MụC LụC
PHầN Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay doanh nghiệp nhà nước có vị trí rất quan trọng.
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã thông qua Nghị quyết "Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước". Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị số 01/CT-TTg (ngày 16-1-2003) về tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh ngh
68 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1284 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tiếp tục sắp xếp, đổi mới quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp Nhà nước. Chỉ thị xác định yêu cầu đến năm 2005 phải cơ bản hoàn thành việc sắp xếp lại DN Nhà nước, riêng năm 2003 cần có sự tập trung chỉ đạo về bước chuyển quan trọng, trọng tâm là nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các Tổng công ty (TCT) và thực hiện cổ phần hóa, giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá sản các doanh nghiệp nhỏ, thua lỗ và Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn. Thủ tướng chỉ thị phải kiện toàn Ban Chỉ đạo đổi mới DN, kiên quyết thay đổi những giám đốc DN không thực hiện nghiêm đề án sắp xếp lại DN. Các bộ, tỉnh, thành, hội đồng quản trị các TCT tập trung tháo gỡ khó khăn, phấn đấu năm 2005 các TCT không còn DN thành viên sản xuất kinh doanh yếu kém, thua lỗ kéo dài; trước ngày 30-3-2003 trình Thủ tướng phê duyệt phương án đối với những TCT, DN thuộc diện thí điểm chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển DN chủ trì, phối hợp các bộ: Bưu chính- Viễn thông, Công nghiệp, Xây dựng, TCT Bưu chính - Viễn thông, TCT Dầu khí VN, TCT Điện lực VN xúc tiến nghiên cứu, khảo sát xây dựng đề án tập đoàn kinh tế.
Doanh nghiệp nhà nước chi phối các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, tăng thế và lực của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm trong nước, trong tổng thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và công trình hợp tác đầu tư với nước ngoài; là lực lượng quan trọng trong thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh. Doanh nghiệp nhà nước ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường; năng lực sản xuất tiếp tục tăng; cơ cấu ngày càng hợp lý hơn; trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng lên; đời sống của người lao động từng bước được cải thiện.
Hiện nay chúng ta đang cần những biện pháp hữu hiệu để nâng cao vai trò và hiệu quả của cac doanh nghiệp Nhà nước. Chính vì vậy tôi chọn đề tài "Tiếp tục sắp xếp, đổi mới quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam" làm luận văn tốt nghiệp Lý luận chính trị cao cấp.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vai trò, vị trí của doanh nghiệp Nhà nước, đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay theo tinh thần Nghị quyết TW 3 (Khoá IX) và các văn bản pháp luật của Nhà nước. Chúng tôi chỉ xin dừng lại ở việc phân tích thực trạng, nêu các giải pháp tiếp tục sắp xếp, đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn hiện nay, không đi vào lịch sử vấn đề.
3. Mục tiêu của đề tài và nhiệm vụ khoa học của đề tài
Luận văn hướng tới những mục tiêu sau đây:
Phân tích vị trí, vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay;
Phân tích thực trạng tổ chức và quản lý hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay;
Nêu những kiến nghị về các giải pháp tiếp tục sắp xếp, đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Phương pháp nghiên cứu được vân dụng là pháp phân tích, diễn giải và quy nạp, phương pháp xã hội học cụ thể và phương pháp đối chiếu-so sánh.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và quản lý hoạt động của DNNN ở VN hiện nay.
Chương 3: Định hướng và giải pháp cơ bản tiếp tục đổi mới tổ chức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả của DNNN ở Việt nam trong thời gian tới.
CHƯƠNG 1: NHữNG VấN Đề Lý LUậN CHUNG Về DOANH NGHIệP NHà NƯớC TRONG NềN KINH Tế THị TRƯờNG ĐịNH HƯớNG Xã HộI CHủ NGHĩA.
1.1.Khái niệm, đặc điểm của DNNN trong nền kinh tế thị trường
1.1.1 Khái niệm DNNN
Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam ra đời gắn liền với quá trình đấu tranh giành độc lập đân tộc. Trong suốt gần 50 năm tồn tại và phát triển doanh nghiệp nhà nước đã giữ vai trò nòng cốt trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân, góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc. Với vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nên các nhà làm luật ở nước ta luôn coi trọng và cố gắng tạo dựng cho doanh nghiệp nhà nước một hành lang pháp lý ổn định để hoạt động.
Văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước tạo tiền đề cho doanh nghiệp nhà nước là Sắc lệnh 104/SL do Chủ tịch nước ban hành ngày 01 - 01 - 1948. Sắc lệnh này khẳng định xí nghiệp quốc doanh thuộc sở hữu quốc gia, do Nhà nước quản lý. Nhiệm vụ của xí nghiệp quốc doanh là sản xuất ra sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu tối thiểu của nền kinh tế, điều phối các hoạt động kinh tế trong nước, bảo vệ kinh tế và phát triển tài chính quốc gia. Sắc lệnh này còn quy định xí nghiệp quốc doanh có vốn tự trị và không thuộc ngân sách hàng năm.
Ngày 25 - 02 - 1949 Chủ tịch nước kí sắc lệnh 09/SL về việc thành lập xí nghiệp quốc doanh. Để thực hiện hai sắc lệnh 104/SL và 09/SL ngày 31 - 10 - 1952 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành điều lệ tạm thời về xí nghiệp quốc doanh trong Nghị định số 214/TTg. Điều lệ này khẳng định vai trò chủ đạo của xí nghiệp quốc doanh, xác định xí nghiệp quốc doanh là pháp nhân và có trách nhiệm trước bộ chủ quản về thực hiện kế hoạch và quản lý tài sản Nhà nước. Các văn bản pháp luật nói trên đã tạo dựng nên hành lang pháp lý cho sự thành lập và hoạt động cuả xí nghiệp quốc doanh, đồng thời khẳng định vai trò chủ đạo của xí nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế quốc dân.
Sau ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng năm 1954 Nhà nước ta chính thức triển khai thực hiện những nguyên tắc và phương pháp quản lý xã hội chủ nghĩa. Ngày 04 - 04 - 1957 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định 130/TTg nhằm tạo ra một hành lang pháp lý tốt cho các xí nghiệp quốc doanh phát triển sản xuất. Họ có quyền tự hạch toán đầu vào, đầu ra để sản xuất sao cho có hiệu quả nhất. Quyết định đã đưa ra những vấn đề có tính nguyên tắc trong quản lý xí nghiệp như: kế hoạch toàn diện, áp dụng chế độ hợp đồng kinh doanh, thi hành chế độ hạch toán kinh doanh...
Tuy vậy do điều kiện chiến tranh nên cho mãi tới đầu những năm 70 vấn đề về ổn định sản xuất và cải tiến quản lý xí nghiệp quốc doanh mới được quy định trong chỉ thị 11/TTg ngày 09 - 01 - 1971. Theo chỉ thị này hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh và chỉ tiêu hướng dẫn bắt đầu được áp dụng tại các xí nghiệp quốc doanh. Ngày 10 - 12 - 1976 Chính phủ ban hành Nghị định 244/CP về việc áp dụng thống nhất hệ thống 9 chỉ tiêu pháp lệnh cho tất cả các xí nghiệp quốc doanh.
Những quy định của pháp luật về xác định địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước trong thời kì này nói chung còn sơ sài, thiếu đồng bộ. nhiều quy định chỉ có giá trị mang tính chất tạm thời.
Sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đất nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần (nền kinh tế thị trường) vai trò của Nhà nước càng được quan tâm chú trọng hơn. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm tạo dựng một địa vị pháp lý vững vàng cho doanh nghiệp nhà nước để đứng vững được trước những thử thách khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường:
ở Việt Nam ta trước đây các đơn vị kinh tế của Nhà nước được gọi dưới cái tên như: Xí nghiệp quốc doanh, nông lâm trường quốc doanh, cửa hàng quốc doanh... Thuật ngữ doanh nghiệp nhà nước được sử dụng chính thức trong Nghị định 388/HĐBT ngày 20/11/1991 ban hành quy chế pháp lý về thành lập, giải thể doanh nghiệp nhà nước. Theo tinh thần của Nghị định này thì doanh nghiệp nhà nước được hiểu là: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh doanh do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách chủ sở hữu. Doanh nghiệp nhà nước là một pháp nhân kinh tế, hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật”.
Một nhu cầu cấp thiết được đặt ra là xác định vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế thị trường tại khuôn khổ pháp lý, quy định rõ quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước cùng với việc tự chịu trách nhiệm của mình trước pháp luật trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời tăng cường quản lý Nhà nước và thực hiện chức năng của Nhà nước với tư cách chủ sở hữu đối với vốn và tài sản của doanh nghiệp. Để đáp ứng được nhu cầu bức xúc đó ngày 20/4/1995 Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá IX kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật doanh nghiệp nhà nước. Trong đó Nhà nước đã tách chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng sản xuất kinh doanh. Luật doanh nghiệp nhà nước ra đời đã tạo mặt bằng pháp lý cho việc tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Khái niệm của doanh nghiệp nhà nước được quy định trong điều 1 Luật doanh nghiệp nhà nước như sau:
“Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hay hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao.
Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, chịu trách nhiệm về tất cả hoạt động kinh doanh trong phạm vi vốn do Nhà nước quản lý. doanh nghiệp Nhà nước có tên gọi, con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam”.
( *** Bổ sung thông tin :
Dự thảo Luật DNNN sửa đổi đã được trình và thảo luận tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá 11 hồi tháng 5 - 2003 và còn tiếp tục được thảo luận tại kỳ họp thứ 4 vào tháng 10 - 2003. Trong đó có một số điểm đáng chú ý :
Về khái niệm
Theo Dự thảo mới : Doanh nghiệp nhà nước : là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc giữ cổ phần , vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước độc lập, tổng công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn có 2 thành viên trở lên. ***) ( Tuy nhiên, về khái niệm này hiện nay cũng còn co snhiều ý kiến khác nhau, ví dụ như công ty cổ phần là DN có cổ phần của Nhà nước và của các thành phần kinh tế khác, vì loại doanh nghiệp này không thể là đối tượng quản lý của Luật DNNN v.v.. Những vấn đề này sẽ được tiếp tục thảo luận và quyết định tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá 11 vào tháng 10 - 2-003)
1.1.2 Đặc điểm của DNNN
Luật doanh nghiệp nhà nước (1995) đã đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về doanh nghiệp nhà nước. Từ khái niệm đó chúng ta có thể thấy doanh nghiệp nhà nước có những đặc điểm sau:
a. Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước thành lập.
Hiện nay trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp nhà nước là một tổ chức kinh tế do Nhà nước thành lập (điều 1 Luật doanh nghiệp nhà nước 1995). Điều này có nghĩa là không chỉ có những doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh mà còn tồn tại những doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích. Khi xét thấy việc thành lập một doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh hay thành lập một doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích là cần thiết cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ký quyết định thành lập. Điều này khác biệt hẳn với các loại hình doanh nghiệp khác. Các loại hình doanh nghiệp khác không phải do Nhà nước trực tiếp thành lập mà Nhà nước chỉ cho phép thành lập các doanh nghiệp này trên cơ sở đơn xin thành lập của người hoặc những người muốn thành lập và có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
b. Tài sản của doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu Nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước đầu tư vốn và thành lập nên tài sản của doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu Nhà nước. Đối với tài sản và vốn Nhà nước giao cho doanh nghiệp để tiến hành sản xuất kinh doanh Doanh nghiệp Nhà nước không có quyền sở hữu đối với tài sản đó. Doanh nghiệp chỉ là người quản lý và sử dụng vốn và duy trì hoạt động kinh doanh của mình. Doanh nghiệp nhà nước trực tiếp quản lý tài sản của Nhà nước nên doanh nghiệp có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản để tiến hành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên doanh nghiệp nhà nước không hoàn toàn có quyền định đoạt đối với tài sản trong doanh nghiệp. Quyền tự chủ về vốn của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào cơ chế quản lý kinh tế. Trong cơ chế kinh tế cũ doanh nghiệp có rất ít quyền đối với tài sản. Trong cơ chế kinh tế mới hiện nay doanh nghiệp nhà nước có quyền tự chủ rộng rãi hơn đối với tài sản Nhà nước giao. Với tư cách là người trực tiếp quản lý và sử dụng tài sản Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước có trách nhiệm bảo toàn và phát triển số vốn mà Nhà nước giao. Trong quá trình sản xuất kinh doanh doanh nghiệp có quyền chuyển nhượng, cho thuê, cầm cố, thế chấp tài sản Nhà nước trong khuôn khổ pháp luật đảm bảo kinh doanh có hiệu quả.
Nhà nước thể hiện ý chí của người chủ sở hữu đối với tài sản Nhà nước giao cho doanh nghiệp nhà nước trong các văn bản quy định chế độ quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản đó.
c) Doanh nghiệp nhà nước là một tổ chức có tư cách pháp nhân.
Doanh nghiệp nhà nước được thành lập một cách hợp pháp theo một thủ tục pháp lý chặt chẽ. Có quyết định thành lập hay tổ chức lại doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh theo đúng các quy định của luật doanh nghiệp nhà nước. Trong doanh nghiệp nhà nước hiện nay có một cơ cấu tổ chức thống nhất. Giữa bộ phận lãnh đạo và bộ phận giúp việc trực tiếp sản xuất kinh doanh có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Các cán bộ nắm giữ những vị trí chủ chốt trong doanh nghiệp là những cán bộ thuộc biên chế Nhà nước hay do Nhà nước tuyển chọn đào tạo hoặc bổ nhiệm.
Doanh nghiệp nhà nước có tài sản riêng, tài sản của doanh nghiệp do Nhà nước giao thuộc sở hữu Nhà nước nhưng nó được tách biệt với số tài sản khác của Nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước phải chịu trách nhiệm độc lập về số tài sản này và chỉ chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh trong phạm vi vốn do Nhà nước quản lý (trách nhiệm hữu hạn).
Lần đầu tiên việc chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi tài sản doanh nghiệp nhà nước được ghi nhận trong một văn bản pháp lý. Việc làm này có ý nghĩa rất to lớn trong việc đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Doanh nghiệp nhà nước có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tự xây dựng và thực hiện các phương án kinh doanh, các hợp đồng kinh tế. Tự nguyện liên doanh liên kết trên cơ sở các quy định của pháp luật để tạo ra lợi nhuận cao.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp nhà nước có thể tham gia tất cả các quan hệ pháp luật, đồng thời doanh nghiệp nhà nước có thể là nguyên đơn hay bị đơn trước các cơ quan tài phán khi có tranh chấp xảy ra.
d) Doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo mục tiêu Nhà nước giao.
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức do Nhà nước thành lập và đầu tư vốn khi thấy cần thiết phục vụ cho những mục tiêu đã định của Nhà nước. Do đó các doanh nghiệp nhà nước phải thực hiện những mục tiêu mà Nhà nước đã giao cho.
Nếu Nhà nước giao cho doanh nghiệp mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra của cải vật chất để phục vụ đời sống xã hội thì doanh nghiệp phải có sự hạch toán lỗ lãi rõ ràng. Nếu có lợi nhuận thì tiếp tục mở rộng, đẩy mạnh sản xuất, tăng cường quy mô sản xuất. Nếu thua lỗ nhiều không có khả năng khắc phục thì giải thể hay tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật hiện hành.
Nếu Nhà nước giao cho doanh nghiệp chức năng chuyên hoạt động công ích sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng cho xã hội hay trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng hoặc an ninh thì doanh nghiệp nhà nước phải đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội mà Nhà nước đặt ra.
e) Doanh nghiệp nhà nước là đối tượng quản lý trực tiếp của Nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước đầu tư vốn và thành lập nên các doanh nghiệp nhà nước đều thuộc sở hữu của Nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là cơ sở kinh tế của Nhà nước giúp Nhà nước hướng dẫn nền kinh tế thị trường do đó Nhà nước rất quan tâm, chú trọng đến các doanh nghiệp nhà nước. Tất cá các doanh nghiệp nhà nước đều chịu sự quản lý trực tiếp của một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Bộ chủ quản hay uỷ ban nhân dân cấp tỉnh theo sự phân cấp của Chính phủ).
Thủ trưởng cơ quan quản lý Nhà nước của doanh nghiệp nhà nước được Chính phủ uỷ quyền làm đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước. Giám đốc doanh nghiệp nhà nước do cơ quan quản lý Nhà nước của doanh nghiệp bổ nhiệm và chịu sự kiểm tra giám sát của cơ quan này.
Hiện nay Nhà nước đang chủ trương xoá bỏ cơ quan chủ quản của doanh nghiệp nhà nước, nhưng không có nghĩa là Nhà nước buông lỏng quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước sẽ có cơ chế mới để thực hiện quyền sở hữu của mình đối với doanh nghiệp nhà nước.
1.2.Vai trò DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam.
1.2.1. Vai trò của DNNN trong nền KTTT
Mỗi chế độ xã hội đều có quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Có một cơ cấu sở hữu về tư liệu sản xuất do đó về mặt xã hội có một cơ cấu kinh tế nhất định. Đa dạng hoá các loại hình sở hữu trong đó có một loại hình sở hữu giữ vai trò chủ đạo là vấn đề mang tính phổ biến của mọi chế độ xã hội. Vì vậy cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong đố có một thành phần giữ vai trò chủ đạo cũng là một đặc trưng có tính phổ biến của tất cả các Nhà nước trên thế giới. Trong bất cứ một nền kinh tế hiện đại nào doanh nghiệp nhà nước vẫn tồn tại và nắm giữ những ngành trọng yếu của đất nước. Nó có tác động mạnh đến sự tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội mà lĩnh vực kinh tế tư nhân không có khả năng làm hoặc nếu làm sẽ có ảnh hưởng đến lợi ích chung, thậm chí ảnh hưởng tới an ninh quốc gia. Đối với các nước đang phát triển do khu vực kinh tế tư nhân còn non yếu và do yêu cầu phải tập trung nỗ lực toàn xã hội để đẩy nhanh tốc độ phát triển cho nên doanh nghiệp nhà nước thường có tỷ trọng và vai trò to lớn trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Hiện nay nhiều nước trên thế giới đang tiến hành tư nhân hoá các cơ sở kinh tế Nhà nước nhưng không phải họ tư nhân hoá toàn bộ mà vẫn giữ lại những doanh nghiệp nhà nước mà nếu thiếu nó thì nền kinh tế không tạo được thế ổn định.
Đối với nước ta từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI. Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng kinh tế, là một phương tiện quan trọng không thể thiếu được để Nhà nước can thiệp, điều tiết, hỗ trợ, hướng dẫn các thành phần kinh tế phát triển đúng hướng. Vì vậy phủ nhận sự tồn tại và vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước tức là phủ nhận tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Thực tế cho thấy mấy năm qua hoạt động của nền kinh tế quốc dân đã có nhiều chuyển biến hết sức to lớn, sôi động và phức tạp. Những thành tựu kinh tế - xã hội chúng ta đã đạt được cũng như những khó khăn còn tồn tại trong quá trình đổi mới nền kinh tế đã được khẳng định. Doanh nghiệp nhà nước với ưu thế sẵn có được Nhà nước đầu tư vốn và thành lập, là đơn vị kinh tế cơ sở, là khâu cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Cần phải chấn chỉnh và xây dựng doanh nghiệp nhà nước hoạt động sao cho có hiệu quả, vươn lên đảm nhận được vị trí chủ đạo trong nền kinh tế.
Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện ở những điểm sau:
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phạm vi hoạt động cũng như lĩnh vực hoạt động của kinh tế quốc doanh sẽ bị thu hẹp lại, nhưng nó vẫn được tồn tại và phát triển ở những ngành, những lĩnh vực then chốt và quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước phải có những doanh nghiệp nhà nước ở lĩnh vực quan trọng để có đủ sức mạnh thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô, can thiệp vào thị trường và khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp nhà nước là công cụ về mặt vật chất để Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế thị trường.
Doanh nghiệp nhà nước được duy trì và phát triển ở những ngành, những lĩnh vực mang lại ít lợi nhuận hay không có lợi nhuận. Vì vậy các thành phần kinh tế khác sẽ không đầu tư để kinh doanh nhưng doanh nghiệp nhà nước vẫn phải đầu tư để đảm bảo nhu cầu chung của nền kinh tế, đảm bảo lợi ích công cộng.
Doanh nghiệp nhà nước còn được duy trì ở những lĩnh vực kinh doanh đòi hỏi phải có số vốn lớn mà các thành phần kinh tế khác không đủ sức đầu tư.
Đánh giá vai trò quan trọng của doanh nghiệp nhà nước không chỉ dựa vào vấn đề lời lãi trước mắt mà phải tính đến hiệu quả kinh tế lâu dài. Chính vì vậy sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước là một tất yếu khách quan. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn xác định sự cần thiết và vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế quốc dân. Trong Nghị quyết Trung ương VI (khoá 6) về chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 đã khẳng định: “ Kinh tế quốc doanh phải được củng cố và phát triển nắm vị trí then chốt trong nền kinh tế, phát huy ưu thế và kỹ thuật công nghệ, không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, chủ động liên kết và dẫn dắt các thành phần kinh tế khác để thực hiện tốt vai trò chủ đạo đảm bảo cho sự phát triển ổn định có hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2.2.Vai trò của DNNN trong nền KTTT định hướng XHCN ở VN
Trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp và nền kinh tế còn nhiều khó khăn gay gắt, doanh nghiệp nhà nước đã vượt qua nhiều thử thách, đứng vững và không ngừng phát triển, góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước; đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Doanh nghiệp nhà nước đã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, tăng thế và lực của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm trong nước, trong tổng thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và công trình hợp tác đầu tư với nước ngoài; là lực lượng quan trọng trong thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh. Doanh nghiệp nhà nước ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường; năng lực sản xuất tiếp tục tăng; cơ cấu ngày càng hợp lý hơn; trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng lên; đời sống của người lao động từng bước được cải thiện.
1.3. Hiệu quả của DNNN trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt nam
1.3.1.Quan niệm về hiệu quả của DNNN trong nền KTTT định hướng XHCN ở VN
Kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước (gồm doanh nghiệp nhà nước giữ 100% vốn và doanh nghiệp nhà nước giữ cổ phần chi phối) phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế. Việc xem xét, đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước phải có quan điểm toàn diện cả về kinh tế, chính trị, xã hội; trong đó, lấy suất sinh lời trên vốn làm một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp kinh doanh, lấy kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp công ích.
1.3.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của DNNN ở Việt nam
Có thể nói có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
Trước hết đó là chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với doang nghiệp. Chủ trương chính sách đúng sẽ là định hướng tốt cho hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Vấn đề sở hữu, đại diện chủ sở hữu là nhân tố quan trọng đối với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
1.4. Kinh nghiệm tổ chức quản lý DNNN ở một số nước.
Trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp này chúng tôi không thể nêu đầy đủ kinh nghiệm tổ chức quản lý doanh nghiệp của các nước trên thế giới. Có thể nói đây là vấn đề lớn, thậm chí đòi hỏi phải nghiên cứu ở đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước. Tuy nhiên qua nghiên cứu chúng tôi thấy có nổi bật vấn đề sau đây.
Bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới đều tồn tại bộ phận doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước phụ thuộc vào đường lối lãnh đạo của từng Nhà nước, phụ thuộc vào tầm quan trọng của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế nước đó. Tuy nhiên chế độ chính trị và đường lối lãnh đạo đất nước của các quốc gia là khác nhau nên khái niệm về doanh nghiệp nhà nước có các điểm khác nhau.
ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển người ta rất chú trọng tới các dịch vụ công (không phải khái niệm dịch vụ hành chính công như chúng ta quan niệm). Đây chính là lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp hoạt động công ích. Các bộ chủ quản đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích có sự điều chỉnh chặt chẽ của các quy phạm pháp luật có liên quan. Tuy nhiên cũng phải thấy là ngay lĩnh vực này nhà nước cũng thực hiện chính sách xã hội hóa cao. Điều đó có nghĩa là ngay trong lĩnh vực công ích, nếu xã hội hóa được là thực hiện xã hội hóa triệt để, nhà nước quản lý ở tầm vĩ mô.
Nhà nước đặc biệt nắm giữ một số ngành then chốt trong nền kinh tế quốc dân, những ngành đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn mà tư nhân không có khả năng đầu tư. Tuy nhiên ngay cả những lĩnh vực như vậy của nền kinh tế cũng có xu hướng xã hội hóa, tạo sự cạnh tranh lành mạnh.
Chúng tôi chỉ xin nêu một ví dụ thực tế về
Kinh nghiệm cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung quốc, qua một số thông tin từ Hội thảo “Cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung quốc - kinh nghiệm đối với Việt nam” do Viện nghiên cưú quản lý kinh tế trung ương ( Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt nam) và Viện nghiên cứu khoa học tài chính Trung quốc, Viện nghiên cứu kinh tế quốc gia Trung quốc tổ chức cuối năm 2002 tại Hà nội ( Tài liệu do Zhou Fang seng- chuyên viên cao cấp của Viện Nghiên cứu khoa học Tài chính Bộ Tài chính Trung quốc, và Wang Xiaolu - Phó Viện trưởng viện nghiên cứu kinh tế quốc gia, Quỹ cải cách Trung quốc , trình bày ) :
Cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung quốc được thực hiện từ năm 1978, chia làm 3 giai đoạn :
- Giai đoạn đầu tiên là cải cách nhằm mở rộng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp, về cơ bản vẫn dựa trên khung thể chế của cơ chế kế hoạhchoá tập trung. Mục tiêu chính là điều chỉnh mối quan hệ giữa Chính phủ và doanh nghiệp theo hướng quản lý doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh tự do hơn và nhằm mang lại động lực cho các nhà quản lý và người lao động trong doanh nghiệp.
- Giai đoạn thứ 2 cải cách DNNN là từ năm 1986, gắn liền với việc thực hiện Hệ thống trách nhiệm của doanh nghiệp. Hệ thống này nhằm khuyến khích việc chấp nhận nhiều mức trong trách nhiệm của doanh nghiệp ( gọi tắt là ERS). Hệ thống này gồm 2 nội dung : Một là đưa quyền tự chủ trong hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả, và bảo vệ các quyền hợp pháp của doanh nghiệp. Thứ hai là đặt mục tiêu đóng thuế tối thiểu cho các DNNN và đặt ra tỷ lệ phân chia mục tiêu lợi nhuận giữa nhà nước và doanh nghiệp.
- Giai đoạn cải cách DNNN thứ 3 là từ năm 1992. Tháng 10/1992, Đại hội lần thứ 14 Đảng Cộng sản Trung quốc đưa 2 mục tiêu mới trong lĩnh vực này nhằm thiết lập cơ chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu này chỉ r athời hạn cuối cùng mà cơ chế mới và cơ chế cũ phải đoạn tuyệt với nhau và việc bắt đầu giai đoạn mới cho việc hình thành cơ chế kinh tế thị trường. Cải cách DNNN đi vao fgiai đoạn phân cấp quyền kiểm soát hành chính đối với DNNN và bắt đầu giai đoạn mới trong cải cách sở hữu trong các DNNN quy mô nhỏ và việc thành lập hệ thống doanh nghiệp hiện đại đối với các DNNN quy mô vừa và lớn. Kết quả điều tra các doanh nghiệp tại 19 tỉnh của Trung quốc vào năm 1999 cho thấy: có 75% các DNNN quy mô nhỏ và vừa đã áp dụng nhiều cơ chế mới, bao gồm cả việc bán cho tư nhân. Người ta hi vọng hầu hết các DNNN quy mô nhỏi sẽ được chuyển thành công ty TNHH, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân ... trong một vài năm tiếp theo. Cùng thời gian đó, cải cách đối với DNNN quy mô vừa và lớn đã bị chậm lại. Trọng tâm của giai đoạn này vẫn là thay đổi cơ chế quản lý và xa hơn là đưa cơ chế tự chủ của DNNN vào thực tiễn.
Năm 1993, UBTW Đảng Trung quốc thông qua quyết định về một số vấn đề thiết lập cơ chế kinh tế thị trường XHCN. Quyết định đặt mục tiêu : thiết lập hệ thống doanh nghiệp hiện đại với quyền và trách nhiệm về tài sản được xác định rõ ràng ; tách bạch DNNN khỏi quản lý nhà nước với cơ cấu quản lý hiện đại để phù hợp với nền kinh tế thị trường. Tháng 12/1993, Luật Công ty Nhà nước nước CHND Trung hoa được Quốc hội thông qua.
Tháng 11/1994, 100 DNNN vừa và lớn đã được lựa chọn để thí điểm thànhlập hệ thống doanh nghiệp hiện đại. Thí điểm nhằm : cơ cấu lại quyền tài sản và xác định rõ cơ quan đầu tư cho doanh nghiệp ; chuyển đối các doanh nghiệp NN sang công ty TNHH; đánh giá lại và cung cấp đủ tài sản cho DN; và giảm bớt gánh nặng các khoản nợ không xác định được nguyên nhân trong quá khứ của doanh nghiệp. Trong khi đó, việc thí điểm chuyển DNNN thành công ty cổ phần cũng được mở rộng nhanh chóng. Những thử nghiệm này cơ bản đã xác định quyền tài sản của doanh nghiệp ; tách doanh nghiệp khỏi cơ quan quản lý nhà nước; hình thành đại hội cổ đông hội đồng quản trị, và thiết lập cơ chế quản lý công ty.
Trong quá trì._.nh thí điểm cũng đã phát hiện một số vấn đề chung. Ơ nhiều doanh nghiệp, việc áp dụng cơ chế mới đã làm doanh nghiệp bị thụt lùi, vận hành của các cơ chế mới chưa được chuẩn hoá, hoạt động của doanh nghiệp dưới mức mong muốn; phương thức quản lý hành chính nhà nước thay đổi không đáng kể. Vì thế nó làm chậm lại hoạt động bình thường của các công ty mới. Một số biện pháp cải cách không được thực hiện một cách đồng bộ và những gánh nặng tài chính đối với doanh nghiệp vẫn còn rất lớn.
Tháng 7/1997, Đại hội Đảng Trung quốc lần thứ 15 đặt mục tiêu trong 3 năm sẽ đưa phần lớn DNNN vừa và lớn thoát khỏi tình trạng thua lỗ qua các công cụ cải cách như cơ cấu lại, xây dựng lại và cải thiện quản lý doanh nghiệp hiện đại ở hầu hết các DNNN quy mô vừa và lớn. Để đạt được những mục tiêu này, các biện pháp yêu cầu phải được thực hiện là : Thứ nhất ; hoàn thiện quản lý của các DNNN lớn và giải phóng những DNNN nhỏ. Thứ hai, khuyến khích sáp nhập các DNNN, chuẩn hoá thủ tục phá sản DN, sa thải lao động dôi thừa trong các DNNN và khuyến khích việc tuyển dụng lại lao động. Thứ ba, khuyến khích việc đổi mới công nghệ và phát triển các sản phẩm mới. Thứ tư, là thiết lập quản lý tốt DNNN. Và thứ năm là phối hợp tốt hơn các chính sách cải cách doanh nghiệp.
Kết luận : sau 20 năm thực hiện cải cách DNNN, nền kinh tế Trung quốc đã do những lực lượng của thị trường thống trị, khu vực ngoài quốc doanh định hướng thị trường đã lớn mạnh. Điều này tạo nền tảng vững chắc cho những cảicách sâu hơn và tạo nhiều khoảng trống hơn để giải quyết các vấn đề này.
Bài học kinh nghiệm về cải cách DNNN ở Trung quốc :
Bài học chung : Giải pháp cải cách ban đầu , chủ yếu là phân quyền, là cần thiết đối với DNNN trong điều kiện nền kinh tế thị trường đang chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Kinh nghiẹm quá khứ cho thấy, để thiết lập một môi trường thị trường cạnh tranh bằng cách bãi bỏ các quy định là không đủ để phục hồi các DNNN, bởi phần lớn các DNNN đang thiếu động lực để đạt được mức cạnh tranh thị trường. Hơn nữa, Chính phủ, với tư cách là chủ sở hữu DNNN, đã thất bại trong việc thực hiện vai trò là người giám sát quản lý DN như các chủ sở hữu DN tư nhân thường làm. mặt khác, công cuộc cải cách gần đây nhất làm giảm bớt gánh nặng của DNNN về lao động dôi dư và quan trọng hơn cả là những thay đổi cho phép trong cấu trúc sở hữu của DNNN bằng việc chấp nhận sở hữu tư nhân có vẻ hiệu quả hơn.
Những bài học cụ thể : có thể kể ra một số bài học trong các lĩnh vực sau đây :
Sự can thiệp của Chính phủ
Động lực khuyến khích
Hình thức phạt
Vấn đề giám sát
Thái độ đầu tư của Chính phủ
Sự can thiệp của Chính phủ : Trong thực tế, có quá nhiều sự giám sát và can thiệp đối với DNNN và đã gây ra hiệu quả thấp cho hoạt động của DN. Đây là một vấn đề lớn trong quá khứ nhưng về cơ bản đã và đang được giải quyết bằng việc bãi bỏ các quy định trong suốt giai đoạn cải cách. Hầu hết những nhà DNNN hiện nay có đủ quyền tự chủ trong việc ra quyết định và vận hành doanh nghiệp trên thị trường.
Động lực khuyến khích : Tiền lương, tiền thưởng cho cả nhà quản lý và người lao động trong DNNN đã được quy định và thường là không tương xứng với kết quả lao động của họ. Việc này đã được cải cách linh hoạt hơn, song vẫn không tương xứng với đóng góp của lao động vào doanh nghiệp.
Hình thức phạt : Trước đây, công việc được bảo đảm cho cả người quản lý và người lao động trong DNNN. Điều này làm họ không cần quan atam đến hiệu quả công việc và tương lai của doanh nghiệp. Mấy năm gần đây, với người lao động, suy nghĩ này đã thay đổi vì đã có một số lượng lớn người lao động trong doanh nghiệp bị cho thôi việc. Nhưng với người quản lý thì rất ít người gặp rủi ro về công việc khi họ quản lý yếu kém, và điều này đã ủng hộ thái độ thiếu trách nhiệm của họ. Do thiếu cơ chế phạt nên hiệu quả hoạt động của DNNN chủ yếu phụ thuộc vào tính cách cá nhân của các nhà quản lý doanh nghiệp.
Về giám sát : Cùng với quá trình bãi bỏ các quy định trong giai đoạn cải cách , việc giám sát của chủ sở hữu đối với DNNN cũng bị buông lỏng nên đã tạo điều kiện cho tình trạng tham nhũng và không làm tròn nhiệm vụ của các nhà quản lý. Và một số nguyên nhân tiềm ẩn đằng sau nữa. Thứ nhất là thiếu chuẩn mực, thủ tục và quy tắc kiểm toán và giám sát hiệu quả. Thứ hai, chủ sở hữu là Chính phủ còn thiếu thông tin về Quảnlý DNNN. ( Điều này liên quan đến vấn đề liệu một số DNNN có ở ngoài tầm kiểm soát có hiệu quả của Chính phủ không.) Thứ ba, không giống như các chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân, các quan chức chính phủ chịu trách nhiệm về DNNN không có quyền lợi liên quan đến hiệu quả hoạt động của DNNN dưới sự giám sát của họ. Vì thế, việc họ có quan tâm đến hiệu quả hoạt động của DNNN đó hay không phụ thuộc vào tính cách cá nhân họ. Thứ tư, thái độ tìm kiếm , thuê mướn của các quan chức chính phủ đang làm giản khả năng cạnh tranh của DNNN. Câu hỏi đặt ra là Chính phủ tự cư xử như thế nào cho đúng khi mình là chủ sở hữu thiếu trách nhiệm đối với DNNN và hơn nữa, điều này còn liên quan đến việc làm thế nào để giám sát được các quan chức chính phủ.
Thái độ đầu tư của Chính phủ : DNNN hoạt động yếu kém phần lớn là do việc Chính phủ đầu tư quá mức vào nhiều lĩnh vực sản xuất. Chính quyền địa phương, từ cấp tỉnh đến huyện, xã đều muốn đầu tư váo sản xuất và cạnh tranh với nhau mà ít quan tâm đến rủi ro đầu tư. Điều này dẫn đến thừa quá mức khả năng sản xuất. Ví dụ năm 1998, Trungquốc có tới 120 nhà máy sản xuất ôtô, hấu jết là DNNN, với tổng sản lượng là 1,6 triệu ôtô/năm. Trong đó chỉ có duy nhất 1 doanh nghiệp đạt được 150.000 xe/năm. Hoặc cũng trong năm 1998, Trung quốc có 3.500 lò nấu sắt và thép hầu hết là DNNN và chỉ có 5 trong số đó đạt mức 4 triệu tấn/năm. Đây không chỉ là chuyện Chính phủ không quan atam đến rủi ro và hiệu quả khi đầu tư, mà còn chỉ ra rằng thiếu cơ chế phá sản DNNN, hoặc hợp nhất các DNNN ở cấp tỉnh và dưới nữa.
Tóm lại : kinh ngiệm từ thực tế cải cách và quảnlý DNNN ở Trung quốc cho thấy có 2 vấn đề chính : Một là nhu cầu thiết lập hệ thống giá sát để đánh giá chính xác hiệu quả quản lý DNNN và cơ chế khuyến khích tạo động lực và cơ chế phạt. Hai là sự cần thiết phải điều chỉnh hành vi của chủ sở hữu của DNNN. Trong môi trường cạnh tranh, DNNN có thể tái sinh nếu như đáp ứng được các nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên, kinh nghiện quá khứ cho thấy, trong khuôn khổ sở hữu đang tồn tại thì điều này rất ít khi thành công. Trong trường hợp này, nhu cầuhtứ 3 trở nên cần thiết. Đó là thay thế chủ sở hữu nhà nước duy nhất của DNNN bằng cơ cấu đa sở hữu hon hợp, hoặc tư nhân hoá hoàn toàn. Nghĩa là chuyển DNNN thành công ty cổ phần , công ty liên doanh, hợp tác xã và công ty tư nhân. Những giải pháp này có vẻ giúp ích cho việc phá bỏ sự trì trệ của DNNN.
CHƯƠNG 2 : THựC TRạNG Tổ CHứC Và QUảN Lý HOạT ĐộNG CủA DNNN ở VIệT NAM HIệN NAY
2.1 Quá trình đổi mới tổ chức quản lý của DNNN ở VN
Giai đoạn trước khi đổi mới (trước năm 1986)
Với vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nên các nhà làm luật ở nước ta luôn coi trọng và cố gắng tạo dựng cho doanh nghiệp nhà nước một hành lang pháp lý ổn định để hoạt động.
Văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước tạo tiền đề cho doanh nghiệp nhà nước là Sắc lệnh 104/SL do Chủ tịch nước ban hành ngày 01 - 01 - 1948. Sắc lệnh này khẳng định xí nghiệp quốc doanh thuộc sở hữu quốc gia, do Nhà nước quản lý. Nhiệm vụ của xí nghiệp quốc doanh là sản xuất ra sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu tối thiểu của nền kinh tế, điều phối các hoạt động kinh tế trong nước, bảo vệ kinh tế và phát triển tài chính quốc gia. Sắc lệnh này còn quy định xí nghiệp quốc doanh có vốn tự trị và không thuộc ngân sách hàng năm.
Ngày 25 - 02 - 1949 Chủ tịch nước kí sắc lệnh 09/SL về việc thành lập xí nghiệp quốc doanh. Để thực hiện hai sắc lệnh 104/SL và 09/SL ngày 31 - 10 - 1952 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành điều lệ tạm thời về xí nghiệp quốc doanh trong Nghị định số 214/TTg. Điều lệ này khẳng định vai trò chủ đạo của xí nghiệp quốc doanh, xác định xí nghiệp quốc doanh là pháp nhân và có trách nhiệm trước bộ chủ quản về thực hiện kế hoạch và quản lý tài sản Nhà nước. Các văn bản pháp luật nói trên đã tạo dựng nên hành lang pháp lý cho sự thành lập và hoạt động cuả xí nghiệp quốc doanh, đồng thời khẳng định vai trò chủ đạo của xí nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế quốc dân.
Sau ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng năm 1954 Nhà nước ta chính thức triển khai thực hiện những nguyên tắc và phương pháp quản lý xã hội chủ nghĩa. Ngày 04 - 04 - 1957 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định 130/TTg nhằm tạo ra một hành lang pháp lý tốt cho các xí nghiệp quốc doanh phát triển sản xuất. Họ có quyền tự hạch toán đầu vào, đầu ra để sản xuất sao cho có hiệu quả nhất. Quyết định đã đưa ra những vấn đề có tính nguyên tắc trong quản lý xí nghiệp như: kế hoạch toàn diện, áp dụng chế độ hợp đồng kinh doanh, thi hành chế độ hạch toán kinh doanh...
Tuy vậy do điều kiện chiến tranh nên cho mãi tới đầu những năm 70 vấn đề về ổn định sản xuất và cải tiến quản lý xí nghiệp quốc doanh mới được quy định trong chỉ thị 11/TTg ngày 09 - 01 - 1971. Theo chỉ thị này hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh và chỉ tiêu hướng dẫn bắt đầu được áp dụng tại các xí nghiệp quốc doanh. Ngày 10 - 12 - 1976 Chính phủ ban hành Nghị định 244/CP về việc áp dụng thống nhất hệ thống 9 chỉ tiêu pháp lệnh cho tất cả các xí nghiệp quốc doanh.
Những quy định của pháp luật về xác định địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước trong thời kì này nói chung còn sơ sài, thiếu đồng bộ. Nhiều quy định chỉ có giá trị mang tính chất tạm thời.
Hội nghị Trung ương lần thứ VI (khoá IV) từ đầu những năm 80 đã ban hành hàng loạt văn bản pháp luật quan trọng về doanh nghiệp nhà nước như:
Quyết định 25/CP ngày 21/01/1981
Quyết định 146/HĐBT ngày 25/8/1982
Nghị quyết 156/HĐBT ngày 30/11/1984
Quyết định 76/HĐBT ngày 26/6/1986
Những văn bản này thể hiện những chủ trương, định hướng cơ bản. Đồng thời đưa ra những giải pháp cụ thể về cải tiến một cách sâu rộng cơ cấu tổ chức, quản lý và cơ chế hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, thực tế đã cho thấy các văn bản pháp luật trên đã có tác dụng từng bước làm sống động các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Giai đoạn bắt đầu đổi mới 1986 đến nay
a. Giai đoạn từ 1986 đến ngày 20-4-1995 .
Sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đất nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần (nền kinh tế thị trường) vai trò của Nhà nước càng được quan tâm chú trọng hơn. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm tạo dựng một địa vị pháp lý vững vàng cho doanh nghiệp nhà nước để đứng vững được trước những thử thách khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường:
Nghị định 217/HĐBT ngày 14/11/1987 ra đời được xem như một mốc đánh dấu bước chuyển đổi quan trọng về chính sách đổi mới kế hoạch hoá và hoạch toán kinh doanh để từng bước giúp Nhà nước thích ứng với việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường .
Điều lệ xí nghiệp quốc doanh được ban hành kèm theo NĐ 50/HĐBT, ngày 22-3-1988.
Nghị định 27/HĐBT ngày 22/03/1989 ban hành điều lệ liên xí nghiệp quốc doanh.
Quyết định 195/ HĐBT 02/12/1989 bổ sung quyết định 217/HĐBT
Quyết định 315/HĐBT ,ngày 01/9/1990.
Quyết định 330/HĐBT ngày 23/10/1991, bổ sung quyết định 315/HĐBT về chấn chỉnh và tổ chức lại sản xuất kinh doanh trong khu vực kinh tế quốc doanh.
Chỉ thị 316/CT ,ngày 01/9/1990 về việc thí điểm trao quyền sử dụng và trách nhiệm bảo toàn vốn kinh doanh cho các cơ sở quốc doanh.
Quyết định 143/HĐBT ,ngày 10/5/1990 về việc chuyển thí điểm xí nghiệp quốc doanh sang công ty cổ phần.
Chỉ thị 138/CT, ngày 25/4/1991 về mở rộng diện trao quyền sử dụng và trách nhiệm bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh cho đơn vị cơ sở quốc doanh.
Quyết định 332/HĐBT, ngày 23/10/1991 về bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước.
Các văn bản pháp luật trên quy định về điều lệ xí nghiệp quốc doanh, chấn chỉnh và tổ chức lại sản xuất kinh doanh thuộc khu vực quốc doanh, trách nhiệm bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh cho các cơ sở quốc doanh, chuyển thí điểm xí nghiệp quốc doanh sang công ty cổ phần, trách nhiệm bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh ở khu vực kinh tế quốc doanh, bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước.
Có thể thấy địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước (trước ngày 20-4-1995) được hình thành và phát triển dưới sự chi phối mạnh mẽ của chế độ sở hữu và quyền sở hữu Nhà nước. Nhà nước luôn tập trung xác định cho doanh nghiệp nhà nước một hành lang pháp lý ổn định với các quyền và nghĩa vụ hợp lý để doanh nghiệp nhà nước phát huy được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, đó mới chỉ là các văn bản dưới luật nên tính bền vững của nó không cao, phải thay đổi liên tục cho phù hợp vơí điều kiện thực tế. Do vậy, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải tạo dựng cho doanh nghiệp nhà nước một hành lang pháp lý ổn định để doanh nghiệp nhà nước có thể đứng vững và phát huy được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế thị trường.
b) Sau ngày ban hành Luật doanh nghiệp nhà nước 20-4-1995 đến nay.
Để phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp nhà nước, tăng cường quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn và thực hiện đúng các mục tiêu do Nhà nước giao cho doanh nghiệp.
Luật doanh nghiệp nhà nước ra đời nhằm tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho sự phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường. Trong đó quy định rõ về các vấn đề thành lập, tổ chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp nhà nước, vấn đề tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, các quyền và nghĩa vụ cụ thể của doanh nghiệp nhà nước, vấn đề quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước ... Như vậy, sự ra đời của Luật doanh nghiệp nhà nước đồng nghĩa với việc doanh nghiệp nhà nước đã có một hành lang pháp lý chặt chẽ và ổn định giúp cho doanh nghiệp nhà nước đi vào hoạt động chững chạc và tự tin hơn trong quá trình từng bước công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Mặt khác doanh nghiệp nhà nước khẳng định được vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Thực tế cho thấy doanh nghiệp nhà nước hoạt động ngày càng có hiệu quả. Bằng quy định các doanh nghiệp nhà nước đều có quyền tự chủ trong hoạt động của mình. Doanh nghiệp nhà nước cho đến nay có quyền mở rộng quy mô kinh doanh theo khả năng của doanh nghiệp hay theo nhu cầu của thị trường, có thể kinh doanh bổ sung những ngành nghề khác. Mặt khác doanh nghiệp nhà nước có quyền tự lựa chọn thị trường, được xuất nhập khẩu , tự quyết định giá mua bán sản phẩm và dịch vụ trừ những sản phẩm và dịch vụ do Nhà nước định giá. Ngoài ra để mở rộng và đẩy mạnh các hoạt động của mình doanh nghiệp nhà nước còn có quyền đầu tư, liên doanh ,liên kết hoặc góp vốn cổ phần.. .
Như vậy với những quy định rất chặt chẽ và phù hợp với tình hình thực tế luật doanh nghiệp nhà nước đã xây dựng nên một khuôn khổ pháp lý bằng những điều luật cụ thể và những văn bản hướng dẫn chi tiết giúp cho doanh nghiệp nhà nước dứng vững trong nền kinh tế thị trường và có những bước tiến dài để khẳng định vị trí chủ đạo của mình và góp phần thúc đẩy nền kinh tế quốc dân của chúng ta một cách nhanh chóng và toàn diện.
2.2 Thực trạng hoạt động hiện nay của DNNN
2.2.1 Về cơ cấu tổ chức hệ thống DNNN
Tình trạng phân bố của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay vẫn còn bất hợp lý, cụ thể là đa số các doanh nghiệp nhà nước đều tập trung ở những thành phố lớn, những khu đô thị và công nghiệp gắn với số đông dân cư nhưng lại không chú ý quan tâm khai thác một số vùng tài nguyên phong phú v à dồi dào mà lâu nay chúng ta vẫn đánh giá là lạc hậu như Tây Bắc, Tây nguyên... ở đây chúng ta chỉ có những doanh nghiệp dường như mang tính chất dịch vụ. Mặt khác tỷ trọng giữa các ngành trong doanh nghiệp nhà nước cũng không đồng đều chủ yếu khai thác trong các lĩnh vực công nghiệp - xây dựng - thương mại và dịch vụ còn lại các ngành khác không được chú ý một cách đầy đủ và nghiêm túc.
Chính do sự phân bố bất hợp lý và mất cân đối giữa các ngành và lãnh thổ như vậy dẫn đến sự trùng lặp mục tiêu của các doanh nghiệp, hoạt động chồng chéo, dẫm chân nhau, cạnh tranh vô tổ chức, thiếu sự phân công hợp tác cần thiết để cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế.
Hiện nay cả nước có 5.655 doanh nghiệp nhà nước, trong đó có 734 doanh nghiệp sẽ chuyển sang doanh nghiệp công ích, khoảng 2.000 doanh nghiệp mà nhà nước cần giữ 100% vốn sẽ chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, còn lại khoảng hơn 2.700 doanh nghiệp sẽ được cổ phần hoá trong 5 năm tới. Để thực hiện kế hoạch này, Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp sẽ trực tiếp quyết định việc chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp mà không phụ thuộc vào sự tự nguyện của doanh nghiệp như hiện nay, đồng thời định giá doanh nghiệp theo các tiêu chí của thị trường. Ngoài ra chính phủ sẽ ban hành các tiêu chí để phân loại những doanh nghiệp nào Nhà nước cần và không cần nắm giữ. Dự kiến Nhà nước sẽ nắm cổ phần chi phối của các doanh nghiệp trong lĩnh vực dầu khí, bảo hiểm xăng dầu, khai thác than và khoáng sản quan trọng.
Các doanh nghiệp sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh và các doanh nghiệp tại các địa bàn chiến lược quan trọng kết hợp kinh tế với quốc phòng.
Các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công cộng khác có ít nhất 70% doanh thu từ các hoạt động trong các lĩnh vực sau đây:
a) Giao thông, công chính đô thị :
b) Quản lý, khai thác, duy tu, bảo dưỡng hệ thống cơ sở hạ tầng: hệ thống đường sắt quốc gia, đường bộ, đường thuỷ, sân bay, điều hành bay, bảo đảm hàng hải, dẫn dắt tàu ra vào cảng biển; kiểm định kỹ thuật phương tiện giao thông đường bộ, đường thuỷ; kiểm tra, kiểm soát và phân phối tần số vô tuyến điện.
c) Khai thác bảo vệ các công trình thuỷ lợi;
d) Sản xuất giống gốc cây trồng, vật nuôi;
đ) Xuất bản và phát hành sách giáo khoa, sách báo chính trị. Sản xuất và phát hành phim thời sự, tài liệu, phim cho thiếu nhi. Sản xuất và cung ứng muối ăn, chiếu bóng phục vụ vùng cao, biên giới, hải đảo. Sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ khác theo chính sách xã hội của Nhà nước.
Nhà nước có kế hoạch giảm số lượng của các DNNN từ 5.700 như hiện nay, xuống còn 2000 vào năm 2005. Mặc dù vậy, các DNNN mới sẽ vẫn được thành lập khi yêu cầu thực tế về phát triển kinh tế – xã hội đòi hỏi và những khu vực kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng để tham gia.
Về lâu dài, để hệ thống các DNNN có vai trò đối với sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, Nhà nước cần chấp thuận việc thiết lập một số nhóm kinh tế đa dạng hoạt động ở một số vùng, để thuận lợi cho việc hội nhập quốc tế của Việt Nam. Trong thời gian tới, sẽ xem xét việc thiết lập các nhóm về dầu khí, công nghệ – thông tin, điện tử và xây dựng về các cơ sở vững chắc.
Về lâu dài, để hệ thống doanh nghiệp Nhà nước thực sự mạnh, giữ vai trò đầu tàu trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Nhà nước sẽ cho phép hình thành một số tập đoàn kinh tế lớn kinh doanh đa ngành, trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi phối trong nền kinh tế quốc dân. Tập đoàn kinh tế này được thành lập trong một số lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh, khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Trước mắt, nghiên cứu thành lập thí điểm một số tập đoàn về dầu khí, viễn thông, điện lực, xây dựng. Bộ Xây dựng hiện nay đang dự thảo để quý 3 – 2003 trình Chính phủ kế hoạch thành lập Tập đoàn xi măng, để dự kiến ra mắt vào đầu năm 2004. Bộ Xây dựng sẽ kêu gọi các thành phần kinh tế huy động vốn đâu ftư cho tập đoàn, nhưng Nhà nước giữ cổ phần chủ yếu.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh hiện có, căn cứ vào vị trí quan trọng của từng lĩnh vực, từng ngành, từng doanh nghiệp, từng sản phẩm trong nền kinh tế mà quyết định loại hình doanh nghiệp Nhà nước giữ 100% vốn, doanh nghiệp Nhà nước giữ cổ phần chi phối, doanh nghiệp Nhà nước có cổ phần đặc biệt, doanh nghiệp Nhà nước giữ cổ phần ở mức thấp và doanh nghiệp khi chuyển thành công ty cổ phần, Nhà nước không cần có cổ phần. Chuyển các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có 100% vốn của Nhà nước sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc công ty cổ phần gồm các cổ đông là doanh nghiệp nhà nước.
Chủ trương cổ phần hoá đã được thực hiện 10 năm nay song đến nay cả nước mới có 1.070 doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi sang hình thức này. Năm 2003, mục tiêu là phải sắp xếp lại 1.640 doanh nghiệp nhà nước, trong đó có cổ phần hoá 967 doanh nghiệp. Tuy nhiên, hết 6 tháng đầu năm 2003, số doanh nghiệp sắp xếp lại chỉ được 286, trong đó, cổ phần hoá được 163 doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh hiện có, căn cứ vào vị trí quan trọng của từng lĩnh vực, từng ngành, từng doanh nghiệp, từng sản phẩm trong nền kinh tế mà quyết định loại hình doanh nghiệp Nhà nước giữ 100% vốn, doanh nghiệp Nhà nước giữ cổ phần chi phối, doanh nghiệp Nhà nước có cổ phần đặc biệt, doanh nghiệp Nhà nước giữ cổ phần ở mức thấp và doanh nghiệp khi chuyển thành công ty cổ phần, Nhà nước không cần có cổ phần. Chuyển các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có 100% vốn của Nhà nước sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc công ty cổ phần gồm các cổ đông là doanh nghiệp nhà nước.
Nhà nước chỉ nắm giữ một số lĩnh vực chủ yếu, còn lại sẽ tiến hành cổ phần hóa, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước hoặc cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, với mục tiêu đến năm 2005 chỉ còn 3.000 doanh nghiệp quốc doanh (năm 2002 là 5.000 doanh nghiệp).
Để khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, Chính phủ sẽ tiếp tục chủ trương xây dựng một mặt bằng pháp lý, tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp; các doanh nghiệp hoàn toàn chủ động hoạt động theo tín hiệu của thị trường, Nhà nước chỉ điều hành ở tầm vĩ mô thể hiện ở hệ thống pháp luật, các chính sách thuế... Để phù hợp với các cam kết hội nhập mà Việt Nam đã tham gia, Chính phủ sẽ tiếp tục dỡ bỏ các hàng rào phi thuế, giảm bớt và tiến tới xóa bỏ bảo hộ (trong thời gian nhất định và phạm vi nhất định) nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế, doanh nghiệp và từng ngành hàng. Chính phủ Việt Nam coi đầu tư nước ngoài là một bộ phận hợp thành của nền kinh tế, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế. Việt Nam xác định cần khoảng 60-62 tỷ USD tổng vốn đầu tư xã hội; trong đó ĐTNN chiếm 1/3 bao gồm cả viện trợ phát triển chính thức và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính phủ cam kết đảm bảo môi trường chính trị xã hội ổn định, thực hiện minh bạch và nhất quán các chính sách để tạo lòng tin nơi các nhà đầu tư, tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý; từng bước mở cửa thị trường và tham gia vào thị trường vốn quốc tế.
2.2.2.Về cơ chế quản lý :
Điều 25 Luật doanh nghiệp nhà nước quy định:
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước với những nội dung sau dây:
1- Ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với từng lợi doanh nghiệp nhà nước, chính sách khuyên khích, chế độ trợ cấp, trợ giá và chế độ ưu tiên đối với các sản phẩm và dịch vụ hoạt động công ích;
2- Quyết định các biện pháp bảo hộ và hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước quan trọng của nền kinh tế quốc dân;
3- Tổ chức xây dựng quy hoạch và chiến lược phát triển doanh nghiệp nhà nước trong tổng thể quy hoạch và chiến lược phát triển ngành, lãnh thổ;
4- Tổ chức xây dựng quy hoạch và đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ điều hành doanh nghiệp nhà nước;
5- Tổ chức kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật, chủ trương, chính sách, chế độ nhà nước tại các doanh nghiệp.
Nghị định số 59/CP ngày 3 tháng 10 năm 1996 ban hành quy chế quản lý tài chính và đối với doanh nghiệp nhà nước quy định doanh nghiệp Nhà nước mới thành lập được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đầu tư toàn bộ hoặc một phần vốn Điều lệ ban đầu, nhưng không thấp hơn tổng mức vốn pháp định của các ngành nghề mà doanh nghiệp đó kinh doanh. Trong quá trình kinh doanh, khi cần thiết, Nhà nước có thể xem xét đầu tư bổ sung vốn cho doanh nghiệp để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao bổ sung.
Khi có sự thay đổi vốn điều lệ, doanh nghiệp Nhà nước phải công bố công khai số vốn điều lệ mới theo hướng dẫn của Bộ Tài chính. Đối với trường hợp vốn điều lệ thấp hơn tổng mức vốn pháp định của các ngành nghề mà doanh nghiệp đó kinh doanh, thì cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập doanh nghiệp đó phải: cấp bổ sung vốn điều lệ cho doanh nghiệp hoặc giảm ngành nghề cho doanh nghiệp hoặc Quyết định phá sản doanh nghiệp đó theo Luật phá sản doanh nghiệp. Ngoài số vốn điều lệ ban đầu, doanh nghiệp phải tự huy động vốn để phát triển kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về việc huy động vốn. Doanh nghiệp Nhà nước có nghĩa vụ nhận, quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn và các nguồn lực Nhà nước giao, không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn. Doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn về dân sự đối với các hoạt động kinh doanh trước pháp luật trong phạm vi vốn của doanh nghiệp, trong đó có phần vốn Nhà nước giao. Nhà nước thực hiện việc giao vốn thuộc sở hữu Nhà nước cho các doanh nghiệp độc lập mới thành lập hoặc thành lập lại trên cơ sở sáp nhập hoặc tách từ các doanh nghiệp khác, các Tổng công ty thành lập theo Quyết định số 90/TTg và Quyết định số 91/TTg ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ.
Vốn Nhà nước giao cho Tổng công ty bao gồm cả vốn của các thành viên tổng công ty.
Điều 6 Nghị định 59 quy định doanh nghiệp có trách nhiệm:
1- Mở sổ kế toán, theo dõi chính xác toàn bộ tài sản, tiền vốn doanh nghiệp quản lý và sử dụng theo đúng quy định của chế độ hạch toán kế toán, thống kế hiện hành, phản ánh kịp thời tình hình sử dụng, biến động tài sản, vốn.
2- Thường xuyên kiểm tra, đối chiếu tình hình công nợ, xác định và phân loại các khoản nợ tồn đọng, phân tích khả năng thu hồi để có biện pháp xử lý thích hợp.
Việc giao vốn cho doanh nghiệp Nhà nước được thực hiện theo quy định của Luật doanh nghiệp Nhà nước và các quy định khác của pháp luật hiện hành. Khi giao, nhận vốn phải đảm bảo:
1. Đánh giá, xác định lại giá trị tài sản theo mặt bằng giá thị trường tại thời điểm giao vốn;
2. Đối với doanh nghiệp độc lập thành lập lại trên cơ sở sáp nhập hoặc tách từ doanh nghiệp khác, trước khi giao vốn phải xác định và xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính;
3. Việc giao vốn phải tiến hành chậm nhất 60 ngày sau khi doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
4. Cơ quan tài chính Nhà nước là người giao vốn;
5. Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc hoặc Giám đốc (đối với doanh nghiệp có Hội đồng quản trị), Giám đốc (đối với doanh nghiệp độc lập không có Hội đồng quản trị) là người ký nhận vốn;
6. Riêng đối với các Tổng công ty thành lập theo Quyết định số 90/TTg và Quyết định số 91/TTg ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ thì việc giao nhận vốn phải có sự chứng kiến của thủ trưởng cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp.
Chậm nhất 30 ngày sau khi nhận vốn Nhà nước giao, Tổng công ty phải giao lại vốn cho các doanh nghiệp thành viên. Trong vòng 15 ngày sau khi giao lại vốn cho các doanh nghiệp thành viên, Tổng công ty phải thông báo kết quả giao vốn cho cơ quan tài chính Nhà nước và Thủ trưởng cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp.
Doanh nghiệp Nhà nước được quyền sử dụng vốn và các quỹ của mình để phục vụ kinh doanh theo nguyên tắc hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn. Trường hợp sử dụng các nguồn vốn, quỹ khác với mục đích sử dụng đã quy định cho các nguồn vốn, quỹ đó thì phải theo nguyên tắc có hoàn trả. Việc sử dụng vốn, quỹ để đầu tư xây dựng phải chấp hành đầy đủ các quy định của Nhà nước về quản lý đầu tư và xây dựng.
Trong các Tổng công ty Nhà nước, Tổng giám đốc thực hiện việc điều động tài sản giữa các doanh nghiệp thành viên theo phương án đã được Hội đồng quản trị phê duyệt. Trong vòng 10 ngày sau khi điều động tài sản, Tổng công ty phải thông báo kết quả điều động tài sản cho cơ quan tài chính Nhà nước và Thủ trưởng cơ quan Quyết định thành lập doanh nghiệp.
Doanh nghiệp Nhà nước được quyền sử dụng vốn, tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp để đầu tư ra ngoài doanh nghiệp. Việc đầu tư ra ngoài doanh nghiệp có liên quan đến đất đai phải tuân theo quy định của pháp luật về đất đai.
Việc đầu tư ra ngoài doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định của pháp luật và bảo đảm nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn và phát triển được vốn, tăng thu nhập và không làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ kinh doanh chính của doanh nghiệp được Nhà nước giao.
Hội đồng quản trị (đối với doanh nghiệp có Hội đồng quản trị), Giám đốc (đối với doanh nghiệp độc lập không có Hội đồng quản trị) Quyết định phương án liên doanh trong nước. Trường hợp các doanh nghiệp Nhà nước sử dụng vốn và tài sản Nhà nước để góp vốn liên doanh với các chủ đầu tư nước ngoài thì Hội đồng quản trị (đối với doanh nghiệp có Hội đồng quản trị), Giám đốc (đối với doanh nghiệp độc lập không có Hội đồng quản trị) trình Thủ trưởng cơ quan Quyết định thành lập phê duyệt dự án liên doanh đó hoặc tự quyết định nếu được thủ trưởng cơ quan Quyết định thành lập uỷ quyền bằng văn bản. Trong vòng 15 ngày sau khi Thủ trưởng cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp phê duyệt dự án liên doanh hoặc doanh nghiệp tự quyết định, doanh nghiệp phải báo cáo cơ quan tài chính Nhà nước bằng văn bản.
Riêng doanh nghiệp độc lập không có Hội đồng quản trị khi sử dụng vốn, tài sản của Nhà nước để góp vốn liên doanh với các chủ sở hữu tư nhân, tập thể phải có luận chứng giải trình về dự án liên doanh được cơ quan tài chính có thẩm quyền xem xét, thẩm định và phải được Thủ trưởng cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp chuẩn y.
Doanh nghiệp Nhà nước không được phép đầu tư vào các doanh nghiệp không thuộc sở hữu Nhà nước mà người quản lý điều hành hoặc người sở hữu chính là vợ, chồng, bố, mẹ, con của Chủ tịc._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0237.doc