúc, khổ đau, những thắng thua, được, mất của đời người, ngòi bút Ma Văn Kháng như gần hơn với các giá trị tinh thần đã nâng đỡ con người vượt lên những lam lũ khốn khó của cuộc đời. Tìm cho mình điểm tựa là giá trị nhân văn chân chính cổ truyền, Ma Văn Kháng không ngừng sáng tạo, không ngừng tự đổi mới ngòi bút. Khi Mưa mùa hạ xuất hiện, làng văn đã ngỡ ngàng, sửng sốt trước một Ma Văn Kháng rất lạ. Vì thế tác phẩm có không ít những lời bình phẩm khen, chê, trái ngược nhau, tồn tại trong dư luận, song Ma Văn Kháng vẫn vững tin vào bước chuyển mới mẻ của mình, bởi đó là nỗi niềm âu lo được toát ra từ lời kêu cứu của tác phẩm. Tại sao những người tốt như bố con Trọng lại phải chịu cảnh khổ cực, bất hạnh, còn những kẻ độc ác, đầy dã tâm như Hưng, Hảo, Thưởng, mẹ Nhuần lại sống phè phỡn, sung túc? Những tiêu cực, bất công này xuất hiện ngày càng nhiều trong xã hội, nó trở thành hiểm họa khôn lường nếu trong mỗi người chúng ta không tự ý thức được. Với Ma Văn Kháng cuộc sống đô thị cùng với quá trình hiện đại hóa đang diễn ra gấp gáp, đã tạo ra một dòng xoáy dữ dội cuốn hút mọi tầng lớp cư dân. Sự phong phú, ngổn ngang, bề bộn, trắng đen, phải trái lẫn lộn đan xen biết bao biến động khiến con người bị chi phối bởi lối sống xô bồ, chạy theo đồng tiền mà quên đi đạo lý trên đời. Đắm chìm trong môi trường ấy, con người không thể thuần nhất trong tính cách của mình. Từ Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, đến Ngày đẹp trời, Đám cưới không có giấy giá thú… là hàng loạt kiểu loại nhân vật phong phú, đa dạng, trong các trạng thái phức thể của tâm hồn. Vì thế, các sáng tác cuối thập kỷ 80, nhân vật trí thức như sợi chỉ đỏ xuyên suốt các sáng tác của Ma Văn Kháng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 Trong tác phẩm Mưa mùa hạ Ma Văn Kháng đã dành nhiều tâm sức, tình cảm để xây dựng nhân vật Trọng. Trọng là hiện thân cho mơ ước, hoài bão mà tác giả muốn gửi gắm về một mẫu người trí thức tài năng, trong sáng, đức độ, đối lập hoàn toàn với thói xấu xa, dung tục. Một trí thức trẻ, tài năng, say sưa cống hiến sức mình cho công việc cùng đồng đội vượt qua mọi cám dỗ về vật chất để giữ gìn những giá trị tinh thần cao quý của con người. Tiếp nối mẫu người trí thức đích thực như: ông Bằng, Luận trong Mùa lá rụng trong vườn, là thầy giáo Đặng Trần Tư, thầy giáo Thuật trong tác phẩm Đám cưới không có giấy giá thú. Đó là những trí thức chân chính, tài năng, suốt đời theo đuổi lý tưởng nhưng lại bị ném chìm vào một xã hội thực dụng, băng hoại về đạo đức, nhân cách, sa sút về niềm tin và lẽ sống, kết cục cuộc đời là một tấm bi kịch. Ngòi bút Ma Văn Kháng dường như từng trải hơn, kinh nghiệm hơn trong việc nghiên cứu, phát hiện ra con người phức tạp, con người lưỡng diện, và không nhất quán với chính mình. Khả năng khám phá con người nhiều chiều, ở nhiều bình diện, xuất phát từ cái nhìn nhân đạo về con người mong kiếm tìm những điều kiện tốt đẹp cho sự phát triển nhân cách con người. Con người vốn phức tạp nên không thể dùng một tiêu chí để đánh giá mà phải nhìn nó trong thế uyển chuyển, linh hoạt mới có cái nhìn xác đáng, Ma Văn Kháng đã cố gắng cắt nghĩa điều đó qua lời của nhân vật Luận: “Chị Lý không khác chúng ta đâu. Trong chúng ta cũng vậy: Có xái xấu, có cái tốt. Cái xấu nói chung mọi người đều biết nó là xấu. Vậy mà cuối cùng vẫn không tránh được” 36 . Nó giống như nghệ thuật muốn trở thành một thứ “khoa học về lòng người ” (Nguyễn Khải), khi nó khao khát “phát giác sự vật ở bề chưa thấy. Ở cái bề sâu, ở cái bề xa”(Chế Lan Viên) thì nó phải tìm đến một quan niệm đầy đủ, biện chứng hơn về con người. Ma Văn Kháng muốn qua đó hướng con người tìm đến mối quan hệ với tự nhiên. Trong Ngày đẹp trời ông nói: Con người phải sống hòa bình với thiên nhiên, núi rừng, tìm thấy trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 thế giới tĩnh tại của đất trời cảm giác được che chở, an ủi, vỗ về, để con người sống thuần khiết hơn với ngay chính bản thân mình. Với một chuỗi tác phẩm: Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú, Ngày đẹp trời ra đời vào những năm 80, Ma Văn Kháng cho chúng ta nhận thấy đã xuất hiện một cách nhìn mới trong quan niệm về hiện thực và con người. Hiện thực vốn dĩ là phức tạp, không thể biết trước và không thể biết hết được, con người vốn là thế giới bí ẩn, cần phải khám phá, tìm tòi. Nhà báo Luận trong Mùa lá rụng trong vườn đã nhận xét rằng: “Đời phức tạp là do nó vốn thế chứ ai bịa ra được”. Nhà giáo Cừ khi nói về vấn đề này cũng phải thốt lên một cách chua chát: “Cuộc sống là sự phát hiện liên tục”; còn Đông - trung tá về hưu, quen nhìn đời bằng ánh mắt đơn giản, cuối cùng thì cũng cay đắng nhận ra rằng: “Cuộc sống phức tạp lắm chứ không đơn giản đâu”. Như thế, cách nhìn cuộc sống và con người trong sáng tác văn xuôi của Ma Văn Kháng nửa đầu._. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 83 ghế nọ” và cũng “sẵn sàng hạ bệ tống khứ một vị bộ trưởng tài ba vào tù hoặc về vườn”(Tr393). Đến cả Đào Kinh cũng phải thừa nhận đó “là dòng máu bất tử của Trần Tăng đích thực” (Tr396), “Nó mà là con đẻ của ta giờ này chắc cũng chỉ biết cắm mặt xuống đồng đất làng Đoài cày cấy mà thôi”(Tr399). Thậm chí Đào Thanh Măng đành phải “hư hỏng ngay với kẻ định cách chức Trần Tăng” để cứu ông và cũng là cứu lấy mối làm ăn của mình. “Sự sa đọa do đồng tiền và quyền uy chế ngự” khiến con người đã phải đánh mất mình. Với tính cách gian ngoan, táo tợn Măng biết dựa vào quyền lực để kiếm tiền và dùng tiền để mua quyền lực. Tuy thế, ở người đàn bà này, bên cạnh sự gian ngoan, đáo để tác giả còn nhận ra ở bên trong vẫn còn “chất quê mùa” và “tốt bụng”. “Đào Kinh nhận ra ánh mắt nó chất chứa nỗi cô đơn buồn chán của đời sống vật chất phù hoa”(Tr403).“Dưới con mắt của một số người dân bạc mồm thì Măng dù “đánh đĩ nhưng có lòng”. Cùng xếp trong nhóm những nhân vật này, có lẽ đáng thương hơn cả là gia đình Đức Cường, một tư sản giàu có, có lòng yêu nước, bảo vệ cách mạng, bỗng rơi vào tận đáy của sự bất hạnh. Mỗi thân phận các cá nhân trong gia đình thương gia Đức Cường mang một nỗi đau riêng - Đó là bi kịch của chiến tranh, và từ chiến tranh chyển sang hòa bình. Cái đau muôn thủa của chiến tranh là người có công trong chiến thắng lại chịu nhiều thiệt thòi, mất mát hơn cả. Đức Cường là một thương gia yêu nước, ông đã làm tất cả để bày tỏ lòng nhiệt tình của mình với chính quyền, với cách mạng: đã đổ xương máu, đổ tiền của mong tới ngày hòa bình; ông đào hầm tiếp tế, nuôi giấu cán bộ cách mạng; vô tư đem hiến hai nhà máy cho chính quyền thành phố mới tiếp quản những mong được cách mạng chiếu cố đến hoàn cảnh gia đình ông có con trai đi lính ngụy, đứa con gái Thương Huyền có con với người Mỹ (thực chất Thương Huyền đã phải chấp nhận ngủ với kẻ thù để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giao phó). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84 Nhưng cuối cùng Thương Huyền vẫn phải chịu cảnh “đọa đày” dưới cái nhìn soi mói, áp đặt cứng nhắc của một cán bộ cách mạng “kiên định lập trường” là Thu Cúc - con của bà vú nuôi giúp việc. Thu Cúc đã biến Thương Huyền thành nạn nhân giữa “hai làn đạn của cả hai phía”. Song cái đau đớn nhất, kinh hoàng nhất, dữ dằn nhất là: Gia đình Đức Cường trước 1975 giàu có bao nhiêu, đức độ bao nhiêu, kiêu hãnh, tự hào bao nhiêu thì sau 1975 đành chấp nhận trắng tay: “Hai nhà máy kinh doanh liên tiếp thua lỗ có nguy cơ phá sản” dù giờ không còn là của ông nữa, nhưng nó là “công sức của cả đời ông đã lăn lộn với nó, giờ lâm vào cảnh lụi tàn ông thấy đau đớn như chính mình bị mất mát những gì vô cùng quý giá”(Tr274). “Mọi chuyện nó ào đến quá nhanh, quá bất ngờ và trớ trêu khiến ông bà Đức Cường ngỡ ngàng”(Tr276). Và ông phải tự tử trong chính căn hầm nuôi giấu cán bộ, để giải thoát cho mình khỏi nỗi đau trần thế; để ngày ngày khỏi phải chứng kiến cảnh trái ngang của thời cuộc, của thế thái nhân tình. Ông chấp nhận hy sinh cho con, cho cháu mà rốt cuộc không ai nói lời buông tha. Thương Huyền phải ẵm đứa con thơ dại đi vùng kinh tế mới để gương mẫu chấp hành chính sách, ông thương con mà không dám “chống chọi”; tòa nhà chính của dinh thự Đức Cường đáng lẽ phải là của con trai Đức Thịnh, ông cũng đã đem biếu bà Thu Cúc - phó Ban quân quản, để rồi ngày ngày ông vẫn phải nghe từng tiếng nạng gỗ khắc khoải, nặng nề lê từng bước, tiếng xe ba bánh của đứa con què quặt ra đường bán báo kiếm ăn. "Ông là kẻ thất bại thảm hại nhất trên đời”; “Ông đã trở thành kẻ có tội với vợ con”(Tr279). Ngoài các nhân vật trên, còn phải kể đến gia đình mấy mẹ con bà Cháo, Muôi, Muỗng, Thìa, vốn là thành phần cốt cán trong Cải cách ruộng đất ở làng Đoài, chịu nhiều vất vả khó khăn, ra biên giới làm ăn bằng vốn tự có trong thời mở cửa. So với đám đông các nhân vật “giàu có” ở trên, họ không phải là “đại gia” hay “tỉ phú” song “những kẻ bị coi rẻ như mẹ con bà Cháo, giờ lại hả hê mát mặt”(Tr453). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85 Hay “đến như Đỗ Hiền, là một kẻ phản dân hại nước, ác ôn khét tiếng trong chính quyền ngụy mà bây giờ lại có những nghĩa cử cao đẹp lạ thường, làm cả đường, xây cả chùa cho dân”(Tr453). Còn Thu Cúc là nhân vật không thể không nhắc tới, với lý lịch đẹp: xuất thân thành phần cơ bản (con người vú nuôi đi ở cho ông bà Đức Cường), dù không phải là người làng Đoài, nhưng tác động của Thu Cúc là không nhỏ đối với số phận của những con người làng Đoài. Một con người góp phần làm nên chiến thắng lẫy lừng của dân tộc, tuổi trẻ “nếm mật nằm gai”; “mặt sắt da chì” đã tự nguyện hy sinh cho một lý tưởng cách mạng cao đẹp. Sau 1975, ông bà Đức Cường tuyên bố “ủng hộ hai mẹ con chị tòa nhà chính của dinh thự này để cho Thu Cúc lấy chồng”(Tr277). “Cô lấy chồng ở tuổi 39, 40, làm lên chức phó chủ tịch thành phố, có xe riêng, có biệt thự Hoa Cúc vàng bốn mùa hoa nở, bốn mùa có bồn nước với những vòi nước trắng bạc phun lên cao một màu sương khói”. Sống trong biệt thự này, mẹ Thu Cúc, người vú nuôi xưa kia cũng được nể trọng như một “mẫu hậu”. Ngược lại với Thu Cúc, sau 1975 gần kề đó, trên mảnh đất này, gia đình Đức Cường đang tan hoang, lụn bại thảm hại, gần như là đối cực với sự sung túc đầy đủ của Thu Cúc. Điều đáng nói ở đây là “con người bên trong” khó nắm bắt của Thu Cúc, nó biểu hiện ở sắc diện “lúc nào cũng khó đăm đăm”, “mặt cứ đanh lại”; cử chỉ đầy “quyền uy”; ánh mắt “gai lạnh”, đặc biệt ở lời nói, cách nói lúc nào cũng “lập trường”, “quan điểm” với những lý lẽ “tàn nhẫn” áp đặt dùng để quy kết, trói buộc con người không hề một chút tình cảm: giọng nói lúc nào cũng như “rít lên”; nghe thấy“lành lạnh” ngay cả khi “ngọt ngào” cũng cảm thấy“rờn rợn”... Nhà văn, nhà báo Hoàng Kỳ Nam là người có điều kiện hơn cả để hiểu con người Thu Cúc; họ gặp nhau luôn để đối đầu với vấn đề số phận của Thương Huyền; Thu Cúc luôn tìm cách tách hai mẹ con Thương Huyền ra, như “cho đi vùng kinh tế mới; sang Mỹ; hay đến nhà thương điên”. Để rồi cuối cùng: “Nam linh cảm thấy, Thu Cúc đã cố tình làm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86 tan nát cả gia đình Thương Huyền”(Tr412). Ngay cả vú nuôi - mẹ Thu Cúc, dù không máu mủ ruột rà với Thương Huyền, nhưng “bà cảm thấy có gì đó bất nhẫn”(Tr283). Thông qua việc xây dựng các nhân vật đa dạng về tính cách, số phận. Dương Hướng như muốn “phác thảo” chân dung một thời đại mà trong đó con người đóng những vai khác nhau trong một cuộc chơi lớn, trong những biến động dữ dội của lịch sử. Dương Hướng không phán xét, không bào chữa mà để cho nhân vật tự biểu hiện, tự sống sự sống khách quan của nó. Điều gây ấn tượng là trong chương cuối của tác phẩm, có sự họp mặt của mọi người dân làng Đoài; tất cả những ai ra đi, rồi trở về trên mảnh đất quê hương làng Đoài để ăn mừng cho mọi “tai nạn” đã qua đi. Hình ảnh làng Đoài trong đổi mới chính là hình ảnh thu nhỏ của đất nước trong thời hội nhập. 3.2.4. Nhân vật là sản phẩm của thời đại vừa là nạn nhân, vừa là tội nhân. Hầu hết các kiểu nhân vật này đều đóng vai trò quan trọng đối lịch sử; với Dưới chín tầng trời đó là các tên tuổi: Đào Kinh, Trần Tăng, Đỗ Hiền, Hoàng Kỳ Trung... Thời Cải cách ruộng đất, Hoàng Kỳ Trung, Trần Tăng và Đào Kinh được xem là những con người do lịch sử để lại. Họ phải gánh vác trên vai sứ mệnh lịch sử to lớn, không thể là ai khác. Điểm giống nhau giữa họ là những cán bộ cốt cán thực thi nhiệm vụ mà cách mạng giao cho, song khác nhau ở chỗ: Hoàng Kỳ Trung đã nhìn ra mặt hạn chế của cách mạng, tuy nhiên cá nhân ông không thể chống đỡ được "cơn lũ" lịch sử. Bởi vậy Hoàng Kỳ Trung đành phải "chịu đựng", "chấp nhận" thảm hoạ gia đình mà Trần Tăng và Đào Kinh đã gây ra cho ông bà Hoàng Kỳ Bắc. Và những sai lầm này lại được Hoàng Kỳ Trung lặp lại một lần nữa khi ông một mực quy cho gia đình ông bà Đức Cường và Thương Huyền "là kẻ thù không đội trời chung". Nhân vật Trần Tăng một cán bộ cấp cao từ cơ sở rồi leo lên tỉnh và trung ương, luôn có mặt ở hàng ghế đầu những hội nghị, luôn tham dự vào Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 những sự kiện quan trọng của cách mạng, suốt đời say sưa với quyền lực, bị bố mẹ, vợ con nguyền rủa, bị dân làng nơi ông sinh ra đối xử ghẻ lạnh. Đi gần hết cuộc đời ông mới nhận ra chính ông là kẻ thù to lớn, trực tiếp gây ra biết bao cảnh tủi nhục, khiến mẹ con bà Cháo phải bỏ làng ra đi, vợ chồng con cái bà phải chia rẽ; khiến cho Đào Kinh không còn đất dung thân phải chạy sang Trung Quốc kiếm sống; phá tan gia tộc Hoàng Kỳ; phá tan chùa Đông, đình Đoài... để đến bây giờ những kẻ từng có lúc bị xem là phản bội tổ quốc như Đỗ Hiền xin được về xây dựng lại. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt hạn chế của họ, Dương Hướng cũng chỉ ra mặt tích cực, đó là sự đóng góp công sức cho dân làng. Trần Tăng là người gây ra nhiều tai hoạ cho người dân làng Đoài nhưng cũng là người bỏ ra nhiều tâm lực cho mảnh đất này. Đào Kinh với những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, cuối đời ăn nên làm ra đã trở về xin lỗi dân làng và xây dựng lại vùng đất quê hương. Đỗ Hiền là kẻ đứng ở bên kia chiến tuyến đã ăn năn, xin chuộc lại lỗi lầm, xây dựng lại những gì mà trước kia Trần Tăng phá bỏ. Với kiểu loại nhân vật này, Dương Hướng chỉ ra mặt tiêu cực tồn tại song song với mặt tích cực trong mỗi con người. Họ là “tội nhân” nhưng cũng là "nạn nhân" của lịch sử. Điều đó giúp cho ta có cái nhìn không thiên lệch về các nhân vật, nói cách khác, nhân vật của ông không quá xấu, cũng không quá tốt. Những gì họ gây ra là nằm trong những hạn chế không thể vượt qua của thời đại, những "tai nạn" họ nhận cũng có thể xảy ra với bất cứ ai. Bởi vậy, cuộc gặp mặt của cả dân làng trong ngày hội ở chương cuối tác phẩm là cuộc gặp mặt ăn mừng cái "tai nạn" qua đi, để bắt đầu một tương lai mới. 3.2.5. Nhân vật thánh thiện. Trong số rất đông các nhân vật của Dưới chín tầng trời, Hoàng Kỳ Nam, Hoàng Kỳ Trung, Yến Quyên được coi là nhân vật ít nhiều thánh thiện, bởi ở họ tuyệt nhiên không có chất “điếm”, “lưu manh” nào - nói như nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88 Với nhân vật Hoàng Kỳ Nam sự thánh thiện tỏa ra từ lời nói đến việc làm. Khi cầm súng cũng như cầm bút anh không có gì đáng chê trách. Tình yêu của Nam với Thương Huyền từ đầu đến cuối tác phẩm là một mối tình đắm đuối, ngoài nhục cảm. Trong thế giới thực dụng ngày nay, tình yêu đó có thể xem là một mê sảng, lạc lõng. Bởi ở Nam cá tính tự do là điểm mạnh nhằm phát triển năng lực nhân tính chứa đựng trong nhân cách, chính điều này đã thúc đẩy Nam đi đến hai quyết định quan trọng trong cuộc đời là: “bỏ vợ” để “thành người tự do một nửa”, và “bỏ nghề” để “thành người tự do hoàn toàn”. Do vậy, vào tuổi 50, Nam ly hôn Tuyết - người vợ anh chưa từng yêu, là sợi dây trói buộc Nam với những gì không phải là tự do của mình. Hay trong hoạt động làm báo, Nam giống như một con rối viết theo sự sắp đặt của ông Tổng biên tập, Nam thấy xấu hổ, khi phải viết lên những suy nghĩ không phải của mình. Cá tính tự do trong sự nghiệp và tình yêu của con người một khi đã bị hạn chế nó sẽ biến con người giống như một cỗ máy, bởi vậy, một tâm hồn tự do đầy ý thức trách nhiệm đã dẫn Nam đi đúng con đường mà mình đã chọn. Tình yêu tự do biến thành sức mạnh, thôi thúc anh tìm đến với Thương Huyền, chăm sóc cho người yêu trong hoàn cảnh chỉ còn là thân tàn ma dại. Để rồi số phận không hắt hủi tấm lòng bao dung của con người, Nam đã tìm lại được Thương Huyền của anh ngày xưa. Tiếp đó là nhân vật Hoàng Kỳ Trung, về cơ bản nhân vật này là con người thánh thiện, ông trao cả cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh dân tộc. Tuy cuộc đời có nhiều biến thiên do lịch sử, ông cũng bị mắc cạn trong khung cảnh hỗn độn ấy, song là người biết nhìn xa trông rộng, ông đã nhìn thấy những hạn chế của thời đại, của lịch sử. Do vậy, Hoàng Kỳ Trung vừa bị cuốn theo dòng chảy, để mà vừa “chịu đựng”, vừa gắng giữ cho “cơ ngơi gia tộc” ông không bị tan tành. Song ưu điểm lớn trong con người ông đó là sự bao dung với những kẻ trước đây là kẻ thù của mình, ông cho tất cả là “tai nạn” Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89 của thời cuộc, nó có thể nhấn chìm bất kỳ ai, và con người chính là “nạn nhân” của các “tai nạn” đó. Còn Yến Quyên - vợ Hoàng Kỳ Trung, mẹ Hoàng Kỳ Nam chịu nhiều bất hạnh trước hoàn cảnh xô đẩy song không bị cuốn trôi. Ở Yến Quyên là vóc dáng hiền thục của người phụ nữ phương Đông truyền thống, chồng đi biền biệt vẫn một mực kiên trinh chờ chồng, vừa chăm lo vừa chống đỡ trước “cơn lũ” lịch sử ập đến gia tộc Hoàng Kỳ. Không chỉ có vậy, với “tấm lòng bao dung, một tình yêu thật sự với người dân làng Đoài nghèo khổ”, Yến Quyên giống như “những bông sen hồng thơm ngát giữa bùn đất”(Tr341) luôn luôn sốt sắng với công việc của làng xã. Mặc dù là nạn nhân thảm thương trong Cải cách ruộng đất, song Yến Quyên vẫn hăng say với phong trào hợp tác, vừa góp công xây dựng nó, vừa sớm nhận ra những khiếm khuyết của nó. 3.3. Sự tiếp cận đa chiều về các sự kiện và thái độ khách quan của ngƣời trần thuật. Nằm trong mạch chuyển động của văn học thời kỳ đổi mới, Dương Hướng cũng như các nhà văn đương thời không lấy số lượng sự kiện làm mục đích miêu tả, mà sự kiện được đưa vào tác phẩm là những sự kiện có tính chất “điển hình”,“tiêu biểu” mang tính thời sự, in đậm những dấu ấn thời đại. Như nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã xa gần nói đến trong phần cuối bài giới thiệu: “một cuốn tiểu thuyết ngồn ngộn sức sống và đời sống, nóng hổi những tư tưởng của thời đại và những vấn đề thời sự của đất nước …” Lâu nay một số người vẫn cho rằng thời đại sử thi trong văn chương bây giờ đã “hết thời” để nhường chỗ cho văn chương đời thường. Nhưng trên thực tế thì chất sử thi vẫn còn tồn tại, thậm chí phát triển song song với văn chương đời thường. Ở cuốn tiểu thuyết mới này của Dương Hướng chất sử thi vẫn còn thể hiện khá rõ nét. Tác phẩm mở ra với một thời gian dài (ngót nửa thế kỷ) và một không gian rộng (khắp mọi miền đất nước, thậm chí mở ra cả Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90 không gian rộng lớn ở nước ngoài) và bao gồm cả một gia hệ với ba lớp nhân vật (Hoàng Kỳ Bắc, Hoàng Kỳ Trung đến Hoàng Kỳ Nam) gói trọn hình ảnh đời sống trong tính “toàn vẹn”,“đa chiều”, “phức tạp”. Cái khéo léo đem lại thành công cho nhà tiểu thuyết là biết tổ chức, đan cài lịch sử - sự kiện và lịch sử - tâm hồn, điều đó đòi hỏi nhà văn phải có tay nghề cao trong xử lý chất liệu, điều khiển nhân vật và cấu trúc tác phẩm. Dương Hướng đã làm được điều đó. Các sự kiện lớn đặt ra trong tác phẩm là những sự kiện có tính chất “điển hình”, trở thành những biến cố lịch sử có tính chất “bước ngoặt” của dân tộc như: Cuộc Cải cách ruộng đất; hai cuộc chiến tranh; hợp tác hoá nông nghiệp, công cuộc đổi mới; đất nước thời mở cửa... đã được Dương Hướng lựa chọn, chắt lọc thông qua nhiều kiểu loại nhân vật. Ví như Trần Tăng - nhân vật đại diện cho kiểu người chạy đuổi theo quyền lực và tha hoá vì quyền lực. Bước đường quan lộ của ông ta gắn liền với những biến cố lịch sử của đất nước từ: Cải cách ruộng đất - chiến tranh - hoà bình và đổi mới xã hội. Có thể nói, ở giai đoạn lịch sử nào của dân tộc cũng có mặt Trần Tăng. Trong thời kỳ Cải cách ruộng đất Trần Tăng giống như một vị chúa tể, có quyền sinh, quyền sát trong tay, Trần Tăng có thể trừ khử bất cứ ai, để phục vụ cho mục đích ham muốn cá nhân. Gia đình Hoàng Kỳ là một trong số nạn nhân bi thương nhất. Những sai lầm, ngu muội một thời khiến cho Trần Tăng cuối đời vẫn không được sống yên thân, bị dân làng ghẻ lạnh, đến lúc sắp sang thế giới bên kia Trần Tăng vẫn chìm trong cơn mộng mị hãi hùng của 45 năm về trước như vừa mới xảy ra: “Không, ta không giết người, ta đâu muốn thế. Chẳng qua do thời cuộc, do hoàn cảnh lịch sử mà ta là người thừa hành nhiệm vụ mà thời đại giao cho”(Tr497). Hay trong vấn đề hợp tác hoá nông nghiệp, Trần Tăng cũng phải thừa nhận: "Ngẫm lại từ cái thời ông còn làm chủ tịch huyện, rồi lên tỉnh, lên trung ương tới giờ ông chẳng làm được gì tốt đẹp cho miền đất này. Cái dự án phiêu lưu quai đê lấn biển của ông ngày ấy thất bại đau đớn. Cái dự án điên rồ của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91 ông phải trả giá quá đắt bằng mồ hôi công sức của hàng vạn con người chỉ vì sự ngu dốt, cộng với cảm hứng chí háo danh của ông... Nhìn những con sông bạc đầu từ biển xa liên tiếp xô vào bãi cát lúc này, ông cảm thấy rờn rợn”(Tr472). Những sai lầm của Trần Tăng trong phong trào hợp tác hóa cũng được Yến Quyên vạch ra: “Từ ngày có hợp tác xã, người nông dân dửng dưng với đồng ruộng. Làm ăn chểnh mảng, ai cũng chỉ nghĩ làm thế nào để có nhiều thóc”(Tr187); “Trông ngóng vào hợp tác xã, chưa hết mùa đã hết thóc, tháng ba ngày tám đói rã họng”(Tr195). “Đó là cơ chế quan liêu hình thức của thành tích… làm hư hỏng cả một thế hệ người nông dân xưa vốn cần cù một nắng hai sương. Nông thôn ta đang bị phá vỡ dần gốc rễ nền móng tốt đẹp đã có từ ngàn đời nay”(Tr193) “Điểm thì nhiều, nhưng thóc lại ít, dân bắt đầu hoang mang, tháng ba ngày tám nhà nào cũng hết thóc đói vàng mắt”(Tr116), “Thật ngược đời, đi làm hợp tác ngày công chỉ được lạng thóc, cô Lùn bỏ đi mót ngày lại được năm cân”(Tr116). Hay để có thành tích chăn nuôi giỏi, Đào Kinh sáng kiến: “Vận động tất cả các gia đình xã viên có lợn tự giác dong đến thả vào trại lợn cho hợp tác mượn một ngày để chào mừng đón đoàn cán bộ huyện về thăm quan”(Tr117). Hay đến thời mở cửa, lợi dụng quyền lực và tiền bạc sẵn có trong tay, Trần Tăng đã thăng tiến trên con đường quan lộ, không chỉ vậy còn đứng đằng sau giúp Măng và Đào Kinh làm ăn phi pháp. Như thế, sự tiếp cận đa chiều các sự kiện có tính bước ngoặt từ Cải cách ruộng đất, đến những vấn đề sau đổi mới thể hiện thái độ khách quan của người trần thuật. Dương Hướng giúp bạn đọc đi sâu vào các vấn đề nóng bỏng của thời đại và chỉ ra căn nguyên của nó. Tất cả như một xâu chuỗi, nối tiếp sự kiện này đến sự kiện khác như một dòng chảy. Dù dòng chảy lịch sử có lúc đứt quãng nhưng cuộc sống con người vẫn nối tiếp. 3.4. Nghệ thuật kể chuyện. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 Một trong những vấn đề quan trọng có tính “đột biến” từ tác phẩm Bến không chồng đến Dưới chín tầng trời đó là sự mới lạ trong nghệ thuật kể chuyện của tác giả, chuyển từ bản năng, chân phương (trong Bến không chồng) tới sự hoà quyện giữa bản năng và trí tuệ trong tiểu thuyết mới này. Đó là cả một quá trình rèn luyện, phấn đấu không ngừng để tích luỹ vốn sống, và kinh nghiệm nghề nghiệp. Nếu lối kể chuyện mộc mạc, chân phương truyền thống, mang lại cho tác phẩm Bến không chồng vẻ đẹp giản dị, tự nhiên, thì đến Dưới chín tầng trời đã có sự phá cách cốt truyện với lối kết cấu không theo tuyến tính thời gian mà là sự lắp ghép, cấu trúc các khối đời, vừa độc lập, vừa xen cài vào nhau, làm cho những tình huống, cảnh ngộ, biến cố, sự kiện, số phận con người tưởng như không có quan hệ liên đới nhưng lại xích lại gần nhau, đặt cạnh nhau, nối kết với nhau tạo nên mạch cốt truyện lôgíc, hấp dẫn. Đó là đặc điểm của thi pháp tiểu thuyết hiện đại. Nhờ đó tác phẩm được viết ra một cách tự nhiên, không bị ràng buộc bởi thi pháp truyền thống. Sự lắp ghép này luôn gắn với việc di chuyển điểm nhìn hết sức tinh tế, linh hoạt của người trần thuật, làm cho mạch kể tưởng như rời rạc, phóng túng mà ngược lại rất chặt chẽ. Khác cách mở đầu bằng các sự kiện diễn ra trong quá khứ của Bến không chồng, Dưới chín tầng trời được mở đầu ở thời hiện tại và kết thúc truyện lại trở về thì hiện tại, ở giữa là ngổn ngang bề bộn biết bao chuyện đời đã diễn ra trong hơn nửa thế kỷ, giúp ta có cái nhìn trải rộng, nhưng rồi vẫn có thể thu gom lại trong mấy chương cuối kết thúc truyện nói đến cuộc hội ngộ của người dân làng Đoài, và phác ra viễn cảnh những “con đường mới”... Điều đó chứng tỏ sự trải nghiệm của tác giả đã chạm được “độ chín” cần thiết cho sự ra đời một tác phẩm nghệ thuật có giá trị đích thực. Phải chăng, đó là thành quả của 15 năm ấp ủ, im lặng trong trăn trở để một ngày trở lại quyết liệt bằng một tiểu thuyết bề thế, với cái tên đầy vĩ mô: Dưới chín tầng trời. Tuy nhiên, cách kết thúc truyện bằng đám ma trên cánh đồng Mả Rốt ở Dưới chín tầng trời lại giống như cái đám tang tiễn đưa Vạn trong Bến không Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 chồng. Bởi cả hai cái chết của hai con người như một sự “hoá giải” cho biết bao xót xa, lầm lạc. Cuộc tiễn đưa Trần Tăng và Vạn có một ý vị đặc biệt, giống như cuộc tiễn đưa quá khứ, không theo lối“vui vẻ” như Mác nói. Bởi sự “hoá giải” này như là một thông điệp gửi gắm cho những ai còn ở lại; cách kết thúc bằng cái chết của một con người nhưng lại như bắt đầu mở ra một chân trời mới, một cuộc sống mới có thể là một thế hệ khác đến sau họ, có thể là từ đứa con của Hạnh trong Bến không chồng. Với cái chết của Trần Tăng, ngoài ý nghĩa là một sự giải thoát bi kịch cá nhân, nó còn được xem là một nhát cắt để dứt khoát giã từ một quá khứ có nhiều lầm lạc, mở ra một chân trời mới cho người dân làng Đoài. Điều đáng chú ý, ở chương cuối tiểu thuyết xuất hiện hình ảnh “Con đường mới” như một biểu tượng bao hàm nhiều ý nghĩa. Hoàng Ngọc Hiến cho rằng:“… đó là biểu tượng vặt không hơn không kém”. Song thiết nghĩ, đó là một tìm tòi, sáng tạo mới của Dương Hướng. Bởi một khi đã là biểu tượng là có khả năng gây ấn tượng, nó sẽ trở đi trở lại và rồi đọng lại trong lòng người đọc sau toàn cảnh chằng chịt các nẻo đi về của hai trục không gian và thời gian. Dương Hướng không phán xét, ông chỉ “phác thảo” lại chân dung thời đại mà chúng ta đã sống. Để cho mỗi người tự nhận mà phát xét lấy chính mình. Hơn nữa, theo tôi, với lối kết cấu truyền thống, kết thúc có hậu, hình ảnh con đường mới, dù là giản đơn nhưng cũng là sự thoả đáng, có giá trị nhân văn. Dù xã hội có biến thiên, con người trong đời sống dù ở giai tầng nào, thì cuối đời mảnh đất quê hương quen thuộc vẫn dành cho họ sự bằng an và là nơi yên nghỉ vĩnh hằng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94 KẾT LUẬN 1. Dương Hướng là một trong số gương mặt tiêu biểu của tiểu thuyết đương đại Việt Nam, dù không thuộc lớp người viết đóng vai trò“tiền trạm” như Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Lựu, Nguyễn Huy Thiệp... Nối tiếp họ, ông đã có đóng góp xứng đáng trong tư cách một nhà văn ở độ tuổi 60, chưa thật già, nhưng cũng không còn trẻ. 2. Sáng tác của Dương Hướng nằm trọn trong giai đoạn văn học đổi mới tính từ 1986 cho đến 2007. Tuy số lượng tác phẩm không nhiều, chỉ với ba cuốn tiểu thuyết và hai tập truyện ngắn song sự thành công của tác phẩm là kết quả đích thực có ý nghĩa to lớn đóng góp vào sự phát triển của văn xuôi đương đại. 3. Từ Bến không chồng đến Dưới chín tầng trời cho ta thấy diện mạo phát triển chung của nền tiểu thuyết Việt Nam trong thời kì chuyển giao giữa hai thế kỷ. Có thể khẳng định: Dương Hướng là một trong số tác giả tiêu biểu của văn học đổi mới, với khởi đầu là Bến không chồng, cái mốc mà 15 năm trước đã từng giúp đưa cái tên Dương Hướng lên văn đàn, và với sự tiếp tục trở lại bằng một tiểu thuyết bề thế, Dưới chín tầng trời như một bước phát triển ngoạn mục trên tất cả các phương diện: từ biên độ phản ánh; sự mở rộng các kiểu dạng nhân vật; cách nhận thức và đào sâu vào nhiều vấn đề nhân sinh có ý nghĩa thời đại. 4. Tác phẩm Dưới chín tầng trời đã đánh dấu sự đổi mới tư duy nghệ thuật theo xu hướng phát triển tiểu thuyết hiện nay ở sự đa dạng, phong phú trên các phương diện của chất liệu, của chủ đề, của thế giới nhân vật... nhưng về căn bản vẫn tuân thủ theo kiểu dạng tiểu thuyết truyền thống. Nó giống như một cuộc đi tìm cái mới trong khuôn hình cổ điển, và đó là điều khiến chúng tôi tin tác phẩm sẽ có được sự đón đợi của công chúng. Luận văn này mong góp thêm một tiếng nói để hưởng ứng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Tuấn Anh, Đổi mới văn học vì sự phát triển. Tạp chí văn học tháng 4/1995. 2. Tạ Duy Anh (2002), Lão Khổ, NXB Văn hoá thông tin, H. 3. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 4. Nguyễn Thị Bình (1996) : Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam từ 1986 đến nay, Luận án Tiến sĩ ĐHSP Hà Nội. 5. M.Bakhtin: (2003): Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn. 6. Nguyễn Văn Chung (2006) Tiểu thuyết Chu Lai thời kỳ đổi mới - Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên. 7. Nguyễn Minh Châu (1987) : Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ, Văn nghệ số 49-50. 8. Tuyển tập Nguyễn Minh Châu (1999), Nxb Văn Học.H. 9. Phan Cự Đệ (1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập 1,2, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 10. Hà Minh Đức, Lê Bá Hán (1985), Cơ sở lý luận văn học, tập 2, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 11. A.Rôp.Griê - Vì một nền tiểu thuyết mới, Nxb Hội nhà văn Việt Nam,H. 12. Hoàng Ngọc Hiến (1990), Văn học - học văn, Trường Cao đẳng Sư phạm TP Hồ Chí Minh, Trường viết văn Nguyễn Du. 13. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb Giáo dục - Hà Nội. 14. Nguyễn Văn Hạnh (1993), Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con người. Tạp chí văn học số 3. 15. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình (1995): Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay, NXB Hà Nội. 16. Lê Thanh Hùng (2006), Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ đầu đổi mới (giai đoạn 1980 - 1989) - ĐHSP Thái Nguyên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 17. Lê Thị Hằng (2002): Một số đặc điểm của văn xuôi Việt Nam sau 1985 (qua những truyện ngắn và tiểu thuyết tiêu biểu) - Luận văn Thạc sĩ - ĐHSP Vinh. 18. Dương Hướng (1989) - Gót Son. 19. Dương Hướng (1990) - Bến không chồng. 20. Dương Hướng (1991) - Trần gian đời người. 21. Dương Hướng (1995) - Người đàn bà trên bãi tắm. 22. Dương Hướng (1998) - Bóng đêm và mặt trời. 23. Dương Hướng (2007), Dưới chín tầng trời 24. Dương Hướng (2000), "Nỗi đau từ Bến không chồng", Báo Lao động (14/11). 25. Dương Hướng (2000), "Dấu ấn thầy văn, bạn văn", Báo Hạ Long (5/9). 26. Dương Hướng (2001), "Nhà văn của những Bến không chồng", Báo Tiền phong online.com.vn (08/2). 27. Dương Hướng (2001), Trò chuyện với tác giả "Bến không chồng", Báo Bình Định.com.vn (8/2). 28. Dương Hướng (2007), "Hãy cứ để cuốn sách bước ra cuộc đời", Báo Lao động (19/10). 29. Dương Hướng (2007), "Tác giả Bến không chồng trở lại", Báo Tuổi trẻ (30/11). 30. Dương Hướng (2007), "Người dám chơi đùa với áo cơm", Báo Thể thao và Văn hóa cuối tuần (9/11). 31. Dương Hướng (2008), "Tản mạn về Dương Hướng", trannhuong.com.vn (14/2). 32. Dương Hướng (2008), "Chuyện làm phim Bến không chồng" 33. Một số bài báo, Tạp chí, trang net xung quanh tiểu thuyết Bến không chồng và Dưới chín tầng trời. 34. Milan Kundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, Nxb Đà Nẵng. 35. Ma Văn Kháng - Tiểu thuyết (2003); Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 36. Nguyễn Khải - Văn xuôi một chặng đường (1963 - 1983) in trong Văn học trong giai đoạn cách mạng mới. 37. Nhiều tác giả (1996), 50 năm Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng 8, Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 38. Nhiều tác giả (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học. 39. Lê Phú Khải (1988). Đọc "Cù Lao Tràm". Văn nghệ (4). 40. Tôn Phương Lan (1993), Tìm hiểu tư tưởng nghệ thuận của Nguyễn Minh Châu qua quan niệm nghệ thuật về con người, Văn học (6). 41. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội nhà văn. H. 42. Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình của thế kỉ XX, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 43. Nguyễn Văn Long, Lã Nhân Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975, Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 44. Lê Lựu (1985), ý kiến phát biểu trong cuộc trao đổi về truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu, Văn nghệ (4), Nxb Hội nhà văn. Hà Nội. 45. Lê Lựu (2003), Thời xa vắng. NXB Hội nhà văn. Hà Nội. 46. Nguyễn Đăng Mạnh (1985), Về một xu hướng tiểu thuyết đang phát triển, Báo Nhân dân. 47. Bảo Ninh (1990), Nỗi buồn chiến tranh. NXB Hội nhà văn. 48. Nguyên Ngọc (1991), Văn xuôi sau 1975, thử thách thăm dò đôi nét về quy luật phát triển, Văn học (4). 49. Nhà văn hiện đại Việt Nam (2007), Nxb Hội nhà văn Việt Nam, H. 50. Lã Nguyên (1991), “Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi mới tư duy nghệ thuật”, in trong Nguyễn Minh Châu - Con người và tác phẩm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 51. Bùi Việt Thắng (2008), "Dưới chín tầng trời". Trannhuong.com.vn (14/2). 52. Lê Thị Thịnh (2007), Vị trí hai tiểu thuyết “Thời xa vắng” của Lê Lựu và “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng trong tiến trình đổi mới văn học - Luận văn Thạc sĩ - ĐHSP Vinh. 53. Đỗ Phương Thảo (2007) - Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng - Luận án Tiến sĩ - Viện Văn học. 54. Trần Thị Phương Thảo (7/2008), “Dương Hướng sau Bến không chồng” - Văn nghệ quân đội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 55. Nguyễn Khắc Trường (2006), Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nxb Hội Nhà văn. 56. Nguyễn Thị Minh Thuỷ (2005) “Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay”. Luận văn Thạc sĩ - ĐHSP Vinh. 57. Nguyễn Đình Thi "Văn học ta trong giai đoạn mới của cách mạng" - Báo cáo của BCH Hội nhà văn Việt Nam - NXB tác phẩm mới. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9531.pdf