Tiểu luận Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và môn kinh tế chính trị (Mẫu 18)

Họ và tên: Nguyễn Xuân Quỳnh Lớp: QTKD Thương mại 51C Mã SV: CQ514806 Bài tập lớn “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênin 2” Câu 1: Giá trị hàng hóa là gì? Tại sao giá trị hàng hóa lại biểu hiện quan hệ sản xuất xã hội? Trả lời: Để hiểu được giá trị hàng hoá phải bắt đầu từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là tỷ lệ về số lượng giữa 2 giá trị sử dụng khác nhau. Thí dụ: 1m vải = 10kg thóc. Trong tỉ lệ đó, số lượng của những hàng hóa trao đổi với nhau, giá trị trao đổi của hàng hó

doc12 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1721 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Tiểu luận Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và môn kinh tế chính trị (Mẫu 18), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a được biểu hiện ra. Nếu hai vật thể khác nhau có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có cơ sở chung nào đó. Cái chung đó không thể là công dụng, vì công dụng của chúng hoàn toàn khác nhau. Các hàng hóa khác nhau chỉ có một thuộc tính chung làm cho chúng có thể so sánh với nhau trong khi trao đổi, đó là các hàng hóa đều là các sản phẩm của lao động. Cơ sở cho hai hàng hoá trao đổi được với nhau là lao động xã hội hao phí vào việc sản xuất ra những hàng hóa đó. Thực chất của trao đổi hàng hóa cho nhau là trao đổi lao động ẩn giấu trong các hàng hóa đó. Như vậy, lao động hao phí để tạo ra hàng hóa kết tinh trong hàng hóa là cơ sở chung của trao đổi được gọi là giá trị hàng hóa. * Khái niệm: Giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa. Giá trị hàng hóa là một khái niệm trừu tượng Giá trị là một phạm trù lịch sử gắn liền với nền sản xuất hàng hóa. Chỉ trong những nền xã hội mà người ta làm ra sản phẩm để trao đổi thì hao phí lao động đó mới mang hình thái giá trị. Giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa, là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi; còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị ra bên ngoài. Khi trao đổi sản phẩm cho nhau, những người sản xuất ngầm so sánh lao động ẩn giấu trong hàng hóa với nhau. Thực chất của quan hệ trao đổi là người ta trao đổi lượng lao động hao phí của mình chứa đựng trong các hàng hóa. Vì vậy, giá trị là biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa, hay là biểu hiện của quan hệ sản xuất hàng hóa. Đồng thời, giá trị hàng hóa được quyết định phần lớn bởi trình độ lực lượng sản xuất…… Xét đến sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất: Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Kết luận: Giá trị hàng hóa biểu hiện quan hệ sản xuất hàng hóa. Câu 2: Nhà nước ta đã làm gì để chống suy thoái kinh tế hiện nay? Mặt đã làm được và hạn chế? lời Trả Nhà nước luôn luôn tham gia vào điều tiết quá trình kinh tế. V.I.Lênin viết: “Sự tập trung hóa và quốc tế hóa của tư bản ngày càng có quy mô rất lớn. Chủ nghĩa tư bản độc quyền biến thành chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước; do tình thế thúc bách nên trong nhiều nước đã phải thi hành việc điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối”. Hệ thống điều tiết kinh tế của Nhà nước là một tổng thể những thiết chế và thể chế kinh tế của nhà nước, bao gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống chính sách, công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội theo hướng có lợi. Bao gồm nhiều lĩnh vực như: chính sách chống khủng hoảng chu kỳ, chống lạm phát; chính sách tăng trưởng kinh tế, chính sách xã hội, chính sách kinh tế đối ngoại. Các công cụ chủ yếu nhà nước dùng để điều tiết nền kinh tế là: ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ- tín dụng, các doanh nghiệp nhà nước, kế hoạch hóa hay chương trình hóa kinh tế và các công cụ hành chính- pháp lý. Vai trò của nhà nước trong điều tiết kinh tế vĩ mô: + Thứ nhất: kịp thời điều chỉnh chiến lược tổng thể phát triển kinh tế, nhằm nâng cao sức cạnh tranh tổng thể của quốc gia. + Thứ hai: sự lựa chọn chính sách thực dụng + Thứ ba: căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế khác nhau của từng thời kì, vận dụng linh hoạt chính sách tài chính và chính sách tiền tệ, kịp thời điều chỉnh mâu thuẫn cung-cầu trong xã hội và mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội khác nhau. Xét ở lĩnh vực chống suy thoái kinh tế hiện nay: Khi lạm phát đang từng bước được khống chế cũng là lúc nền kinh tế xuất hiện dấu hiệu suy giảm: doanh nghiệp thua lỗ, lợi nhuận thấp, không ít doanh nghiệp phải đóng cửa, phá sản hoặc nằm im. Với thực tế trên, việc chuẩn bị và đưa ra những quyết sách điều hành vĩ mô kịp thời, đúng đắn, vừa ngăn ngừa khả năng suy giảm, đình trệ của nền kinh tế, vừa khống chế được lạm phát và duy trì chế độ tỷ giá thích hợp đang là bài toán nan giải hiện nay. Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa thập niên thứ 2, thế kỷ 21. Thế nhưng, mốc thời gian chắc chắn sẽ không quan trọng bằng những đổi thay nhanh chóng của quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế, và những biến đổi sâu sắc nó mang lại. Năm 2009 là năm minh chứng rõ nhất điều này, khi kinh tế thế giới chịu sự tác động của quá trình suy thoái toàn cầu. Bằng bản lĩnh và trí tuệ, Việt Nam đã vượt qua suy thoái với những thành tích đáng tự hào, được thế giới đánh giá cao. Năm qua, dù các nước chịu tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu, Việt Nam vẫn là nước phục hồi nhanh và bước đầu phát triển trở lại. Đó là kết quả vào cuộc quyết liệt của toàn xã hội, trong đó vai trò quản lý Nhà nước đóng vai trò then chốt. Chính phủ chỉ đạo triển khai ngay nhiều giải pháp tài chính, tiền tệ, đầu tư… nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế. Ngày 11/12, Chính phủ ra Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP về những giảm pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Theo Nghị quyết, từ tháng 10/2008 đến nay, tình hình kinh tế thế giới diễn biến nhanh, phức tạp và khó lường; khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động trực tiếp đến kinh tế trong nước, làm cho sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu giảm sút. Trước tình hình đó, Chính phủ chỉ đạo các bộ ngành, địa phương tập trung triển khai ngay các biện pháp cấp bách ngăn chặn suy giảm kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, đảm bảo an sinh xã hội và phấn đấu đạt mức tăng trưởng kinh tế năm 2009 ở khoảng 6,5%. - Tiếp tục giảm lãi suất, hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn. Nghị quyết đưa ra 5 giải pháp chính Ngân hàng Nhà nước phải triển khai, trong đó có việc thực hiện cơ cấu lại hạn nợ cho doanh nghiệp, giảm lãi suất cơ bản, hướng dẫn cho vay theo lãi suất thỏa thuận… + Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước phải có các biện pháp cụ thể để tạo điều kiện tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu và doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, như tiếp tục xem xét giảm dự trữ bắt buộc, điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản phù hợp để hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. + Thứ hai, nghiên cứu, hướng dẫn các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay theo lãi suất thỏa thuận quy định tại Nghị quyết số 23/2008/QH12 của Quốc hội. + Thứ ba, các ngân hàng thương mại thực hiện việc cơ cấu lại thời hạn nợ và áp dụng các giải pháp xử lý nợ vay vốn ngân hàng phù hợp với quy định của pháp luật đối với các hộ nông dân bị thiệt hại do thiên tai và các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm. + Thứ tư, điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả; điều chỉnh linh hoạt tỷ giá ngoại tệ theo tín hiệu thị trường, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đầu điều hành cán cân thanh toán quốc tế theo hướng không để thâm hụt. + Thứ năm, Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại xem xét điều chỉnh áp dụng lãi suất cho vay của các hợp đồng tín dụng xuống phù hợp theo mức lãi suất hiện hành; không phạt do quá hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ khó khăn. Ngoài ra, Chính phủ cũng giao Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm hỗ trợ tốt hơn cho các doanh nghiệp này tiếp cận nguồn vốn vay để phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm. - Giảm, giãn thuế cho nhiều đối tượng Về lĩnh vực tài chính, Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính tập trung triển khai ngay nhóm 9 giải pháp phục vụ mục tiêu Nghị quyết đặt ra. + Thứ nhất, giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của quý 4/2008 và số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2009 đối với thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. + Thứ hai, giãn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian 9 tháng đối với số thuế phải nộp năm 2009 của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (70% số thuế còn lại sau khi giảm) và của các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất, gia công, chế biến nông, lâm, thủy sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử. + Thứ ba, tạm hoàn 90% số thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hóa thực xuất khẩu trong trường hợp doanh nghiệp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng và hoàn tiếp 10% khi có chứng từ thanh toán. + Thứ tư, điều chỉnh thuế xuất khẩu đối với một số loại tài nguyên, khoáng sản và trình Chính phủ sửa đổi thuế suất thuế tài nguyên theo hướng hạn chế xuất khẩu, bảo đảm nguồn nguyên liệu cho sản xuất trong nước. + Thứ năm, điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu đối với một số nhóm hàng là nguyên liệu đầu vào của sản xuất, trong nước chưa sản xuất được hoặc có sản xuất nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giảm chi phí, nâng cao sức cạnh tranh. Điều chỉnh tăng thuế trong khuôn khổ cam kết WTO, tạo điều kiện cho phát triển sản xuất trong nước, kiềm chế nhập siêu. + Thứ sáu, giãn thời gian ân hạn nộp thuế đối với một số ngành hàng phù hợp với chu kỳ sản xuất và tiêu thụ (đóng tàu, sản xuất cơ khí…). Thực hiện tốt chính sách về ân hạn thời hạn nộp thuế nhập khẩu (275 ngày) đối với vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu. + Thứ bảy, cải cách thủ tục xuất nhập khẩu, rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa, đơn giản thủ tục hoàn thuế, quyết toán thuế đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng xuất khẩu. + Thứ tám, quy định rõ và phù hợp tỷ lệ phế liệu, phế phẩm thu được trong quá trình nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu không phải chịu thuế nhập khẩu. + Thứ chín, trong tháng 12/2008, Bộ trưởng Bộ Tài chính thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc triển khai thực hiện Luật thuế Thu nhập cá nhân theo hướng hỗ trợ khó khăn cho một số đối tượng nộp thuế. - Giải pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng: Kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng là một trọng tâm của Nghị quyết số 30, trong đó Chính phủ xác định 12 giải pháp mà các bộ ngành liên quan phải triển khai. + Thứ nhất, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng và các cơ quan liên quan ra soát lại toàn bộ các văn bản pháp luật hiện hành về đầu tư, xây dựng để sửa đổi ngay những bất cập làm ảnh hưởng đến tiến độ các dự án đầu tư; khẩn trương xây dựng luật sửa đổi, bổ sung các luật về đầu tư, xây dựng để trình Quốc hội tại kỳ họp sắp tới. + Thứ hai, đối với các công trình, dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, cho phép tiếp tục giải ngân số vốn còn lại của năm 2008 đến hết tháng 6/2009. Đối với các dự án, công trình quan trọng, cấp bách nhưng chưa bố trí được nguồn vốn, trong đó có dự án tái định cư các khu kinh tế, các bộ ngành và địa phương chỉ đạo các chủ đầu tư khẩn trương hoàn thành các thủ tục đầu tư và chủ động làm việc với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để xử lý nguồn vốn, kể cả việc tạm ứng ngân sách nhà nước để thực hiện. + Thứ ba, tạm hoãn thu hồi các khoản vốn ngân sách nhà nước đã ứng trước kế hoạch năm 2009, trừ các khoản đã tạm ứng năm 2009 để hoàn thành trong năm 2008. Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan trình Thủ tướng Chính phủ ngay trong tháng 12 này danh mục các dự án và mức vốn được hoãn thu hồi. + Thứ tư, đối với các dự án, công trình sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ, cho phép điều chỉnh tổng mức đầu tư đối với các dự án đã có trong danh mục được Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ giao; trên cơ sở đó thực hiện việc điều hòa vốn giữa các dự án, công trình và được thanh toán theo đúng tiến độ. Đồng thời, cho phép tiếp tục giải ngân nguồn vốn trái phiếu Chính phủ còn lại của năm 2008 trong năm 2009. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan hoàn thành phương án phân bổ vốn trái phiếu Chính phủ năm 2009 trước ngày 31/12/2008; bổ sung các dự án cấp bách khác trong các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục để triển khai thực hiện. Tạm ứng từ nguồn trái phiếu Chính phủ khoảng 1.500 tỷ đồng để đầu tư, xây dựng, nâng cấp hệ thống thủy lợi, nâng cao năng lực phòng chống lụt bão vùng đồng bằng sông Hồng… + Thứ năm, Bộ Kế hoạch Đầu tư chủ trì ban hành các biện pháp cụ thể nhằm tiếp tục thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải ngân cách nguồn vốn FDI và ODA, nhất là các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao, có giá trị xuất khẩu lớn, những dự án giải quyết việc làm; phấn đấu năm 2009 thực hiện giải ngân các nguồn vốn trên không thấp hơn mức thực hiện trong năm 2008. + Thứ sáu, Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong tháng 12/2008 cho phép cấp quyết định đầu tư được chỉ định thầu các dự án có mức vốn tối đa không quá 5 tỷ đồng/dự án tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, đồng thời chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. + Thứ bảy, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư các dự án, công trình có quy mô lớn được tạo điều kiện tối đa về đất đai, tiếp cận nguồn vốn, giải phóng mặt bằng, lãi suất… Các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước chủ động tham gia các dự án, công trình đầu tư hạ tầng quan trọng như cảng biển, điện, đường cao tốc, thủy lợi, trường học, cơ sở y tế… để góp phần đẩy nhanh tiến độ và kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội của đất nước. + Thứ tám, trong tháng 12/2008, Bộ Xây dựng trình Chính phủ Đề án xây dựng quỹ nhà ở xã hội giai đoạn 2009 – 2015; Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ ban hành cơ chế phù hợp để đảm bảo khuyến khích đầu tư xây dựng nhà ở công nhân tại các khu công nghiệp. - Đối với kích cầu tiêu dùng, Chính phủ xác định 4 giải pháp cơ bản sau: + Thứ nhất, tiếp tục điều hành giá theo cơ chế thị trường đối với các mặt hàng điện, than, nước sạch, cước vận chuyển xe buýt… Trong tháng 1/2009, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Công thương báo cáo Thủ tướng Chính phủ về lộ trình thực hiện cụ thể. + Thứ hai, Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với các bộ ngành liên quan trình Thủ tướng đề án phát triển hệ thống phân phối các mặt hàng thiết yếu, trong đó tập trung các mặt hàng lương thực, xăng dầu, phân bón, sắt thép, xi măng và thuốc chữa bệnh; chống gian lận, đầu cơ, gây mất ổn định thị trường. + Thứ ba, các bộ ngành liên quan tăng cường các biện pháp quản lý thị trường, giá cả, chất lượng hàng hóa…; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là kinh doanh trái phép, trốn thuế, liên kết độc quyền… + Thứ tư, khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức các đợt hạ giá bán hàng để kích thích tiêu dùng, trước mắt là trong dịp Tết nguyên đán 2009. Cuối năm 2009, và bước sang 2010, dấu hiệu phục hồi kinh tế rất là rõ. Chúng ta đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất. Bây giờ tín hiệu tăng trưởng là rất rõ ràng. Việt Nam là một trong những nước có khả năng phục hồi nhanh nhất, hiệu quả cao nhất. Năm 2010, chúng ta có nhiều thuận lợi. Trước hết là Việt Nam đã có đà phục hồi và tăng trưởng. Hơn nữa, nhiều công trình, cơ sở hạ tầng kinh tế bắt đầu phát huy tác dụng, mở ra nhiều bước tiến mới. Khó khăn của năm 2010 là khi nền kinh tế thế giới phục hồi thì sự cạnh tranh tăng lên. Suy thoái kinh tế khiến xuất khẩu kém, nhập khẩu khó khăn, giá cả hàng hóa rẻ nên cạnh tranh giảm đi rõ rệt. Khi kinh tế phục hồi thì nhiều khả năng cạnh tranh thế giới tăng lên vì các nước đều muốn phục hồi nhanh và dốc sức đầu tư để cạnh tranh. Bên cạnh đó là yếu tố bảo hộ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến xuất khẩu của Việt Nam. Biểu hiện rõ nhất vừa qua là vụ việc về giày mũ da, cá basa của chúng ta đối với thị trường Mỹ và Tây Âu. Cùng với đó là xu hướng giá cả tăng lên, và nếu không cẩn thận, lạm phát có thể quay trở lại. Đây là những khó khăn chúng ta cần lường trước và dùng sức mạnh kinh tế cùng những thuận lợi, thời cơ để có những bước phát triển. Hiệu quả đầu tư của chúng ta là chưa cao. Mô hình phát triển bền vững thì đúng là đang phải tìm tòi. Trình độ quản lý, kinh nghiệm, đầu tư có tính đồng bộ, quy hoạch của chúng ta chưa thật khoa học. Chúng ta đầu tư đơn lẻ, đầu tư từng bộ phận, đầu tư từng công trình một thì hiệu quả chưa thể cao được, nhưng cũng không thể không đầu tư. Về mô hình phát triển thì phải nói rằng, cả thế giới đều nói đến tái cấu trúc. Thực ra phát triển bền vững ở đây bao hàm rất nhiều ý nghĩa: Làm sao quy hoạch phải tốt hơn, cơ cấu đầu tư sắp tới để định hướng cơ cấu của nền kinh tế, ngành nào phát triển, ngành nào là mũi nhọn, rồi đến mức cụ thể hơn là nhà máy nào, công trình nào được đầu tư tốt… Phát triển bền vững bao hàm cả việc phải bảo vệ môi trường, cả cân đối trong toàn ngành kinh tế. Chúng ta có thể đảm bảo kinh tế vừa hội nhập được nhưng vẫn có tính độc lập tự chủ cao. Nghĩa là bản thân nền kinh tế phải có sức chịu đựng, tự khẳng định để hội nhập. Đây là điều mà trong tái cấu trúc chúng ta cần tính. Một yếu tố nữa để kinh tế bền vững là phải quan tâm đến xóa đói giảm nghèo, đảm bảo bình ổn xã hội. Xã hội an toàn thì làm cho nền kinh tế phát triển. An sinh xã hội cũng là mục tiêu chúng ta phải rất đề cập. Theo báo cáo của Thủ tướng Chính phủ đọc trước kì họp thứ 6, Quốc hội khoá XII thì gói kích cầu vừa qua đã có năm tác dụng tích cực. Đó là ngăn chặn được suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá trong hoàn cảnh kinh tế các nước trong khu vực và toàn cầu có mức tăng trưởng kém, thậm chí âm (ở nước ta theo dự tính năm 2009 này chỉ số tăng trưởng đặt khoảng trên dưới 5 %- tức là bằng chỉ tiêu đặt ra của quốc hội). Bảo đảm được những cân đối cơ bản kinh tế vĩ mô. Đảm bảo được an sinh xã hội. Ổn định được tình hình chính trị, xã hội và cải cách hành chính cùng bước tiến mới của công tác phòng chống tham nhũng. Tính đến ngày 15/10 gói kích cầu này đã giải ngân đạt 410.000 tỉ đồng, hỗ trợ cho 1.110 dự án với tổng mức đầu tư lên đến 8.356 tỉ đồng. Cũng trên đà ngăn chặn suy thoái kinh tế cho 76.000 doanh nghiệp mới thành lập, giải quyết việc làm cho 1,5 triệu lao động. Nếu so với 9 tháng của năm 2008 thì kinh tế Việt Nam trong 9 tháng của năm 2009 tăng 6,5% và dự kiến cả năm 2009 con số này sẽ tăng 7,2%. Một số chỉ tiêu khác để đánh giá sự hồi phục của nền kinh tế nước ta như bội chi ngân sách chỉ đạt 6,9 % GDP, số nợ chính phủ tăng vọt từ 36,5% trong năm 2008 lên 40% năm 2009, nhưng vẫn chưa vượt qua ranh giới cho phép và nhất là tỉ lệ nhập siêu trong năm 2009 chỉ còn 16,5 %  thấp hơn hẳn so với tỉ lệ 28,8% của năm 2008 … Bên cạnh những tác dụng tốt khẳng định được sau khi gói kích cầu của chính phủ tác động đến nền kinh tế thì cũng lộ ra những hạn chế của liệu pháp này. Năm 2009 là năm có tốc độ tăng trưởng thấp nhất trong mười năm trở lại đây và điều đáng lo ngại hơn là tăng trưởng theo chiều rộng, thiếu chắc chắn vẫn là phổ biến trong nền kinh tế Việt Nam. Chính vì căn bệnh này nên cơ cấu của nền kinh tế nước ta vẫn thiếu sự hoàn chỉnh, từ đó làm hạn chế nhiều sức cạnh tranh, đồng thời bội chi ngân sách vẫn tăng mạnh. Thực trạng này đã làm cho chỉ số ICOR (hệ số sinh lời từ đồng vốn đầu tư) đã đạt kỉ lục vào năm 2008, nay lại tạo lập thêm kỉ lục mới với chỉ số 8. Tức là đầu tư 8 đồng thì mới được một đồng tăng trưởng. Trong khi đó, vốn đầu tư nước ngoài vừa giảm so với các năm trước mà tỉ lệ đầu tư vào lĩnh vực bất động sản chiếm đến 60 %. Nếu tính cụ thể sự giải ngân của gói kích cầu thì trong hơn 330.000 doanh nghiệp của cả nước chỉ có chưa đầy 20% doanh nghiệp được vay vốn ưu đãi. Vì vậy làm mất đi rất nhiều sự bình đẳng mang tính thị trường của khối doanh nghiệp, tạo ra những hệ luỵ không đáng có về sức cạnh tranh, sự chủ động trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đó là chưa kể theo Tổng thanh tra chính phủ, trong gói kích cầu này đã có hàng ngàn tỉ đồng cho vay sai đối tượng hoặc trùng với không ít đối tượng đã được hưởng một số chính sách khác. Hiện trạng đầu tư vốn không đúng chỗ và thiếu hiệu quả này đã là một trong những nguyên nhân tiềm ẩn cho lạm phát… Cũng cần tính đến sự chậm trễ trong việc cải tiến thủ tục hành chính, môi trường kinh doanh và đầu tư, thể chế kinh tế thị trường… đã vô hình chung làm mất đi hiệu quả của những giải pháp tích cực của chính phủ trong việc chống lạm phát. Với những cố gắng của Chính phủ, nền kinh tế nước ta đã có nhiều chuyển biến đáng mừng, trong đó điều đáng nói nhất là bước đầu vượt qua được suy giảm kinh tế, tạo dựng được đà phát triển mới. Nhưng ngay trong bước chuyển cơ bản đó, nền kinh tế nước ta trong quá trình phát triển vẫn lộ ra những điểm thiếu sót lớn nếu không có những giải pháp triệt để thì chắc chắn những nguy cơ lạm phát và suy giảm kinh tế cùng những khó khăn mới sẽ xuất hiện gây trở ngại cho sự tăng trưởng vững chắc trong giai đoạn tiếp theo. ---------------Hết--------------- ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25774.doc
Tài liệu liên quan