Lời nói đầu
Nước ta chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường là một sự thay đổi lớn đối với toàn bộ các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp công nghiệp nói riêng. Trước sự thay đổi lớn lao đó các doanh nghiệp phải tự biến đổi để có thể tồn tại và phát triển được trong hoàn cảnh mới, phải nỗ lực vươn lên , lấy thước đo hiệu quả kinh doanh để quyết định sự thành bại của mình.
Muốn tồn tại được trong cạnh tranh, như một yêu cầu tất yếu, doanh nghiệp ph
69 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1263 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tiêu thụ sản phẩm và phương hướng, biện pháp thúc đẩy khả năng tiêu thụ, tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Giấy Bãi Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ải bán được sản phẩm của mình, có như vậy mới có khả năng bù đắp được các chi phí, tích luỹ để có thể mở rộng quy mô sản xuất, đứng vững trong cạnh tranh.
Tiêu thụ sản phẩm chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng đến doanh thu bán hàng, từ đó trực tiếp ảnh hưởng đến lợi nhuận., nó là mấu chốt quyết định sự tăng trưởng của doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm đã và đang được các doanh nghiệp rất quan tâm.
Muốn tiêu thụ sản phẩm trở thành thế mạnh của mình đòi hỏi doanh nghiệp phải trải qua một quá trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách chính xác tình hình mọi mặt của doanh nghiệp, tình hình thị trường, tình hình đối thủ cạnh tranh, tình hình kinh tế xã hội,… từ đó kết hợp với quyết định sáng tạo, linh hoạt của các nhà quản lý để vach ra được hướng đi đúng đắn. Có như vậy, doanh nghiệp mới thuận lợi trong công tác tiêu thụ sản phẩm.
Trong 2 tháng thực tập tại Công ty Giấy Bãi Bằng, được sự giúp đỡ tận tình của cán bộ lãnh đạo Công ty cùng với sự chỉ bảo của giáo viên hướng dẫn trong việc tìm hiểu công tác tiêu thụ sản phẩm thông qua cách nhìn nhận của tài chính, em đã chọn đề tài: “ Tiêu thụ sản phẩm và phương hướng, biện pháp thúc đẩy khả năng tiêu thụ, tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Giấy Bãi Bằng”.
Nội dung của luận văn bao gồm:
Chương 1: Tiêu thụ sản phẩm và sự cần thiết đẩy mạnh công tác tiêu thụ, tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong các doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng công tác tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Giấy Bãi Bằng.
Chương 3: Những phương hướng, biện pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy khả năng tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Giấy Bãi Bằng.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do trình độ có hạn, thời gian thực tập tại Công ty không nhiều và điều kiện nghiên cứu còn hạn chế, nên trong khuôn khổ bản luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo, các cô chú trong phòng tài chính kế toán của Công ty và các bạn để bản luận văn được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của thầy giáo Hoàng Văn Quỳnh, các cô chú phòng tài chính kế toán và các bạn đã giúp đỡ em hoàn thành bản luận văn này.
Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 2002.
Chương 1
Tiêu thụ sản phẩm và sự cần thiết đẩy mạnh công tác tiêu thụ, tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong các doanh nghiệp
1.1. Những vấn đề cơ bản về tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong doanh nghiệp.
1.1.1. Tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Theo quy luật tái sản xuất, quá trình sản xuất trong các doanh nghiệp được diễn ra một cách tuần tự và bao gồm các khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. ở giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất, sản phẩm được đem ra tiêu thụ trên thị trường, khi đó, sản phẩm được thể hiện giá trị và giá trị sử dụng của mình.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp chỉ sản xuất theo kế hoạch của Nhà nước. Các vấn đề cơ bản như: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? đều do Nhà nước chỉ định. Do vậy, các doanh nghiệp chưa phát huy được tính năng động và sáng tạo của mình. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong thời kỳ này đơn thuần là việc tổ chức bán sản phẩm, hàng hoá sản xuất ra theo kế hoạch và giá cả đã được ấn định từ trước.
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh ở các thành phần kinh tế cùng tồn tại, cạnh tranh với nhau và bình đẳng trước pháp luật. Khi đó, các doanh nghiệp sản xuất không những có nhiệm vụ sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ mà còn phải có nhiệm vụ tổ chức tiêu thụ số sản phẩm đó. Tiêu thụ sản phẩm được coi là vấn đề quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp hiện nay, nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Có tiêu thụ được sản phẩm thì lúc này doanh nghiệp mới có thể đảm bảo được cho quá trình tái sản xuất được diễn ra thường xuyên, liên tục.
Tiêu thụ sản phẩm là quá trình đơn vị bán xuất giao sản phẩm cho đơn vị mua và thu được tiền về số sản phẩm đó. Thời điểm sản phẩm được xác định là tiêu thụ khi người mua sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán, không phụ thuộc vào việc tiền đã thu được hay chưa.
Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh. Khi kết thúc khâu này tức là doanh nghiệp đã kết thúc được một quá trình sản xuất kinh doanh, lúc này đồng vốn của doanh nghiệp lại quay về hình thái vật chất ban đầu của nó. Ta có thể khái quát quá trình tái sản xuất bằng sơ đồ sau:
TLSX (TLLĐ + ĐTLĐ)
... SX … H’ - T’
T - H
Tiêu thụ
SLĐ
Đứng trên góc độ luân chuyển vốn thì tiêu thụ sản phẩm là một quá trình chuyển hoá hình thái giá trị của vốn từ hình thái sản phẩm hàng hoá sang hình thái tiền tệ, làm cho vốn trở lại hình thái ban đầu khi nó bước vào mỗi chu kỳ sản xuất.
Qua sơ đồ trên ta thấy, để tiến hành sản xuất thì nhà sản xuất phải bỏ ra một lượng vốn nhất định để mua các yếu tố đầu vào như: tư liệu lao động (TLLĐ), đối tượng lao động (ĐTLĐ) và sức lao động (SLĐ). Lúc này, vốn dưới hình thái giá trị được chuyển thành vốn dưới hình thái vật chất.Vốn dưới hình thái vật chất này được đưa vào quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Sản phẩm tạo ra được đem đi tiêu thụ và kết quả của khâu tiêu thụ là thu được tiền về. Lúc này đồng vốn lại từ hình thái vật chất quay trở lại hình thái ban đầu của nó là tiền tệ. Đến đây một chu kỳ sản xuất kết thúc, vốn tiền tệ lại được sử dụng vào quá trình tái sản xuất mới.
Khi tiêu thụ được sản phẩm doanh nghiệp sẽ có một khoản thu nhập bán hàng hay còn gọi là doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Như vậy, doanh thu tiêu thụ sản phẩm là toàn bộ số tiền thu được khi bán sản phẩm hàng hoá. Tuy nhiên, doanh thu tiêu thụ sản phẩm không đồng nhất với tiền bán hàng. Tiền bán hàng chỉ được xác định khi doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm đã thu được tiền về, còn doanh thu tiêu thụ sản phẩm được xác định ngay cả khi khách hàng chưa trả tiền nhưng đã chấp nhận thanh toán tiền cho số hàng đó. Trong trường hợp có giảm giá, doanh thu và tiền bán hàng còn khác nhau cả về mặt lượng. Khi đó tiền bán hàng chỉ là một phần doanh thu tiêu thụ sản phẩm, tương ứng với số tiền mà khách hàng đã thanh toán cho doanh nghiệp. Ta có thể thấy sự khác biệt giữa doanh thu tiêu thụ sản phẩm và tiền bán hàng qua các trường hợp cụ thể sau:
Trường hợp 1: Doanh nghiệp bán hàng được khách hàng thanh toán ngay. Khi đó số hàng hoá được xác định ngay là tiêu thụ, đồng thời doanh thu tiêu thụ và tiền bán hàng trùng nhau về thời điểm thực hiện.
Trường hợp 2: Doanh nghiệp xuất giao hàng hoá được khách hàng chấp thanh toán nhưng chưa trả tiền ngay. Lúc này doanh thu tiêu thụ sản phẩm được xác định nhưng tiền bán hàng thì chưa được thu về.
Trường hợp 3: Doanh nghiệp xuất giao hàng cho khách hàng theo số tiền mà khách hàng đã trả trước. Khi đó, đồng thời với việc giao hàng, tiền ứng trước trở thành tiền thu bán hàng của doanh nghiệp. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm cũng được xác định tại thời điểm này.
Trường hợp 4: Doanh nghiệp đã thu được tiền hàng hoặc được chấp nhận thanh toán số hàng đã gửi bán hoặc giao cho các đại lý thì doanh thu tiêu thụ được xác định vào thời điểm này.
Trường hợp 5: Doanh nghiệp bán hàng theo phương thức trả góp thì doanh thu tiêu thụ sản phẩm cũng được xác định ngay nhưng tiền bán hàng chỉ được một phần, phần còn lại sẽ được trả dần vào các kỳ sau theo sự thoả thuận giữa hai bên.
Tóm lại, để xác định được doanh thu tiêu thụ sản phẩm cần phải thoả mãn đầy đủ hai điều kiện sau:
Doanh nghiệp đã thực sự xuất giao hàng hoá cho khách hàng.
Khách hàng đã thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán số tiền hàng đó cho doanh nghiệp.
1.1.2. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Khi tiêu thụ được các sản phẩm, doanh nghiệp sẽ có một khoản thu nhập bán hàng hay còn gọi là doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Đây là một chỉ tiêu có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với quá trình tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp, với việc thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước mà còn đối với quá trình tái sản xuất mở rộng trong phạm vi toàn xã hội. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm phản ánh qui mô quá trình sản xuất của doanh nghiệp, trình độ tổ chức chỉ đạo sản xuất kinh doanh , tổ chức công tác hạch toán. Có được doanh thu bán hàng chứng tỏ doanh nghiệp đã sản xuất ra những sản phẩm được thị trường chấp nhận.
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm là toàn bộ số tiền bán sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trên thị trường sau khi đã trừ đi các khoản giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại (nếu có), thu từ phần trợ giá của Nhà nước khi thực hiện việc cung cấp hàng hoá theo yêu cầu của Nhà nước. Trong đó giảm giá hàng bán là số tiền người bán giảm trừ cho người mua trên giá đã thoả thuận do hàng kém phẩm chất, không đúng qui cách hoặc do doanh nghiệp ưu đãi cho khách hàng mua lượng sản phẩm lớn. Còn giá trị hàng hoá bị trả lại là số tiền doanh nghiệp phải trả lại cho khách hàng trong trường hợp hàng đã xác định là bán xong bị khách hàng trả lại do vi phạm những điều kiện đã cam kết trong hợp đồng. Trong trường hợp doanh nghiệp có các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đem làm quà tặng, quà biếu, hoặc cho các đơn vị khác, hoặc để tiêu dùng nội bộ doanh nghiệp cũng phải tính toán để xác định doanh thu.
Nghiên cứu các bộ phận cấu thành doanh thu tiêu thụ sản phẩm ta thấy từng ngành sản xuất khác nhau, doanh thu tiêu thụ sản phẩm gồm những bộ phận khác nhau, nhưng nhìn chung doanh thu tiêu thụ sản phẩm bao gồm những bộ phận sau:
*Doanh thu bán hàng ra ngoài: là doanh thu doanh nghiệp bán sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cho các đơn vị khác có hạch toán độc lập với doanh nghiệp. Doanh thu bán hàng ra ngoài bao gồm:
+Doanh thu do bán sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, thuộc hoạt động sản xuất kinh doanh chính, như doanh thu về bán các thành phẩm, nửa thành phẩm, doanh thu về bàn giao khối lượng công trình xây dựng cơ bản đã hoàn thành, công tác thăm dò địa chất và công tác thiết kế …
+Doanh thu tiêu thụ khác: là bộ phận doanh thu được xác định từ việc tiêu thụ các sản phẩm mà doanh nghiệp mà doanh nghiệp tận dụng năng lực sản xuất dư thừa để sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá ngoài sản phẩm chủ yếu trên, như: tiêu thụ những sản phẩm chế biến từ phế liệu, phế phẩm, hoặc doanh thu do bán các bản quyền, phát minh, sáng chế, hoặc cung cấp lao vụ dịch vụ cho bên ngoài.
*Doanh thu tiêu thụ nội bộ: là doanh thu có được do doanh nghiệp bán ra sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cho các đơn vị trực thuộc trong công ty, tổng công ty, hoặc cho các doanh nghiệp không có hạch toán độc lập.
Xuất phát từ những vấn đề trên ta thấy việc xác định nội dung của doanh thu tiêu thụ có ý nghĩa rất lớn trong việc hạch toán đầy đủ, chính xác doanh thu, phản ánh đúng đắn kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, trong công tác tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp không nên coi nhẹ việc xác định nội dung doanh thu tiêu thụ sản phẩm, phải tuỳ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị mà xác định doanh thu cho chính xác, phân chia nội dung doanh thu cho phù hợp để thuận tiện cho việc theo dõi và phản ánh doanh thu của mình.
Doanh thu tiêu thụ có ý nghĩa rất lớn đối với các doanh nghiệp sản xuất và nó phụ thuộc vào kết quả của tiêu thụ sản phẩm. Do vậy, để thấy được điều này thì cần phải hiểu rõ vai trò và ý nghĩa của tiêu thụ sản phẩm, qua đó ta càng hiểu lý do tại sao mỗi doanh nghiệp không ngừng tìm mọi biện pháp để đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
1.2. Sự cần thiết và phương hướng, biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
1.2.1. Sự cần thiết phải đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm.
Như ta đã biết, tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng kết thúc một chu kỳ sản xuất và mở ra một chu kỳ sản xuất mới. Chỉ thông qua tiêu thụ sản phẩm, đồng vốn ban đầu mà doanh nghiệp bỏ ra mới trở về hình thái ban đầu của nó. Có tiêu thụ được sản phẩm doanh nghiệp mới có được doanh thu để bù đắp toàn bộ chi phí đã bỏ ra trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được diễn ra liên tục.
Khi tốc độ tiêu thụ sản phẩm được đẩy nhanh góp phần thúc đẩy tốc độ luân chuyển vốn, tiết kiệm các khoản chi phí trong khâu tiêu thụ, góp phần hạ giá thành, làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh hiệu quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Có lợi nhuận, doanh nghiệp có tích luỹ, khi đó doanh nghiệp mới có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đầu tư theo chiều sâu, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
Trong giai đoạn hiện nay, sản xuất kinh doanh mà chỉ dựa vào vốn tự có thì không thể đủ, để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải huy động vốn từ bên ngoài, trong đó chủ yếu là vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Khi tiêu thụ sản phẩm được tiến hành tốt, có doanh thu giúp doanh nghiệp có khả năng thanh toán những khoản nợ đến hạn, tạo điều kiện cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được lành mạnh.
Khi tiêu thụ được đẩy mạnh, chứng tỏ phạm vi phát huy các giá trị sử dụng của sản phẩm được mở rộng. Nhờ đó uy tín của doanh nghiệp được nâng cao, tạo ra cân đối giữa cung – cầu trên thị trường trong nước, hạn chế hàng nhập ngoại, khuyến khích sản xuất trong nước phát triển.
Thông qua tiêu thụ sản phẩm, có được doanh thu, doanh nghiệp mới có thể thực hiện được các khoản nghĩa vụ đối với Nhà nước, như: thuế, phí và lệ phí. đây là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước, để từ đó Nhà nước có thể triển khai các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của mình.
Hơn nữa, trong điều kiện nền kinh tế hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế, đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm được coi là chiếc cầu nối quan trọng không chỉ đối với các đơn vị, các vùng kinh tế trong nước với nhau thành một thể thống nhất, mà còn xiết chặt thêm các mối quan hệ quốc tế, nối liền thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, thúc đẩy giao lưu thương mại quốc tế phát triển. Việc tiêu thụ sản phẩm ra thị trường nước ngoài sẽ cải thiện cán cân thương mại quốc tế, đưa nước ta ra khỏi tình trạng nhập siêu, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Từ những vai trò và ý nghĩa nói trên của công tác tiêu thụ sản phẩm, ta thấy, việc đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp là rất cần thiết, giữ vị trí số một trong quá trình sản xuất kinh doanh của bất cứ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường. Thực hiện tốt được công tác tiêu thụ sản phẩm sẽ đem lại kết quả vô cùng to lớn giúp cho doanh nghiệp thực hiện được các mục tiêu kinh tế của mình.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng và phương hướng, biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
1.2.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
Quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trải qua nhiều giai đoạn từ sản xuất đến tiêu thụ. Hoạt động tiêu thụ chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, do đó, ta cần phải nghiên cứu các nhân tố này để trên cơ sở đó đề ra phương hướng, biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Có thể chia các nhân tố thành hai nhóm chủ yếu sau:
Nhóm nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh.
Nhóm nhân tố thuộc về doanh nghiệp.
Trong hai nhóm nhân tố này ta chỉ đi sâu phân tích những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp và tác động mạnh mẽ nhất.
*Nhóm nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh:
Các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh là các yếu tố khách quan mà doanh nghiệp không thể kiểm soát được. Nghiên cứu các nhân tố này không nhằm để điều khiển nó theo ý muốn của doanh nghiệp mà nhằm tạo ra khả năng thích ứng tốt nhất với xu hướng vận động của nó.
Môi trường kinh doanh tác động liên tục tới hoạt động của doanh nghiệp theo những xu hướng khác nhau, vừa tạo ra cơ hội, vừa hạn chế khả năng thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Các chính sách kinh tế – xã hội của Nhà nước.
Tuỳ vào từng thời điểm khác nhau mà Nhà nước có những chính sách phát triển kinh tế – xã hội khác nhau. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, một mặt có tác động thúc đẩy, mặt khác lại có tính kìm hãm, đôi khi còn làm ngừng lại quá trình tiêu thụ của doanh nghiệp. Do vậy, cần phải bám sát các chính sách phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước để từ đó có những hướng đi, có những kiến nghị giúp cho quá trình tiêu thụ sản phẩm cũng như là sự tồn tại của doanh nghiệp mình.
+ Môi trường cạnh tranh:
Cạnh tranh được xác định là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường với nguyên tắc: ai hoàn thiện hơn, thoả mãn nhu cầu tốt hơn và hiệu quả hơn người đó sẽ thắng, sẽ tồn tại và phát triển. Do vậy, mỗi doanh nghiệp cần phải xác định được vị trí của mình để ganh đua, hoàn thiện mình hơn nữa, nhằm nâng cao vị thế của mình trên thương trường. Vị thế của doanh nghiệp càng cao thì khả năng tiêu thụ sản phẩm càng tốt.
+ Thị trường:
Thị trường vừa là nơi tiêu thụ sản phẩm vừa là nơi cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin quan trọng về tình hình tiêu thụ cũng như đối thủ cạnh tranh. Trước khi tiến hành sản xuất, các doanh nghiệp phải tiến hành điều tra, nghiên cứu thị trường để nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, nắm bắt thông tin về các đối thủ cạnh tranh. Từ đó giúp doanh nghiệp biết nên sản xuất những sản phẩm nào và có giải pháp thích hợp để chiến thắng đối thủ cạnh tranh. Làm tốt công tác thị trường giúp doanh nghiệp thấy được thị trường nào là chủ yếu, thị trường nào là thứ yếu để phân phối lượng sản phẩm hợp lý cho từng thị trường, từ đó tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ, tăng doanh thu bán hàng cho doanh nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp cũng cần xác định được thị trường tiềm năng trong tương lai làm cơ sở xây dựng cho mình một chính sách thị trường đúng đắn, có như vậy khả năng mở rộng thị trường phục vụ cho việc đẩy mạnh tiêu thụ và nâng cao doanh thu cho doanh nghiệp sẽ ngày càng tăng.
*Nhóm nhân tố thuộc về doanh nghiệp:
+ Khối lượng sản phẩm hàng hoá đem ra tiêu thụ:
Khối lượng sản phẩm sản xuất ra có ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng sản phẩm tiêu thụ, qui mô tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
Công thức xác định số lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ của một loại sản phẩm như sau:
St = Sđ + Sx - Sc
Trong đó:
St : số lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ.
Sđ : số lượng sản phẩm kết dư tính từ đầu kỳ.
Sx : số lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ.
Sc : số lượng sản phẩm kết dư cuồi kỳ.
Như vậy, số lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ càng lớn dẫn tới số lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ càng tăng và khả năng về doanh thu càng lớn. Tuy nhiên, điều quan trọng là sản phẩm đưa ra phải phù hợp với nhu cầu của thị trường. Nếu số lượng sản phẩm sản xuất ra vượt quá nhu cầu thị trường dẫn đến không tiêu thụ được hết số sản phẩm đó, thậm chí còn phải hạ giá bán mới có thể tiêu thụ được, như vậy sẽ làm giảm doanh thu của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu đưa ra thị trường khối lượng sản phẩm nhỏ hơn nhu cầu dẫn đến mất thị phần tiêu thụ, khi đó, số khách hàng không đáp ứng được nhu cầu đó sẽ tìm đến những sản phẩm cùng loại trên thị trường. Cả hai trường hợp đều làm cho doanh thu của doanh nghiệp bị giảm sút. Chính vì vậy, trong công tác tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp cần đánh giá chính xác nhu cầu thị trường và năng lực sản xuất của mình để chuẩn bị một khối lượng sản phẩm hợp lý đưa ra tiêu thụ trên thị trường , và điều này có ý nghĩa quan trọng để nâng cao doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp.
+ Chất lượng sản phẩm:
Nâng cao chất lượng sản phẩm là một yếu tố quan trọng thúc đẩy công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Khi chất lượng sản phẩm được nâng cao làm tăng uy tín của doanh nghiệp dẫn đến khối lượng sản phẩm được tiêu thụ nhiều hơn. Hơn nữa, nâng cao chất lượng sản phẩm còn giúp cho doanh nghiệp có điều kiện nâng cao giá bán một cách hợp lý, do đó, ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng doanh thu và tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Như vậy, chất lượng sản phẩm chính là giá trị tăng thêm của sản phẩm, nó vừa làm tăng uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng, vừa là vũ khí cạnh tranh sắc bén và có hiệu quả nhất trong nền kinh tế thị trường. Nâng cao chất kượng sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng, nó là sợi dây vô hình thắt chặt khách hàng với doanh nghiệp, tạo điều kiện cho tiêu thụ sản phẩm được dễ dàng và nhanh chóng thu được tiền bán hàng.
Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ thì việc ứng dụng những tiến bộ này vào sản xuất sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo ra được những sản phẩm có chất lượng, tính năng, công dụng ưu việt hơn và giá thành thấp hơn. Chắc chắn đây sẽ là vũ khí rất lợi hại góp phần tích cực thúc đẩy khả năng tiêu thụ sản phẩm.
+ Giá cả sản phẩm:
Giá cả sản phẩm có tác động rất lớn đến quá trình tiêu thụ sản phẩm. Về nguyên tắc, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá và gía cả xoay quanh giá trị.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, ngoài sự ảnh hưởng của quy luật giá trị, giá cả còn do quan hệ cung - cầu trên thị trường quyết định, do đó, doanh nghiệp hoàn toàn có thể sử dụng giá cả như một công cụ sắc bén để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Khi doanh nghiệp đưa ra một mức giá phù hợp với chất lượng sản phẩm, được đông đảo người tiêu dùng chấp nhận dẫn đến việc tiêu thụ sản phẩm sẽ thuận lợi hơn và ngược lại. Mặt khác, nếu doanh nghiệp quả lý kinh doanh tốt, làm giảm giá thành sản phẩm, tạo điều kiện cho việc giảm giá bán sản phẩm so với giá bán của sản phẩm cùng loại trên thị trường, sẽ tạo ra một lợi thế cạnh tranh giúp doanh nghiệp có thể thu hút được khách hàng của các đối thủ cạnh tranh. Ngoài ra, giá bán sản phẩm còn có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xác định thị trường tiêu thụ. Chẳng hạn, đối với thị trường nông thôn, miền núi, nơi người dân có thu nhập thấp, sức mua có hạn, nên chỉ có với mức giá thấp hơn một chút mới có thể tạo ra một mức tiêu thụ lớn, và ngược lại, với mức giá cao hơn một chút có thể làm giảm mức tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ đi rất nhiều.
Như vậy, các quyết định về giá cả sản phẩm sản xuất ra của doanh nghiệp, ngoài một số loại có tính chất chiến lược được Nhà nước bảo hộ và can thiệp vào việc định giá, còn lại những mặt hàng khác giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị hàng hoá và quan hệ cung - cầu. Doanh nghiệp cần phải tính toán, cân nhắc và định giá sao cho giá bán của sản phẩm phải bù đắp được phần tư liệu sản xuất tiêu hao, trả tiền công cho người lao động và có lãi, đồng thời giá cả đó cũng phải được thị trường chấp nhận.
+Kết cấu sản phẩm tiêu thụ:
Kết cấu sản phẩm tiêu thụ là tỷ trọng theo doanh thu của từng mặt hàng so với tổng doanh thu tiêu thụ tất cả các loại sản phẩm của doanh nghiệp, được xác định bởi công thức:
Tỷ trọng sản phẩm i =
Như vậy, ứng với mỗi kết cấu sản phẩm nhất định sẽ có một tổng doanh thu nhất định. Khi kết cấu này thay đổi thì tổng doanh thu cũng sẽ thay đổi.
Trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, để nâng cao hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp thường đưa ra thị trường nhiều chủng loại sản phẩm với phẩm chất, kích cỡ, giá bán khác nhau, nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người của người tiêu dùng. Nhưng không phải mặt hàng nào doanh nghiệp đưa ra cũng có nhu cầu như nhau, có măt hàng được ưa chuộng có những mặt hàng khác thì không, mặt hàng phù hợp với nhu cầu thị trường, giá cả hợp lý, chất lượng đảm bảo … thì sẽ tiêu thụ nhanh, ngược lại, mặt hàng không phù hợp với nhu cầu thị trường, chất lượng không đảm bảo, giá cả không hợp lý sẽ dẫn đến tiêu thụ chậm, thậm chí không thể tiêu thụ được. Do vậy, việc đưa ra một kết cấu sản phẩm hợp lý sẽ làm tăng khả năng tiêu thụ, đồng thời mang lại lợi ích cao nhất cho doanh nghiệp. Kết cấu đó phải dựa trên cơ sở nắm vững nhu cầu thị trường và năng lực sản xuất hiện có của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu có hợp đồng tiêu thụ đã ký kết thì doanh nghiệp phải tôn trọng quyền lợi của khách hàng, không vì mục lợi nhuận mà tự ý thay đổi kết cấu sản phẩm, phá vỡ hợp đồng kinh tế đã ký kết gây thiệt hại cho khách hàng và làm giảm uy tín của doanh nghiệp.
+ Công tác tổ chức bán hàng của doanh nghiệp:
Tổ chức công tác bán hàng tốt sẽ góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, điều này được thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau:
- Phương thức bán hàng: Một doanh nghiệp nếu áp dụng tổng hợp được nhiều phương thức bán hàng khác nhau, như: bán buôn, bán lẻ, bán tại kho, vận chuyển hàng đến tận nơi khách hàng yêu cầu, bán trả góp,… chắc chắn sẽ đáp ứng được các nhu cầu khác nhau của khach hàng, như vậy công tác tiêu thụ sản phẩm sẽ tốt hơn so với doanh nghiệp chỉ áp dụng một hình thức bán đơn thuần nào đó.
Hình thức bán hàng đại lý là đại diện điển hình mà doanh nghiệp cần phải áp dụng, thông qua hình thức này doanh nghiệp có thể mở rộng được thị trường, tăng số lượng sản phẩm bán ra và tăng doanh thu.
- Phương thức thanh toán: việc áp dụng nhiều hình thức thanh toán như: thanh toán bằng tiền mặt, bằng séc, bằng chuyển khoản, thanh toán ngay, thanh toán chậm, hàng đổi hàng,… sẽ làm cho khách hàng nhận thấy thuận lợi, có thể lựa chọn phương thức thanh toán phù hợp nhất, do đó, có thể thu hút được đông đảo khách hàng đến với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cũng cần phải chú ý đến những khía cạnh khuyến khích đối với những khách hàng thanh toán nhanh, thanh toán ngay, như: chiết khấu, hồi khấu, như vậy ssẽ thu hút được khách hàng nhiều hơn, đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu tiêu thụ cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng cần đặt ra kỷ luật thanh toán buộc khách hàng phải thanh toán đúng thời hạn quy định của hợp đồng hoặc thời hạn thoả thuận giữa doanh nghiệp với khách hàng. Nếu khách hàng không thực hiện đúng thời hạn thanh toán thì doanh nghiệp sẽ áp dụng hình thức xử lý thích hợp.
- Các dịch vụ kèm theo trong công tác tiêu thụ sản phẩm:
Để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng và cũng để tăng sức cạnh tranh trong công tác tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp cần tổ chức các dịch vụ như: vận chuyển, bảo hành, lắp ráp, hướng dẫn sử dụng sản phẩm … Điều này làm cho khách hàng cảm thấy thuận lợi, yên tâm khi sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp, từ đó tạo điều kiện cho công tác tiêu thụ sản phẩm thuận lợi hơn.
+Quảng cáo, giới thiệu sản phẩm:
Trong nền kinh tế thị trường, quảng cáo là một vấn đề có tính chất chiến lược của sản xuất và tiêu thụ. Quảng cáo bao gồm các hoạt động giới thiệu và truyền đi các thông tin về sản phẩm và hình ảnh cảu doanh nghiệp nhằm kích thích khách hàng tiêu thụ hàng hoá dịch vụ, nâng cao uy tín cho nhà kinh doanh và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Thực hiện tốt công tác này, doanh nghiệp sẽ tạo ra được sự hấp dẫn, sự chú ý của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Tuy nhiên, quảng cáo cần phải gắn liền với chữ “tín”, phải trung thực với sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra, có như vậy mới thúc đẩy tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ. Nếu doanh nghiệp thiếu tôn trọng đối với khách hàng, quảng cáo sai với sự thật thì lúc đó quảng cáo sẽ phản tác dụng trở lại đối với sản phẩm.
Trên đây là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, sự phát triển của cơ sở hạ tầng, như: hệ thống đường xá, giao thông, liên lạc…cũng đều ảnh hưởng đến việc mở rộng hay thu hẹp khả năng tiêu thụ sản phẩm của mỗi doanh nghiệp.
Dưới tác động của nhiều nhân tố như vậy, tính toán mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố và tìm ra cách giải quyết tối ưu để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm là nhiệm vụ của của mỗi doanh nghiệp để tăng cường doanh thu, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị mình.
1.2.2.2 Các phương hướng, biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ và tăng nhanh doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
Qua phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm như trên, ta có thể đề ra các phương hướng, biện pháp cơ bản để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp như sau:
a) Tăng khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ:
Đây là biện pháp ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ tăng thì khả năng doanh thu tiêu thụ cũng tăng và ngược lại.
Để tăng khối lượng sản xuất và tiêu thụ thì trước hết trong khâu sản xuất, doanh nghiệp phải tăng khối lượng sản phẩm sản xuất ra bằng cách nâng cao năng suất lao động. Để nâng cao năng suất lao động thì một mặt doanh nghiệp phải thường xuyên đầu tư mua sắm, đổi mới máy móc thiết bị, mặt khác, doanh nghiệp phải thường xuyên tổ chức đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động, kết hợp với sử dụng các biện pháp kinh tế nhằm khuyến khích tinh thần hăng say lao động sản xuất của người lao động, từ đó để tạo ra khối lượng sản phẩm lớn nhằm đáp ứng cho nhu cầu tiêu thụ.
Khi kết thúc quá trình sản xuất thì sẽ tạo ra một khối lượng sản phẩm nhất định và nhiệm vụ của doanh nghiệp là không những tiến hành tốt quá trình sản xuất mà còn phải thực hiện tốt được công tác tiêu thụ, từ việc điều tra nghiên cứu thị trường, áp dụng các phương thức bán hàng phù hợp và sử dụng triệt để các biện pháp tài chính để tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ.
Khi kết thúc quá trình sản xuất thì sẽ tạo ra một khối lượng sản phẩm nhất định và nhiệm vụ của doanh nghiệp là không những tiến hành tốt quá trình sản xuất mà còn phải thực hiện tốt được công tác tiêu thụ tiêu thụ, từ việc điều tra nghiên cứu thị trường, áp dụng các phương thức bán hàng phù hợp và sử dụng triệt để các biện pháp tài chính để tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ.
Đây là biện pháp cơ bản để đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp. Để tăng khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức tốt từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm.
b) Nâng cao chất lượng sản phẩm tiêu thụ:
Nâng cao chất lượng sản phẩm tiêu thụ là biện pháp có tính chất chiến lược bởi qua đó uy tín của công ty được nâng cao và tạo cho doanh nghiệp có điều kiện tiêu thụ được nhiều sản phẩm. Bên cạnh đó, khi chất lượng sản phẩm cao sẽ là điều kiện nâng giá bán một cách hợp lý nhằm tăng doanh thu.
Để nâng cao được chất lượng sản phẩm thì đòi hỏi doanh nghiệp phải không ngừng áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất như đầu tư mua sắm._. máy móc thiết bị hiện đại, nguyên vật liệu đưa vào sản xuất phải đảm bảo chất lượng và tay nhgề của người lao động không ngừng được nâng cao.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì nâng cao chất lượng sản phẩm không chỉ được thực hiện trong khâu sản xuất mà còn được thực hiện sau khi bán hàng, đó chính là các dịch vụ sau bán hàng nhằm tạo nên sự yên tâm của khách hàng đối với sản phẩm và tăng uy tín của doanh nghiệp.
c) Xây dựng chính sách giá cả hợp lý, linh hoạt:
Xây dựng chính sách giá cả sản phẩm hợp lý, linh hoạt có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp. Song việc định giá như thế nào để góp phần thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu cho doanh nghiệp. Tuỳ mỗi doanh nghiệp, có thể căn cứ vào điều kiện sản xuất sản phẩm và vị trí của mình trên thị trường để định giá bán hợp lý cho sản phẩm của mình. Khi sản phẩm mới tung ra thị trường, thu hút được sự chú ý của người tiêu dùng và chưa xuất hiện các đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp có thể định giá bán cao để nâng cao doanh thu. Lúc này giá cao hơn một chút cũng không cản trở khách hàng đến với doanh nghiệp. Nhưng khi sản phẩm đã đến giai đoạn bão hoà thì doanh nghiệp lại hạ giá bán xuống và đặc biệt lúc sản phẩm đã ở giai đoạn suy thoái thì doanh nghiệp phải giảm giá mạnh hơn nữa để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và thu hồi vốn. Đôi khi dựa vào mục đích của mình, chẳng hạn với mục tiêu mở rộng thị trường thu hút sự chú ý của người tiêu dùng, doanh nghiệp có thể định giá bán thấp, khi sản phẩm có uy tín nhất định trên thị trường, thực hiện mục tiêu mở rộng thị trường thì doanh nghiệp sẽ dần dần nâng giá bán lên một mức nhất định nhằm tăng thêm lợi nhuận.
Trong điều kiện hiện nay, giá cả sản phẩm được sử dụng hết sức linh hoạt trong công tác tiêu thụ. Các doanh nghiệp rất coi trọng sử dụng biện pháp giảm giá, như: giảm giá theo khối lượng sản phẩm tiêu thụ, giảm giá cho những đối tượng ưu tiên, giảm giá trong thời gian ngắn,… để kích thích tiêu thụ. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn luôn phấn đấu tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm tạo cơ sở cho việc hạ giá bán hợp lý để tăng khả năng cạnh tranh, tăng tiêu thụ trên thị trường.
d) Lựa chọn kết cấu tiêu thụ sản phẩm hợp lý:
Một kết cấu tiêu thụ sản phẩm hợp lý sẽ dẫn đến khả năng tiêu thụ và doanh thu được nâng cao. Doanh nghiệp lựa chọn kết cấu sản phẩm hợp lý cho mình trên cơ sở nắm vững nhu cầu thị trường, xem thị hiếu tiêu dùng tập trung vào mặt hàng nào là chủ yếu, từ đó nâng cao tỷ trọng của mặt hàng đó trong kết cấu sản phẩm. Trên cơ sở nắm được nhu cầu cao của thị trường, doanh nghiệp có khả năng bán với giá cao những sản phẩm có nhu cầu lớn đó dẫn đến tăng doanh thu cho doanh nghiệp. Trong những trường sản xuất có đơn đặt hàng thì doanh nghiệp phải dựa trên năng lực sản xuất hiện có của mình, trước hết phải thực hiện đầy đủ các đơn đặt hàng để tránh gây thiệt hại cho khách hàng, tăng uy tín cho doanh nghiệp, đồng thời doanh nghiệp cũng phải tận dụng hết những năng lực sản xuất thừa để đáp ứng tối đa nhu cầu thị trường.
Như vậy, kết cấu sản phẩm hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp đẩy mạnh được khối lượng bán ra, tăng doanh thu và mang lại nhiều lợi ích nhất cho doanh nghiệp.
e) Nghiên cứu, tìm hiểu thị trường phục vụ tiêu thụ sản phẩm:
Các doanh nghiệp trước khi tiến hành sản xuất, để cho sản phẩm của mình có thể tiêu thụ được thì điều quan tâm đầu tiên là phải tiến hành nghiên cứu, điều tra thị trường để nắm bắt được nhu cầu, tình hình cạnh tranh trên thị trường, từ đó hướng sản xuất vào nhu cầu đó, đồng thời phải có những giải pháp để chiến thắng trong cạnh tranh.
Nhờ kết quả nghiên cứu thị trường, sẽ cung cấp cho doanh nghiệp thông tin về danh mục những sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ và sự phù hợp của chủng loại hàng hoá để quyết định mở rộng hay thu hẹp mặt hàng sản xuất và tiêu thụ.
f) Thực hiện tốt công tác bán hàng của doanh nghiệp:
Doanh nghiệp phải có các hình thức bán hàng phù hợp sao cho tiêu thụ được nhiều sản phẩm nhất, không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ bằng cách mở ra hàng loạt các đại lý, các cửa hàng ký gửi và có biện pháp động viên, khuyến khích kinh tế đối với các đại lý, các cửa hàng đó để họ hoạt động có hiệu quả, giúp tăng sản lượng tiêu thụ và doanh thu cho doanh nghiệp. Ngoài ra, nó còn giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí tiền lương cho nhân viên bán hàng, chi phí thuê cửa hàng, nhà kho, bảo quản sản phẩm, doanh nghiệp cũng giảm được công việc tìm kiếm thị truờng để tập trung vào sản xuất và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp cũng phải tổ chức công tác thanh toán sao cho thu hút được đông đảo khách hàng đến với doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho khách hàng, khuyến khích khách hàng thanh toán nhanh, tránh dây dưa, chiếm dụng vốn của doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần quan tâm tới các dịch vụ kèm theo trong công tác tiêu thụ nhằm tạo cho khách hàng cảm thấy thuận lợi, yên tâm khi sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp, từ đó, giúp doanh nghiệp thực hiện công tác tiêu thụ sản phẩm của mình tốt hơn.
g) Quảng cáo, giới thiệu sản phẩm:
Quảng cáo, giới thiệu sản phẩm hiện nay là một công cụ được sử dụng rộng rải trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Nhờ quảng cáo mà người tiêu dùng biết được thong tin về một mặt hàng nào đó, về hình ảnh của doanh nghiệp. Qua hoạt động quảng cáo, khách hàng có thể biết được tính năng, công dụng của sản phẩm, nhận thấy ưu thế của sản phẩm so với sản phẩm cùng loại trên thị trường. Từ đó kích thích nhu cầu tiêu dùng, giúp doanh nghiệp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm.
h) Một số biện pháp tài chính khác để thúc đẩy tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
* Chiết khấu bán hàng:
Chiết khấu bán hàng là số tiền doanh nghiệp bán theo quy định của hợp đồng đã thoả thuận dành cho khách hàng trong trường hợp khách hàng thanh toán sớm tiền hàng hoặc mua sản phẩm với khối lượng lớn. Chiết khấu bán hàn được tính theo tỷ lệ (%) trên doanh thu hoá đơn chưa có thuế GTGT.
Thông thường, chiết khấu bán hàng được chia làm nhiều bậc, khách hàng thanh toán ngay được hưởng tỷ lệ chiết khấu cao, thanh toán trong một thời gian ngắn được hưởng tỷ lệ chiết khấu thấp hơn, nếu thanh toán chậm thì không được hưởng tỷ lệ chiết khấu, thậm chí còn phải chịu tỷ lệ lãi suất trên số tiền chậm trả theo lãi suất vay vốn ngân hàng. Đối với chiết khấu bán hàng tính theo khối lượng sản phẩm bán ra cũng vậy, khách hàng mua sản phẩm đạt đến một mức nào đó sẽ được hưởng tỷ lệ chiết khấu cao, ở một mức thấp hơn được hương tỷ lệ chiết khấu thấp hơn, và mua dưới một mức nào đó sẽ không được hưởng chiết khấu.
Đây là biện pháp tài chính quan trọng được sử dụng khá phổ biến trong các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, cần có những tỷ lệ chiết khấu thích hợp, hấp dãn, thu hút khách hàng đến với sản phẩm của doanh nghiệp thì công tác tiêu thụ sản phẩm mới được thuận lợi, nhanh chóng thu hồi và quay vòng vốn.
* Hoa hồng đại lý, cửa hàng ký gửi:
Ngày nay, khi mà người bán không còn chiếm vị thế quyết định trên thị trường thì việc mở rộng phạm vi hoạt động tiêu thụ sản phẩm ngày càng trở nên bức thiết hơn.
Để cho quá trình tiêu thụ sản phẩm được diễn ra một cách thuận lợi hơn thì việc tăng thêm các đại lý, cửa hàng ký gửi là thực sự cần thiết. Nhưng để cho các trung gian phân phối này hoạt động có hiệu quả, là tai mắt cho doanh nghiệp thì “ hoa hồng” được xem là chất xúc tác có hiệu quả nhất. Tức là, khi doanh nghiệp giao sản phẩm hàng hoá cho các đại lý, cửa hàng ký gửi bán, doanh nghiệp cam kết sẽ trích một tỷ lệ (%) trên giá trị số sản phẩm hàng hoá mà các đại lý bán được để thưởng cho họ. Số tiền hoa hồng trên ngoài ý nghĩa kích thích sự hoạt động của các đại lý, cửa hàng, mà còn giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được các chi phí bán hàng, chi phí thuê cửa hàng, chi phí kho tàng, bến bãi… Do vậy, có thể nói đây là một công cụ thực sự cần thiết.
* Cước phí vận chuyển hàng hoá:
Hiện nay, để tạo thuận lợi cho khách hàng, nhất là khách hàng ở xa, các doanh nghiệp sản xuất hầu như đảm nhận việc vận chuyển hàng hoá cho khách hàng. Bản chất việc vận chuyển hàng hoá không là một công cụ tài chính khi khách hàng phải trả đầy đủ cước phí vận chuyển, nhưng khi doanh nghiệp giảm giá vận chuyển hoặc vận chuyển miễn phí thì số tiền miễm hoặc giảm đó trở thành một công cụ tài chính phục vụ cho công tác tiêu thụ sản phẩm. Đòn bẩy cước phí vận chuyển này thường được áp dụng khi khách hàng mua số lượng sản phẩm lớn đạt đến mức nào đó thì được vận chuyển miễn phí, còn trong trường hợp mua ít thì chỉ được giảm giá cước phí hoặc phải chịu toàn bộ cước phí.
*Quà tặng kèm theo mua hàng, quay xổ số, vé tham dự thưởng:
Ngoài đáp ứng nhu cầu phát sinh của khách hàng thì để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp còn khơi dậy nhu cầu bằng cách tặng quà cho khách hàng khi mua sản phẩm. Có nhiều cách tặng quà khác nhau, song việc tặng quà cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng các đối tượng được tặng quà và món quà cần phải có ý nghĩa đối với người nhận, như vậy sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp còn có thể sử dụng nhiều phương pháp khác, như: phát sản phẩm dùng thử, biếu tặng sản phẩm,…
Tóm lại, tất cả các biện pháp nói trên đều có tác dụng rất lớn trong việc đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu bán hàng. Tuy nhiên, việc sử dụng biện pháp nào có hiệu quả và phù hợp thì doanh nghiệp phải phân tích, đánh giá đúng tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị mình, tình hình thị trường, tình hình các đối thủ cạnh tranh,…để trên cơ sở đó có giải pháp tối ưu, dẫn đến việc thành công trong công tác tiêu thụ sẽ dễ dàng hơn.
1.3. Vai trò của công tác quản trị tài chính trong việc thúc đẩy tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
1.3.1. Sự tác động của tiêu thụ sản phẩm đến tài chính doanh nghiệp:
Tiêu thụ sản phẩm có vai trò đặc biệt quan trọng, nó ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Xét về khía cạnh tài chính, tiêu thụ sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của mỗi doanh nghiệp. Ngược lại, tài chính doanh nghiệp cũng tác động tích cực đến tiêu thụ sản phẩm. Nghĩa là giữa chúng có mối quan hệ qua lại tác động lẫn nhau hết sức chặt chẽ, thường xuyên và liên tục.
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các luồng vận động và chuyển hoá của các nguồn tài chính trong quá trình phân phối để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đạt tới mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong khuôn khổ cho phép của pháp luật.
Tình hình tài chính của doanh nghiệp được đặc trưng bởi 4 nhóm chỉ tiêu, đó là: nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán, nhóm chỉ tiêu về kết cấu tài chính, nhóm chỉ tiêu về hoạt động kinh doanh, nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời. Trong mối quan hệ giữa tài chính doanh nghiệp và tiêu thụ sản phẩm, sự tác động của tiêu thụ sản phẩm đến tình hình tài chính có thể thấy rất rõ trên tất cả các chỉ tiêu đặc trưng.
Tiêu thụ sản phẩm mạnh mẽ sẽ làm tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm, dẫn tới tăng vòng quay của vốn lưu động, rút ngắn kỳ thu tiền trung bình, tăng hiệu suất sử dụng vốn cố định, từ đó sẽ làm tăng lợi nhuận, tăng doanh lợi vốn của doanh nghiệp. Việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm sẽ làm tăng doanh thu, tăng lợi nhuận dẫn đến tăng vốn chủ sở hữu, giảm tỷ trọng vốn vay, làm cho kết cấu tài chính của doanh nghiệp được thay đổi theo hướng an toàn và có lợi. Từ việc giảm số vốn vay, đồng thời với việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm sẽ tác động tới tái sản xuất mở rộng làm tăng quy mô tài sản lưu động, tăng khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Từ đó, tình hình tài chính của doanh nghiệp ngày càng ổn định và vững mạnh.
Ngược lại, việc tiêu thụ sản phẩm chậm hoặc không tiêu thụ được sẽ làm giảm vòng quay của vốn lưu động, giảm hiệu suất sử dụng tài sản lưu động. Giảm tiêu thụ sản phẩm cũng làm giảm lợi nhuận, giảm doanh lợi vốn, vốn tự có không đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh buộc doanh nghiệp phải tăng tỷ trọng vốn vay, dẫn đến đe doạ sự an toàn và tình hình tài chính của doanh nghiệp, tăng tính phụ thuộc của doanh nghiệp đối với bên ngoài. Khi hệ số nợ tăng dẫn đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp giảm đi, mức độ rủi ro tăng lên làm tình hình tài chính của doanh nghiệp rơi vào tình trạng khó khăn, thậm trí thiếu lành mạnh. Chính sự tác động của công tác tiêu thụ sản phẩm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp nên doanh nghiệp cần phải phấn đấu để việc tiêu thụ được diễn ra thuận lợi. Ngược lại, để thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm, tài chính doanh nghiệp cũng đóng một vai trò khá quan trọng.
1.3.2.Vai trò của quản trị tài chính doanh nghiệp trong việc thúc đẩy tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp:
Thứ nhất, tài chính doanh nghiệp tổ chức huy động, phân phối nguồn vốn đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh một cách kịp thời để có thể sản xuất ra khối lượng sản phẩm đủ lớn nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường, từ đó thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tạo ra sức mạnh cho doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ.
Thứ hai, tài chính doanh nghiệp thông qua việc phân tích đánh giá, lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh với chi phí hợp lý nhất, tiết kiệm làm cho giá thành của sản phẩm hạ nhưng vẫn sản xuất ra những sản phẩm đảm bảo chất lượng. Từ đó tạo điều kiện để doanh nghiệp hạ giá bán, tạo ra lợi thế trong cạnh tranh, kích thích tiêu thụ sản phẩm diễn ra nhanh chóng.
Thứ ba, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cũng do tài chính doanh nghiệp lập nên. Nếu kế hoạch này khoa học, chính xác thì tiêu thụ sản phẩm sẽ thuận lợi, nhanh chóng. Ngược lại, nếu kế hoạch tiêu thụ sản phẩm thiếu khoa học, xa rời thực tế sẽ dẫn đến mất cân đối giữa cung và cầu, làm cho việc tiêu thụ gặp khó khăn.
Thứ tư, tài chính doanh nghiệp còn là công cụ kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong khâu tổ chức sản xuất, qua sổ sách số liệu kế toán, định mức kỹ thuật…tài chính doanh nghiệp tổ chức kiểm tra, giám sát đảm bảo cho việc sử dụng vốn được sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng, đúng thiết kế, tránh kãng phí hao hụt làm cho giá thành sản phẩm hạ, chất lượng đảm bảo và sản phẩm tiêu thụ dễ dàng. Trong khâu bán hàng, tài chính doanh nghiệp cũng lập dự toán chi phí bán hàng. Thông qua đó, giám sát chặt chẽ việc sử dụng các chi phí sao cho tiết kiệm, tránh hiện tượng bớt xén, sử dụng sai mục đích… Nhờ vậy, công tác tiêu thụ sản phẩm diễn ra thuận lợi hơn và có hiệu quả hơn.
Thứ năm, tài chính doanh nghiệp còn sử dụng các công cụ có tính chất đòn bẩy, như: tiền lương, tiền thưởng…để kích thích công nhân, nhân viên bán hàng trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Tài chính doanh nghiệp còn sử dụng các công cụ khác như: chiết khấu bán hàng, giảm giá bán hàng, dịch vụ vận chuyển,… để kích thích tiêu dùng, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm.
Như vậy, giữa tài chính doanh nghiệp và tiêu thụ sản phẩm có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Trong điều kiện hiện nay, tài chính doanh nghiệp đã, đang và sẽ khẳng định vai trò to lớn của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và tiêu thụ sản phẩm nói riêng mà bao lâu nay đã bị cơ chế kế hoạch hoá coi nhẹ. Nhận thức được điều này, doanh nghiệp cần phải tìm mọi biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của tài chính doanh nghiệp mình, đưa tài chính doanh nghiệp về với vị trí xứng đáng của nó. Có như vậy doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển.
Chương 2
Thực trạng tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Giấy Bãi Bằng:
2.1. Tình hình và đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Giấy Bãi Bằng.
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của công ty:
Công ty Giấy Bãi Bằng là một công trình hợp tác hữu nghị Việt Nam - Thuỵ Điển được hình thành từ hiệp định “ Thoả thuận phát triển hợp tác về công trình nhà máy Giấy Bãi Bằng” do Thứ trưởng bộ Ngoại giao nước Việt Nam dân chủ cộng hoà- ông Nguyễn Cơ Thạch và ong Len-nơ Cơ-lác-ken-béc Thứ trưởng ngoại giao Vương quốc Thuỵ Điển đại diện cho hai bên chính phủ ký kết ngày 20 tháng 8 năm 1975 tại Hà Nội.
Đây là một công trình hữu nghị được xây dựng bằng tiền viện trợ không hoàn lại của chính phủ và nhân dân Thuỵ Điển, với tổng số vốn là 2,5 tỷ SEK (tương đương với 415 triệu USD) bao gồm cả công trình lâm nghiệp và các công trình phụ khác. Công ty Giấy Bãi Bằng được xây dựng với quy mô lớn và hiện đại, có trụ sở đặt tại Thị trấn Phong Châu- Huyện Phù Ninh- Tỉnh Phú Thọ, với công suất thiết kế là 55.000 tấn/năm, trong đó, 50.000 tấn là giấy in và giấy viết tẩy trắng, 5.000 tấn là giấy bao gói tự dùng.
Công trình chính thức khởi công xây dựng vào ngày 05/10/1974 và đến ngày 26/1/1982 khánh thành đi vào sản xuất với tên gọi “Nhà máy Giấy Vĩnh Phú”. Đi vào sản xuất từ năm 1982, Công ty đã trải qua 2 cơ chế kinh tế, có thể chia thành hai giai đoạn như sau:
* Giai đoạn 1: Từ 1982-1990
Đây là giai đoạn Công ty vận hành với thuận lợi là có sự trợ giúp đầy đủ của Thuỵ Điển cả về tài chính, kỹ thuật và quản lý, máy móc thiết bị còn mới. Nhưng lại có một bất lợi lớn là bị cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp kìm hãm. Vì vậy sản xuất của công ty gặp nhiều khó khăn. Nguyên, nhiên liệu và các vật tư đầu vào khác luôn luôn thiếu, không đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Có thời điểm Công ty phải sản xuất cầm chừng hoặc dừng máy hàng tháng. Sản lượng thời kỳ này cao nhất cũng chỉ đạt 55% công suất thiết kế với chất lượng giấy không cao. Trong giai đoạn này, năm 1987 Công ty đổi tên thành “Xí nghiệp liên hợp Giấy Vĩnh Phú”.
*Giai đoạn 2: Từ 1990 đến nay.
Tháng 6/1990, Thuỵ Điển chấm dứt viện trợ toàn bộ cho công trình. Từ đây nhà máy hoàn toàn do người Việt Nam quản lý, điều hành bằng nội lực của mình. Mặc dù không còn tiền viện trợ, không còn chuyên gia nước ngoài, nhưng bù lại Công ty lại được vận hành trong cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Mặt khác, trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật và vận hành của Công ty cũng ngày càng được nâng cao và hoàn thiện.
Đến nay, Công ty đã trở thành tổ hợp công nghiệp lớn nhất Việt Nam, luôn đứng đầu về số lượng và chất lượng, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát triển Văn hoá - Giáo dục - Kinh tế của đất nước.
Sản phẩm chủ yếu của Công ty là giấy viết có chất lượng cao, với định lượng từ 50-120g/m2, độ trắng của giấy (ISO) từ 90-95o ISO, bao gồm các loại: giấy cuộn, giấy ram, giấy tập, vở học sinh, giấy vi tính và giấy telex…sản phẩm của Công ty được người tiêu dùng ưa chuộng và được phân phối trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Sau đây là những kết quả cụ thể về sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm gần đây:
Kết quả sản xuất kinh doanh từ 1995-2001
Năm
SL giấy sản xuất
SL giấy tiêu thụ
Doanh thu
Lợi nhuận
Nộp NSNN
Thu nhập bình quân
Tấn
Tấn
Triệu đồng
Triệu đồng
Triệu đồng
đ/người/tháng
1995
50.620
48.030
512.978,0
38.894,0
46.725,3
867.100
1996
57.027
53.050
533.238,5
37.506,0
46.997,1
1.145.289
1997
53.630
56.238
585.013,6
50.649,3
53.179,7
1.032.582
1998
60.029
61.540
672.275,0
60.644,2
58.831,2
1.361.000
1999
63.101
61.530
638.674,9
52.944,0
60.975,4
1.369.000
2000
65.524
68.240
721.625,8
50.427,0
75.374,0
1.801.830
2001
73.233
71.082
793.175,6
60.168,7
72.798,0
2.043.366
2.1.2. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty:
2.1.2.1. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý:
Cơ cấu bộ máy quản lý của Công ty là tổng hợp các bộ phận lao động quản lý khác nhau, được chuyên môn hoá và có quyền hạn trách nhiệm nhất định, được bố trí thành những cấp , những khâu khác nhau, nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng quản lý và phục vụ mục đích chung đã xác định của Công ty.
Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Giấy Bãi Bằng được xây dựng theo kiểu trực tuyến chức năng, thực hiện quản lý theo chế độ một Tổng giám đốc. Tổ chức bộ máy quản lý bao gồm những bộ phận được thể hiện qua sơ đồ sau:
(sơ đồ 1)
*Chức năng và nhiệm vụ của các bộ phận:
- Tổng giám đốc: là người đại diện hợp pháp duy nhất của Công ty, chỉ đạo chung mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn Công ty. Trực tiếp điều hành kinh doanh và các phòng ban tham mưu. Chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty với Tổng Công ty Giấy Việt Nam và tập thể lao động. Mọi quy định của Công ty phải được Tổng giám đốc thông qua và xét duyệt. Tổng giám đốc trực tiếp chỉ đạo, giám sát hai phòng ban là: phòng tổ chức hành chính và phòng thị trường, nhà máy gỗ Cầu Đuống và ba chi nhánh ở Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh. Dưới Tổng giám đốc có 6 phó tổng giám đốc giúp việc tham mưu, điều hành các phòng ban còn lại.
- Phó tổng giám đốc phụ trách sản xuất: là người chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về sản xuất kinh doanh của Công ty, như: tiến độ sản xuất giấy, nhu cầu hoá chất, tiêu hao điện năng cho sản xuất và chất lượng sản phẩm do các bộ phận làm ra.
- Phó tổng giám đốc phụ trách bảo dưỡng: phụ trách toàn bộ trang thiết bị mà Công ty hiện có, đảm bảo khả năng vận hành của máy móc, thiết bị, đảm bảo cho nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty. Ngoài ra còn có trách nhiệm đề ra các nội quy an toàn lao động trên cơ sở các văn bản hướng dẫn của Nhà nước.
- Phó tổng giám đốc phụ trách kinh tế: chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về cung cấp nguyên liệu phục vụ cho sản xuất theo kế hoạch của Nhà nước giao. Mua sắm thiết bị vật tư, phụ tùng phục vụ cho nhu cầu sản xuất của Công ty.
- Phó tổng giám đốc phụ trách đầu tư nội bộ: phụ trách đầu tư cho sản xuất.
- Phó tổng giám đốc phụ trách đời sống-văn hoá: phụ trách nhu cầu nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần cho cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty.
- Phó tổng giám đốc phụ trách nhà máy gỗ Cầu Đuống: chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của nhà máy gỗ Cầu Đuống.
+ Phòng tổ chức hành chính: có chức năng giúp đỡ Tổng giám đốc quản lý nhân sự trong toàn Công ty, tham mưu cho Tổng giám đốc về đề bạt, miễn nhiệm cán bộ trong phạm vi Công ty quản lý và quản trị trong toàn Công ty.
+ Phòng thị trường: tiếp cận thị trường tiêu thụ, tìm khách hàng tiêu thụ các sản phẩm do Công ty làm ra. Từ đó trình lên Tổng giám đốc về kế hoạch sản xuất và tiêu thụ hàng năm của Công ty.
2.1.2.2. Đặc điểm về quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm:
Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của Công ty được tổ chức sản xuất theo mô hình sản xuất phức tạp kiểu liên tục, sản phẩm giấy sản xuất ra cuối cùng là sự kết hợp sản xuất khép kín từ: điện-hơi-nước-xút-Clo-Hypo-cơ khí-vận tải-xút thu hồi-bột-giấy.
Quá trình sản xuất liên tục trên có chia ra các công đoạn phân xưởng, các nhà máy sản xuất theo quy trình công nghệ để tiện lợi trong công tác quản lý sản xuất và vận hành thiết bị.
Giải thích quy trình sản xuất giấy:
Nguyên liệu thô, tre, nứa được đưa vào chặt thành mảnh qua hệ thốngmáy chặt nguyên liệu và thủ công. Sau khi qua các công đoạn chặt, rửa, các mảnh này được đưa qua hệ thống sàng để loại ra những mảnh không hợp cách. Những mảnh hợp cách được vận chuyển về kho chứa mảnh qua hệ thống băng tải và từ đây đưa vào nồi nấu theo tỷ lệ phối trộn 50% sợi dài (mảnh tre, nứa) và 50% sợi ngắn (mảnh gỗ các loại). Từ sân mảnh, mảnh được đưa vào các nồi nấu qua hệ thống ống thổi mảnh (theo nguyên lý khí động học). Quá trình đưa mảnh vào nồi nấu được vận hành bằng hệ thống thiết bị nghi khí điều khiển và khi nấu bột hoá chất sử dụng là xút và Na2SO4.
Sau khi nấu bột đến công đoạn rửa, dịch đen loãng thu hồi được trong quá trình rửa bột được đưa vào chưng bốc thành dịch đen đặc cung cấp cho nồi hơi thu hồi. Bột sau khi rửa được đưa sang sàng chọn để loại mấu mắt và tạp chất. Sau khi rửa xong, bột được cô đặc tới nồng độ 12% và đưa sang công đoạn tẩy trắng bằng hoá các hóa chất, như: xút, Clo, NaClO, H2O, các hoá chất này được cung cấp từ nhà máy hoá chất và một số mua ngoài.
Sau đó, bột được đưa sang phân xưởng xeo để sản xuất giấy. Trước tiên, bột giấy được bơm tới công đoạn chuẩn bị bột và phụ gia. Tại đây bột giấy được nghiền nhờ hệ thống máy nghiền, để đưa độ nghiền của bột từ 15oSR lên 35 - 40oSR. Do yêu cầu về sản lượng và chất lượng sản phẩm, Công ty đã phải nhập bột ngoại với tỷ lệ dùng từ 15-20%, bột ngoại cũng được xử lý tại công đoạn này. Bột sau khi nghiền được phối trộn với một số hoá chất phụ gia như keo ADK, CaCO3, bentonite, tinh bột, cataretin,…nhằm cải thiện một số tính chất của tờ giấy sau này.
Để tờ giấy đạt các tiêu chuẩn mong muốn về bền đẹp, trước khi hình thành tờ giấy, dung dịch bột được xử lý qua một hệ thống phụ trợ để loại bỏ tạp chất tạo cho bột không bị vón cục, có nồng độ, áp lực ổn định. Đến đây, dung dịch bột giấy được đưa lên máy xeo và tờ giấy ướt được hình thành, tờ giấy ướt tiếp tục qua bộ phận sấy khô. Kết thúc công đoạn này tờ giấy đạt độ khô từ 93- 95% và được cuộn lại thành từng cuộn giấy to. Các cuộn này được chuyển đến máy cắt cuộn để cuộn lại và cắt thành các cuộn giấy nhỏ có đường kính từ 90-100 cm; chiều rộng giấy tuỳ theo yêu cầu của khách hàng. Nhờ có băng tải và thang máy, các cuộn giấy này được chuyển tới bộ phận hoàn thành để gia công chế biến, bao gói thành các thành phẩm. Tất cả các sản phẩm này được nhân viên KCS kiểm tra nghiêm ngặt, sau đó bao gói và nhập kho thành phẩm để bán cho khách hàng.
Trong quá trình sản xuất bột và giấy, từng công đoạn đều phải tuân thủ những quy định nghiêm ngặt nhằm tạo ra sản phẩm giấy có sản lượng và chất lượng cao, giảm tiêu hao và hạ giá thành sản phẩm, đáp ứng tốt thị hiếu của người tiêu dùng.
Với quy trình công nghệ sản xuất giấy như trên thì tổ chức bộ máy sản xuất của Công ty được bố trí, bao gồm:
Nhà máy hoá chất.
Nhà máy điện.
Nhà máy giấy.
Xí nghiệp vận tải.
Xí nghiệp bảo dưỡng.
2.1.2.3. Tổ chức công tác kế toán của công ty:
Toàn bộ công tác kế toán đều được thực hiện tại phòng tài chính- kế toán của Công ty. Phòng tài chính-kế toán gồm 30 người, được bố trí theo sơ đồ sau:
( Sơ đồ 2)
Bộ máy kế toán của Công ty được tổ chức theo hình thức kế toán tập trung và vận dụng hình thức sổ kế toán Nhật ký-chứng từ kết hợp với việc xử lý số liệu trên máy vi tính. Hàng tồn kho được hạch toán theo phương pháp kê khai thường xuyên. Đối với tài sản cố định, Công ty áp dụng phuơng pháp khấu hao theo thời gian. Đơn vị tiền tệ kế toán sử dụng trong ghi chép là Việt Nam đồng. Niên độ kế toán bắt đầu từ 01/01 đến 31/12 hàng năm.
Kỳ kế toán của Công ty là hàng tháng với công việc ghi sổ và quyết toán. Toàn bộ công việc kế toán được tập trung tại phòng kế toán - tài chính. ở phân xưởng và các tổ sản xuất chỉ tổ chức khâu ghi chép ban đầu, như việc tính ngày công, theo dõi nguyên vật liệu đưa vào sản xuất.
Với hình thức tổ chức và cơ cấu bộ máy kế toán như trên, phòng kế toán đã thực hiện đầy đủ các công việc quản lý vật tư, tiền vốn, xác định kết quả kinh doanh, chấp hành đầy đủ các chế độ chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước, lập đầy đủ các báo cáo theo yêu cầu của cơ quan chủ quản, phục vụ kịp thời công tác quản lý của Công ty và công tác quản lý của cấp trên.
Đứng đầu bộ máy kế toán là kế toán trưởng, kế toán trưởng tổ chức kiểm tra việc thực hiện chế độ ghi chép ban đầu, chế độ báo cáo thống kê dịnh kỳ, tổ chức bảo quản hồ sơ, tài liệu kế toán, đồng thời theo dõi phần hành kế toán tổng hợp, đúc rút kinh nghiệm, vận dụng sáng tạo, cải tiến hình thức và phương pháp kế toán ngày càng hợp lý, chặt chẽ phù hợp với điều kiện của Công ty.
2.1.2.4. Đặc điểm về sản phẩm của Công ty:
Sản phẩm chủ yếu của Công ty là giấy viết có chất lượng cao bao gồm các loại giấy cuộn, giấy ram, giấy photo, giấy vi tính, giấy telex, giấy tập, vở học sinh,…Đặc điểm của sản phẩm tiêu dùng là có thể để lâu, không bị hao hụt nên cũng dễ dàng quản lý.
Về số lượng: Số lượng sản phẩm sản xuất nhiều hay ít căn cứ vào các đơn đặt hàng, các hợp đồng kinh tế đã ký kết và tình hình tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, từ đó Công ty có kế hoạch sản xuất giấy với số lượng phù hợp.
Về chất lượng: do Công ty có dây truyền sản xuất tiên tiến, hiện đại nên sản phẩm sản xuất ra đạt chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, đứng vững trong cạnh tranh. Sản phẩm của công ty đã được cấp chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng ISO 9002 và tiêu và tiêu chuẩn “Hàng Việt Nam chất lượng cao”, đây một lợi thế để Công ty có thể mở rộng hơn nữa thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước.
2.1.2.5.Đặc điểm về tiêu thụ sản phẩm của Công ty:
Việc sản xuất sản phẩm chủ yếu dựa vào các hợp đồng với khách hàng, tình hình tiêu thụ của Công ty năm báo cáo và kết quả của công tác nghiên cứu năm kế hoạch. Việc tiêu thụ sản phẩm của công ty do phòng thị trường đảm nhận. Công ty có chi nhánh ở cả 3 miền: Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và rất nhiều đại lý bán hàng, cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Việc thanh toán, biên bản thanh toán, hoá đơn bán hàng,…giữa Công ty với khách hàng do phòng thị trường đảm nhiệm theo từng tháng. Cuối cùng, tất cả các chứng từ, biên bản sẽ được chuyển sang phòng tài chính - kế toán. Kế toán tiêu thụ và kế toán thanh toán sẽ tập hợp các chứng từ, biên bản đó và theo dõi việc thanh toán giữa khách hàng với Công ty.
Công ty áp dụng hai hình thức tiêu thụ chủ yếu là: bán đại lý và bán trực tiếp cho khách hàng (trả ngay hoặc trả chậm), nhưng hình thức đại lý chiếm phần lớn.Việc tiêu thụ sản phẩm của Công ty trước đây là ở cả thị trường trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên, mấy năm gần đây, Công ty đã ngừng xuất khẩu, mặc dù trong kế hoạch sản xuất vẫn dành một phần sản lượng cho xuất khẩu. Vì vậy, Công ty cần có một chiến lược đúng đắn để vừa mở rộng được thị trường trong nước, vừa vươn ra nước ngoài nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
2.2.Công tác lập kế hoạch tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ ở Công ty Giấy Bãi Bằng:
2.2.1.Công tác lập kế hoạch tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ:
Để chuẩn bị cho sản xuất kinh doanh hàng năm, mỗi doanh nghiệp phải lập cho mình rất nhiều kế hoạch, như: kế hoạch vật tư, kế hoạch lao động tiền lương, kế hoạch đầu tư và xây dựng cơ bản, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm,…Tất cả tập hợp thành kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài chính của doanh nghiệp.
Trong bài viết về công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty thì vấn đề được đưa ra xem xét và nghiên cứu là công tác lập kế hoạch tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ của sản phẩm.
Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là việc dự đoán trước số lượng sản p._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3380.doc