Lời nói đầu
Khi nền kinh chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường không còn cái thời Nhà nước lo cho các doanh nghiệp từ đầu vào đến đầu ra, từ vốn đầu tư ban đầu đến kết quả kinh doanh, điều quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp làm thế nào để hàng hoá của họ được người tiêu dùng chấp nhận để tiến tới mục đích cuối cùng là lợi lợi nhuận.
Đối mặt với các doanh nghiệp là thương trường với sự chọn lọc đào thải khắt khe với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt để đạt được điều đó là bao khó khăn vấ
32 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1324 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tiêu thụ sản phẩm và các biện pháp nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của Công ty Nhật Quang – Siêu thị máy tính Blue Sky, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t vả của các nhà quản lý kinh doanh với ý nghĩ lúc nào cũng ẩn hiện, cũng là nỗi trăn trở trong họ là liệu hàng hoá của họ có tiêu thụ được trên thương trường hay không? và làm cách nào để được thị trường chấp nhận? Điều đó là cả một quá trình.
Với đòi hởi bức xúc đó các doanh nghiệp thương mại đã ra đời và đóng vai trò là trung gian đưa hàng hoá từ sản xuất đến tiêu dùng. Các doanh nghiệp thương mại hoạt động tiêu thụ hàng hoá không những đóng vai trò quyết định đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, mà còn góp phần quyết định đến thực hiện giá trị hàng hoá của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Do đó việc quản lý trong khâu têu thụ của doanh nghiệp thương mại có ý nghĩa rất quan trọng.
Xuất phát từ thực trạng trên, trong thời gian về thực tập tại công ty Nhật Quang- Siêu thị máy tính Blue sky, với sự hướng dẫn tận tình của thầy Hoàng Văn Quỳnh, và sự giúp đỡ của ban Giám Đốc, cán bộ phòng kế toán, với kiến thức và lý luận đã được trang bị tại nhà trường em đã chọn đề tài “Tiêu thụ sản phẩm và các biện pháp nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của công ty Nhật Quang – Siêu thị máy tính Blue Sky” làm luận văn tốt nghiệp của mình. .
Nội dung đề tài được trình bày thành ba chương.
Chương I: Tiêu thụ sản phẩm và sự cần thiết đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp.
Chương II: Tình hình tiêu thụ sản phẩm ở công ty Nhật Quang năm 2000.
Chương III: Những biện pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm ở công ty Nhật Quang.
Chương I :Tiêu thụ sản phẩm và sự cần thiết đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp.
I. Những vấn đề cơ bản về tiêu thụ sản phẩm .
1. Khái niệm tiêu thụ sản phẩm:
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, mà ở đó sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai được quyết định thông qua thị trường. Trong nền kinh tế thị trường các quan hệ kinh tế giữa các tổ chức, đơn vị và cá nhân ... đều biểu hiện qua việc mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ trên thương trường. Tức là tiêu thụ hàng hoá.
Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp thương mại gồm ba khâu: mua vào - dự trữ - bán ra. Ta có thể thấy tiêu thụ là khâu cuối cùng của quá trình lưu chuyển hàng hoá, là giai đoạn cuối cùng trong chu kỳ tuần hoàn vốn của doanh nghiệp. Tiêu thụ là quá trình trao đổi giữa người bán và người mua, thực hiện giá trị của “hàng” tức là thực hiện chuyển hoá vốn của doanh nghiệp từ hình thái hàng hoá sang hình thái tiền tệ (H’-T’). Kết quả tiêu thụ là kết quả cuối cùng của quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Quá trình tiêu thụ được coi là kết thúc khi quá trình thanh toán giữa người bán và người mua được thực hiện. Về nguyên tắc kết thúc tiêu thụ sản phẩm thì người bán phải thu được tiền bán sản phẩm đó.
Đứng trên góc độ luân chuyển vốn thì tiêu thụ sản phẩm là một quá trình chuyển hoá vốn từ hình thái hàng hoá sang hình thái tiền tệ làm cho vốn trở lại hình thái ban đầu khi nó bước vào chu kỳ kinh doanh tiếp theo.
Thực chất của quá trình tiêu thụ sản phẩm là sự vận động đồng thời của vật tư và tiền vốn, chỉ khi nào diễn ra đồng thời của cả vật tư và tiền vốn thì mới kết luận rằng hàng hoá được thực hiện gía trị và giá trị sử dụng. Do vậy trong thực tế, tiêu thụ sản phẩm bao gồm hai quá trình chính là xuất giao hàng cho khách và thanh toán tiền hàng.
Thanh toán tiền hàng là quá trình rất quan trọng quyết định sự hoàn thành hay không của công tác tiêu thụ sản phẩm. Thời điểm thanh toán càng nhanh bao nhiêu càng có lợi cho doanh nghiệp bấy nhiêu. Quá trình thanh toán này là cơ sở để doanh nghiệp có thể xác định được kết quả bán ra, đồng thời giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp biết được tình hình hoạt động kinh doanh để đưa ra quyết định tiếp tục hay chuyển hướng kinh doanh.
Thanh toán tiền hàng diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau như: Thanh toán tiền mặt, bằng séc, chuyển khoản, hàng đổi hàng ... tại các thời điểm khác nhau: Thanh toán ngay, thanh toán sau một vài ngày, sau một tháng, hai tháng...
Hàng hoá được xác định là tiêu thụ trong thực tế thường quy định như sau:
Bán hàng trực tiếp thu tiền hàng.
Xuát hàng cho khách và được chấp nhận thanh toán.
Tiêu thụ sản phẩm có thể xảy ra trong các trường hợp sau:
Trường hợp 1: Việc xuất giao và thanh toán tiền hàng diễn ra đồng thời. Khi đó lượng hàng hoá được xác định ngay là tiêu thụ và đồng thời doanh nghiệp cũng nhận được tiền hàng do đơn vị mua thanh toán.
Trường hợp 2: Giữa doanh nghiệp và khách hàng áp dụng phương pháp thanh toán theo kế hoạch, khi xuất giao được coi như là tiêu thụ.
Trường hợp 3: Doanh nghiệp đã xuất giao đủ hàng cho khách hàng theo số tiền mà khách hàng trả trước.
Trường hợp 4: Doanh nghiệp bán hàng theo phương thức trả góp. Trường hợp 5: Doanh nghiệp chưa thu được tiền nhưng được chấp nhận thanh toán số tiền hàng đã gửi đi bán hoặc giao cho các đại lý.
Như vậy thanh toán tiền hàng là quá trình quan trọng nhất, quyết định sự thành công và tính hiệu quả của công tác tiêu thụ. Nếu chỉ giao hàng mà chưa thu được tiền thì doanh nghiệp chưa đạt được mục đích tiêu thụ, chỉ khi nào thu được tiền hoặc được chấp nhận thanh toán thì khi đó mới được gọi là tiêu thụ.
2. Nội dung của doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
Khi tiêu thụ được sản phẩm, các doanh nghiệp sẽ có một khoản tiền thu bán hàng hay còn gọi là doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
Vậy doanh thu tiêu thụ sản phẩm được xác định theo công thức:
n
DT
=
S
( S ´ g )
i = 1
Trong đó:
DT: Doanh thu tiêu thụ sản phẩm
S : Số lượng sản phẩm tiêu thụ
G : Giá bán sản phẩm
i : Số lượng các kiểu sản phẩm
Đây là một chỉ tiêu có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp, với việc thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước mà còn đối với quá trình tái sản xuất mở rộng trong phạm vi toàn xã hội. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm được xác định cả khi thu được tiền của khách hàng và được khách hàng chấp nhận thanh toán số tiền hàng đó. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm phản ánh quy mô kinh doanh của doanh nghiệp, phản ánh trình độ tổ chức, chỉ đạo sản xuất kinh doanh, tổ chức công tác thanh toán. Có được doanh thu bán hàng chứng tỏ doanh nghiệp đã sản xuất ra những sản phẩm được thị trường chấp nhận.
Doanh thu tiêu thụ phẩm có thể hiều là toàn bộ số tiền bán sản phẩm hàng hoá, cung ứng các dịch vụ sau khi trừ đi các khoản giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại ... và được khách hàng chấp nhận trả tiền. Trong đó giảm giá hàng bán là số tiền người bán giảm trừ cho người mua trên giá đã thoả thuận do nhu cầu thị trường hoặc là hình thức doanh nghiệp ưu đãi cho những khách hàng mua những khối lượng sản phẩm lớn.
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp bao gồm:
- Doanh thu tiêu thụ sản phẩm chủ yếu của doanh nghiệp : Đây là bộ phận doanh thu chủ yếu thường chiếm tỷ trọng lớn nhất của doanh nghiệp do tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ...
- Doanh thu tiêu thụ khác: Cung cấp lao vụ, dịch vụ cho bên ngoài, bán các quyền phát minh sáng chế...
Xác định nội dung của doanh thu tiêu thụ có ý nghĩa rất lớn trong việc hạch toán đầy đủ, chính xác doanh thu, phản ánh đúng kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy trong công tác tiêu thụ sản phẩm các doanh nghiệp không thể xem nhẹ công việc xác định nội dung của doanh thu tiêu thụ, đồng thời tuỳ thuộc vào tình hình kinh doanh của đơn vị mà xác định doanh thu chính xác, phân chia nội dung doanh thu cho phù hợp để thuận tiện cho việc theo dõi và phản ánh doanh thu của doanh nghiệp.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
Công tác tiêu thụ sản phẩm chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, trong đó có một số nhân tố cơ bản sau:
a) Khối lượng sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ:
Với doanh nghiệp thương mại thì khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Khối lượng sản phẩm hàng hoá càng bán nhiều bao nhiêu thì doanh thu tiêu thụ sản phẩm càng cao bấy nhiêu, tuy nhiên sản phẩm còn phải đáp ứng một số yêu cầu của thị trường về giá cả, chất lượng, kiểu dáng....
b) Chất lượng sản phẩm:
Ngày nay do nhu cầu thị trường ngày càng cao nên mỗi sản phẩm đưa ra thị trường phải đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng và chất lượng sản phẩm luôn là mục tiêu đặt lên hàng đầ.
c) Giá cả sản phẩm:
Giá cả là biều hiện bằng tiền cuả giá trị hàng hoá và giá cả xoay quanh giá trị. Giá cả phải linh hoạt mới đem lại cho doanh nghiệp lượng doanh thu cao. Tuy nhiên, để có mức gía phù hợp thì doanh nghiệp cần phải tiến hành nghiên cứu thị trường, cung cầu thị trường, doanh nghiệp phải tự tính toán cân nhắc sao cho giá bán của sản phẩm phải bù đắp đưọc chi phí bỏ ra như: chí phí vận chuyển, bảo hành, tiền lương, đảm bảo có lãi cho doanh nghiệp.
d) Công tác tổ chức bán hàng của doanh nghiệp.
Công tác tổ chức bán hàng bao gồm nhiều mặt:
*Về hình thức bán hàng: Một doanh nghiệp áp dụng tổng hợp các hình thức bán hàng như bán buôn, bán lẻ, bán tại kho, bán tại cửa hàng.
* Về hình thức thanh toán: Đây là một nhân tố vô cùng quan trọng làm cho doanh thu tiêu thụ sản phẩm cao hay thấp. Việc tổ chức thanh toán tiền hàng nhanh gọn sẽ góp phần đem lại lượng doanh thu tiêu thụ sản phẩm cao.
* Về dịch kèm theo trong công tác tiêu thụ phẩm: Để đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm, tăng sức cạnh tranh, doanh nghiệp luôn tạo thuận lợi cho khách hàng bằng cách tổ chức dịch vụ miễn phí, bảo hành, lắp ráp, sửa chữa... Điều này sẽ làm cho khách hàng cảm thấy yên tâm và tin tưởng khi sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp.
e) Thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Nói đến tiêu thụ sản phẩm điều đầu tiên ta phải nhắc đến là thị trường. Vậy thị trường là nơi thể hiện tập trung nhất các mặt đối lập của sản xuất hàng hoá, là mục tiêu khởi điểm của quá trình kinh doanh và cũng là nơi kết thúc của quá trình kinh doanh. Đồng thời thông qua thị trường doanh nghiệp tìm kiếm và xác định cho mình một đối tượng, lĩnh vực thị trường kinh doanh phù hợp để trụ vững trong cuộc cạnh tranh gay gắt và đạt được mục tiêu lợi nhuận luôn là nhân tố quan trọng quyết định sự thành bại của mỗi doanh nghiệp.
II. Sự cần thiết phải đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và vai trò của tài chính trong việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
I. Sự cần thiết phải đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm.
Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình lưu chuyển hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại.Thông qua tiêu thụ sản phẩm thì đồng vốn bỏ ra ban đầu sẽ trở về trạng thái ban đầu của nó. Với doanh thu bán hàng doanh nghiệp có thể trang trải các khoản chi phí: Tiền lương, thưởng cho cán bộ nhân viên, bù lại giá vốn, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, thực hiện nộp thuế và có lợi nhuận...
Trong cơ chế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp thương mại phải duy trì quá trình tiêu thụ đạt hiệu quả, không để hàng tồn kho không bán được. Xã hội luôn có nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao. Vì vậy quá trình tiêu thụ luôn phải được mở rộng mới đáp ứng này càng tăng lên của xã hội cả số lượng và chất lượng hàng hoá. Nếu mở rộng được tiêu thụ sẽ tạo điều kiện tăng doanh thu.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt của doanh nghiệp đều tiến hành cải cách nâng cao thị phần hàng hoá của mình vì tiêu thụ sản phẩm hàng hoá chậm chạp, yếu kém gây ứ đọng hàng hoá, tiền vốn chậm luôn chuyển sẽ gây ra chi phí bảo quản hao hụt, chi phí lãi vay, chi phí quản lý bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Do đó để chiến thắng trong cạnh tranh doanh nghiệp luôn phải cải tiến công tác tiêu thụ sản phẩm của mình.
2. Vai trò của tài chính trong công việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm.
a) Mối quan hệ giữa tài chính và tiêu thụ sản phẩm.
Tiêu thụ sản phẩm giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, nó ảnh hưởng rất lớn đến mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Xét về mặt tài chính tiêu thụ sản phẩm ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp nhưng ngược lại tài chính của doanh nghiệp cũng tác động không nhỏ đến tiêu thụ sản phẩm, giữa chúng có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau hết sức chặt chẽ, thường xuyên và liên tục.
Có thể hiểu hoạt động tài chính doanh nghiệp là tổ chức các luồng vận động chuyển hàng hoá, vốn tiền tệ để tạo lập phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đạt tới mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường và áp dụng chế độ tự hạch toán, các doanh nghiệp không thể trông chờ vào nguồn vốn tự cấp phát của Nhà nước mà phải chủ động tạo lập vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh và mở rộng thị trường, vì thế doanh nghiệp phải chủ động khai thác nguồn tài chính tự có từ kết quả sản xuất kinh doanh của mình nhất là nguồn thu từ công tác tiêu thụ sản phẩm. Tiêu thụ sản phẩm nhanh sẽ làm tăng vòng quay của vốn, rút ngắn kỳ thu tiền trung bình, tăng hiệu quả sử dụng vốn, từ đó làm tăng khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Tuy nhiên để làm được điều này, mỗi doanh nghiệp tuỳ theo đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình cần đưa ra, bao gồm nhưng không giới hạn một số biện pháp sau đây:
-- Giá cả hàng hoá hợp lý.
-- Chiết khấu bán hàng
-- Hoa hồng cho các đại lý và các cửa hàng ký gửi
-- Dịch vụ vận chuyển hàng hoá
-- Thực hiện một số hình thức khuyến mại, quảng cáo...
chương II: Tình hình tiêu thụ sản phẩm của
công ty nhật quang năm 2000
I. Tình hình đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty Nhật Quang
1. Sự ra đời và phát triển.
Công ty Nhật Quang được Nhà nước cho phép thành lập vào tháng 4 năm 1998, trụ sở chính tại số nhà 16C Hàm Long - Quận Hoàn Kiếm - Hà nội. Đây là một địa điểm thuận lợi về giao thông và nằm giữa trung tâm của thủ đô Hà nội.
Công ty Nhật Quang là một doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực thương mại, chuyên doanh chủ yếu về sản phẩm điện tử tin học, thông tin thiết bị máy văn phòng. Vào tháng 5 năm 1999 công ty đã áp dụng hình thức bán lẻ tiên tiến nhất, cụ thể là trên mạng internet. Điều này chứng tỏ rằng công ty là nơi khởi đầu để đưa công nghệ thông tin của chúng ta hào nhập với nhịp độ phát triển của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới.
Với hình thức mua bán này không những giúp cho khách hàng mua được mặt hàng họ cần, mà còn giúp họ có sự lựa chọn chính xác, nắm bắt được thông tin về các mặt hàng mới ở trong nước cũng như thế giới.
Sở dĩ đạt được thành công như vậy, ngay từ những ngày đầu thành lập công ty đã tận dụng tiềm năng về địa điểm thuận lợi cho việc giao dịch mua bán . Công ty không ngừng phát triển mạng lưới kinh doanh, nâng cao chất lượng, đổi mới chủng loại, tạo lập cho công ty một thị trường kinh doanh ổn định, mở rộng thị trường kinh doanh, đẩy mạnh công tác tiêu thụ phục vụ nhu cầu tiêu dùng ngày càng tốt hơn trong xã hội, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và tuy mới thành lập nhưng công ty đã có số vốn là:
- Vốn cố định: 1.200.000.000VNĐ
- Vốn lưu động: 4.160.929.788VNĐ
- Vốn chủ sở hữu: 1.206.670.356 VNĐ
Chỉ sau ba năm công ty đã thu được với doanh số là 90 tỷ. Với doanh số này không những mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp là 13.273.760.090VNĐ mà còn giúp cải thiện, tăng thu nhập của cán bộ công nhân viên trong công ty với bình quân thu nhập là 1.200.000VNĐ. Bên cạnh đó với doanh số này công ty còn đóng góp một phần không nhỏ vào ngân sách nhà nước qua hình thức nộp thuế, cụ thể trong 3 năm 1998,1999,2000 là 1.054.923.000VNĐ.
2. Đặc điểm tổ chức quản lý kinh doanh ở công ty Nhật Quang
* Cơ cấu tổ chức quản lý
Để quản lý và điều hành mọi hoạt động kinh doanh, công ty không ngừng hoàn thiện bộ máy tổ chức của mình, bởi vì bộ máy là hình ảnh vẽ nên bức tranh tươi sáng của công ty, cơ cấu bộ máy hợp lý và tổ chức quản lý tốt cũng góp phần không nhỏ trong những bước đi của công ty.
Công ty Nhật Quang là một đơn vị kinh tế với cơ cấu bộ máy quản lý được sắp xếp theo các phòng ban và mỗi phòng ban thực hiện một chức năng.
Đứng đầu công ty là ban giám đốc, trong đó có 1 giám đốc và 1 phó giám đốc.
- Giám đốc là người đứng đầu công ty, có nhiệm vụ điều hành toàn bộ hoạt động của công ty và chịu trách nhiệm kết quả kinh doanh, đảm bảo đời sống công ăn việc làm của toàn công ty, ký kết các hợp đồng kinh tế, liên doanh với các cá nhân, đơn vị và tổ chức kinh tế trong nước cũng như nước ngoài.
- Phó giám đốc có nhiệm vụ trợ giúp và tham mưu cho giám đốc
Ngoài ra còn có các phòng ban chức năng phục vụ cho quá trình kinh doanh của Công ty.
(sơ đồ bộ máy quản lý được thể hiện ở trang bên)
Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty được thể hiện theo sơ đồ sau:
Ban giám đốc
Phòng tổng hợp
Phòng kinh doanh
Phòng kỹ thuật
Phân xưởng lắp ráp
Phòng dự án
Phòng Tài chính kế toán
Khối văn phòng
Phòng hệ thống và hỗ trợ KH
Phòng marketing
Bộ phận bán hàng
Trong đó:
- Phòng kỹ thuật: Hỗ trợ các hợp đồng, chịu trách nhiệm về kỹ thuật cho các đề án, bảo hành
- Phòng kinh doanh: Kinh doanh bán lẻ máy tính và các thiết bị tin học khác
- Phòng dự án: Với chức năng lập và thực hiện các dự án của công ty
- Phòng tài chính- kế toán: Chịu trách nhiệm vốn, hạch toán kinh doanh, thanh toán quyết toán với Nhà nước, đồng thời cung cấp thông tin, tài liệu kinh tế cần thiết cho giám đốc
- Phòng marketing: Tìm kiếm thị trường, khách hàng, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm mới
* Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty Nhật Quang.
Cùng với quá trình phát triển của công ty Nhật Quang – Siêu thị máy tính Blue Sky đã và đang là một trong những công ty thương mại, hoạt động trong lĩnh vực tin học hàng đầu của Việt nam với đội ngũ nhân viên có trình độ tay nghề cao, chất lượng, quy mô hoạt động lớn, được khách hàng tin cậy bạn hàng tín nhiệm và đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thị trường. Bên cạnh đó công ty còn thiết lập trung tâm thiết bị và chuyển giao hoạt động trong lĩnh vực cung cấp thiết bị, khoa học,thí nghiệp, hiệu chuẩn trắc địa, giảng dạy và đo lường. Ngoài ra hoạt động của công ty không chỉ dừng ở đó mà còn hướng dẫn khách hàng biết được những giải pháp tốt nhất trong quá trình sử dụng máy vi tính.
Các hoạt động của công ty Nhật Quang không chỉ tập trung vào lĩnh vực dịch vụ thương mại mà còn đầu tư lớn vào việc phát triển phần mềm ở Việt nam.
Trong đó: Các hoạt động của công ty được chia làm 5 lĩnh vực chính :
- Phân phối sản phẩm tin học viễn thông
- Phát triển phần mềm ứng dụng
- Cung cấp giải pháp tin học
- Cung cấp thiết bị công nghệ cao và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực tin học.
- Kinh doanh bán lẻ các sản phẩm tin học và thiết bị văn phòng
* Thị trường tiêu thụ sản phẩm
Do sản phẩm kinh doanh của công ty là các loại máy tính, máy in, máy chiếu và các loại thiết bị khác ở Nhật Bản, nên thị trường tiêu thụ chủ yếu là đô thị, nhất là các thành phố lớn như Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh. ở 2 thành phố này không những dân cư đông mà nhu cầu sử dụng máy tính, máy in, máy chiếu cũng tập trung ở các thành phố, từ đó tạo điều kiện cho sản phẩm của công ty có thể đến với người tiêu dùng một cách dễ dàng.Họ có điều kiện để tiêu thụ sản phẩm của công ty được nhanh hơn. Hơn thế nữa, họ có sự hiểu biết về công nghệ thông tin và cách sử dụng các loại thiết bị mới này. Chính vì có được sự cọ sát với thị trường nên cán bộ trong công ty đã mạnh dạn đưa sản phẩm của công ty xâm nhập vào những thị trường nóng bỏng này. Kết quả là sản phẩm của công ty đã có chỗ đứng trên thị trường trong nước cạnh tranh được với nhiều hãng máy tính khác trên thế giới.
II. Thực trạng tiêu thụ sản phẩm ở công ty Nhật quang
1. Công tác lập kế hoạch tiêu thụ phẩm
Để quá trình kinh doanh của doanh nghiệp hàng năm mang lại hiệu quả cao, phát triển kịp với xu thế thời đại, theo kịp với những biến động của thị trường thì việc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là một vấn đề không thể thiếu đối với mỗi doanh nghệp hiện nay. Viêc lập kế hoạch phải dựa trên khả năng thực tế của doanh nghiệp, phải căn cứ vào thị trường thông qua việc xử lý các thông tin về kinh tế, khoa học, kỹ thuật... kế hoạch tiêu thụ sản phẩm thực chất là dự đoán trước số lượng sản phẩm sẽ được tiêu thụ trong kỳ kế hoạch, đơn giá bán sản phẩm kỳ kế hoạch , doanh thu sẽ đạt được trong kỳ để có thể chủ động tổ chức tiêu thụ sản phẩm.
a) Phương pháp lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty Nhật Quang
Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty được lập cho cả năm và theo từng quý. Trong kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cả năm có dự kiến số lượng sản phẩm cho từng quý, trong kế hoạch tiêu thụ sản phẩm từng quý lại dự kiến số lượng sản phẩm cho từng tháng. Việc lập kế hoạch tiêu thụ phẩm cả năm của công ty căn cứ vào các hợp đồng của các đơn vị, cá nhân... được ký kết trong năm kế hoạch, căn cứ vào tình hình tiêu thụ sản phẩm năm trước, nhu cầu thị trường trong năm kế hoạch.
*Thời điểm lập kế hoạch.
Thời điểm cônng ty Nhật Quang tiến hành lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm thường vào tháng 10 năm báo cáo, đây cũng là thời điểm mà công ty tiến hành lập các kế hoạch tài chính.
b) Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm năm 2000 của công ty Nhật Quang.
Sản phẩm tiêu thụ của công ty bao gồm rất nhiều chủng loại, mặt hàng chẳng hạn như máy tính, máy in, máy chiếu, máy huỷ tài liệu... nhưng ở đây em chỉ đi sâu vào nghiên cứu 3 mặt hàng chính của công ty đó là máy tính, máy in và máy chiếu.
Trong năm 2000 kế hoạch tiêu thụ sản phẩm các loại của công ty được lập như biểu số 1 trang bên .
Các chỉ tiêu của kế hoạch tiêu thụ năm 2000 được xác định như sau:
“Tên sản phẩm ” được lập cho mặt hàng mát tính, máy in và máy chiếu.
“Tồn đầu kỳ” được lập từ số lượng sản phẩm tồn năm trước.
“Nhập trong kỳ” được căn cứ vào tình hình tiêu thụ sản phẩm năm 1999 và dự đoán nhu cầu năm kế hoạch.
“Xuất trong kỳ ” được căn cứ vào hoá đơn đặt hàng của khách hàng, hợp đồng tiêu thụ sản phẩm đã ký kết.
“Tồn cuối kỳ” được xác định bằng cách cộng số sản phẩm ở cột ”dư đầu kỳ” với số liệu tương ứng ở cột “nhập trong kỳ” rồi trừ đi cột “ xuất trong kỳ”.
“Doanh thu dự kiến” được xác định bằng cách nhân số sản phẩm ở cột ”kế hoạch 2000” với số liệu tương ứng ở cột “đơn giá kế hoạch”
Ngoài kế hoạch tiêu thụ sản phẩm được lập chung cho cả năm , công ty còn tiến hành lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cho từng quí, tháng để cụ thể hoá hơn nữa hoạt động tiêu thụ ở công ty nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao. Vì thế kế hoạch tiêu thụ sản phẩm hàng quí được lập khá chi tiết, chẳng hạn như kế hoạch tiêu thụ sản phẩm quí IV năm 2000 được biểu hiện ở biểu số 2 (trang bên).
Qua công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và chi tiết cho các tháng để thấy rằng việc lập kế hoạch ở công ty Nhật Quang cụ thể, chi tiết và có cơ sở phù hợp với đặc điểm kinh doanh của công ty. Đây cũng là cơ sở để công ty đưa
ra những phương hướng, mục tiêu giúp cho công ty tìm ra những phương hướng, biện pháp hữu hiệu để thực hiện tốt kế hoạch đề ra.
Trong kế hoạch tiêu thụ sản phẩm năm 2000 của công ty. Doanh thu tiêu thụ dự kiến của máy tính, máy in và máy chiếu đạt 58.617.280 ngìn đồng tăng 14.283.101 ngìn đồng so với năm 1999, tỷ lệ tăng là 32,22%.Cụ thể là:
Doanh thu dự kiến của máy tính năm 2000 là 28.017.500 nghìn đồng tăng
Doanh thu dự kiến của máy in năm 2000 là 25.352.280 nghìn đồng tăng
Doanh thu dự kiến của máy chiếu năm 2000 là 5.247.500 nghìn đồng tăng
Nguyên nhân của kết quả trên:
- Đơn đặt hàng tăng, số lượng sản phẩm dự kiến tiêu thụ tăng dẫn đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm dự kiến cũng tăng.
Máy tính lượng số lượng tiêu thụ năm 1999 là 3000 chiếc, dự kiến tiêu thụ năm 2000 là 3461 chiếc, tăng 461 chiếc, tỷ lệ tăng là 15,36%.
Máy in số lượng tiêu thụ năm 1999 là 3190 chiếc, dự kiến tiêu thụ năm 2000 là 3648 chiếc, tăng 458 chiếc, tỷ lệ tăng là 14,36%.
Máy chiếu số lượng tiêu thụ năm 1999 là 820 chiếc, dự kiến tiêu thụ năm 2000 là 925 chiếc, tăng 105 chiếc, tỷ lệ tăng là 11,35%.
- Về giá tính cho một chiếc máy tiêu thụ được biểu hiện ở biểu số 3.
Nhìn chung giá cả đối các loại với sản phẩm năm 2000 đều tăng lên so với năm 1999.
Sở dĩ có được giá kế hoạch năm 2000 tăng lên như vậy là do sự biến động tỷ giá hối đoái và nhu cầu của người tiêu dùng tăng lên.
Dưới sự tác động của 2 nhân tố trên: số lượng, giá cả sản phẩm kỳ kế hoạch năm 2000 so với thực tế năm 1999 đã dẫn đến kết quả doanh thu dự kiến tiêu thụ sản phẩm năm 2000 tăng lên. Công tác lập kế hoạch của công ty nhìn chung mang tính khả thi cao tuy nhiên vẫn còn một số nhược điểm sau:
Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm mới chỉ dựa vàocác hợp đồng được ký kết, mà ở đây công ty chủ yếu tiêu thụ theo phương thức bán lẻ là chủ yếu, công ty chưa quan tâm đến việc mở rộng thị trường tiêu thụ nên mặc dù kế hoạch tiêu thụ rất sát nhưng công ty dường như chỉ bán tại siêu thị, sản phẩm của công ty chưa mở rộng ra thị trường và người tiêu dùng ở các vùng lân cận. Đó là một vài điểm yếu trong công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm ở công ty nói chung và công tác lập kế hoạch ở công ty nới riêng. Muốn đi vào tìm hiểu rõ hơn về công tác thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm như thế nào cần nghiên cứu tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty trong năm 2000.
2. Tình hình tổ chức thực hiện kế hoach tiêu thụ sản phẩm năm 2000 của công ty Nhật Quang.
a) Phương thức tổ chức giao hàng của công ty.
Để đáp ứng nhu cầu thị trường và ký kết hợp đồng một cách thuận lợi với khách hàng, công ty đã có phương thức bán hàng cho riêng mình phù hợp với quan hệ cung cầu trên thị trường.
Để có thể bán hàng cho khách hàng với số lượng sản phẩm lớn công ty cần phải có các hợp đồng ký kết trước khi có đơn đặt hàng. Công ty luôn có khách hàng thường xuyên nên hàng năm công ty đều có thời điểm thoả thuận công việc một cách thích hợp và hợp đồng phải được ký kết theo quy định của công ty. Khách hàng đã ký kết hợp đồng với công ty để có thể nhận hàng tại kho của công ty, hay công ty giao hàng tại địa điểm thoả thuận trong hợp đồng. Khi khách hàng nhận được hàng thì việc thanh toán sẽ được thực hiện trực tiếp hay chuyển qua tài khoản sau một thời gian thoả thuận trong hợp đồng.
Ngoài việc xuất giao cho hợp đồng, công ty còn sẵng sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng, xuất bán cho mọi đối tượng. Hiện nay công ty đã có một chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh để giới thiệu sản phẩm của mình.
Việc theo dõi tiêu thụ sản phẩm do phòng tài vụ trực tiếp làm việc. Từng loại sản phẩm hàng hoá theo dõi trên sổ chi tiết, được lập cho từng quý; kế toán căn cứ vào hoá đơn kiêm phiếu xuất kho trong quý để lập sổ và công ty cũng thực hiện việc theo dõi tổng hợp tình hình tiêu thụ sản phẩm theo từng quý, từng tháng. Cuối mỗi quý phòng tài chính kế toán lại tập hợp các kết quả tiêu thụ sản phẩm trong quý theo các chỉ tiêu số lượng, số tiền chi tiết cho từng loại hàng hoá và số thuế doanh thu trực tiếp cho từng loại sản phẩm.
Về phương thức bán hàng công ty đã áp dụng hình thức bán lẻ trên mạng internet.
b) Các biện pháp kinh tế đã được công ty sử dụng để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm trong năm 2000 của công ty Nhật Quang.
* Chính sách giá cả linh hoạt:
Như nhiều doanh nghiệp kinh doanh khác,nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, công ty đã áp dụng hình thức giảm giá 3% đối với những khách hàng mua khối lượng sản phẩm lớn. Do đó số lượng khách hàng mua buôn cũng như khách hàng mua lẻ chiếm tỷ trọng rất cao, đây là nguồn tiêu thụ quan trọng giúp công ty đẩy mạnh quá trình tiêu thụ sản phẩm
* Đa dạng hoá phương thức bán hàng.
Nhằm hoàn thiện và đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm cũng như đáp ứng được tối đa nhu cầu tiêu thụ sản phẩm trên thị trường cho mọi khách hàng thuộc mọi đối tượng với số lượng không hạn chế, công ty tiến hành mở rộng và đa dạng hoá các phương thức bán hàng. Để mua được hàng với số lượng lớn, khách hàng phải ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với công ty.
Tiêu thụ hàng hoá ở công ty được tiến hành theo hai phương thức bán buôn và bán lẻ. Nghiệp vụ bán lẻ được thực hiện tại siêu thị của công ty, đối với hàng hoá bán buôn công ty chỉ thực hiện phương thức bán buôn qua kho với hoá đơn GTGT kiêm phiếu xuất kho: đây là chứng từ duy nhất có giá trị làm căn cứ cho việc thanh toán. Công tác bán buôn do phòng nghiệp vụ đảm nhận, cuối tháng gửi chứng từ nên phòng tài vụ của công ty để phòng tài vụ ghi vào nhật ký chứng từ.
Về cơ bản phương thức bán hàng của công ty: tạo điều kiện cho khách hàng hiểu được giá trị của mặt hàng mà họ sắp mua qua hệ thống internet và báo Hà nội mới. Tuy vậy công ty còn thụ động trong việc tìm kiếm bạn hàng lớn và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Sản phẩm của công ty được trưng bày và bán tại siêu thị Blue sky với nhiều mặt hàng như: máy tính, máy chiếu, máy in, máy huỷ tài liệu
Tiêu thụ sản phẩm của công ty phụ thuộc rất lớn vào tiêu thụ sản phẩm sản phẩm ở siêu thị, nếu siêu thị tiêu thụ nhanh công ty mới có điều kiện để nhập máy tính thế hệ mới phù hợp với nhu cầu thị trường, còn nếu siêu thị tiêu thụ chậm sẽ ảnh hưởng tới tốc độ tiêu thụ khi đó công ty không thể nhập được những loại máy tính có thế hệ mới.
* Đa dạng hoá các hình thức thanh toán:
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, công ty vận dụng nhiều hình thức thanh toán khác nhau như: thanh toán bằng tiền mặt, bằng séc, uỷ nhiệm chi, tiêu thụ chuyển khoản, hàng đổi hàng...Hiện nay việc thanh toán của công ty chủ yếu bằng hình thức chuyển khoản, theo phương thức trả tiền ngay hoặc thanh toán sau một thời gian tuỳ theo sự thoả thuận giữa hai bên. Nếu khách hàng thanh toán ngay bằng tiền mặt thì kế toán lập chứng từ ban đầu là phiếu thu tiền, phiếu thu tiền còn là chứng từ chứng minh cho việc thanh toán bằng ngân phiếu. Phiếu thu tiền được lập thành 3 liên: 1 liên giao cho khách hàng, 1 liên lưu, 1 liên dùng cho kế toán thanh toán.
Nếu khách hàng thanh toán bằng séc thì số séc đó được phòng tài vụ nộp vào tài khoản của công ty ở ngân hàng Vietcombank. Hàng tháng, hàng quý phòng kế toán đối chiếu công nợ, gửi giấy báo đòi nợ đến khách hàng, nếu quá hạn mọi số nợ đều phải chịu lãi suất theo lãi suất vốn vay của ngân hàng. Những quy định trên của công ty không những đảm bảo cho tài sản, tiền vốn của công ty được an toàn, mà còn giúp công ty thu hồi vốn nhanh.
Trên đây là một số biện pháp tài chính công ty đã áp dụng trong quá trình tiêu thụ sản phẩm.
3. Kết quả đạt được trong công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty trong năm 2000.
Năm 2000 công ty Nhật Quan g đã đạt được kết quả ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4628.doc