Tiểu luận Vai trò tài chính nhà nước trong điều tiết kinh tế ở nước ta

Lời mở đầu Vận dụng tư tưởng chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh và từ thực tiễn của đất nước.Đảng ta đã xác định Việt Nam phải đi lên CNXH bỏ qua TBCN là một tất yếu lịch sử. Trong quá trình xây dựng CNXHở nước ta Đảng ta đã chỉ rõ mục tiêu là:Xây dựng một xã hội dân giàu ,nước mạnh ,xã hội công bằng dân chủ văn minh.Trong đó việc quan trọng nhất là việc xây dựng một nền kinh tế vững chắc tạo cơ sở kinh tế và tiền đề để phát triển đất nước.Trước đây nước ta đã xây dựng nền kinh tế kế

doc14 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1529 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Tiểu luận Vai trò tài chính nhà nước trong điều tiết kinh tế ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoạch hoá tập trung bao cấp.Trong giai đoạn đấu tranh chống Mỹ cũng có một số thành tựu ,nhưng sau chiến tranh mô hình này không còn phù hợp với thực trạng đất nước,cần phải đổi mới.Do duy trì mô hình kinh tế này trong thời gian dài ,với sự can thiệp quá sâu của nhà nước và phát triển kinh tế không tuân theo các quy luật tự nhiên(quy luật cung-cầu,quy luật giá trị ,quy luật cạnh tranh ) dẫn đến nền kinh tế trì trệ ,kém năng động lạm phát, khủng hoảng kinh tế đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.Từ những lý do trên Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã xác định phương hướng phát triển kinh tế xã hội ở nước ta là: phát triển nền klinh tế hàng hoá nhiều thành phần,vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Trong tiến trình xây dựng CNXH phát triển đất nước Đảng ta đã chỉ ra phải đưa đất nước ta thành một nước công nghiệp hoá tại đại hội Đảng lần thứ VIII và tiếp tục được khẳng định tại đại hội Đảng lần thứ IX là:”Đưa nước tar a khỏi tình trạng kém phát triển,nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,tạo nèn tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá. Trong những chuyển biến đó đã đạt được những thành tựu to lớn,đi liền với những thành tựu đó luôn là những han chế và khó khăn kìm hãm sự phát triển của đất nước.Công cuộc đổi mới đòi hỏi phải có những biệ pháp giải quyết nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Với mong muốn tìm hiểu thêm về những vấn đề của nền kinh tế đất nước,những vướng mắc trong các giải phát,các chính sách và quá trình xử lý các vấn đề có liên quan đến quá trình CNH- HĐH đất nước.Vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế trong việc hình thành,phân phối và sử dụng một cách có kế hoạch các quỹ tạp trung và không tập trung dưới hình thức tiền tệ trong nền KTQD ,nhằm đảm bảo phát triển tái xản xuất cả chièu rộng lẫn chiều sâu,ổn định nâng cao đời sống cho nhân dân,tiến đến xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam.Nên em đã chọn đề tài “Vai trò tài chính nhà nước trong điều tiết kinh tế ở nước ta”. Làm tiểu luận cho môn kinh tế chính trị Mac-Lênin. Nội dung 1. Tài chính. Khái niệm: Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế biểu hiện trong lĩnh vực hình thành và phân phối quỹ tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân nhằm xây dựng và phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa. Bản chất của tài chính Lịch sử xã hội cho thấy tài chính ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời của Nhà nước và nền sản xuất hàng hoá. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN bản chất của tài chính biểu hiện qua các nhóm quan hệ tài chính dưới đây: - Nhóm các quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp dân cư, các tổ chức xã hội với Nhà nước: đây là nhóm quan hệ giá trị có tính chất bắt buộc tập trung vào ngân sách Nhà nước và sự phân phối giá trị đó phải đảm bảo cho các hoạt động của Nhà nước diễn ra bình thường, trong mối quan hệ này giá trị dịch chuyển theo hai chiều từ dânghiên cứu ư, doanh nghiệp và các tổ chức vào ngân sách Nhà nước và ngược lại. Trong chủ nghĩa tư bản mối quan hệ càng nhìn bề ngoài càng được thể hiện thông qua hai chiều nhưng mục đích và bản chất lợi ích có khác, sự khác nhau này có tính chất quan hệ sản xuất, nhất là quan hệ sở hữu và quan hệ phân phối khác nhau quy định. - Nhóm các quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp tổ chức xã hội, dân cư với hệ thống ngân hàng, trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, hệ thống các ngân hàng, các tổ chức tín dụng ngày càng giữ vị trí quan trọng việc tài trợ tạo vốn cho các hoạt động kinh tế xã hội nói chung, sản xuất kinh doanh nói riêng tạo thuận lợi phát triển mạnh mẽ với quan hệ tài chính, quan hệ tín dụng giữa các tổ chức dân cư, các doanh nghiệp và ngân hàng. - Nhóm các quan hệ tài chính giữa các chủ thể với thị trường. Đây là mối quan hệ thể hiện sự mua bán các "quỹ tiền tệ" tồn tại dưới các hình thức khác. Tham gia mua bán trên thị trường tài chính là hầu hết các chủ thể kinh tế trong xã hội, Nhà nước cũng tham gia vào nhóm quan hệ tài chính này với tư cách như người mua và bán các quỹ tiền tệ Nhà nước bán quỹ tiền tê của mình bằng việc phát hành công trái trong mối quan hệ tài chính nói trên quan hệ mua bán "vốn" giữa các doanh nghiệp và nhân dân đặc biệt quá trình, Nhà nước cần tạo ra các điều kiện và biện pháp hưu hiệu để vừa hướng dẫn, điều tiết sự hình thành và phát triển của thị trường tài chính, vừa chống lại tính tự phát và sự lũng loạn trên thị trường tài chính nhằm đưa nền kinh tế phát triển theo phương hướng đã định. - Nhóm quan hệ tài chính trong nội bộ mỗi chủ thể kinh tế. Quan hệ này biểu hiện ở sự dịch chuyển của giá trị trong quá trình hoạt động của mỗi tổ chức thông qua việc chi trả lương, thưởng cho viên chức, công nhân người lao động. Thông qua các khoản thu về tiền phạt do vi phạm hợp đồng, vi phạm vật chất, thông qua việc cấp phát vốn, phân phối điều hoà vốn, thông qua phân phối thu nhập giữa các thành viên trong nội bộ mỗi chủ thể. Chức năng của tài chính - Chức năng phân phối: để tồn tại và phát triển xã hội phải thường xuyên tiền hành sản xuất và tái xã hội của cải vật chất xã hội, trong quá trình ấy, của cải thường xuyên được tập trung lại rồi được phân chia thành các bộ phận khác nhau, nhờ đó mà quá trình sản xuất và tái sản xuất có thể thực hiện được. Trong nền kinh tế thị trường, việc phân chia của cải vật chất của xã hội chủ yếu thực hiện thông qua hoạt động tài chính được quy thành tiền, thành giá trị và chúng được phân phối thông qua sự vận động tài chính. Vì vậy toàn bộ các mối quan hệ giá trị nói trên được thực hiện thông qua chức năng phân phối của tài chính - chức năng tập trung và phân chia của cải vật chất của xã hội trong quá trình tái sản xuất. - Chức năng giám đốc: Cũng như phân phối, chức năng giám đốc xuất phát từ thuộc tính vốn có của tài chính, sự tồn tại của phạm trù tài chính tất yếu dẫn đến biểu hiện ở chỗ tài chính có vai trò như người giám sát đôn đốc là sự thống nhất giữa sự vận động của các quỹ tiền tệ với quá trình hoạt động của Nhà nước và của các chủ thể kinh tế trong nền Kinh tế Quốc dân, chẳng hạn để xây dựng một công trình nhất định, người ta phải tái hiện một số vốn các phần việc và các loại hình công việc nhất định. Các phần vốn này sẽ được cung cấp theo phương thức và tiến độ nhất định để thực hiện các công việc theo kế hoạch, từng bước phù hợp với các điều kiện vật chất và kỹ thuật công trình. Thông qua sự vận động của các quỹ tiền tệ, người ta có thể biết được tình hình thực hiện công trình để có giải pháp điều chỉnh về tài chính cho thích hợp. Tóm lại: hai chức năng phân phối và giám đốc là hai chức năng cơ bản của tài chính là biểu hiện hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau thông qua đó các chủ thể vận động để sử dụng có hiệu quả của Nhà nước và các nguồn lực của tài chính như công cụ cực kỳ quan trọng trong phục vụ tốt mục đích đề ra trong từng thời kỳ. 2. Tài chính trong nền kinh tế kế hoạch bao cấp. Tài chính trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ, chịu tác động và ảnh hưởng nặng nề của tính chất đơn nhất hoá nhà nước, nhận thức quan niệm về bản chất, chức năng, vai trò vị trí của tài chính bị gắn chắt vào tính chất nhà nước, bị bó hẹp phạm vi trong các hoạt động kinh tế của khu vực có tầm bao quát của nhà nước. Vì thế đã dẫn đến nhận thức cho rằng tài chính chỉ là các quan hệ phân phối nảy sinh trong các quá tình phân chia tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân hình thành các quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung. Quan niệm về hệ thống tài chính theo hình thức phân chia thành tài chính tập trung và tài chính phi tập trung đã toát lên hình ảnh của hệ thống tài chính gắn chặt vào hệ thống nhà nước, tách rời với sự vận động cảu các quy luật kinh tế diễn ta ở cả khu vực nhà nước và khu vực tư nhân. Do đó, giá trị của cải xã hội và tài sản quốc gia trở nên nằm ngoaì phạm vi phân phối của tài chính. Vai trò của tài chính thụ động trong việc thực hiện các mệnh lệnh hành chính của nhà nước, các công cụ hành chính bị xếp vào hàng thứ yếu, thậm chí bị lãng quên khi nhà nước thực hiện quản lí nền kinh tế – xã hội. Sự vận động của các mối quạ hệ phân phối của tài chính để hình thành nên các quĩ tiền tệ thường không tuân theo sự vận động khách quan của các quy luật giá trị, trái lại nó phụ thuộc và bị khép lại trong giới hạn của các mệnh lệnh hành chính và chỉ tiêu kế hoạch. 3. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay Kinh tế thị trường ( KTTT ) là nền kinh tế hàng hoá phát triển cao khi sản xuất hàng hóa mang tính phổ biến, bản thân sức lao động cũng trở thành hàng hoá, quan hệ hàng hoá - tiền tệ trở thành hình thức nội tại của sản xuất xã hội. Nói cách khác, là nền kinh tế là mọi quan hệ kinh tế –xã hội cơ bản được giải quyết thông qua thị trường và cơ chế thị trường. Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường là một bước chuyển đổi mạnh mẽ của đất nước ta để có thể hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, không bị tụt hậu, lạc hậu, nghèo đói đeo đuổi. Kinh tế thị trường có nhiều điểm khác biệt so với kinh tế kế hoạch, bao cấp mà nước ta đã thực hiện trong suốt một thời gian dài trước đó. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của tài chính được đẩy lên một mức mới, quan trọng hơn, cần thiết hơn, cấp thiết hơn rất nhiều so với trong nền kinh tế kế hoạch. 4. Vai trò tài chính nhà nước trong điều tiết kinh tế ở nước ta Chuyển sang kinh tế thị trường, các hoạt động kinh tế không bị ràng buộc bởi các hàng rào kế hoạch hoá pháp lệnh, sự vận động của các quĩ tiền tệ trở nên đa dạng, vai trò và tính chất nhà nước hoá đã được dung hoà bởi tính chất xã hội hoá, dưới nhiều hình thức sở hữu, hoạt động kinh tế diễn ra ở mọi lĩnh vực theo sự vận động cúa các quy luật thị trường tác động đến các quá trình chu chuyển các nguồn lực tài chính. Xuất phát từ tính chất và đặc điểm của tài chính là vừa gắn liền với tính chất và đặc điểm của nhà nứơc lại vừa nảy sinh từ kinh tế nên trong điều hành vĩ mô, nó có 2 vai trò cơ bản: Tài chính là công cụ trọng yếu để điều hành vĩ mô của nhà nước: Trong kinh tế thị trường, tuy mọi hoạt động kinh tế diễn ra trên thị trường, tuân theo những qui luật kinh tế khách quan. Tuy nhiên, để kinh tế thị trường cũng chứa đựng hàng loạt các khuyết tật mà bản thân nó không thể tự giải quyết, đồng thời nền kinh tế thị trường Việt Nam cần có những định hướng nhất định để đi đúng con đường lên chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, nhà nước vẫn cần có sự can thiệp nhất định vào nền kinh tế thị trường- chủ yếu ở tầm vĩ mô. Sự điều chỉnh này được thực hiện bằng các biện pháp kinh tế, chủ yếu thông qua chính sách tài chính và tiền tệ- tín dụng. Thực tế các nước xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường cho thấy thiếu cơ chế tài chính – tiền tệ hoàn thiện thì dứt khoát không thể tạo ra nền kinh tế hiệu quả , có cơ cấu hợp lý, phát triển nhịp nhàng. Trước hết nhà nước thông qua quan hệ tài chính để xây dựng một chính sách tài chính quốc gia có tính chiến lược nhằm: *Điều tiết kinh tế: Để điều tiết kinh tế nhà nước phải kết hợp cả hai chức năng của tài chính: phân phối và giám đốc. Trên cơ sở kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền, nhà nước nắm được thực tế hoạt động của nền kinh tế, từ đó phát hiện ra những vấn đề cần can thiệp, điều tiết. Bằng các chính sách phân phối, nhà nước điều tiết nền kinh tế theo kế hoạch đã định sao cho tạo vốn, huy động vốn, sử dụng vốn một cách có hiệu quả làm tăng giá trị tài sản quốc gia. Của cải quốc gia xét về mặt hiện vật như máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ có thể vẫn hoạt động ở một chỗ nhất định… trái lại, xét về mặt tiền tệ của mọi của cải thì nó có thể tuần hoàn di động nhanh hơn, linh hoạt hơn, tạo ra những khả năng mới to lớn hơn thông qua quỹ khấu hao, quỹ bảo hiểm, quỹ cổ phần, … Ví dụ: Một nhà máy sản xuất gạch ốp lát đã có một thời gian nhiều năm liền hoạt động dưới sự quản lý của Nhà nước và đã được khấu hao một phần lớn trang thiết bị máy móc và cộng với phần tích luỹ vể bảo hiểm, đã được Nhà nước thông qua tài chính để đầu tư xây dựng một nhà máy mới ở nơi khác. với kỹ thuật tiên tiến hơn hiện đại hơn sovới nhà máy cũ sau đó để tiếp tục duy trì sự hoạt động của nhà máy cũ Nhà nước đã tiến hành cổ phần hoá nhà máy cũ qua đó có thể thu hồi được vốn xây dựng cơ bản ban đầu. Nhà nước đảm bảo sự ổn định chính trị , kinh tế , xã hội và thiết lập khuôn khổ pháp luật để tạo điều kiện cần thiết cho các hoạt động kinh tế , vì ổn định chính trị , xã hội mới có thê tạo ra được môi trường ổn định và thuận lợi mới có thể thu hút được các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tham gia vào các hoạt động sản xuất và kinh doanh như vậy có thể tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động , bằng biện pháp này có thể đẩy nhanh đươc quá trình sản xuất và tái sản xuất.Đây là điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế . Nhà nước còn phải tạo ra hành lang pháp luât cho hoạt đông kinh tế bằng cách đặt ra các điều luật cô bản về quyền sở hữu tài sản và hoạt động thị trường , đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp .Khuôn khổ mà luật pháp mà nhà nước quy định có tác động sâu sắc tới các hành vi của các chủ thể kinh tế, điều chỉnh hành vi kinh tế của họ ,ví dụ , như chống gian lận ,chông chốn thuế và các hoạt động kinh doanh khác trái với quy đinh của phap luật cho phép Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả . Mục đích của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa vì vây , họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội , gây ô nhiễm môi trướng sống của con người .Vi vậy , nhà nước phải thực hiện những biện pháp nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài để nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội . KTTT chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của canh tranh hoàn hảo , khi xuất hiện canh tranh không hoàn hảo thì hiệu lưc của KTTT bị giảm , như sự xuất hiện độc quyền làm giảm tính hiệu quả của hoạt động thị trường , vì vậy , nhà nước có nhiệm vụ phải bảo vệ cạnh tranh va chống độc quyền để nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh tế thị trường. Nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế để đảm bảo cho nền KTTT tăng trưởng ổn định. Nhà nước xây dựng các chiến lược và quy hoạch phát triển trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế-xã hội đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế ,ví dụ, như đầu tư vào nền giáo duc , đầu tư phát triẻn công nghệ thông tin ,các ngành nghiên cứu KH-KT …Bảo hộ những ngành nghề là thế mạnh của đất nước tạo động lưc thúc đẩy nhanh công cuôc CNH-HĐH đất nước .Nền kinh tê thị trường khó tránh khỏi những chấn động bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế , lạm phát. Nhà nước phải sử dụng chính sách tài chính và chính sách tiền tệ để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô giữ ổn định kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng đều và các tiền đề cho phát triển kinh tế ở các giai đoạn tiếp theo. Nhà nước cầ hạn chế , khắc phục các mặt tiêu cực của nền KTTT ,thực hiện công bằng xã hội .Sự tác động của cơ chế thị trường có thể đưa lại hiệu quả kinh tế cao , nhưng nó không tự động mang lại nhưng giá trị mà xã hội cố gắng vươn tới , không tự động đưa đến sự phân phối công bằng.Nhà nước thưc hiện phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thưc hiện tăng trưởng kinh tế gắn vối cải thiện đời sống nhân dân với tiến bộ và công bằng xã hội . Thông qua tài chính Nhà nước đã tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường . - Bảo hộ những ngành nghề là thế mạnh của đất nước - Tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. - Nhà nước cũng có thể thông qua việc nâng cao hoặc hạ thấp thuế suất để điều tiết hoạt động đầu tư kinh doanh giữa các ngành. Với tác dụng điều tiết kinh tế, tài chính là công cụ trọng yếu thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển cân đối. *Tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Thông qua chính sách tài chính quốc gia như tính ổn định tiền tệ, tính sinh lãi của các bất động sản, của vốn nhà mỗi, của các vị trí lợi thế so sánh… mà làm cho mọi người dân có ý thức bảo vệ, sử dụng và đưa nhanh các tài sản đó vào kinh doanh. Như vậy nhờ chính sách sinh lợi của tài chính mà biến bất động sản thành vốn kinh doanh, biến tiền nằm im thành tiền kinh doanh…Điều này ở nước ta đã thể hiện ở một phần ở mối liên hệ kinh doanh với nước ngoài như: đất, đồi trọc, sông suối,… trở thành vốn kinh doanh. Các lợi thế so sánh trở thành lực lượng kinh doanh, một số tư liệu sinh hoạt trở thành vốn kinh doanh. % GDP hàng năm. Khả năng để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng này về phia Chính phủ khoảng 2-3% GDP hàng năm, vì Chính phủ chưa có khả năng tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế . Do đó, 8-*Tài chính góp phần điều hành thực hiện mục tiêu: tiết kiệm, tích luỹ tăng đầu tư đi đến tăng việc làm chống thất nghiệp và góp phần tăng thu nhập tăng trưởng kinh tế. Theo tính toán từ năm 1993 đến 1996, nước ta cần một khối lượng vốn tích luỹ đầu tư khoảng 169% vốn đầu tư còn lại do 3 nguồn sau cung cấp:- Huy động vốn tích luỹ trong dân - Huy động vốn tích luỹ trong dân - Vốn viện trợ nước ngoài - Vốn do khai thác tài nguyên khoáng sản, bất động sản của quốc gia Trong đó,vốn trong dân là chủ yếu. Để huy động được nguồn vốn trong dân chúng, hay của cả các nguồn khác vai trò của tài chính là rất to lớn. Tài chính phải : + Có chính sách tài chính sinh lợi thế nào để khuyến khích dân tích luỹ, bỏ vốn vào kinh doanh + Trình Chính phủ các chính sách: về sở hữu tài sản tư nhân, bảo vệ sở hữu tư nhân bằng văn bản pháp quy, quyền thừa kế về tài sản một cách lâu dài, ổn định để người dân an tâm đầu tư, an tâm tích luỹ. + Có chính sách xây dựng tâm lí tích cực làm giàu, sao cho mọi người, mọi ngành đều cố gắng tự phát triển vươn lên. *Hình thành quan hệ tích luỹ, tiêu dùng hợp lí: Trong nền kinh tế thị trường, việc phân phối thu nhập được thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau. Tương ứng với từng khu vực kinh tế – xã hội là một hệ thống tiền lương và thu nhập riêng, tương ứng với từng thành phần kinh tế là một hình thức kinh doanh riêng, có quỹ tiêu dùng riêng. Chính vì thế, mà tiền lương và thu nhập của người lao động ở các thành phần kinh tế khác nhau có sự chênh lệch cao. Sự chênh lệch quá mức về thu nhập và tiền lương giữa các tầng lớp dân cư dẫn đến mức tiêu dùng hết sức khác nhay và đương nhiên có sự phân hoá trong xã hội. Từ đó tạo nên sự mất công bằng xã hội. VD như sự phân hoá giàu nghèo giữa thành thị- nông thôn. Do đó việc điều tiết thu nhập và tiền lương giữa những người làm công ăn lương, người hưởng theo chế độ, chính sách xã hội và ưu đãi của nhà nước trong phạm vi toàn xã hội là vấn đề cấp thiết hiện nay. Trong đó, tài chính giữ vai trò đặc biệt quan trọng thông qua các chức năng của mình. VD: thông qua thuế, quỹ xoá đói giảm nghèo, nâng lương cho các ngành có thu nhập thấp,…Việc điều chỉnh này không chỉ là điều tiết thu nhập quá cao mà cả việc điều tiết phần thu nhập quá thấp đến mức trung bình để người lao động đảm bảo cuộc sống Điều hành cơ chế thị trường đi theo các mục tiêu kinh tế – xã hội đã được xác định Tài chính vừa là công cụ để góp phần điều hành kinh tế vĩ mô, vừa là lĩnh vực kinh tế hoạt động theo các yêu cầu của kinh tế. Chẳng hạn, trong kinh tế thị trường thì tài chính vừa là mua có trọng lượng, vừa là người bán có vai trò quyết định điều hành thị trường để điều tiết vĩ mô. Ví dụ: Việc vụ thu hoạch hè thu năm 2001 khi thị trường thóc lúa ở đồng bằng Sông Cửu Long đã bị xuống giá gây rất nhiều thiệt hại cho nhân dân thì Nhà nước bằng vai trò tài chính điều hành vĩ mô đã chỉ đạo một số Công ty lương thực miền Nam, và các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long bằng cách. Qua các ngân hàng cho các Công ty này vay vốn với lãi suất ưu đãi để họ mua tích trữ thóc lúa của dân nhằm giữ giá thóc lúa của thị trường, bảo vệ lợi ích của người sản xuất, cũng nhằm tích trữ đề phòng khi có những cơn sốt lương thực thì có thể tung ra bán để ổn định thị trường. 5. Một số biện pháp nhằm đảm bảo và nâng cao vai trò của tài chính trong nền kinh tế thị trường và phương hướng đổi mới kế hoạch hoá ở nước ta. ổn định giữ vững hệ thống luật pháp và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa a. Xây dựng và phát triển nền tài chính nhiều thành phần b. Tạo điều kiện hình thành phát triển thị trường tài chính (bao gồm thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán) c. Xây dựng hệ thống thông tin phân tích kiểm tra, và kiểm soát tàI chính d. Xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật tài chính e. Kiện toàn bộ má quản lý tài chính ở mức Nhà nước Đây là một trong những vấn đề nóng bỏng của giai đoạn hiện nay. Bởi tài chính bao gồm nhiều mối quan hệ phức tạp với nhiều thành phần. Trong đó trọng tâm là xây dựng luật thuế, luật ngân hàng,… Phát triển hệ thống thông tin, dự báo, mở rộng quan hệ tài chính quốc tế, kiện toàn chính sách mở cửa giao lưu kinh tế với bên ngoài Vai trò của thông tin trong điều kiện khoa học kĩ thuật phát triển hiện nay là rất cần thiết. Nó giúp các nhà quản lí tài chính có thông tin nhanh hơn, nhiều hơn, toàn diện hơn không chỉ trong phạm vi quốc gia mà trên toàn thế giới. Từ đó, có thể đề ra các chính sách hợp lí hơn, phù hợp hơn với tình hình thực tế. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp luật. Phương hướng . Lấy thị trường làm đối tượng và căn cứ của kế hoạch hoá , trong đó Nhà nước điều tiết thị trường thông qua kế hoạch hoá vĩ mô gián tiếp có tính định hướng trên cơ sở dùng các chính sách đòn bẩy và lưc lương kinh tế tác động vào cung- cầu là chủ yếu để giữ cho thị trường ổn định . Còn thị trường hướng dẫn sản xuất-kinh doanhcủa các doanh nghiệp thông qua kế hoạch vi mô. Thay thế hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh bằng hệ thông chỉ tieu định hướng . Thực hiện kế hoạch hoá hai cấpcấp nhà nước gắn với kế hoạch hoá vĩ mô ,cấp cơ sở gắn với kế hoạch hoá vi mô .Cải tiến bộ máylàm kế hoạch , đào tạo đội ngũ cán bộ làm kế hoạch có năng lự và phẩm chất tốt. Kết luận Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta hiện nay nền kinh tế nhiều thành phần và phát triển hết sức mạnh mẽ. Tài chính có vị trí hai mặt: - Vừa là công cụ trọng yếu để Nhà nước điều hành vĩ mô có hiệu quả. - Vừa là sức mạnh với các quĩ tiền tệ hoạt động sinh lời, hoạt động theo quy luật thông qua ngân sách nhà nước. Thuế, bảo hiểm, kho bạc … với tư cách người mua, người bán trong thị trường để thực hiện kiểm kê, kiểm soát đồng tiền. Vị trí đó gắn với điều kiện là nhà nước và tổ chức tài chính có năng lực thật sư về hai mặt: Một là: có nhận thức hiểu biết sâu về kinh tế thị trường, cơ chế thị trường, về sức mạnh của đồng tiền. Dưới con mắt tài chính là tiền di động, tiền sinh lời, tièn giữ được chữ tín, tiền để chính phủ chi tiêu, tiền để trợ giúp người nghèo, … chứ không phải là hiện vật, là sản phẩm cụ thể. Hai là: có thực lực, biểu hiện ở có khả năng thu, có khả năng chi, có khả năng cay nợ và trả nợ, … có khả năng dự trữ, sau cùng là một chính sách tài chính quốc gia ổn định có lòng tin của dân chúng: dân chúng tin vào đồng tiền của chính phủ, dân chúng tin tín phiếu kho bạc, dân chúng tin vào sự bảo hiểm nhà nước, … Đó chính là vị trí to lớn của tài chính để thăng bằng ngân sách. Để thực hiện tốt công cuộc CNH - HĐH nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, xây dựng hoàn thiện hệ thống sản xuất mới nhằm cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân tăng trưởng phát triển nền kinh tế của nước ta, hoàn nhập với kinh tế khu vực và thtg, tham gia quốc tế hoá, toàn cầu hoá. Mục lục Lời mở đầu 1 Nội dung 3 1. Tài chính 3 a. Khái niệm 3 b. Bản chất 3 c. Chức năng 4 2. Tài chính trong nền kinh tế kế hoạch bao cấp 5 3. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay 6 4. Vai trò tài chính nhà nước trong điều tiết kinh tế ở nước ta 6 a. Tài chính là công cụ trọng yếu để điều hành vĩ mô của nhà nước 6 b. Điều hành cơ chế thị trường đi theo các mục tiêu kinh tế – xã hội đã được xác định……………………………………………………………………………. 10 5. Một số biện pháp nhằm đảm bảo nâng cao vai trò của tài chính 11 Kết luận 13 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0678.doc
Tài liệu liên quan