Tiêu thụ sản phẩm may mặc trên thị trường nội địa của Công ty May Thăng Long

Lời nói đầu Việc thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa nền kinh tế, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường đã đưa nền kinh tế nước ta sang trang mới, tăng trưởng kinh tế trung bình 7%/năm, chính trị ổn định và đời sống của người dân ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế, các doanh nghiệp vừa có thêm nhiều cơ hội vừa phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt và quyết liệt, thị trường của doanh nghiệp biến đổi liên tục và phức tạp. Để

doc56 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1395 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tiêu thụ sản phẩm may mặc trên thị trường nội địa của Công ty May Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tồn tại và phát triển, đòi hỏi các doanh nghiệp phải năng động, sáng tạo tìm ra cho mình giải pháp riêng để thích ứng với môi trường kinh doanh mới. Thúc đẩy tiêu thụ, mở rộng thị trường là một trong những giải pháp được nhiều doanh nghiệp lựa chọn nhằm tận dụng cơ hội kinh doanh, phát huy các thế mạnh của mình, thích ứng với thị trường, đồng thời tối đa hoá lợi nhuận, đảm bảo an toàn và nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Ngành may mặc ở nước ta hiện nay là một trong những ngành mũi nhọn, phát triển nhanh lại có sự cạnh tranh gay gắt. Công ty May Thăng Long là công ty may mặc xuất khẩu đầu tiên ở nước ta ra đời vào năm 1958. Cùng với sự đổi mới nền kinh tế, công ty đã nhanh chóng thích nghi với thị trường, ổn định sản xuất và không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ. Trong đó, hàng may mặc xuất khẩu là mặt hàng chủ lực của công ty. Tuy nhiên, hiện nay do sự biến động từ thị trường xuất khẩu và hình thức sản xuất kinh doanh theo phương thức gia công không đem lại nhiều lợi nhuận đã gây ra cho công ty một số khó khăn. Trong khi đó, thị trường may mặc nội địa là thị trường đầy tiềm năng với những đặc điểm và điều kiện hết sức thuận lợi lại chưa được công ty quan tâm đúng mức. Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển thị trường nội địa, trong những năm gần đây, công ty May Thăng Long đã có những bước tiến đột phá trong việc xâm nhập và mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, công ty vẫn còn gặp không ít vướng mắc khó khăn. Sau thời gian học tập và tìm hiểu tại công ty May Thăng Long, với mục đích củng cố và hệ thống hoá các kiến thức đã được học, áp dụng chúng vào thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Tiêu thụ sản phẩm may mặc trên thị trường nội địa của công ty May Thăng Long”. Chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận còn gồm Phần I: Thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm may mặc trên thị trường nội địa của công ty May Thăng Long. PhầnII: Một số biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm may mặc trên thị trường nội địa của công ty May Thăng Long. Do thời gian và trình độ có hạn, chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy Lê Công Hoa, các thầy cô giáo trong khoa QTKD và các cô chú trong công ty để em có thể thực hiện đề tài tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Lê Công Hoa và các cô chú trong công ty May Thăng Long đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thực hiện chuyên đề này. Phần I Thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm may mặc trên thị trường nội địa của công ty May Thăng Long I/ Tầm quan trọng của việc phát triển thị trường nội địa của công ty. 1. Những đánh giá chung về thị trường may mặc nội địa nước ta. Trước đây trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thị trường may mặc nội địa hầu như chỉ do các cửa hàng mậu dịch quốc doanh cung cấp những thứ quần áo may sẵn phổ cập toàn dân với kiểu cách mẫu mã đơn giản, chất lượng không cao. Chính vì vậy người tiêu dùng thời đó cũng không mặn mà lắm quần áo may sẵn. Nhưng trong những năm gần đây khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường , đời sống người dân ngày càng được cải thiện, do đó nhu cầu về may mặc cũng đã tăng lên đáng kể cả về số lượng cũng như yêu cầu về chất lượng và mẫu mã, kiể dáng này càng cao. Do vậy thị trường may mặc trong nước cũng có những chuyển biến rõ rệt. Số lượng các doanh nghiệp may tham gia vào thị trường ngày càng nhiều, tốc độ tăng ngày càng lớn, do đó quy mô hoạt động của thị trường đã tăng lên, số lượng mặt hàng phong phú và đa dạng hơn, chất lượng, mẫu mã đã phần nào đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng. Một số sản phẩm đã có uy tín và đã được xác lập được vị thế của mình tren thị trường như: áo sơ mi nam của công ty May 10, áo Jacket của công ty May Chiến Thắng, quần áo Jean của Việt Thắng… hệ thống mạng lưới bán lẻ sản phẩm cũng đã được mở rộng thông qua các cửa hàng giới thiệu sản phẩm , cửa hàng thời trang… Thị trường nội địa với dân số đông trên 80 triệu người, khoảng 88 triệu vào năm 2005 và gần 100 triệu vào năm 2010, là một thị trường đầy tiềm năng cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Đây là thị trường rất lớn lại đang phát triển với tốc độ cao và được coi là một trong những thị trường hấp dẫn nhất vùng Đông Nam á. Chính vì vậy, nhiều công ty nước ngoài đang cố gắng bằng nhiều cách để thâm nhập thị trường may mặc nước ta. Trong khi đó các doanh nghiệp dệt may trong nước dường như đứng ngoài cuộc, mặc cho các sản phẩm may mặc nước ngoài thao túng, từ những sản phẩm cao cấp, các sản phẩm thời trang đến các sản phẩm lạc mốt, các sản phẩm đã qua sử dụng. Hiện nay hàng may mặc ngoại đã tràn vào nước ta từ rất nhiều nguồn: hàng nhập lậu, trốn thuế từ Trung Quốc, Thái Lan, hàng sida(quần áo cũ)… Các sản phẩm này với ưu thế rất đa dạng, phong phú về chủng loại, giá rất thấp, làm cho sự cạnh tranh quốc tế trên thị trường Việt Nam ngày càng trở nên gay gắt. Điều đáng lo ngại hơn là có rất nhiều các sản phẩm tồi ( quần áo lỗi thời, đã qua sử dụng) bằng nhiều cách đã vào thị trường nước ta mà không được kiểm soát một cách chặt chẽ. Chúng được bán với giá rất thấp, thậm chí thấp hơn giá thành sản xuất nên thu hút được một số lượng lớn người tiêu dùng có thu nhập trung bình và thấp. Công tác quản lý, tổ chức thị trường không tốt đã tạo điều kiện cho hàng nhập lậu có đất phát triển đẩy ngành may mặc nước ta ra xa thị trường của mình hơn. Bên cạnh đó Việt Nam đã trở thành thành viên của AFTA. Do vậy các doanh nghiệp nước ta sẽ ngày càng gặp nhiều khó khăn hơn nữa bởi lẽ thị trường trong nước cũng chính là thị trường khu vực, các đối thủ cạnh tranh sẽ đông và mạnh hơn rất nhiều. Vấn đề hiện nay thị trường nội địa vẫn chưa được quan tâm đúng mức, các doanh nghiệp sợ rủi ro nên bằng lòng với việc gia công cho nước ngoài và bán ra thị trường nội địa những sản phẩm xuất khẩu thừa, những sản phẩm có lỗi trong sản xuất với kích cỡ không phù hợp với người Việt Nam. Theo thống kê của Tổng công ty Dệt May Việt Nam, tỷ trọng doanh thu bán hàng trên thị trường nội địa trên tổng doanh thu của các công ty sản xuất hàng may mặc rất thấp, thường chỉ chiếm dưới 10% doanh số bán ra của các doanh nghiệp lớn. Có thể nêu một số ví dụ: công ty May Hữu Nghị doanh số bán ra trên thị trường nội địa chỉ chiếm 1,95% tổng doanh thu; May Bình Minh là 1,52%; May Đức Giang là 6,75%... đây là những dẫn chứng thuyết phục về sự bỏ ngỏ thị trường nội địa của ngành may mặc nước ta. Thêm nữa, ngành dệt nước ta kém phát triển. Mặc dù Nhà nước đã có những biện pháp đầu tư phát triển ngành này nhưng tốc độ tăng trưởng của ngành vẫn chậm hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng của ngành may. Chính vì vậy, nguồn nguyên liệu trongnước chưa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, của ngành may đã tạo điều kiện cho các nguồn nguyên liệu từ các nước khác thâm nhập vào thị trường nội địa nước ta. Thị trường trong nước với những đặc điểm và điều kiện hết sức thuận lợi đối với doanh nghiệp may Việt Nam trong việc nắm bắt nhu cầu, thị hiếu cũng như việc phân tích đánh giá qui mô, cơ cấu thị trường lại là nơi yêu cầu về chất lượng không quá khắt khe, nghiêm ngặt như thị trường xuất khẩu song các doanh nghiệp may nước ta không đáp ứng được, để mặc cho hàng may mặc các nước khác vào thao túng ngay trên “sân nhà” của mình. Việc không đáp ứng được thị trường nội địa không phải là do không có khả năng mà thực chất là do các doanh nghiệp Việt Nam chưa quan tâm chú ý tới thị trường nội địa, do đó chưa có chiến lược nghiên cứu thị trường, chiến lược phát triển thị trường một cách cụ thể để đáp ứng nhu cầu. Vì thế, trong những năm qua bộ mặt thị trường may mặc nội địa và kết quả hoạt động của các doanh nghiệp may mặc nước ta ngay trên thị trường trong nước có thể nói là còn rất hạn chế. Theo dự tính sơ bộ, nếu GDP bình quân đầu người của nước ta đến năm 2005 đạt 700 – 800 USD và ước đạt 900 – 1200 USD vào năm 2010 thì mức tiêu dùng hàng hoá tính theo đầu người là 300 -350 USD/ năm trong năm nay và khoảng 400 – 450 USD vào năm 2010. Trong khi đó mức tiêu dùng hàng dệt may chiếm khoảng 6-8% tổng thu nhập. Điều đó cho thấy, nhu cầu về các hàng hoá tiêu dùng nói chung và các hàng may mặc nói riêng là rất lớn trong những năm tiếp theo. Do đó các doanh nghiệp cần nghiên cứu kĩ thị hiếu, nắm bắt nhu cầu về tổ chức sản xuất cho phù hợp, đưa nhanh các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất để nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, hình thành và tổ chức các mạng lưới tiêu thụ tại các thành phố, các khu công nghiệp tập trung, các khu dân cư, các vùng nông thôn, các vùng sâu, vùng xa, từng bước chiếm lĩnh và làm chủ thị trường còn giàu tiềm năng trong nước. Tổng quát lại ta thấy: do nhiều nguyên nhân, trong đó có sự dễ dãi và ít rủi ro của phương thức gia công, ngành may tuy phát triển rất nhanh nhưng vẫn là một khu vực sản xuất thiếu tác phong công nghiệp và thiếu khả năng cạnh tranh. Thêm nữa, phương thức phân bổ hạn ngạch chưa hợp lí cũng đã kìm hãm tính năng động, sáng tạo cũng như khả năng chuyển đổi cơ cấu thị trường của ngành may mặc. Bên cạnh đó, may gia công thường dễ hơn là mua nguyên liệu và bán sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp kém năng động không chịu khó đầu tư nghiên cứu đã rất chuộng hình thức này, nhất là khi giá gia công của nước ta thuộc loại rẻ trong khu vực và thế giới. Hoạt động này đã đem lại cho đất nước phần giá trị gia tăng không nhiều, trong chừng mực nào đó đã để lãng phí nguồn nhân lực của đất nước. Các doanh nghiệp trong nước đã không phát huy được thế mạnh của mình trên thị trường nội địa, để mất nhiều thị trường cho hàng hoá ngoại nhập và nhập lậu. Do đó có thể cho rằng, ngành công nghiệp Dệt- May Việt Nam đang ở trong một tình trạng không mấy tốt đẹp, có thể tóm tắt bằng một câu: “ Thị trường nước ngoài thì làm thuê, thị trường trong nước thì bỏ ngỏ”. 2. Tầm quan trọng của việc phát triển thị trường nội địa của công ty. Trước sự biến động trên thị trường xuất khẩu và xu hướng phát triển của thị trường nội địa đã đặt ra cho công ty May Thăng Long những vấn đề mới cần phải quan tâm. Công ty May Thăng Long đã xác định cho mình mục tiêu là luôn thúc đẩt hoạt động xuất khẩu đồng thời cũng rất coi trọng thị trường trong nước. Hoạt động xuất khẩu của công ty chủ yếu là may gia công xuất khẩu, hình thức kinh doanh FOB mua nguyên liệu bán thành phẩm chưa phát triển đúng mức nên hiệu quả kinh doanh chưa cao. Mặt khác, tuy sản phẩm của công ty đã có uy tín, chỗ đứng trên thị trường quốc tế như Đức, Nhật, Mỹ, Canada… Nhưng những sản phẩm đó lại không mang nhãn hiệu riêng của công ty nên trên thực tế công ty chưa xây dựng được hình ảnh, tiếng tăm của mình trên thị trường quốc tế. Điều này không có lợi cho công ty khi triển khai mạnh hình thức kinh doanh FOB. Để có uy tín và chỗ đứng trên thị trường quốc tế, công ty cần phải tạo dựng ngay từ trong nước, trên thị trường nội địa. Mặt khác, như trên đã đề cập, thị trường may mặc nội địa là một thị trường đầy tiềm năng mà hiện nay vẫn chưa được các doanh nghiệp nước ta quan tâm đúng mức. Đây là một sai lầm của các doanh nghiệp may Việt Nam nói chung và của May Thăng Long nói riêng. Công ty May Thăng Long đã có truyền thống 45 năm, đã có uy tín trong nước, có năng lực sản xuất hàng triệu sản phẩm chất lượng cao được người tiêu dùng ưa chuộng, có cơ sở vật chất vững mạnh, được Nhà nước khuyến khích… Đây là những lợi thế của công ty May Thăng Long trong thị trường nội địa mà công ty cần khai thác. II/ Hoạt động tiêu thụ sản phẩm may mặc trên thị trường nội địa của công ty May Thăng Long. 1. Công tác điều tra nhu cầu thị trường. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, một doanh nghiệp muốn tiêu thụ được sản phẩm và hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì công việc đầu tiên là cần điều tra nghiên cứu thị trường. Cũng như các doanh nghiệp khác đang hoạt động trong nền kinh tế thị trường, nghiên cứu thị trường là một trong những khâu được Công ty May Thăng Long đề cao nhất. Công ty không thuê các Công ty về nghiên cứu thị trường mà trực tiếp tham gia thu thập thông tin, dùng các phương pháp thăm dò ý kiến quan sát, tiến hành xử lý thông tin bằng cách phân loại thông tin theo vấn đề nghiên cứu, nhu cầu của nhà nhập khẩu của Công ty, tình hình thị trường hàng may mặc trong nước cũng như quốc tế. Việc nghiên cứu thị trường nội địa của Công ty May Thăng Long được giao cho phòng Kinh doanh nội địa và phòng Thiết kế và phát triển. Các cán bộ nhân viên hai phòng này sẽ có nhiệm vụ phối hợp với nhau để điều tra nhu cầu thị trường, tìm xu hướng thị hiếu người tiêu dùng, để từ đó có thể có kế hoạch sản xuất và tiêu thụ hàng nội địa một cách phù hợp nhất hoặc có thể tạo ra các mẫu mã mới với giá cả hợp lí đáp ứng khả năng, nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng. Hai phòng này sẽ thu thập thông tin về thị trường nội địa từ rất nhiều nguồn, trước hết là dựa vào thông tin phản hồi từ các cửa hàng, đại lí thông qua các bảng điều tra, các báo cáo về doanh thu theo từng loại sản phẩm… Vì bộ phận bán hàng là nơi tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, sẽ có thể đưa ra những thông tin cụ thể về phản ứng của khách hàng đối với các loại mẫu mã và giá cả sản phẩm của công ty, để từ đó công ty có thể điều chỉnh và đưa ra những biện pháp hợp lí. Bên cạnh đó, công ty còn dựa vào thư hỏi hàng trực tiếp của khách đặt hàng, dựa vào việc thu thập thông tin từ mạng Iternet, từ các nhà nhập khẩu nước ngoài,thông qua việc tham dự các hội trợ dệt may, tham khảo các tạp chí chuyên ngành về dệt may trong và ngoài nước để có thể nắm bắt được các thông tin một cách nhanh nhất, thông tin từ kinh nghiệm thực tế của các cán bộ nhân viên trong phòng KDNĐ và Thiết kế… Sau đó, các cán bộ nhân viên của hai phòng sẽ xử lí các thông tin thu thập được và đưa ra các kết quả về nhu cầu thị trường. Nhìn chung nhu cầu của khách hàng là rất đa dạng. Khách hàng của Công ty bao gồm trong và ngoài nước như Itochu (Nhật) S.k.Global (Hàn Quốc) Otto (Đức) DHGlobal (Hàn Quốc) Poongsin (Hàn Quốc) WinMark. Khách hàng nội địa là các nhà phân phối, bán buôn, lẻ, những người tiêu dùng cuối cùng và gia đình họ. Đối với khách hàng nước ngoài lượng hàng mua rất lớn mỗi năm xuất trung bình khoảng 4-5 triệu sản phẩm may mặc các loại. Hiện nay hàng của Công ty ít chịu ảnh hưởng của thời vụ do hàng được xuất cho các nhà nhập khẩu ở nhiều vùng địa lý khác nhau. Còn đối với thị trường nội địa, khách hàng của công ty ở rất nhiều lứa tuổi khác nhau và với các mức thu nhập khác nhau. Các sản phẩm của công ty phục vụ cho hầu hết tất cả các lứa tuổi, với các mức thu nhập khác nhau nhưng chủ yếu vẫn là cho những người có mức thu nhập trung bình. Từ năm 1990 trở về trước, Công ty sản xuất theo kế hoạch của Bộ chủ quản, mặc dù gặp nhiều khó khăn trong công tác tìm kiếm thị trường nhưng dưới sự lãnh đạo của Ban lãnh đạo Công ty đã luôn chủ động khai thác và mở rộng thị trường mặt hàng chủ yếu của Công ty bao gồm các loại áo sơ mi, áo măng tô, Pijama, áo mưa, quần Jeans, áo bò, quần áo dệt kim… Chính vì vậy, mà thị trường tiêu thụ của Công ty được xem là rất rộng tại rất nhiều vùng trong cả nước, đặc biệt là ngày nay, khi mà nhu cầu ăn mặc ngày càng được xem trọng. Sản phẩm của Công ty cũng đã được chính người tiêu dùng bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao. Trong những năm tới Công ty sẽ có kế hoạch đầu tư thêm trang thiết bị để cho ra đời những sản phẩm không những chỉ duy trì thị trường hiện nay mà còn mở rộng và chiếm lĩnh thị trường mới. 2. Công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm nội địa. Căn cứ vào chiến lược phát triển của công ty, vào tình hình thực tế sản xuất kinh doanh và tiêu thụ các năm trước, vào nhu cầu sản xuất kinh doanh và tiêu thụ năm tới, vào các thông tin thu được về thị trường nội địa và vào đề nghị của phòng kế hoạch mà Tổng giám đốc công ty May Thăng Long quyết định giao chỉ tiêu Tổng doanh thu nội địa. Biểu 1: Chỉ tiêu Tổng doanh thu nội địa năm 2005. (Đơn vị: triệu đồng). Năm 2002 2003 KH 2003 TH 2004 KH 2005 Tổng DTNĐ 21.325 21.524 23.800 20.000 23.600 Sau đó, dựa vào chỉ tiêu Tổng DTNĐ năm nay và tình hình tiêu thụ sản phẩm ở từng bộ phận trong các năm trước, Tổng GĐ mới ra quyết định giao khoán kế hoạch doanh thu cho từng bộ phận. Biểu 2: Kế hoạch Doanh thu nội địa năm 2005. (Đơn vị: triệu đồng). TT 2002 2003 KH 2004 TH2004 KH 2005 Tổng DTNĐ 21.325 21.524 23.880 20.000 23.600 (DT bán hàng NĐ Cty) 12.431 12.548 16.180 13.551 15.989 1. Phòng KDNĐ 5.357 5.407 6.000 5.025 5.932 - Phế liệu 373 377 418 350 413 2. CHTT (250 MK) 3.441 3.303 4.180 3.501 4.133 3. DT (TT- TM) 10.055 9.480 13.700 11.474 13.539 *TT TM 8.274 7.667 9.900 8.291 9.783 + DT hàng ngoài Cty 6.088 5.642 7.700 6.448 7.608 + DT hàng Cty 2.186 2.025 2.200 1.843 2.175 *CHTT (39 NQ) 1.504 1.247 1.800 1.508 1.779 *Chi nhánh TPHCM 277 566 2000 1.675 1.977 (Nguồn: Phòng kinh doanh nội địa). Sau khi nhận giao khoán, các bộ phận tự lập kế hoạch tiêu thụ cho bộ phận của mình căn cứ vào khả năng của bộ phận theo thời gian, theo từng mùa, vụ…, theo nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng… VD: CHTT (250 Minh Khai) được giao khoán 4.133.000.000 đồng trong năm 2003, cửa hàng lập kế hoạch mỗi tháng phải bán được là 344.417.000 đồng tiền hàng, mỗi quí phải tiêu thụ được khối lượng hàng giá trị là 1.033.250.000 đồng. 3. Chính sách giá cả nội địa. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay, giá cả là một vũ khí cạnh tranh có hiệu quả để Công ty có thể duy trì và phát triển được thị phần của mình. Nhằm phát triển hoạt động tiêu thụ trên thị trường nội địa Công ty rất quan tâm đến chiến lược giá cả của mình, chủ trương của Công ty là: “Bán được nhiều hàng, giữ được nhiều khách”. Do đặc điểm sản phẩm của Công ty là những sản phẩm có chất lượng cao về chất liệu, kiểu dáng sản phẩm lẫn trình độ kỹ thuật may, cho nên giá sản phẩm của Công ty khá cao. Sản phẩm tiêu thụ nội địa của Công ty có hai loại chính: Loại 1: Là các sản phẩm may xuất khẩu nhưng lại tiêu thụ trong nước. Loại sản phẩm này thường có giá cao do chất lượng vải nhập ngoại, tiêu thụ trong nước bị đánh thuế cao. Bù lại chất lượng sản phẩm cao, kiểu dáng, mẫu mã đẹp được nhiều người ưa chuộng. Ví dụ: Sơ mi Đức xuất khẩu nội địa, Sơ mi Pháp xuất khẩu nội địa, Jacket xuất khẩu nội địa 2 lớp, 3 lớp… Giá của các sản phẩm này dao động từ 100.000đ - 180.000đ/sơmi và từ 150.000đ - 375.000đ/jacket. Loại 2: Là các sản phẩm tiêu thụ nội địa được Công ty thiết kế may trên chất liệu vải nội nhưng vẫn đảm bảo chất lượng May cao. Những sản phẩm này có giá thấp hơn giá sản phẩm xuất khẩu tiêu thụ trên thị trường nội địa nhưng vẫn là tương đối cao. Ví dụ: áo khoác 2 lớp, 3 lớp, Sơmi Phong phú, sơ mi nội địa… Giá của các loại sản phẩm này dao động từ 100.000đ - 300.000đ/áo khoác, 50.000đ - 130.000đ/sơmi. Biểu 3: Giá một số sản phẩm tiêu thụ nội địa của Công ty. Tên sản phẩm Giá bán (đồng/chiếc) áo khoác 2 lớp JA 127 150.000 áo khoác 3 lớp JU 135 230.000 Sơ mi hộp Drim 120.000 Sơ mi Phong Phú 75.000 Sơ mi Đức dài tay 110.000 Quần Jean nam 110.000 (Nguồn: Cửa hàng giới thiệu sản phẩm). So với các đối thủ cạnh tranh khác như May 10, May Đức Giang, May Việt Tiến, May Nhà Bè… là các Công ty cũng có hình thức sản xuất kinh doanh như Công ty May Thăng Long thì giá cả của Công ty Thăng long có phần trội hơn. Công ty luôn cố gắng đầu tư Công nghệ hiện đại, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tìm nguồn vào chất lượng cao, giá thấp hơn… để giảm giá thành sản xuất. Để tăng cường tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nội địa, Công ty còn áp dụng chính sách giá cả khác nhau: Khách mua 100 - 300 sản phẩm được giảm giá 3% Khách mua 300 - 1000 sản phẩm được giảm giá 5% Khách mua 1000 - 2000 sản phẩm được giảm giá 7% Khách mua trên 2000 sản phẩm được giảm giá 10% Có thể nói với chính sách giá cả linh hoạt, hợp lý mà Công ty May Thăng Long áp dụng trong thời gian qua đã thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động tiêu thụ sản phẩm nội địa của Công ty. 4. Công tác phát triển mạng lưới tiêu thụ sản phẩm. Ngay từ khi xác định thị trường tiêu thụ nội địa là một thị trường đầy tiềm năng cần phải khai thác, công ty đã triển khai việc xây dựng mạng lưới bán hàng cho mình. Là một công ty lớn, sản phẩm có uy tín, chất lượng cao trong nước nhưng số sản phẩm của công ty chỉ chủ yếu tập trung vào đối tượng khách hàng có mức thu nhập tương đối khá nên thị trường của công ty chỉ tập trung ở các khu vực thành thị, đông dân và có mức sống cao như Hà Nội, Hải Phòng… Do vậy, công ty đã chọn cho mình phương thức phân phối theo hình thức chi nhánh, cửa hàng, đại lí bao gồm bán buôn, bán lẻ. Ban đầu, công ty xác định miền Bắc là thị trường chính, trong đó Hà Nội là thị trường mục tiêu. Sau xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường Hà Nội sẽ lấy đó làm bàn đạp để tiến sang các khu vực thị trường khác, cho nên công ty đã thiết lập các cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm, các đại lí tại Hà Nội như các cửa hàng thời trang công ty May Thăng Long, trung tâm thương mại Tràng Tiền Plaza, trung tâm thương mại và giới thiệu sản phẩm 39 Ngô Quyền, cửa hàng 39 Huỳnh Thúc Kháng, cửa hàng 20B Lê Thánh Tông, cửa hàng 307D Bạch Mai… Sau đó, công ty tiếp tục mở các cửa hàng, chi nhánh tại các tỉnh Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Nam Định, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh… Từ năm 1998 đến nay, số lượng các đại lí, cửa hàng của công ty đã tăng lên nhanh chóng. Biểu 4: Hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của công ty. Thị trường Số đại lí và cửa hàng So sánh 2001 2002 2003 2004 02/01 03/02 04/02 I. Miền Bắc 43 55 67 78 12 12 11 1. Hà Nội 30 38 40 42 8 2 2 2. Hải Phòng 4 5 7 8 1 2 1 3. Hải Dương 2 3 5 6 1 2 1 4. Vĩnh Phúc 1 1 2 3 0 1 1 5. Hoà Bình 1 1 2 3 0 1 1 6. Hà Tây 1 1 4 6 0 3 2 7. Tuyên Quang 1 1 1 1 0 0 0 8. Quảng Ninh 1 1 2 4 0 1 2 9. Nam Định 2 4 4 5 2 0 1 II. Miền Trung 6 8 9 12 2 1 3 1. Thanh Hoá 1 1 1 1 0 0 0 2. Vinh 1 1 2 3 0 1 1 3. Hà Tĩnh 1 1 1 1 0 0 0 4. Huế 1 2 2 3 1 0 1 5. Đà Nẵng 2 3 3 4 1 0 1 III. Miền Nam 1 3 4 6 2 1 2 Tp Hồ Chí Minh 1 3 4 6 2 1 2 Tổng 50 66 80 96 16 14 16 (Nguồn: Phòng kinh doanh nội địa công ty May Thăng Long). Qua bảng thống kê tình hình phát triển mạng lưới tiêu thụ nội địa của công ty, chúng ta thấy số lượng các cửa hàng, đại lí của công ty tăng lên nhanh chóng. Từ năm 2001 đến 2004, số lượng đã tăng từ 50 lên đến 96 cửa hàng, đại lí. Có thể nói, tốc độ tăng nhanh các cửa hàng, đại lí cuat công ty là tốt, song chủ yếu ở miền Bắc, đặc biệt là ở Hà Nội, năm 2001 có 30 đại lí, đến năm 2004 đã có 42 cửa hàng, đại lí. Hai miền Trung và Nam mức tăng còn quá chậm. Hiện nay công ty chỉ có 12 đại lí ở miền Trung và 6 đại lí ở miền Nam. Những con số cho thấy hiện nay công ty May Thăng Long đã đứng vững trên thị trường miền Bắc và chiếm lĩnh thị trường Hà Nộ nhưng công ty lại chưa thực sự thâm nhập đựoc vào thị trường miền Trung và đặc biệt là thị trường miền Nam. Sở dĩ số lượng các đại lí tăng nhanh như vậy là do công ty đã có những biện pháp nhằm khuyến khích các cá nhân, tập thể nhận làm đại lí tiêu thụ cho công ty. Các đại lí của công ty được quyền bán kèm theo các mặt hàng khác của công ty, đựoc công ty thanh toán cho một số tiền chi phí liên quan và hưởng hoa hồng bán hàng là 5% doanh thu. Đồng thời công ty còn có chính sách tiêu thụ sản phẩm như sau: Mọi áp của công ty đều được đảm bảo 100% chất lượng taị bất cứ cửa hàng nào và đều được gắn giá rõ ràng. Người môi giới bán được 100 sản phẩm trở lên thì được hưởng 1% doanh thu, nếu bán buôn thì được hưởng 2% doanh thu. Công ty thực hiện chế độ khoán doanh thu tiêu thụ theo từng thời điểm đối với các cửa hàng, đại lí: + Nếu doanh thu bán hàng vượt 1 - 20% doanh thu thì được hưởng 2% doanh thu. + Nếu doanh thu bán hàng vượt 20 – 25% doanh thu thì được hưởng 3% doanh thu. + Nếu doanh thu bán hàng vượt 50% thì được hưởng 5% doanh thu. Đây có thể nói là một phương thức hay, qua đó công ty có thể tăng khả năng duy trì và phát triển thị trường của mình. ở công ty chỉ mở các cửa hàng, đại lí cấp I, tức là công ty trực tiếp quản lí các cửa hàng, đại lí của mình. Sơ đồ 5: Mạng lưới bán hàng của công ty May Thăng Long. Công ty Cửa hàng Cửa hàng Đại lý Người tiêu dùng Do vậy, công ty luôn có thể giám sát tình hình tiêu thụ sản phẩm của đại lí, thông qua các đại lí này, công ty có thể tiếp cận với mọi đối tượng khác hàng (khách hàng hiện tại, khách hàng tiềm năng) của công ty, từ đó có các biện pháp tác động trực tiếp đến họ nhằm đẩy mạnh tiêu thụ. Để thuận lợi cho các đại lí và khách hàng nhằm thu hút khách hàng, mở rộng thị trường, công ty đã áp dụng linh hoạt nhiều hình thức thanh toán khác nhau như: trả bằng tiền mặt, séc, ngân phiếu trả ngay… tuỳ từng trường hợp mà công ty có các chế độ chiết khấu, tặng thưởng cho người mua với số lượng hàng lớn trả tiền ngay. Đối với các cửa hàng, đại lí hàng tháng có thể nộp toàn bộ doanh thu qua ngân hàng bằng chuyển khoản hoặc đem tiền đến cho công ty nộp và công ty sẽ thanh toán ngay tiền hoa hồng và các tiền thưởng khác. Chính vì thế mà công ty đã tăng được sản lượng bán của mình trên thị trường nội địa. 5. Hoạt động xúc tiến tiêu thụ sản phẩm ở công ty. Công tác xúc tiến là một công tác quan trọng giúp Công ty gây ảnh hưởng và lôi cuốn khách hàng, từ đó thực hiện việc phát triển hoạt động tiêu thụ. Quảng cáo giới thiệu sản phẩm: Để khách hàng, người tiêu dùng biết đến và ưa thích sản phẩm của mình, Công ty May Thăng Long thường tiến hành quảng cáo, giới thiệu sản phẩm trên các báo chí của Trung ương và địa phương, đồng thời Công ty còn cho xuất bản các Catalogue giới thiệu sản phẩm và hình ảnh của Công ty với sản phẩm mũi nhọn là Jacket, quần áo bò và sơ mi. Các hoạt động yểm trợ, khuếch trương nhằm gây ảnh hưởng rõ nét hơn trong tiêu thụ nội địa, đồng thời để thúc đẩy tiêu thụ, mở rộng thị trường, Công ty May Thăng Long rất tích cực tham gia các hội chợ triển lãm, giới thiệu sản phẩm như: hội chợ triển lãm Hàng tiêu dùng, hội chợ hàng Việt Nam chất lượng cao, hội chợ triển lãm Hàng hóa với chất lượng cuộc sống, hội chợ hàng Công nghiệp EXPO, hội chợ ngành may mặc Việt Nam ... Qua đó Công ty được người tiêu dùng biết đến nhiều hơn, hiểu hơn về Công ty, Công ty sẽ tiêu thụ nhiều hơn sản phẩm của mình, có thêm nhiều bạn hàng mới. Có thể nói đây là phương tiện quảng cáo có hiệu quả mà Công ty nên áp dụng. Ngoài các hoạt động trên Công ty còn có các hoạt động khác như: chào hàng, tham gia tài trợ cho các hoạt động thể thao, văn hoá của địa phương, khu vực và tham gia tích cực các phong trào, các hội thi do Ngành, Bộ, Tổng Công ty tổ chức. Sự kết hợp đồng bộ các hoạt động trên đã góp phần thúc đẩy hoạt động tiêu thụ trên thị trường nội địa của Công ty một cách đáng kể III/ Kết quả tiêu thụ sản phẩm may mặc của công ty. 1. Tình hình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm qua các năm. Trong 3 năm gần đây, Công ty May Thăng Long đã tập trung đầu tư rất lớn vào việc đẩy mạnh xuất khẩu, vì vậy, thị trường tiêu thụ nội địa đang là thị trường bỏ ngỏ mà Công ty chưa khai thác được triệt để. Năm 2002, Công ty May Thăng Long đã tiêu thụ trên thị trường nội địa được 466 sản phẩm, trong khi đó, năm 2004 số sản phẩm này chỉ còn 363 sản phẩm. Biểu 6: Tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. (Đơn vị: 1000 sản phẩm) TT SP chính 2002 2003 2004 SX TTNĐ % SX TTNĐ % SX TTNĐ % Tổng 3.670 466 12,7 4.065 591 14,5 5.390 363 6,7 1. SP dệt kim 1.137 87 7,6 1.257 111 8,8 1.667 68 4,1 2. Jacket 400 35 8,7 443 44 9,9 587 27 4,6 3. Sơmi 481 65 16,2 533 82 18,5 706 50 7,1 4. Quần 891 199 22,3 987 252 25,5 1.308 155 11,9 5. Quần áo khác 761 80 10,5 845 102 12 1.131 63 5,6 (Nguồn: Phòng kinh doanh nội địa công ty May Thăng Long). Qua bảng trên chúng ta có thể nhận thấy một thực tế rằng: Tình hình tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nội địa so với thị trường xuất khẩu là rất thấp và không có sự phát triển đồng đều. Năm 2002, tiêu thụ nội địa chiếm 12,7% tổng số sản phẩm, năm 2003, tiêu thụ nội địa tăng lên và chiếm 14,5% tổng số sản phẩm, tuy nhiên, năm 2004 con số này giảm xuống chỉ còn 6,7%. Trong khi đó, kế hoạch dự kiến của Công ty cho năm 2005, số % sản phẩm tiêu thụ nội địa là 626/5700*100% = 10,98% chứng tỏ rằng Công ty May Thăng Long trong những năm tới vẫn chưa tập trung vào phát triển thị trường nội địa. So với các sản phẩm khác, sản phẩm quần được Công ty chú trọng tiêu thụ trong thị trường nội địa hơn cả, tuy nhiên, so với Tổng sản lượng thì vẫn còn rất nhỏ (chỉ chiếm 11,9% năm 2004) và cũng như các sản phẩm khác, sản phẩm quần cũng không được phát triển đồng đều trên thị trường nội địa. Năm 2004, trên thị trường nội địa, do có sự ra đời hàng loạt của các Công ty cổ phần, công ty tư nhân, với mẫu mã, chủng loại, giá cả rất đa dạng và linh hoạt, mặt khác hàng nhập lậu vẫn tiếp tục gia tăng, nên sản phẩm của Công ty May Thăng Long tuy sản xuất lớn hơn các năm trước rất nhiều nhưng tiêu thụ trên thị trường nội địa lại giảm đòi hỏi Công ty phải liên tục thay đổi các chính sách đối với giá cả, đầu tư đúng mức vào nghiên cứu mẫu mã để phù hợp hơn với phong tục, tập quán của người Việt Nam. 2. Tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ. Sản phẩm tiêu thụ nội địa chính của công ty là áo Jacket, quần áo bò, áo sơ mi, dệt kim các loại. Công ty tiến hành theo dõi mặt hàng theo lượng hàng hoá tồn kho. áo sơ mi và Jacket là những sản phẩm chất lượng của công ty và là sản phẩm rất có uy tín trên thị trường trong nước và nước ngoài. Từ biểu 14 dưới đây ta thấy, số lượng tiêu thụ sản phẩm áo sơ mi trên thị trường nội địa đạt 65.000 chiếc, chiếm 13,9% so với tổng số lượng hàng tiêu thụ nội địa năm 2000 và tăng lên 82.000 chiếc, chiếm 13,8%. Jacket cũng đạt được 35.000 chiếc năm 2000 và tăng lên đến 44.000 chiếc năm 2001. Tuy nhiên, đến năm 2002, hai mặt hàng này giảm đáng kể, xuống còn 27.000 áo sơ mi và 50.000 áo Jacket, chỉ bằng 0,57 lần và 0,54 lần so với kế hoạch đề ra. Hàng dệt kim và quần áo các loại khác chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản phẩm bán ra nhưng tốc độ tăng chậm. Số lượng tiêu thụ các loại sản phẩm năm 2002 có chiều hướng._. giảm dẫn đến tổng số lượng tiêu thụ các mặt hàng giảm đáng kể. Điều đó cho thấy công ty cần phải theo dõi và điều chỉnh kịp thời để tăng cường tiêu thụ sản phẩm, giảm tồn kho. Biểu7: Tình hình tiêu thụ sản phẩm may mặc. (Đơn vị: 1000sp ). TT SP chính 2002 2003 2004 KH TH TH KH KH TH TH KH Tổng 466 550 591 1,14 620 363 0,59 1. SP dệt kim 87 97 111 1,11 120 68 0,57 2. Jacket 35 42 44 1,05 50 27 0,54 3. Sơmi 65 79 82 1,04 87 50 0,57 4. Quần các loại 199 238 252 1,06 259 155 0,59 5. Quần áo khác 80 95 102 1,07 104 63 0,61 (Nguồn: Phòng kinh doanh nội địa công ty May Thăng Long). Do sản lượng của Công ty bán ra trên thị trường nội địa qua các năm không được đồng đều, điều đó kéo theo doanh thu trên thị trường nội địa tăng giảm cũng không đồng đều. Biểu dưới đây cho ta thấy, % doanh thu trên thị trường nội địa so với Tổng doanh thu lớn hơn % sản lượng tiêu thụ trên thị trường nội địa so với Tổng sản lượng. Lý do chính không phải do giá sản phẩm tiêu thụ trên thị trường nội địa cao hơn giá xuất khẩu, mà do các sản phẩm xuất khẩu phần lớn được các nhà đầu tư nước ngoài cung cấp NVL vì vậy, trong phần doanh thu xuất khẩu này chỉ gồm chi phí gia công. Biểu8: Doanh thu nội địa của công ty May Thăng Long. (Đơn vị: triệu đồng). Năm 2002 2003 2004 KH TT TT KH KH TT TT KH TDT 112.170 133.000 130.378 98% 156.388 160.239 102,46% DTNĐ 21.325 24.000 21.524 89,7% 23.880 20.485 85,87% DTNĐ TDT 19,01% 18,04% 16,5% 15,27% 12,78% (Nguồn: Phòng kinh doanh nội địa công ty May Thăng Long). Nhìn chung kế hoạch đặt ra của Công ty May Thăng Long khá sát so với tình hình thực tế tổng doanh thu Công ty thu được. Tình hình thực hiện TDT trong 2 năm 2003 và 2004 đều đạt 98% và 102,46% so với kế hoạch đặt ra. Điều đó cho thấy Công ty đã có rất nhiều kinh nghiệm trong việc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Tuy nhiên, tỉ lệ thực hiện DTNĐ so với kế hoạch vẫn chưa thực sát, mới chỉ đạt 89,7% và 85,87% trong các năm 2003 và 2004, chứng tỏ việc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm nội địa chưa thực sự tốt, còn nhiều kẽ hở, công tác khai thác thị trường nội địa của công ty vẫn còn chưa đúng mức, đạt hiệu quả chưa cao, đòi hỏi công ty phải quan tâm, đầu tư, nghiên cứu thị trường nội địa nhiều hơn nữa. 3. Tình hình tiêu thụ sản phẩm may mặc theo khu vực thị trường. Thị trường tiêu thụ sản phẩm nội địa của Công ty May Thăng Long phân bố trên phạm vi cả nước. Sản phẩm của Công ty được tiêu thụ chủ yếu trên thị trường miền Bắc, tiêu thụ tại thị trường miền Nam và miền Trung chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Biểu 9: Tình hình tiêu thụ theo khu vực Chỉ tiêu 2002 2003 2004 So sánh DT SL (1000 sp) DT (triệu đồng) SL (1000 sp) DT (triệu đồng) SL (1000 sp) DT (triệu đồng) 2001 2000 (%) 2002 2001 (%) Thị trường miền Bắc 433,39 19.832,2 561,79 20.424,1 337,47 19.44 102,98 93,24 -SP dệt kim 84 3.187,84 106 3.253 65 3.094,76 102,04 95,14 -Jacket 32,3 4.329,3 43,4 4.407,8 25,15 4.120,19 101,81 93,47 -Sơ mi 57 4.905,26 70 5.089,7 44,3 4.774 103,76 93,80 -Quần 188 5.988 246 6.173,6 146,39 5.673,79 103,1 91,9 -Quần áo khác 72,09 1.421,8 96,39 1.500 56,63 1.381,26 105,5 92,08 Thị trường miền Trung 8,34 381,75 7,12 295,31 6,62 373,73 77,35 126,55 -SP dệt kim 2,3 70,58 2 61,37 1,62 60,85 86,95 99,15 -Jacket 0,6 63,7 0,5 53,08 0,27 45,9 83,33 86,47 -Sơ mi 2,04 167,91 1,2 101,96 2,51 202,59 60,72 198,7 -Quần 2,8 70,26 2,7 67,7 1,7 55,2 96,36 81,53 -Quần áo khác 0,6 9,3 0,72 11,2 0,52 9,19 120,43 82,05 Thị trường miền Nam 24,27 1.111,05 22,09 804,59 18,91 1.067,27 72,41 132,64 -SP dệt kim 5 133,44 4 128,06 3,8 116,61 95,96 91,05 -Jacket 0,08 8,49 0,1 8,06 0,03 6,18 94,93 76,67 -Sơ mi 10,5 818,56 8,8 511,57 9,3 811,82 62,49 158,69 - Quần 3,5 81,8 3,3 80,81 2,91 78 98,78 96,52 -Quần áo khác 5,19 68,76 5,89 76,09 2,87 54,66 110,66 71,83 Tổng 466 21.325 591 21.524 363 20.485 100,93 95,17 (Nguồn: Phòng Kinh doanh nội địa - Công ty May Thăng Long) Thị trường miền Bắc: Đây là khu vực thị trường chủ yếu của Công ty. Năm 2002, chiếm khoảng 92,99% trong Tổng doanh thu nội địa. Năm 2003, chiếm khoảng 94,89% trong Tổng doanh thu nội địa. Năm 2004, chiếm khoảng 92,97% trong Tổng doanh thu nội địa. Sở dĩ thị trường miền Bắc chiếm tỉ trọng trong Tổng doanh thu lớn như vậy là do Công ty đã xác định thị trường này là thị trường mục tiêu của mình trong đó thị trường Hà Nội là trọng điểm. Hiện nay, công ty đã xây dựng một mạng lưới tiêu thụ rộng khắp miền Bắc, tập trung ở các tỉnh: Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định… Mức tiêu thụ ở các khu vực này tăng vì nhìn chung thu nhập của người dân ở đây khá cao, có nhu cầu về may mặc lớn và do sản phẩm của Công ty đã có uy tín trên các thị trường này. Trên thị trường miền Bắc Công ty đã xây dựng được hình ảnh khá nổi bật về uy tín, chất lượng sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm mũi nhọn như áo Jacket, áo sơmi, hàng dệt kim… ở miền Bắc, Công ty không có nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh. Các công ty Đức Giang và May 10 cũng có tầm vóc lớn nhưng cạnh tranh chủ yếu với Công ty trên thị trường xuất khẩu. Trong nước, sản phẩm chính của may Đức Giang là quần áo các loại cấp thấp, còn của May 10 sản phẩm chính là áo sơmi. Trong thời gian tới, khi hai Công ty này lắp đặt và đưa vào dây chuyền sản xuất áo Jacket có chất lượng cao thì đây là những đối thủ cạnh tranh mạnh của Công ty May Thăng Long. Thị trường miền Trung: đây là khu vực thị trường có sức mua thấp, mức sống chưa cao và một phần do Công ty chưa thành lập mạng lưới phân phối hoàn chỉnh ở đây. Mặt khác, do sản phẩm tiêu thụ của Công ty là hàng chất lượng cao, giá khá cao so với chất lượng chung của vùng này, nên sản phẩm tiêu thụ của công ty bị các hàng chất lượng thấp, giá thấp cạnh tranh mạnh, đặc biệt là các hàng may sẵn của cơ sở tư nhân, hàng Trung Quốc, Lào, Campuchia nhập lậu. Tại thị trường này, công ty tiêu thụ chủ yếu là các sản phẩm hàng dệt kim, áo sơ mi, quần…nhưng áo Jacket thì lại tiêu thụ được rất ít do khí hậu miền Trung chủ yếu là nóng, khô . Tuy nhiên, đây cũng là thị trường tiềm năng của công ty trong thời gian tới. Để có thể chiếm lĩnh được thị trường này, công ty cần phải đa dạng hoá sản phẩm, sản xuất các sản phẩm phù hợp hơn với người dân trong vùng. Thị trường miền Nam: Đây là thị trường có sức mua rất lớn, nhu cầu phong phú và đa dạng nhưng lại có sự cạnh tranh gay gắt. Đối thủ cạnh tranh của công ty trên thị trường miền Nam rất nhiều, riêng ở thành phố Hồ Chí Minh có tới hơn 200 doanh nghiệp may sẵn, hơn 500 cơ sở may tư nhân. Đối thủ chính và mạnh có thể kể đến các công ty May Việt Tiến, Việt Thắng, Nhà Bè, Sài Gòn, Legamex… Do tính chất khí hậu tại khu vực này là nóng ẩm nên sản phẩm áo Jacket tiêu thụ trên thị trường này rất ít, chủ yếu là sơ mi và hàng dệt kim. Thị trường miền Nam là một thị trường mới, nhiều tiềm năng của công ty, công ty cần phải đầu tư nghiên cứu để mở rộng, phát triển thị trường này. 4. Tình hình tiêu thụ theo các kênh. Trên thị trường nội địa, công ty sử dụng 3 kênh phân phối: + Kênh 1: Công ty--> Người bán buôn--> Người bán lẻ--> Người tiêu dùng. + Kênh 2: Công ty --> Cửa hàng thời trang --> Người tiêu dùng. + Kênh 3: Công ty --> Người tiêu dùng. Kênh 1: Là kênh phân phối chính mà công ty rất chú trọng khai thác. Công ty trực tiếp điều khiển và chi phối kênh này bằng việc trực tiếp giao hàng cho các đại lí, các cửa hàng và các nơi bán lẻ với mức giá chung và ổn định. Người bán buôn đối với một số mặt hàng có tính thời điểm như mốt áo bò hay quần bò mới, những người bán buôn có thể là những người điều khiển, họ khống chế những điểm bán lẻ bằng giá hoặc lượng phân phối. Ví dụ như một số sản phẩm quần bò chỉ thấy xuất hiện ở phố Trần Nhân Tông, còn ở phố Hàng Đào và một số cửa hàng khác lại không thấy bán. Thực ra những người bán hàng của công ty tự tổ chức các hoạt động bán hàng và phân phối. Điều này làm cho công ty có hạn chế là rất khó kiểm soát và can thiệp vào sự vận động của sản phẩm của mình tới điểm bán lẻ hay tới người tiêu dùng. Công ty áp dụng kênh phân phối này chủ yếu đối với những nơi xa địa điểm của công ty. Kênh 2: Là kênh chủ yếu để công ty giới thiệu các sản phẩm thời trang và các sản phẩm mới của công ty. ở kênh này, sản phẩm của công ty được bán ra với giá cao hơn so với sản phẩm bán ra ở kênh 1. Chủ yếu là phục vụ những người có thu nhập khá, có khả năng chạy theo mốt. Kênh 3: Đây là kênh phân phối của công ty mang tính truyền thống, là kiểu phổ biến nhất của công ty. Người tiêu dùng ở đây thường là một tổ chức, một nhóm người, họ đặt hàng trực tiếp đối với công ty để phục vụ cho chính họ. Công ty sử dụng kênh này để sản xuất và phân phối sản phẩm như quần áo bảo hộ lao động, đồng phục học sinh, sinh viên, đồng phục cho các cơ quan, tổ chức có nhu cầu. Hạn chế của kênh này là chưa đủ khả năng giới thiệu và bán sản phẩm mới. Biẻu 10: Tình hình tiêu thụ sản phẩm theo kênh phân phối. Chỉ tiêu 2002 2003 2004 SL (1000 SP) DT (triệu đồng) % DT SL (1000 SP) DT (triệu đồng) % DT SL (1000 SP) DT (triệu đồng) % Tiêu thụ nội địa 466 21.325 100 591 21.524 100 363 20.485 100 Kênh 1 325 14.888 69.8 451 15.382 71,6 230 14.002 68,4 Kênh 2 102 4.945 23,2 96 4.550 21,1 97 5.009 24,4 Kênh 3 39 1.492 7 44 1.592 7,3 36 1.474 7,2 (Nguồn: Phòng Kinh doanh nội địa công ty May Thăng Long). Từ biểu trên ta thấy, tình hình tiêu thụ qua các kênh không đồng đều. Kênh 2 có xu hướng tăng, từ năm 2002 đến năm 2003 tăng 101,29% trong khi kênh 1 và kênh 3 có xu hướng giảm cả về số lượng lẫn giá trị. Tuy nhiên kênh 1 vẫn là kênh tiêu thụ chính của Công ty. 5. Tình hình tiêu thụ theo khách hàng. Phân tích tình hình tiêu thụ theo khách hàng là rất cần thiết cho công tác nghiên cứu, phân tích thị trường, để từ đó công ty có thể lên kế hoạch thiết kế các mẫu mã, sản xuất và tiêu thụ cho phù hợp với nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng. Biểu 11: Tình hình tiêu thụ theo khách hàng trên thị trường nội địa. TT SP chính 2002 2003 2004 Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ SL (1000 SP) DT (triệu đồng) SL (1000 SP) DT (triệu đồng) SL (1000 SP) DT (triệu đồng) SL (1000 SP) DT (triệu đồng) SL (1000 SP) DT (triệu đồng) SL (1000 SP) DT (triệu đồng) 1. Quần áo trẻ em 44 2.013 16,5 755 70 2.365 25,5 858 49,5 1.793 16,7 782 -SP dệt kim 9 7 15 13 11 9,7 -Quần 30 6 49 7 35 4 -Quần áo khác 5 3,5 6 5,5 3,5 3 2. Quần áo người lớn 213 9.747 192,5 8.810 292 10.818 203,5 7.483 179,5 11.130 115,3 6.780 -SP dệt kim 21 40 34 49 27 20,3 -Jacket 12 23 18 26 12 15 -Sơ mi 65 0 82 0 50 0 -Quần các loại 100 60 132 64 70 44 -Quần áo khác 15 56,5 26 64,5 20,5 36 Tổng 257 11.760 209 9.565 362 13.183 229 8.341 229 12.923 134 7.562 (Nguồn: Phòng kinh doanh nội địa công ty May Thăng Long). Từ biểu trên ta thấy, tình hình tiêu thụ sản phẩm không đồng đều qua các năm. Sản phẩm sơ mi của công ty chủ yếu may cho nam giới ở lứa tuổi người lớn. Sản phẩm dành cho trẻ em thường gồm có các sản phẩm dệt kim, quần các loại và các quần áo khác chứ không có sản phẩm áo Jacket. Công ty sản xuất quần áo qua các năm chủ yếu cho người lớn, số lượng sản xuất quần áo cho trẻ em có biến động nhưng không đáng kể. Quần áo dành cho người lớn vẫn là mặt hàng tiêu thụ chính của công ty. Một số loại mặt hàng nữ giới vẫn chiếm ưu thế hơn như sản phẩm dệt kim, áo Jacket, các loại quần áo khác. Nhìn chung năm 2004 tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty bị giảm sút, đòi hỏi công ty còn cần phải đầu tư nghiên cứu thị trường, tìm hiểu thị hiếu của khách hàng, đổi mới công nghệ kĩ thuât… để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. 6. Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả tiêu thụ. Nhân tố khách quan. Đó là các chủ trương, chính sách, biện pháp của Nhà nước can thiệp vào thị trường, tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng quốc gia và của từng thời kì mà Nhà nước có sự can thiệp khác nhau. Song các biện pháp chủ yếu và phổ biến sử dụng là: thuế ưu đãi, quỹ bình ổn giá cả, trợ giá, lãi suất tín dụng…và những nhân tố tạo bởi môi trường kinh doanh như cung cấp cơ sở hạ tầng bao gồm cơ sở hạ tầng về kinh tế, về chính trị, về xã hội. Tất cả đều tác động trực tiếp đến quan hệ cung cầu và môi trường kinh doanh của công ty. Thị trường: Thị trường là nơi doanh nghiệp tìm kiếm các yếu tố đầu vào và đầu ra cho quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Bất cứ một sự biến đổi nào của thị trường cũng đều ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà trực tiếp nhất là tới công tác tiêu thụ sản phẩm. Trên thị trường quan hệ cung cầu và giá cả ảnh hưởng trực tiếp tới công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty như: khối lượng hàng hoá, vải vóc, nguyên vật liệu, nguyên phụ liệu, các chủng loại sản phẩm, giá bán, thời điểm bán… Công ty không thể tự động đặt ra giá bán mà phải dựa vào giá cả nguyên vật liệu, giá nhân công, giá của đối thủ cạnh tranh… và phải tuân theo trạng thái cung cầu: Cung > Cầu thì giá cả phải lớn hơn giá trị, Cung < Cầu thì giá cả lớn hơn giá trị, Cung = Cầu thì giá cả tương đối bằng giá trị. Qui mô của thị trường cũng ảnh hưởng tới công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty theo tỉ lệ thuận tức là qui mô của công ty càng lớn thì khả năng tiêu thụ sản phẩm và khả năng thu lợi càng lớn. Tuy nhiên, thị trường lớn thì sức ép của thị trường và đối thủ cạnh tranh càng lớn theo, yêu cầu chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp cũng sẽ lên cao. Ví dụ như thị trường xuất khẩu sang Mỹ về may mặc là một thị trường lớn nhưng cạnh tranh rất gay gắt. Mỹ đưa ra một giới hạn hạn ngạch xuất khẩu nhất định và Bộ Thương Mại sẽ căn cứ vào khả năng của từng công ty mà phân bổ chỉ tiêu hạn ngạch. Năm vừa qua, với năng lực sản xuất lớn, đáp ứng đầy đủ yêu cầu về số lượng, chất lượng sản phẩm và tiến độ sản xuất nên năm nay Công ty May Thăng Long đã được Bộ Thương Mại phân bổ một chỉ tiêu lớn hơn, làm tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm của công ty trên thị trường. Hiện nay trên thị trường Việt Nam có rất nhiều các công ty, các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân cùng hoạt động trên lĩnh vực may mặc, đấy là chưa kể đến rất nhiều các hãng may mặc nước ngoài thâm nhập vào thị trường nước ta. Chính vì thế mà mức độ cạnh tranh trên thị trường này là rất gay gắt. Để giữ vững thị phần của mình trên thị trường và phát triển ổn định không phải là một điều đơn giản. Tuy nhiên, với sự năng động và sáng tạo, công ty vẫn luôn nghiên cứu và tạo ra những sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, khẳng định được vị thế của mình trên thị trường nội địa. Thu nhập dân cư: Thu nhập dân cư tác động đến công tác tiếp thị sản phẩm của công ty thông qua khả năng thanh toán, cơ cấu chi tiêu của hộ gia đình. Các sản phẩm của công ty chủ yếu là sản phẩm phục vụ cho giới bình dân nên giá tương đối rẻ. Thêm nữa, phương thức thanh toán hiện nay chủ yếu là phương thức thanh toán bằng tiền mặt nên với mức giá tương đối rẻ như vậy sẽ giúp cho người tiêu dùng có khả năng thanh toán ngay và phù hợp với cơ cấu chi tiêu của họ, làm tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm của công ty. Nhân tố về chính trị- xã hội: Thể hiện qua chính sách tiêu dùng, quan hệ ngoại giao, tình hình đất nước, sự phát triển dân số, trình độ văn hoá, lối sống… các nhân tố này biểu hiện nhu cầu của người tiêu dùng, là những nhân tố bất khả kháng đối với công ty. Còn lại các yếu tố khác chỉ cần công ty điều tra tìm hiểu kĩ thì có thể đưa ra được chính sách hợp lí, tại các kênh lưu thông phù hợp làm tăng thêm khả năng tiêu thụ. Với các chính sách mở rộng quan hệ ngoại giao của nước ta hiện nay, công ty May Thăng Long đã có thêm nhiều bạn hàng mới như Nhật, Mỹ, Hàn Quốc, Châu âu, Irag… Nhưng trong thời gian qua, sự kiện cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Irag đã làm giảm đáng kể lượng hàng xuất khẩu sang Irag của công ty. Sau khi Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ được kí kết, một thị trường mới đã mở ra ngành may mặc nói riêng cũng như các ngành khác nói chung. Công ty May Thăng Long đã xuất khẩu sang thị trường Mỹ với một khối lượng hạn ngạch lớn, làm tăng đáng kể khả năng tiêu thụ sản phẩm của công ty. Ngoài ra, sự gia tăng dân số cũng ảnh hưởng đáng kể tới khả năng tiêu thụ sản phẩm của công ty May Thăng Long. Các sản phẩm của công ty chủ yếu tiêu thụ mạnh tại các tỉnh, thành phố đông dân cư như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình…Hay ngay như tại Hà Nội, số lượng sản phẩm tiêu thụ tại các quận Hai Bà Trưng, Đống Đa (nơi tập trung đông dân nhất thành phố) vẫn cao hơn so với các quận khác trong nội thành. Nhân tố địa lí, thời tiết, khí hậu: Yếu tố địa lí, thời tiết, khí hậu ảnh hưởng rất lớn đến các tầng lớp dân cư và do vậy nó tác động đến chủng loại, cơ cấu hàng hoá trên thị trường. Tuỳ theo thời tiết khí hậu của từng vùng mà công ty tăng cường tiêu thụ các mặt hàng sản phẩm cho phù hợp. Việt Nam là một đất nước nhiệt đới nóng ẩm, chịu ảnh hưởng của gió mùa. Tại các tỉnh miền Bắc có khí hậu 4 mùa rõ rệt xuân, hạ, thu, đông, công ty chú trọng phát triển tiêu thụ các sản phẩm qua cả 4 mùa như áo Jacket vào mùa đông, áo dệt kim dài tay vào mùa xuân và mùa thu, áo dệt kim và áo sơ mi cộc tay vào mùa hè, các loại áo sơ mi dài tay, các loại quần trên cả bốn mùa. Còn tại các tỉnh miền Trung và Đông Nam bộ thì do thời tiết khí hậu có hai mùa mưa và khô nên công ty chú trọng phát triển tiêu thụ chủ yếu là các loại sơ mi, hàng dệt kim và các loại quần. Thời tiết khí hậu ở các vùng này thường là nóng nên hàng Jacket ít được tiêu thụ. Môi trường công nghệ: Ngày nay, với tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, ngày càng có nhiều những công nghệ mới phục vụ cho việc sản xuất hàng hoá với những tính năng kĩ thuật mới, hiện đại, cho năng suất cao. Và với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, với những yêu cầu ngày càng cao về chất lượng hàng hoá của người tiêu dùng thì việc đổi mới công nghệ là một điều tất yếu. Mỗi môi trường công nghệ đều có những đòi hỏi về chất lượng, hàng hoá, mẫu mã, hình thức, chủng loại sản phẩm và đi kèm đó là giá cả; tính chất của môi trường công nghệ cũng liên quan đến vật liệu chế tạo ra sản phẩm, sự đầu tư kĩ thuật… và qua đó giá cả được thiết lập. Đầu tư những máy móc công nghệ cao giúp tạo ra được những sản phẩm có chất lượng cao hơn, với năng suất cao, tốc độ nhanh, tiết kiệm được nhiều chi phí đầu vào, giúp hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Chính vì thế, để giữ vững được thị phần của mình trên thị trường và mở rộng qui mô phát triển thì đầu tư công nghệ dường như là một điều tất yếu. Nhân tố chủ quan. Đó là nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp, lực lượng sản xuất, dây chuyền công nghệ, trình độ quản lí, chất lượng sản phẩm. * Chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là hệ thống những đặc tính nội tại của sản phẩm được xác định bằng những thông số có thể đo được hoặc so sánh được phù hợp với những điều kiện kĩ thuật hiện tại và thoả mãn nhu cầu nhất định của xã hội. Trong cơ chế hiện nay, chất lượng sản phẩm là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển, ngoài việc phát huy tối đa các khả năng sản xuất còn cần phải coi trọng, tập trung đầu tư vào chất lượng sản phẩm, có như vậy mới tạo được ưu thế trong tiêu thụ vì khách hàng đòi hỏi chất lượng ngày càng cao. Nếu công ty không đổi mới kĩ thuật công nghệ sản xuất, đưa ra thị trường những sản phẩm kém chất lượng thì công ty sẽ nhanh chóng bị tẩy chay, nhất là khi sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác có chất lượng cao hơn. Nhận thức rất rõ vấn đề này, Công ty May Thăng Long đặc biệt coi trọng vấn đề chất lượng sản phẩm. Ngày 15/11/1998, Đảng uỷ và lãnh đạo công ty đã quyết định xây dựng hệ thống quản lý chất lượng của công ty theo tiêu chuẩn ISO 9002. Sau đó, công ty đã tiến hành đào tạo cán bộ chủ chốt các phòng ban, các xí nghiệp thành viên, xây dựng hệ thống văn bản và phổ biến đến toàn bộ cán bộ công nhân viên công ty nhằm quán triệt và triển khai trên tất cả các công đoạn sản xuất. Ngày 25/12/1999, công ty đã được BVQI Việt Nam đến đánh giá và chứng nhận. Căn cứ vào kết quả đánh giá, công ty tiếp tục hoàn thiện các quy trình tìm tài liệu, tìm biện pháp khắc phục những thiếu sót để phù hợp với tiêu chuẩn ISO 9002 và kết quả là ngày 10/4/2001 BVQI Vương Quốc Anh đã cấp chứng chỉ công nhận hệ thống quản lý chất lượng của công ty đạt tiêu chuẩn ISO 9002. Như vậy, Công ty đã xây dựng thành công hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9002, và không ngừng xây dựng và phát triển, đến tháng 10 năm 2002, công ty đã chuyển phiên bản ISO 1994 sang phiên bản ISO 2000. * Giá cả sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường, “giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời biểu hiện tổng hợp các quan hệ kinh tế như quan hệ cung cầu tích luỹ và tiêu dùng”. Giá cả có ảnh hưởng rất lớn tới khâu tiêu thụ bởi vì giá cả cao thì tiêu thụ sẽ khó, số lượng hàng hoá bán sẽ giảm và ngược lại. Nhưng nếu giá cả thấp cũng sẽ ảnh hưởng tới thị trường, gây nghi ngờ cho khách hàng về chất lượng. Mỗi sản phẩm của Công ty May Thăng Long đều có một mức giá như nhau tại bất kì cửa hàng, đại lí nào của công ty trên toàn quốc.Với mỗi sản phẩm, Công ty đều nghiên cứu mọi khía cạnh của sản phẩm, của thị trường, của các đối thủ cạnh tranh để đưa ra một mức giá phù hợp nhất. Công ty cũng luôn lắng nghe, tiếp thu ý kiến của người tiêu dùng để điều chỉnh mức giá sản phẩm sao cho phù hợp, phục vụ người tiêu dùng một cách tối ưu nhất. * Phương thức thanh toán. Nhân tố này ảnh hưởng không nhỏ đến công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty. Trong phương thức thanh toán với khách hàng, nếu công ty đa dạng hoá phương thức thanh toán, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thanh toán thì công ty sẽ lôi kéo được khách hàng tiêu thụ sản phẩm của mình. Ngược lại, phương thức thanh toán khó khăn, phiền hà, không thuận lợi sẽ làm cho khách hàng tìm đến các công ty cùng ngành khác. Hiện nay, May Thăng Long cũng đã áp dụng nhiều phương thức thanh toán khác nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng. Đối với người tiêu dùng và các cửa hàng bán lẻ, bán buôn, Công ty áp dụng hình thức thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán ngay. Đối với các đại lí, cửa hàng Công ty có thể áp dụng nhiều hình thức thanh toán như trả tiền ngay…, nhưng thường là đưa hàng trước, đến cuối tháng thanh toán theo số lượng tiêu thụ sản phẩm. * Thời gian. Thời gian cũng là yếu tố quan trọng đối với công ty khi tiêu thụ sản phẩm. Đó là thời cơ để công ty chiếm lĩnh thị trường. Nếu sản phẩm sản xuất ra không đảm bảo thời gian, tiến độ yêu cầu của khách hàng hoặc xuất ra không đúng thời điểm thì nhu cầu sẽ giảm, khách hàng sẽ đi tìm sản phẩm cùng loại ở các công ty khác. Vì vậy, đảm bảo tiến độ sản xuất và giao hàng là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển của công ty. IV/ Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Trong những năm qua, Công ty may Thăng Long đã không ngừng đổi mới toàn diện mình như đổi mới trang thiết bị, đào tạo công nhân lao động kỹ thuật, đổi mới bộ máy quản lý, xắp xếp lại tổ chức, tinh giảm biên chế ... thêm vào đó lại được quyền xuất khẩu trực tiếp. Quan trọng hơn cả là Công ty đã được Tổ chức chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng BVQI (Vương quốc Anh) chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng của Công ty đạt tiêu chuẩn ISO 9002 nên tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty đã luôn vượt kế hoạch. Mặc dù trong thời điểm này môi trường cạnh tranh rất khốc liệt, biến động thị trường lớn nhưng dựa vào đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, tăng cường và tổ chức tốt việc phối hợp hoạt động giữa các tổ chức Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể, Công ty may Thăng Long có những kết quả đáng mừng. Luôn là đơn vị đi đầu nghành về tỷ lệ sản xuất hàng FOB cụ thể là dược Bộ công nghiệp và Tổng công ty dệt may Việt Nam tặng bằng khen đơn vị có tỷ lệ FOB cao nhất nghành. Có nhiều sản phẩm chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế như áo sơ mi, Jacket, quần âu, quần áo dệt kim. Thị trường của Công ty không ngừng được mở rộng. Hiện nay, Công ty đã có quan hệ với 80 hãng thuộc 40 quốc gia khác nhau trên toàn thế giới trong đó bao gồm cả Mỹ, Nhật và Tây Âu. Sức sản xuất hàng năm là 5 triệu sản phẩm sơ mi quy chuẩn, tốc độ đầu tư tăng trung bình là 59%/năm, tốc độ tăng bình quân nộp ngân sách là 25%, tốc độ tăng doanh thu bình quân là 20%, tốc độ tăng bình quân kim ngạch xuất khẩu là 23%.Trong năm 2002 này, công ty đã đạt: Tổng doanh thu gần 157 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2001. Thu nhập bình quân đầu người là 1.100.000 đồng /người/tháng, tăng 10% so với năm 2001. Với những kết quả khả quan như vậy, Đảng bộ công ty liên tục từ năm 1982 đến nay được Quận uỷ Hai Bà Trưng và Đảng uỷ khối Công nghiệp Hà Nội công nhận và tặng bằng khen là đơn vị Đảng cơ sở vững mạnh xuất sắc. Công đoàn và thanh niên công ty cũng liên tục nhiều năm được công nhận là đơn vị cơ sở Công đoàn và Thanh niên vững mạnh, xuất sắc. Biểu12: Báo cáo kết quả SXKD Công ty năm 2000-2004. TT Chi tiết Đơn vị 2000 2001 2002 2003 2004 1 Giá trị SX công nghiệp Tr.đ 42.349 47.560 55.683 65.050 74.306 2 Tổng doanh thu Tr.đ 97.000 112.170 130.378 156.388 172.310 Doanh thu xuất khẩu Tr.đ 82.123 90.845 108.854 132.508 152.286 FOB Tr.đ 51.898 63.131 71.636 97.250 114.932 Doanh thu nội địa Tr.đ 14.877 21.325 21.524 23.880 20.024 3 Gía thành Tr.đ 92.526 106.866 123.482 147.840 158.236 4 Lợi nhuận trươc thuế Tr.đ 4.440 5.304 6.896 8.548 14.074 5 Nộp ngân sách Tr.đ 2.874 3.370 3.470 3.820 5.175 VAT Tr.đ 1.361 2.085 2.152 2.388 1.910 Thuế TNDN Tr.đ 1.420 1.697 2.206 2.735 4.530 6 Lợi nhuận sau thuế Tr.đ 3.019 3.606 4.690 5.813 9.544 7 Lao động Người 2.165 2.495 2.966 3.800 4000 8 Thu nhập BQ/tháng 1000đ 1.000 1.100 1.100 1.200 1.300 Những con số trên đây đã biểu hiện rõ bộ mặt phát triển của Công ty May Thăng Long trong vài năm qua. Tất cả đều khẳng định Công ty đã và sẽ có những tiềm lực nội địa của chính bản thân mình để tiếp tục vươn lên trong tình hình cạnh tranh ngày càng khốc liệt, tạo một thế đứng vững chắc trong nền kinh tế quốc dân trong thế kỷ mới. V/ Đánh giá chung về tình hình tiêu thụ sản phẩm may mặc trên thị trường nội địa của công ty May Thăng Long trong thời gian qua. 1. Những kết quả đạt được. Thứ nhất, công ty May Thăng Long là công ty may mặc có truyền thống hơn 40 năm, hiện đang có chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, công ty đã tạo cho mình mối quan hệ tốt và uy tín cao với nhiều khách hàng lớn trong và ngoài nước. Mặt khác, công ty May Thăng Long đã lựa chọn cho mình một mục tiêu phát triển đúng đắn là thúc đẩy thị trường xuất khẩu, coi trọng thị trường nội địa. Nhờ vậy, sau một thời gian thực hiện, doanh thu của công ty đã tăng lên nhanh chóng. Thứ hai, thị trường xuất khẩu là một điểm mạnh của công ty, xuất khẩu của công ty đã chiếm một tỉ trọng khá lớn so với xuất khẩu hàng may mặc ở nước ta. Doanh thu từ xuất khẩu còn chiếm từ 80-90% tổng doanh thu của công ty, hiệu quả kinh tế cao từ xuất khẩu đặc biệt là sự chuyển mạn sang xuất khẩu trực tiếp mang lại nguồn lợi lớn cho công ty, nó góp phần rất lớn vào việc tạo đà cho sự phát triển sản xuất kinh doanh của công ty. Thị trường của công ty liên tục được mở rộng, hiện nay sản phẩm của công ty đã xuất khẩu sang thị trường của trên 30 nước trên thế giới. Thứ ba, thị trường tiêu thụ nội địa được công ty đặc biệt chú trọng trong những năm gần đây và hiện nay tỉ lệ đóng góp từ hàng tiêu thụ nội địa ngày càng tăng, thị phần của công ty ở thị trường nội địa ngày một lớn, công ty đã tạo cho mình uy tín tốt không chỉ ở các thị trường xuất khẩu mà còn cả thị trường nội địa. Sản phẩm của công ty luôn được người tiêu dùng ưa chuộng. Công ty đã chiếm lĩnh được một thị phần lớn ở thị trường miền Bắc, với một số lượng lớn đại lí và cửa hàng, nhất là thị trường Hà Nội với sản phẩm mũi nhọn là Jacket, tốc độ tăng doanh thu trên thị trường này là rất cao. Thứ tư, hiện nay công ty có một tiềm lực rất mạnh về vốn, cơ sở vật chất và nhân lực, nhờ vậy mà công ty đã nâng cao được năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, đáp ứng kịp thời và đúng yêu cầu của khách. Tổng số vốn kinh doanh của công ty lên tới 20 tỉ đồng, ngoài ra, công ty còn có nhiều nguồn khác có thể huy động và hỗ trợ về vốn. Công ty có một hệ thống các xí nghiệp được trang bị máy móc hiện đại có giá trị lớn và là một trong các công ty có cơ sở vật chất kĩ thuật tốt nhất trong ngành dệt may ở nước ta. Ngoài ra, công ty còn có một đội ngũ cán bộ quản lí giàu năng lực, nhiều kinh nghiệm đã lãnh đạo và xây dựng công ty có được chỗ đứng vững chắc như ngày nay. Hơn nữa, đội ngũ công nhân của công ty lại có tay nghề cao, cần cù, sáng tạo và có tâm huyết với nghề. Đó là những nhân tố hàng đầu đảm bảo cho năng lực sản xuất với chất lượng cao. Thứ năm, công ty đã tạo được mạng lưới phân phối hàng hoá rộng khắp với chất lượng cao. Hiện nay, công ty đã có đại diện tại nhiều nước trên thế giới, ở thị trường nội địa, công ty cũng có một mạng lưới các cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm khá lớn, nhất là thị trường Hà Nội. Đó là điểm thuận lợi để công ty khuyếch trương giới thiệu sản phẩm của mình cũng như nắm bắt kịp thời và chính xác nhu cầu thị trường người tiêu dùng. Trong những năm gần đây, sản phẩm của công ty luôn được tin dùng và được người tiêu dùng bình chọn là sản phẩm có chất lượng cao. So với quần áo nhập vào thị trường có chất lượng tương đương thì giá quần áo của công ty luôn thấp hơn và dễ được chấp nhận hơn. Ngoài ra, công ty rất coi trọng công tác quảng cáo khuyếch trương và việc xây dựng các chính sách giá cả, sản phẩm… sao cho phù hợp với người tiêu dùng trong nước, điều này đã góp phần thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường nội địa của công ty. Bên cạnh đó, công ty có sự giúp đỡ to lớn và quan tâm trực tiếp của Tổng công ty Dệt May Việt Nam, hơn nữa, sự cải tiến các chính sách kinh tế của Nhà nước đã tạo điều kiện thuận l._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0515.doc
Tài liệu liên quan