LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. DNNN hoạt động kinh doanh là doanh nghiệp hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận, còn DNNN hoạt động công ích là d
100 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1777 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tiếp tục đổi mới quản lý các doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh Thanh hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh nghiệp hoạt động sản xuất cung ứng dịch vụ hàng hoá công cộng theo chính sách của Nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ an ninh quốc phòng.
Doanh nghiệp khai thác CTTL (Gọi tắt là DNTN) là loại hình doanh nghiệp đặc thù khác biệt so với loại hình doanh nghiệp khác như: về sản phẩm, hình thái vật chất, giá trị và giá cả của nó. Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường thì hoạt động của loại doanh nghiệp này gặp rất nhiều khó khăn, nguyên nhân chủ yếu là do các hệ thống chính sách quản lý được hình thành từ thời bao cấp. Gần đây Nhà nước đã ban hành một số chính sách và cơ chế hoạt động cho loại hình doanh nghiệp này và xếp vào loại hình DNNN hoạt động công ích tuy đã giảm bớt phần khó khăn song vẫn chưa thoát khỏi cơ chế "xin cho", phần lớn vẫn còn lung túng, mất cân đối về mặt tài chính, thu không đủ chi (do thu thủy lợi phí thấp ) gây ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp và đe doạ đến an toàn CTTL.
Để hoạt động thủy nông cùng với công tác thủy lợi nói chung góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, phòng chống bão lụt, giảm nhẹ thiên tai, thực hiện được mục tiêu của chương trình an ninh lương thực quốc gia v.v... Các DNTN cần phải được củng cố và tiếp tục đổi mới hoàn thiện.
Thanh hoá là một Tỉnh đất rộng người đông, có điều kiện địa lý tự nhiên phức tạp, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Các DNTN trong tỉnh đã có nhiều đóng góp quan trọng trong nền kinh tế đó, để ổn định phát triển kinh tế xã hội được bền vững dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân Tỉnh, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh hoá đã và đang quan tâm nhiều đến công tác thủy lợi nói chung và công tác thủy nông nói riêng, kết quả những năm gần đây tuy đã mang lại hiệu quả rõ rệt phục vụ tốt cho mặt trận nông nghiệp, công nghiệp đời sống dân sinh và môi trường sinh thái trên địa bàn song so với nhu cầu phát triển còn đòi hỏi cao hơn. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ các DNTN trên địa bàn Tỉnh Thanh hoá cũng nằm trong tình trạng chung của các DNTN nói chung là vẫn gặp khó khăn vướng mắc từ khâu tổ chức quản lý đến cơ chế chính sách tài chính, vấn đề tiếp tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý thủy nông là hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay. Do đó tôi chọn đề tài : "Tiếp tục đổi mới quản lý các doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh Thanh hoá" làm đề tài luận án thạc sỹ kinh tế, chuyên ngành quản lý kinh tế nhằm đáp ứng những đòi hỏi cụ thể mà thực tiễn đang đặt ra trong lĩnh vực thủy nông ở tỉnh Thanh hoá.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Cho đến nay, trên lĩnh vực quản lý khai thác CTTL ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu và các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành với nhiều nội dung và cách tiếp cận khác nhau. Riêng ở Thanh Hóa, chưa có một công trình nào nghiên cứu mang tính hệ thống dưới dạng luận án khoa học về quản lý thủy nông.
Để thực hiện đề tài, chúng tôi tham khảo, kế thừa có chọn lọc những ý tưởng của các công trình đã được công bố, kết hợp với quá trình nghiên cứu, khảo sát thực tiễn từ đó đề xuất ý kiến riêng của mình trên lĩnh vực quản lý thủy nông nói chung và ở Thanh Hóa nói riêng.
3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mục tiêu: Nhằm góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý thủy nông, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức sản xuất, hệ thống chính sách và cơ chế hoạt động nhằm khắc phục các tồn tại vướng mắc hiện nay để nâng cao hiệu quả quản lý thủy nông góp phần đắc lực vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Thanh hoá.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Phân tích vai trò, đặc điểm của các DNTN chỉ ra những nét đặc thù của loại hình doanh nghiệp này.
+ Phân tích đánh giá hiện trạng, rút ra được những kết quả đạt được, những tồn tại còn vướng mắc và các nguyên nhân của nó.
+ Đề xuất một số giải pháp tiếp tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý các doanh nghiệp thủy nông trên địa bàn Thanh hoá.
4. Phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài nghiên cứu trong phạm vi các DNTN trên địa bàn Thanh hoá.
- Số liệu nghiên cứu được lấy trong 3 năm gần đây: 1997, 1998, 1999.
- Có tham khảo một số tài liệu khác trong nước và nước ngoài.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Từ phân tích đánh giá tổng kết thực tiễn rút ra những vấn đề có tính lý luận và quan điểm chung, gắn lý luận với thực tiễn, đồng thời vận dụng tổng hợp các phương pháp thống kê so sánh với hệ thống báo biểu phục vụ cho mục đích kinh tế.
6. Những đóng góp của luận án:
- Góp phần vào việc bổ xung hoàn thiện cơ chế tổ chức, hoạt động của các DNTN.
- Làm tài liệu nghiên cứu và giúp cho cán bộ quản lý trong lĩnh vực thủy nông một số cơ sở lý luận và nhận biến để nâng cao năng lực tổ chức quản lý và điều hành trong doanh nghiệp có hiệu quả kinh tế cao hơn.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương 9 tiết.
- Chương 1: Yêu cầu khách quan tiếp tục yêu cầu quản lý doanh nghiệp thủy nông ở nước ta hiện nay.
- Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động của các doanh nghiệp thủy nông trên địa bàn tỉnh Thanh hoá.
- Chương 3: Quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới quản lý các doanh nghiệp thủy nông
Chương 1
YÊU CẦU KHÁCH QUAN TIẾP TỤC ĐỔI MỚI QUẢN LÝ
DOANH NGHIỆP THỦY NÔNG Ở NƯỚC TA.
1.1. Doanh nghiệp thủy nông - một doanh nghiệp Nhà nước đặc thù.
Doanh nghiệp thủy nông ở nước ta chủ yếu là DNNN, nó có vai trò và đặc điểm của DNNN nói chung và có tính đặc thù riêng, là một loại hình doanh nghiệp công ích, vừa phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, trước hết là nông nghiệp, vừa phục vụ mục tiêu xã hội, dân sinh và bảo vệ môi trường sinh thái. Do đó để nghiên cứu đổi mới quản lý DNTN cần phải nghiên cứu vấn đề DNNN nói chung, từ đó làm cơ sở cho lý luận nghiên cứu vai trò, đặc điểm, yêu cầu và nội dung quản lý DNTN.
1.1.1. Doanh nghiệp Nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân nước ta.
DNNN là những cơ sở kinh doanh do Nhà nước sở hữu hoàn toàn hoặc một phần. Quyền sở hữu thuộc về Nhà nước là đặc điểm cơ bản nhất để phân biện DNNN với các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế và trong khu vực tư nhân. Đặc trưng này quy định sự kiểm soát trong một chừng mực nào đó của Chính phủ bao gồm cả sự lãnh đạo, chỉ đạo và quyền can thiệp vào hoạt động kinh doanh của DNNN.
* Vai trò của DNNN trong nền kinh tế.
Sự ra đời của khu vực DNNN ở các nước trên thế giới từ những lý do khác nhau, song đều bắt nguồn từ nhu cầu tự nhiên của nền kinh tế với những mục đích khác nhau như khắc phục những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường, bù đắp những thiếu hụt của khu vực kinh tế tư nhân... Nói cách khác khu vực DNNN có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cho Nhà nước thực hiện các chức năng như: điều chỉnh thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển kinh tế - xã hội.
Có thể khái quát khu vực DNNN có các vai trò sau:
+ Vai trò kinh tế:
- Ở các nước phát triển, DNNN được sử dụng như là một phương tiện để Chính phủ tác động và thực hiện những mục tiêu kinh tế mà khu vực tư nhân không thể hoặc không muốn thực hiện, hoặc DNNN như là một cách để ngăn ngừa sự độc quyền của khu vực tư nhân đối với những lĩnh vực dễ ảnh hưởng chung đến lợi ích xã hội. Mặt khác, các DNNN ở những nước phát triển cũng được lập ra để kiểm soát những khu vực có tầm quan trọng chiến lược như các ngành công nghiệp quốc phòng, khai thác mỏ hoặc một số ngành công nghiệp mũi nhọn khác.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (WB), ở các quốc gia phát triển, DNNN thường chiếm khoảng 10% GDP.
- Ở các nước đang phát triển, Chính phủ thành lập các DNNN để tạo lập kết cấu hạ tầng và các ngành dịch vụ công cộng. Tuy nhiên, khác với các quốc gia phát triển, vì đi sau muốn tiến nhanh, đuổi kịp các nước tiên tiến, Chính phủ các nước đang phát triển thường dựa nhiều hơn vào các DNNN, xem chúng như là những công cụ chủ yếu để tăng trưởng nền kinh tế.
- Đối với các nước quá độ lên CNXH. Để thực hiện chiến lược tăng tốc rút ngắn và tạo dựng cơ sở kinh tế của Nhà nước XHCN, Nhà nước đã lựa chọn giải pháp xây dựng và phát triển các DNNN và được coi như điều kiện tiên quyết của sự phát triển đất nước. Sự lựa chọn này không phải mang tính chủ quan, mà có đòi hỏi sự tất yếu của bản thân nền kinh tế.Điều đó được quy định bởi hai ưu thế tuyệt đối của các DNNN ở thời kỳ quá độ của sự phát triển:
Thứ nhất là: ưu thế về quy mô tập trung sản xuất, nhờ đó có ưu thế về khả năng huy động vốn và khả năng tham gia vào thị trường thế giới.
Thứ hai là: Với sức mạnh dựa vào quy mô tập trung sản xuất kinh doanh các DNNN có ưu thế trong việc chuyển giao công nghệ hiện đại. Điều này đồng thời làm cho các doanh nghiệp trở thành đối t ác chính với các nhà đầu tư nước ngoài. Các ưu thế của DNNN có thể quy về những điểm chính: tập trung vốn, tập trung sản xuất, chuyển giao công nghệ và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Những ưu thế này khiến cho DNNN trở thành một yếu tố quyết định con đường phát triển với chiến lược tăng tốc và rút ngắn khoảng thời gian quá độ lên CNXH.
Mặt khác, trong quan hệ với cơ chế điều tiết của Nhà nước, DNNN có một vai trò đặc biệt. Đối với những nền kinh tế đang trong bước chuyển sang nền kinh tế phát triển, hệ thống doanh nghiệp nói chung còn kém phát triển, đặc biệt là khu vực tư nhân còn bé nhỏ thì DNNN với quy mô lớn, trình độ công nghệ cao... là một công cụ trực tiếp có tính quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế. Do đó các DNNN có vai trò đặc biệt trong việc làm thay đổi cơ cấu sản xuất xã hội và định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế. Khu vực DNNN ở các nước này trở thành công cụ trực tiếp để Chính phủ tham gia quyết định những vấn đề trong nền kinh tế thị trường. Đó là việc DNNN có thể tham gia khắc phục trạng thái độc quyền tự nhiên, những tác động hướng ngoại tiêu cực phát sinh trong nền kinh tế thị trường. Đồng thời DNNN là một công cụ quan trọng lấp vào những chỗ trống mà doanh nghiệp tư nhân không muốn làm bởi lợi nhuận thấp hoặc không có khả năng làm. Đó là những trường hợp cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng, đầu tư vào những lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ cao, thời gian thu hồi vốn dài, và hiệu quả thấp nhưng có ý nghĩa quyết định đối với đời sống kinh tế - xã hội, đối với sự phát triển bền vững lâu dài của nền kinh tế. Có thể nói, DNNN có vai trò đặc biệt trong việc đầu tư vào những ngành quyết định cho sự phát triển dài hạn và hiệu quả chung của nền kinh tế.
+ Vai trò chính trị.
Đối với các nước quá độ lên CNXH, DNNN có ý nghĩa chính trị đặc biệt. Nó là bộ phận định hướng về mặt kinh tế và là công cụ thực hiện chính sách theo định hướng XHCN. Thực vậy ở nước ta hệ thống DNNN cung cấp cho Nhà nước một cơ sở kinh tế để Nhà nước trở thành một lực lượng chi phối trực tiếp đối với bộ phận kinh tế tư nhân. Thêm vào đó, ở giai đoạn đầu của tiến trình phát triển, DNNN là bộ phận tạo thành nền tảng của nền kinh tế. Nó cung cấp nguồn lực chính, chủ yếu cho hoạt động của Nhà nước, như đóng góp cho ngân sách Nhà nước, đồng thời là công cụ trực tiếp hữu hiệu để thúc đẩy nền kinh tế theo định hướng XHCN và thực hiện những mục tiêu kinh tế, xã hội do Đảng Cộng sản và Chính phủ đề ra. Đối với an ninh quốc gia, các DNNN ngoài việc tham gia trong việc tăng cường bố phòng ở các vùng chiến lược, trong việc gắn phát triển kinh tế với quốc phòng, DNNN đảm nhận nhiệm vụ đặc biệt trong việc cung cấp những hàng hoá, dịch vụ cho các hoạt động quốc phòng, mà trong điều kiện một nước chậm phát triển, tư nhân không thể làm được hoặc không được phép làm, hoặc không muốn làm vì không có mức lợi nhuận hấp dẫn.
+ Vai trò xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, đã là doanh nghiệp dù của Chính phủ hay của tư nhân, đều chịu sự chi phối của quy luật thị trường. Để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp phải tạo ra được lợi nhuận. Nhưng hoạt động của kinh tế thị trường có những khuyết tật gây hiệu ứng xã hội. Đó là, trong giai đoạn khủng hoảng, lợi nhuận giảm đáng kể, nhiều doanh nghiệp rút khỏi kinh doanh, tạo ra thất nghiệp lớn. Để điều tiết nền kinh tế thoát ra khỏi khủng hoảng, những chính sách kinh tế vĩ mô chiếm vị trí quyết định. Tuy nhiên, ở đây DNNN với tính cách là một công cụ trực tiếp cũng có vai trò xã hội nhất định. Một mặt nó góp phần đẩy kinh tế qua thời kỳ khủng hoảng nhưng mặt khác, mặt quan trọng là mặt xã hội, nó tạo ra công ăn việc làm giúp cho xã hội giữ được trạng thái ổn định.
- Trong nền kinh tế thị trường, sự phân hoá giầu nghèo là không tránh khỏi. Một trong những nguồn gốc của quá trình này là tập trung hoá, hiện đại hoá và kết quả là giải phóng lao động, gây nên nạn thất nghiệp. Nhưng tập trung hoá, mở rộng quy mô, thúc đẩy công nghệ kỹ thuật tiến bộ là tất yếu của quá trình theo đuổi tăng lợi nhuận, vì thế không thể cản trở được quá trình này. Để tạo ra nhiều việc làm thì phải tạo ra những doanh nghiệp sử dụng những lao động. Đây là chỗ Nhà nước cần can thiệp, bằng DNNN sử dụng nhiều lao động, Nhà nước có thể giúp giải quyết vấn đề thất nghiệp, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập, do đó giảm sự bất bình đẳng trong xã hội.
- Trong một quốc gia, có những vùng xa xôi hẻo lánh, trình độ phát triển thấp, dân cư ở những vùng này phải chịu nhiều thiệt thòi vì sự phát triển mất cân đối. Để cải thiện những vùng này, vấn đề là phải có chính sách đầu tư và những cơ sở việc làm ở đây. Cũng nhờ có những DNNN mới đủ điều kiện để thực hiện những chương trình dự án cải thiện những vùng kém phát triển của đất nước.
- Xã hội phát triển, hàng hoá và dịch vụ công cộng cũng tăng. Nhưng hàng hoá và dịch vụ công cộng này sẽ tăng phúc lợi lên đáng kể. Ở đây, phúc lợi công cộng cũng tức là tăng mức độ công bằng. Đối với những nước chậm phát triển doanh nghiệp tư nhân còn nhỏ, phân tán, thì DNNN có vai trò quyết định đối với việc sản xuất hàng công cộng.
Tuy nhiên các DNNN sẽ thực hiện sự phát huy mạnh hơn vai trò của chúng khi hiệu quả SXKD ngày càng được nâng cao, nhất là trong môi trường kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động và yêu cầu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN trong nền kinh tế nước ta hiện nay.
Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước.
Thứ nhất: DNNN phải hướng tới rất nhiều mục tiêu thiếu rõ ràng, đôi khi mâu thuẫn nhau, chẳng hạn mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội. Chủ sở hữu muốn các DNNN phải đạt được hiệu quả kinh doanh cao, đủ sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, song phải chịu áp lực lớn về lực lượng lao động quá đông.
Thứ hai: Những người quản lý DNNN bị hạn chế tính chủ động, tính linh hoạt trong đối phó với những điều kiện thayđổi của thị trường so với những đồng nghiệp của họ trong các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân.
Thứ ba: thiếu động lực kích thích, cả với người quản lý lẫn với người lao động. Cụ thể là thu nhập, thưởng đối với nhà quản lý và người lao động được khống chế ở mức thấp so với các doanh nghiệp cùng loại thuộc thành phần kinh tế khác.
Thứ tư: hoạt động theo kế hoạch Nhà nước, DNNN buộc phải thoả mãn những yêu cầu tiêu dùng trong nước với giá ưu đãi phải đáp ứng các tiêu chuẩn dịch vụ nào đó ở bất kỳ đâu do Chính phủ yêu cầu. Các DNNN cũng có thể bị yêu cầu chỉ được vay vốn từ một số định chế cho vay nào đó, hoặc từ những nguồn cung cấp trong nước nào đó. Các DNNN cũng có thể phải đầu tư phù hợp với kế hoạch quốc gia, phải hy sinh lợi nhuận để thực hiện những mục tiêu xã hội.
Mặt khác có thể nói DNNN được sử dụng như một công cụ điều tiết của Chính phủ, vừa làm chức năng chính trị và xã hội, vừa đảm bảo cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng, xã hội phát triển công bằng và ổn định.
Thứ năm: hầu hết các DNNN hoạt động trên một "sân chơi" thiếu bình đẳng, sòng phẳng. Điều đó được thể hiện trên các mặt: được Nhà nước bảo hộ nhiều hơn, các kênh vốn, tín dụng thuận lợi hơn và "mềm" hơn, hầu như DNNN rất ít bị phá sản thực sự.
Thứ sáu: các DNNN thuộc các lĩnh vực thiết yếu, quan trọng nhất của nền kinh tế. Đó là lĩnh vực sau:
- Những ngành thuộc kết cấu hạ tầng, cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng như giao thông vận tải, đường sá, cầu cống, bưu chính viễn thông... là những ngành rất cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế.
- Những ngành kinh tế mũi nhọn đòi hỏi vốn lớn, tỷ lệ sinh lời thấp như: luyện thép, năng lượng, chế tạo, hoá chất, đóng tàu, khai thác tài nguyên thiên nhiên... là những ngành quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mọi quốc gia.
- Những ngành kinh tế mũi nhọn đòi hỏi vốn lớn, trình độ công nghệ cao như: năng lượng, nguyên tử, chế tạo máy bay, hàng không vũ trụ, điện tử... là những ngành có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tiến bộ khoa học - kỹ thuật - công nghệ của quốc gia.
Thứ bảy: ở một số quốc gia nhất là các nước XHCN, DNNN cung cấp các hàng hoá dịch vụ thiết yếu nhất cho đời sống xã hội dân sinh, như y tế, giáo dục, các dịch vụ công cộng khác.
Thứ tám: DNNN thường kinh doanh kém hiệu quả. Đặc điểm chung của khu vực DNNN trên thế giới thường là kinh doanh kém hiệu quả hơn doanh nghiệp của khu vực tư nhân. Nhất là từ cuối những năm 70, đầu những năm 80, hoạt động kém hiệu quả của các DNNN nổi lên là vấn đề quan tâm của mọi quốc gia.
* Yêu cầu khách quan nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN ở nước ta.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội lần thứ VIII đề ra mục tiêu phát triển là "giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN phấn đấu đạt và vượt mục tiêu đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau" [14].
Để thực hiện mục tiêu trên, trong điều kiện một nền kinh tế thị trường còn kém phát triển như ở nước ta, khi mà khu vực kinh tế tư nhân còn nhỏ bé và yếu kém, khu vực DNNN hiện nay đang chiếm tỷ lệ rất lớn về vốn cố định, về giá trị sản lượng và số lượng các doanh nghiệp quan trọng trong nền kinh tế quốc dân thì việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN có ý nghĩa vô cùng quan trọng, điều đó thể hiện trên các mặt sau đây:
Một là: DNNN có hiệu quả cao là cơ sở cho sự tồn tại, phát triển mở rộng SXKD của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp nói chung, DNNN nói riêng với hiệu quả thấp thì hậu quả trước hết là sự đe doạ đối với chính doanh nghiệp đó. Doanh nghiệp không có khả năng tích luỹ, khả năng tái sản xuất mở rộng, khả năng nâng cao trình độ công nghệ, nói cách khác, không nâng cao được sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Do đó việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN có tác động rất lớn đến sự tăng trưởng của nền kinh tế nước ta hiện nay. Các DNNN thuộc lĩnh vực và ngành trên đây nâng cao được hiệu quả sẽ trực tiếp góp phần tăng hiệu quả nền kinh tế, nhờ đó tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc dân.
Ba là: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của khu vực DNNN để làm đòi bẩy, giá đỡ cho nền kinh tế nhiều thành phần. DNNN là công cụ của Nhà nước huy động tập trung vốn vào những lĩnh vực mang tính chiến lược của nền kinh tế, thực hiện việc chuyển giao công nghệ, tiếp nhận công nghệ hiện đại, tiếp nhận trình độ quản lý tiên tiến trên thế giới, tạo cơ sở cho các ngành kinh tế khác phát triển.
Bốn là: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là điều kiện để các DNNN mở rộng liên doanh, liên kết với nước ngoài. Đặc biệt trong điều kiện nước ta, đầu tư của nước ngoài là một tác nhân quan trọng cho phát triển kinh tế. Do đó đòi hỏi các DNNN phải hoạt động có hiệu quả để trở thành đối tác chính thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới.
Năm là: Hệ thống DNNN hoạt động có hiệu quả và có sức mạnh giúp Nhà nước chủ động trực tiếp tác động vào các quá trình kinh tế xã hội, nhanh chóng tạo ra sự biến đổi cơ cấu của nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Sáu là: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN tạo điều kiện tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước để giải quyết các vấn đề chính sách xã hội.
Bẩy là: Nhờ có khu vực DNNN đủ mạnh và có hiệu quả, Nhà nước có thể tăng cường được khả năng phản ứng nhanh trước các biến đổi và biến động của nền kinh tế quốc gia cũng như tác động không thuận chiều của nền kinh tế thế giới.
1.2. Vai trò và đặc điểm của doanh nghiệp thủy nông
1.2.1. Vai trò của doanh nghiệp thủy nông:
DNTN thuộc hệ thống DNNN hoạt động công ích cung ứng dịch vụ hàng hoá công cộng, khai thác cơ sở kinh tế kỹ thuật hạ tầng phục vụ kinh tế - xã hội dân sinh, có tư cách pháp nhân, tự chủ về tài chính, hoạt động theo phương thức hạch toán kinh tế, được Nhà nước hỗ trợ về mặt tài chính, có nhiệm vụ điều hoà, phân phối nước bảo đảm yêu cầu sản xuất, giữ gìn nguồn nước trong lành, bảo vệ môi trường sinh thái. Vai trò của DNTN được thể hiện ở một số nội dung sau đây:
1.2.1.1. Đối với sản xuất nông nghiệp:
Nước ta hiện nay là một nước nông nghiệp, nông nghiệp chiếm đại đa số lao động xã hội (80% dân số sống ở nông thôn). Nông nghiệp là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm cho xã hội, cung ứng nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến, cung ứng nông sản hàng hoá xuất khẩu tạo tích luỹ vốn để công nghiệp hoá và phát triển nhiều ngành kinh tế khác. Nông nghiệp là thị trường hết sức quan trọng đối với cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, có rất nhiều tiềm năng trên cả phương diện cung và cầu. Nông nghiệp có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Đại hội lần thứ VII Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định: "Phát triển nông, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế xã hội "[25,15]
Tiềm năng nông nghiệp nước ta là rất lớn. Để khai thác hết tiềm năng đó cần phải giải quyết nhiều vấn đề như: ruộng đất, thủy lợi, cung ứng vật tư... trong đó thủy lợi chiếm vị trí hết sức quan trọng vì:
- Nền nông nghiệp nước ta là nông nghiệp lúa nước, cây lúa là chủ yếu trong trồng trọt, cây lúa rất cần nước nhưng lại không chịu được ngập úng, chua mặn: như úng từ 3 -5 ngày sẽ làm giảm sản lượng hoặc mất trắng, hạn 5-7 ngày sẽ làm giảm sản lượng. Yếu tố nước là yếu tố sống còn thiết yếu đối với cây trồng. Tổng kết lao động trong sản xuất nông nghiệp ông cha ta đã đúc kết: "Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống". Nước là biện pháp kỹ thuật hàng đầu, có sử dụng nước một cách khoa học thì mới phát huy được các biện pháp khác.
Viện nghiên cứu lúa Quốc tế đã tính toán xác định phần đóng góp của các yếu tố: nước, phân, giống và các yếu tố khác làm tăng sản lượng từ 1965 - 1980 ở các nước Đông Á như sau:
Bảng số 1 : Tác động của các yếu tố sản xuất đối với
nông nghiệp một số nước Châu Á [22]
Tên nước
Sản lượng
Phần đóng góp của các yếu tố (%)
1.000 tấn
%
Nước
Phân
Giống
Khác
Trung Quốc
Ấn Độ
In đô nê sia
Thái Lan
Băng la đét
Phi líp pin
Miến Điện
Sri lan ca
50.500
30.152
13.613
6.400
5.554
3.274
1.820
1.034
2,8
3,4
4,7
2,9
2,3
4,4
3,3
5,6
32,0
31,8
20,4
13,5
19,6
24,5
37,0
25,3
22,8
30,6
19,7
10,6
23,1
30,8
19,1
20,8
25,2
22,7
23,2
12,8
7,6
25,9
34,9
23,3
19,0
14,2
36,7
63,0
49,7
18,8
9,0
30,6
Bình quân
25,5
22,2
22,1
30,1
Kết quả nghiên cứu cho thấy nước là yếu tố hàng đầu (25,5%) làm tăng sản lượng lúa.
Chủ động được nước sẽ mở rộng diện tích canh tác. Trước đây một số vùng ở đồng bằng Sông Hồng và nhiều nơi ở đồng bằng Sông Cửu Long do chưa tiêu thoát nước nên hàng năm để ngập trắng, nhiều vùng do thiếu nước nên chưa canh tác được như vùng Tây Nguyên, đồi núi phía bắc. Sau khi làm công tác thủy lợi giải quyết được nước thì diện tích canh tác trong cả nước tăng dần theo các mốc thời gian 1975, 1980, 1986, 1990 tổng diện tích tăng dần: 4.105.000 ha, 4.850.000 ha, 5.220.000 ha, 5.560.000 ha. [19]
Chủ động được nước sẽ làm tăng vụ kèm theo là làm tăng diện tích cây trồng trong năm, nhiều vùng trước đây chỉ gieo cấy được 1 vụ/năm thì nay đã gieo cấy được 2-3 vụ/năm, đưa hệ số sử dụng đất từ 1,3 lần năm 1955 lên 2 lần năm 1992.
Chủ động nước sẽ tạo điều kiện thay đổi cơ cấu mùa vụ, mở rộng diện tích gieo trồng vụ chiêm xuân và hè thu, các vùng ven biển đã dùng nước để thau chua, rửa mặn, hầu hết các vùng đồng bằng trung du diện tích lấy nước phù sa được tăng lên. Đây là một biện pháp hiệu quả đối với cải tạo đất.
Đề cập đến vai trò đầu tiên của nước, nhân tố quyết định đầu tiên của quá trình canh tác, Chủ tịch Hồ Chí MInh đã nêu rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề đất và nước: " Việt Nam có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là đất nước, có đất và có nước thì mới hình thành Tổ quốc. Có đất lại có nước thì dân giàu nước mạnh. Nước cũng có thể làm lợi, nhưng cũng có thể làm hại, nhiều nước quá thì úng lụt, ít nước quá thì hạn hán. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho đất và nước điều hoà với nhau để nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng CNXH" [11, 723].
- Trong điều kiện thiên nhiên Việt nam khá khắc nghiệt, hạn hán, lũ lụt thường xảy ra có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, đời sống của nhân dân từ bao đời nay. Để phát triển nông nghiệp, nhiệm vụ đặt ra cho nhân dân ta là phải thường xuyên làm thủy lợi, coi đó là quy luật gắn liền với sự tồn tại và phát triển. Từ xa xưa chăm lo xây dựng công trình, quản lý điều hành công tác thủy lợi được coi như một chức năng của Nhà nước. Công tác thủy lợi ở nước ta tiến hành với 2 nội dung cơ bản: một là công tác đắp đê, làm đập trị thủy phòng chống bão lụt, giảm nhẹ thiên tai; hai là đào sông, khơi ngòi và các hệ thống kênh mương để tưới tiêu nước phục vụ nhu cầu sinh trưởng của cây trồng. Thủy lợi có vai trò hết sức to lớn đối với sản xuất nông nghiệp và gắn liền với sản xuất nông nghiệp, chúng ta đã bắt tay vào thực hiện cuộc cách mạng về cơ cấu cây trồng, cơ cấu giống tạo ra một bước ngoặt trong sản xuất nông nghiệp. Cuộc cách mạng xanh ở Miền Bắc trước đây được mở ra bằng vụ lúa xuân, vụ đông thành vụ sản xuất chính, phong trào thâm canh tăng năng suất với nhiều điển hình trước hết là do yếu tố thủy lợi được coi trọng và giải quyết tốt.
Từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 công tác thủy lợi nói chung, thủy nông nói riêng đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thích đáng và được xác định: " thủylợi là biện pháp hàng đầu để phát triển nông nghiệp". Ngay sau khi Miền Bắc được giải phóng, chúng ta đã tiếp quản các CTTL do chính quyền cũ quản lý và tiến hành đầu tư để khôi phục tất cả các công trình đó, trước yêu cầu nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế, đặc biệt là đốivới sản xuất nông nghiệp, Nhà nước đã đầu tư và xây dựng nhiều công trình mới như: hệ thống đại thủy nông Bắc-Hưng-Hải, Trịnh Xá, Đan Hoài (Hà Tây), Nam-Bắc Sông Mã (Thanh hoá), Đô Lương ( Nghệ An)... với chủ trương hoàn chỉnh thủy nông. Từ năm 1975 các hệ thống thủy nông được phát triển đều khắp ỏ cả miền núi và đồng bằng gồm nhiều công trình vừa và nhỏ. Cùng với việc đầu tư xây dựng các công trình thủy nông, Nhà nước đã chú ý đến việc đầu tư theo chiều sâu nhằm khai thác các công trình đã có để phục vụ và phát triển theo hướng thâm canh tăng vụ, mở rộng diện tích. Sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước thống nhất đi lên CNXH, hoạt động thủy nông được mở rộng ra cả nước, hàng loạt công trình lớn và vừa được Nhà nước đầu tư xây dựng, trong đó có các công trình lớn như: hồ Kẻ Gỗ (Hà Tĩnh), Trà Lĩnh (Thái Bình), Núi Cốc (Bắc Thái), Phú Ninh (Quảng Nam - Đà Nẵng), Dầu Tiếng (Tây Ninh)... Tính đến nay cả nước có 75 hệ thống CTTL vừa và lớn, rất nhiều hệ thống thủy lợi nhỏ, gần 600 hồ chứa vừa và lớn có dung tích 1 triệu m3 trở lên, trên 10.000 hồ đập nhỏ, khoảng 2000 trạm bơm điện lớn và nhỏ với tổng giá trị khoảng 60.000 tỷ đồng (tính theo giá 1998). Cơ sở vật chất kỹ thuật này đã tạo năng lực tưới cho 3 triệu ha canh tác, ngăn mặn 70 vạn ha, nhờ vậy đã khắc phục tình trạng úng, hạn, mở rộng diện tích gieo trồng, cải tạo đất, thâm canh, tăng vụ tăng năng, suất góp phần đưa tổng sản lượng lương thực lên 31,8 triệu tấn năm 1999
1.2.1.2. Đối với công nghiệp giao thông, du lịch
- Đối với sản xuất công nghiệp: Tất cả các cơ sở sản xuất nói chung đều cần phải có một khối lượng nước nhất định để phục vụ sản xuất. Trong sản xuất công nghiệp yêu cầu nước không lớn như trong nông nghiệp nhưng đòi hỏi chất lượng và mức độ bảo đảm cao hơn, khi sự nghiệp công nghiệp hoá càng được đẩy mạnh thì càng phải phát triển thủy lợi tương ứng để khai thác tài nguyên nước phục vụ cho các ngành kinh tế bảo đảm đời sống nhân dân ở các khu công nghiệp và thành thị. Trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, ngoài việc cung cấp nước cho nông nghiệp, các DNTN còn cung cấp nước cho sản xuất công nghiệp với khối lượng rất lớn như: Nhà máy đường Lam Sơn, Giấy Mục Sơn, đường Nông Cống, điện Bàn Thạch, Nhà máy nước Thanh hoá, Bia Thanh hoá và tới đây sẽ cung cấp nước cho nhà máy xi măng Nghi Sơn và khu công nghiệp Nam Thanh hoá.
- Đối với giao thông vận tải, du lịch:
Ở nước ta giao thông vận tải thủy sớm được khai thác từ xa xưa cho đến nay vẫn là một trong những phương tiện giao thông vận tải có hiệu quả kinh tế nhất. Cả nước có nhiều sông ngòi, kênh rạch thuận lợi cho giao thông phát triển, các CTTL (hồ, kênh, mương) ngoài nhiệm vụ chứa nước, dẫn nước tưới tiêu phục vụ cho nông nghiệp đã cùngvới sông ngòi tự nhiên tạo nên mạng lưới giao thông thủy phong phú và thuận lợi hơn. Trên kênh của hệ thống Bái Thượng mỗi ngày có hàng trăm bè, nứa, luồng được chuyển về xuôi. Âu thuyền Bến Ngự mỗi ngày cũng có hơn 100 thuyền bè ra vào vận chuyển vật liệu xây dựng từ Sông Mã vào Thành phố Thanh hoá. Ngoài ra các CTTL còn tạo nên các khu du lịch như: công trình Dầu Tiếng (Tây Ninh), hồ Sông Mực (Thanh hoá), hồ Suối Hai (Hà Tây)... cá._.c công trình này gắn với cảnh quan thiên nhiên tạo thêm thẩm mỹ và đã trở thành các khu du lịch, tham quan, nghỉ mát, góp phần phát triển kinh tế du lịch cho một số địa phương.
1.2.1.3. Đối với đời sống dân sinh, cải tạo môi trường sinh thái và phòng chống thiên tai.
Nước là nguồn tài nguyên quý và quan trọng vô cùng cần thiết cho sức khoẻ và đời sống con người. Tình hình thiếu nước và cung cấpnước sạch cho nhu cầu sống của con người hiện nay thật đáng lo ngại, nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt Châu Phi và Châu Á có khoảng 1/3 dân số đang thiếu nước nghiêm trọng. Cũng chính vì vai trò quan trọng của nước sạch, sau Hội nghị quốc tế về môi trường và phát triển tại Rio de Jane rio (Bra xin 1992) với sự tham gia của 172 nước trên thế giới, trong đó có 108 vị đứng đầu Nhà nước, tháng 11 năm 1992 Đại hôị đồng Liên Hợp Quốc đã quyết định lấy ngày 23/3 hàng năm là ngày nước thế giới để thẩm định vai trò của nước đối với đời sống con người, xác định trách nhiệm của nhân loại đối với việc bảo vệ, quản lý và phát triển tài nguyên nước, chống cạn kiệt, suy thoái và ô nhiễm nguồn nước. [3]
So với các quốc gia trên thế giới có thể nói nước ta có tài nguyên nước rất phong phú vì chúng ta có nhiều sông, suối với lượng mưa rất dồi dào, trung bình từ 1.200 - 2.000 mm/ năm. Nhưng Việt Nam cũng chịu sự tàn phá nặng nề của thiên nhiên, năm nào cũng có bão lụt, như chúng ta đã biết trong những tháng đầu năm 1999 thời tiết biến đổi, hạn hán kéo dài trên diện rộng không những gây khó khăn cho sản xuất mà còn làm cho khoảng 4 triệu người "đói nước và khát nước" trong đó có khoảng 1 triệu người thiếu nước nghiêm trọng tại các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Thanh hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Quảng Nam... đặc biệt là tỉnh Bến Tre và các tỉnh vùng Tây Nguyên.
Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đang ngày càng quan tâm đến việc giải quyết nước sạch, đảm bảo vệ sinh môi trường cho nhân dân. CTTL có một ý nghĩa hết sức quan trọng để cải thiện điều kiện khí hậu trong vùng lân cận, mực nước ngầm được dâng cao, tạo thuận lợi cho việc trồng cây gây rừng, duy trì dòng chảy trong mùa khô, hạn chế nước mặn xâm nhập quá sâu vào đất liền, duy trì các điều kiện bình thường, từng bước hình thành sự cân bằng mới về môi sinh. Từ chỗ tích nước, trữ nước của các CTTL đã hạn chế được lũ lớn của các dòng sông, mặt khác cũng thông qua công trình thủy lợi để cắt lũ và xả lũ khi có lũ lớn xảy ra, hạn chế thấp nhất mức thiệt hại. Thông qua việc cung cấp nước cho nông nghiệp đồng thời cũng tạo lượng nước ngầm ổn định thường xuyên cho các vùng dân cư ở nông thôn. Có thể nói nước trong đời sống con người hầu hết đều có liên quan đến CTTL.
Từ nay đến năm 2010 công tác phát triển thủy lợi và thủy nông còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng thúc đẩy quá trình đô thị hoá với tốc độ nhanh, nhu cầu nước cho dân sinh và công nghiệp ở các vùng tập trung sẽ tăng nhanh chóng đòi hỏi các CTTL phải phát triển theo để cung ứng và xử lý nguồn nước. Kinh tế càng phát triển thì vấn đề bảo vệ thành quả kinh tế - xã hội càng cần thiết, trong điều kiện thiên tai có chiều hướng phức tạp, hệ thống đê điều, các công trình điều tiết lũ bảo vệ vùng dân cư, vùng kinh tế trọng điểm ngày càng phải được bổ sung để đảm bảo an toàn hạn chế thiệt hại, giữ được nhịp độ phát triển bền vững.
Trước những biến đổi về khí hậu có tính toàn cầu và những thay đổi về môi trường sinh thái ở nước ta do tài nguyên rừng bị tàn phá nặng nề, thiên tai diễn ra trên diện rộng cộng với sự gia tăng của chất thải do phát triển công nghiệp vùng đô thị làm ô nhiễm môi trường nước đòi hỏi nhiệm vụ phát triển thủy lợi phải dựa trên một chiến lược quản lý và khai thác tài nguyên nước toàn diện, phục vụ đa mục tiêu.
1.2.2 Đặc điểm của các doanh nghiệp thủy nông
Mỗi doanh nghiệp có vị trí, vai trò khác nhau trong nền kinh tế xã hội và có những đặc điểm riêng có của nó, tính chất đặc điểm đó chi phối đến mọi hoạt động của doanh nghiệp từ quy mô, hình thức tổ chức bộ máy đến nội dung hoạt động. Hệ thống DNNN hiện nay được phân làm 2 loại hình: DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích, mỗi loại hình được hoạt động dựa trên cơ chế tài chính khác nhau. DNTN được xếp vào loại hình DNNN hoạt động công ích có những đặc điểm sau đây:
1.2.2.1- Hoạt động thủy nông mang tính hệ thống cao
Hoạt động thủy nông là quản lý khai thác công trình thủy lợi diễn ra trong phạm vi rộng do công trình mang tính hệ thống, nó bao gồm nhiều loại công trình có liên hệ mật thiết với nhau và yêu cầu đồng bộ. Một hệ thống công trình phải bao gồm: công trình đầu mối (hồ, đập, trạm bơm điện), kênh dẫn cấp I, cấp II, cấp III và kênh nội đồng, trên các tuyến kênh có các cống lấy nước cửa đóng mở... tuỳ khả năng nguồn nước của từng công trình đầu mối mà quy định phạm vi phục vụ, có thể phục vụ cho 1 xã, 1 huyện hoặc liên huyện, liên tỉnh. Một yêu cầu có tính chất bắt buộc là không đươc chia cắt hệ thống, một công trình không thể do nhiều nơi quản lý khai thác vì nếu chia cắt như vậy sẽ không thể điều hành được nên một doanh nghiệp độc lập quản lý ít nhất là một hệ thống công trình. Tính hệ thống này chi phối đến việc tổ chức sắp xếp các doanh nghiệp trong một địa phương, một vùng lãnh thổ, có thể thành lập công ty thủy nông huyện, liên huyện hoặc công ty thủy nông tỉnh, tuỳ thuộc điều kiện cụ thể về trình độ quản lý của cán bộ, đặc điểm công trình, tính hoàn chỉnh của công trình để chọn mô hình tổ chức cho phù hợp song luôn luôn phải đảm bảo tính hệ thống.
Trong mỗi hệ thống vừa có đơn vị (bộ phận) đảm nhận sản xuất theo dạng khai thác nguồn nước, đó là công trình đầu mối, vừa có đơn vị chuyển tải sản phẩm đến nơi tiêu thụ theo hệ thống kênh, vừa có đơn vị đảm nhận tiêu thụ sản phẩm. Đây chính là các khâu trong tổ chức điều hành quản lý khai thác của một DNTN. Muốn đạt hiệu quả cao nhất phải chỉ đạo thực hiện tốt ở các khâu, muốn thu tốt thủy lợi phí phải tưới tiêu tốt hoặc tưới tiêu tốt để thu tốt.
Do tính hệ thống cao nên trong khi xây dựng công trình mới phải được hoàn thiện đồng bộ mới phát huy tối đa năng lực thiết kế của công trình, trong quản lý khai thác phải có kế hoạch tu sửa thường xuyên và sửa chữa lớn kịp thời để duy trì năng lực đồng bộ. Trong thực tế hiện nay một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả của công trình thấp là do khi xây dựng chưa hoàn chỉnh đồng bộ và trong quá trình khai thác chưa được tu bổ khôi phục kịp thời.
1.2.2.2- Hoạt động của các doanh nghiệp thủy nông chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên không hoàn toàn thuận lợi cho sản xuất và đời sống của con người. Sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người là quá trình đấu tranh cải tạo tự nhiên, vận dụng các quy luật tự nhiên để phục vụ cho đời sống con người. Hoạt động khai thác CTTL là một trong những hoạt động vận dụng các quy luật tự nhiên, cải tạo tự nhiên, khắc phục hậu quả do thiên nhiên gây ra, do đó chịu sự chi phối ảnh hưởng rất lớn của điều kiện tự nhiên.
Trước hết ta thấy từ khi bắt đầu xây dựng CTTL đã phải căn cứ vào điều kiện: khí hậu, địa hình, thủy văn ở từng vùng, từng địa phương để có các giải pháp công trình thích hợp, vùng miền núi lợi dụng độ cao để xây dựng hồ chứa nước đập dâng, ở miền xuôi xây dựng các trạm bơm điện. Các CTTL đa số nằm ở ngoài trời, chịu ảnh hưởng trực tiếp của môi trường mưa nắng, luôn bị phá huỷ, xói mòn, hệ thống kênh mương đa số bằng đất. Do đó việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào xây dựng cải tạo công trình là rất cần thiết, việc tiến hành kiên cố hoá kênh mương (bằng bê tông hoặc gạch xây) và lần lượt hiện đại hoá các máy móc thiết bị là nhằm nâng cao năng lực và kéo dài tuổi thọ của công trình.
Mặt khác điều kiện tự nhiên còn ảnh hưởng đến hoạt động quản lý, chi phối đến chi phí và thu nhập hàng năm của doanh nghiệp. Tuy hiện nay các DNTN đang hoạt động dựa trên các định mức kinh tế - kỹ thuật nhưng do diễn biến thời tiết khá phức tạp, nhất là những năm gần đây nắng hạn kéo dài mưa, lũ lớn vượt mức lịch sử, năm 1999 những trận mưa lớn chưa từng có trên tất cả các vùng từ ngày 1 đến 6/11/1999 lượng mưa ở Huế là 2.280mm trong đó 1 ngày lên đến 1.384 ma tuý, là lượng mưa chưa từng thấy trong chuỗi số liệu có hơn 100 năm nay ở nước ta. Đợt mưa đầu tháng 12 năm 1999 ở Quảng Ngãi phổ biến từ 1.500-2.000 mm đặc biệt trong 3 ngày hồ Phú Ninh lên 2.000mm trong khi lượng mưa thiết kế là 1.100mm. Vào những năm thời tiết như vậy thì chi phí bỏ ra của các doanh nghiệp rất lớn, tài sản máy móc thiết bị công trình bị huỷ liệt. Đây là một yếu tố rất quan trọng trong lúc lập kế hoạch sản xuất tài chính hàng năm cần phải được đề cập đến và phải có chủ trương chính sách dự phòng.
1.2.2.3- Hoạt động thủy nông mang tính xã hội hoá cao.
Do đặc điểm của điều kiện tự nhiện, địa hình nguồn nước mà từ việc quy hoạch thiết kế đến xây dựng CTTL phải đảm bảo tính hệ thống, tính hệ thống đó nhiều khi vượt khỏi ranh giới một vùng, một địa phương, một đơn vị hành chính, đòi hỏi sự đóng góp xây dựng của một tập thể khá lớn, trên thực tế hầu hết các CTTL đã đưa vào sử dụng ở nước ta đều có sự đóng góp của nhân dân được thực hiện theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm".
Tính xã hội hoá còn thể hiện trong việc sử dụng các hệ thống công trình, tuỳ theo điều kiện kinh tế từng vùng mà mỗi hệ thống có thể đảm nhận từng phần hay toàn bộ nhiệm vụ: phục vụ sản xuất nông nghiệp thủy điện, thủy sản, giao thông thủy, cấp nước cho sản xuất công nghiệp, cấp nước cho dân cư, chống lũ lụt và bảo vệ nguồn nước khỏi nhiễm khuẩn. Vì vậy mỗi hệ thống đảm nhận một lúc nhiều nhiệm vụ, mỗi nhiệm vụ phục vụ cho một ngành kinh tế nhất định, do đó hoạt động thủy nông thường phục vụ cho nhiều mục tiêu, nhiều đối tượng khác nhau. Ngoài ra không chỉ đảm bảo tưới tiêu cho diện tích canh tác mà còn phục vụ cho cả diện tích phi canh tác mà diện tích phi canh tác thường mang tính chất xã hội.
Tính xã hội còn thể hiện trong công tác bảo vệ công trình, vì CTTL đa số nằm ngoài trời rải rác trong phạm vi rộng trong khi đó lực lượng công nhân của doanh nghiệp chỉ ở mức độ nhất định nên phải có sự tham gia của toàn dân, ở đâu nhân dân có ý thức trách nhiệm cao, thực hiện tốt pháp lệnh bảo vệ công trình thì ở đó CTTL được an toàn, chi phí trông coi bảo vệ của các doanh nghiệp thấp và ngược lại. Từ đó một trong những nội dung hoạt động của các doanh nghiệp là phải tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm cho người dân, phối kết hợp với chính quyền địa phương, phổ biến sâu rộng và chấp hành tốt pháp lệnh bảo vệ CTTL, trong quản lý tiến hành xã hội hoá một số khâu, một số công việc để nhân dân địa phương đảm nhận, một mặt gắn trách nhiệm của địa phương mặt khác tiết kiệm được chi phí.
1.2.2.4- Sản phẩm chủ yếu của doanh nghiệp thủy nông là dịch vụ đặc biệt gắn liền với kết quả sản xuất nông nghiệp.
Đối tượng phục vụ chủ yếu của các DNTN là nông nghiệp mà chủ yếu là trồng trọt, việc cung ứng đủ nước cho cây trồng phát triển theo thời vụ từng thời kỳ sinh trưởng (bao gồm cả tưới và tiêu). Sản phẩm "dịch vụ nước" cũng là hàng hoá vì nó có 2 thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Về giá trị bao gồm 3 bộ phận: một là giá trị tư liệu sản xuất đã hao phí (c), hai là giá trị quỹ lương để trả cho công nhân trực tiếp và gián tiếp trong doanh nghiệp (v), ba là giá trị thặng dư (m). Về giá trị sử dụng nó cũng thoả mãn nhu cầu cho người dùng nước vào sản xuất và sinh hoạt.
"Dịch vụ nước" là hàng hoá nhưng nó là hàng hoá đặc biệt: Quá trình sản xuất gắn liền với quá trình tiêu thụ, sản xuất đến đâu tiêu thụ đến đấy không tiêu thụ là bỏ phí vì loại dịch vụ này không lưu kho tích trữ như các hàng hoá khác được. "Dịch vụ nước" của các DNTN là duy nhất không thể nhập ngoại và không có hàng thay thế, là hàng hoá nhưng đơn vị đo đếm đến nay chưa được xác định thống nhất và chuẩn xác, hiệnnay đang dùng đơn vị là ha đất gieo trồng diện tích tưới tiêu, tưới cho 1 ha thì có thể tính được nhưng tiêu thì rất khó xác định vì lượng mưa hàng năm rất khác nhau, đây là một khó khăn lớn trong việc xác định chi phí để xác định giá bán của doanh nghiệp.
Tuy có hạch toán kinh tế nhưng ở đây chưa hạch toán đầy đủ, trong phần chi phí giá trị tư liệu sản xuất chưa tính đủ. Từ năm 1984 theo Nghị định 112/ HĐBT và đến nay khi trích khấu hao cơ bản tài sản cố định các doanh nghiệp chỉ tính phần máy móc thiết bị, không trích phần tài sản thuộc công trình đất xây đúc và các loại máy bơm có công suất 8.000 m3/h trở lên. Giá bán sản phẩm dịch vụ nước do Nhà nước quy định, quan hệ giữa người mua và người bán bị ràng buộc bởi nhiều yếu tố như tính độc quyền của sản phẩm, tính xã hội của sản phẩm, quan hệ cung cầu và giá cả ở đây không phản ánh đúng bản chất vận động của nó, người nông dân không có quyền lựa chọn sản phẩm, người bán cũng không có quyền lựa chọn người mua, quan hệ mua bán thiếu sòng phẳng, người mua không nộp thủy lợi phí người bán vẫn phải phục vụ.
Sản phẩm thu được của các DNTN gắn liền và chịu ảnh hưởng lớn của sản xuất nông nghiệp. Thủy lợi phí là nguồn thu chủ yếu được tính bằng % so với sản lượng thu hoạch của nông dân, những năm thời tiết bình thường nông dân được mùa thì doanh thu tương đối ổn định, nhưng những năm hạn hán năng suất cây trồng giảm hoặc mất mùa Nhà nước miễn giảm cho nông dân làm giảm doanh thu của doanh nghiệp vì vậy tính toán hiệu quả rất khó khăn không phản ánh đúng thực trạng nội tại của nó, các doanh nghiệp phải gánh chịu thiệt hại do thiên tai gây ra do đó hoạt động thường mang tính rủi ro, trong điều kiện đó chi phí bỏ ra thường không có khả năng thu hồi.
1.2.2.5- Đối tượng phục vụ chủ yếu là nông dân, nông nghiệp
Vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn là đối tượng luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, đánh giá ở vị trí vô cùng quan trọng trong moị thời kỳ cách mạng, đến nay đã có bước phát triển lớn song nông nghiệp nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn yếu kém, công nghệ lạc hậu, năng suất cây trồng vật nuôi còn thấp, giá trị sản lượng hàng hoá không cao, đời sống cho nông dân ở một số nơi còn nhiều khó khăn về nhiều mặt, giữa nông thôn và thành thị còn có khoảng cách xa. Đảng và Nhà nước ta tiếp tục xác định: "Đặt sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, coi đó là nhiệm vụ chiến lược có tầm quan trọng hàng đầu".[13]
Nông dân là người có đời sống thu nhập thấp, trình độ thâm canh, tập quán canh tác mang tính chất sản xuất nhỏ, tư tưởng bảo thủ, chưa có điều kiện để áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tính nhạy bén với cơ chế thị trường còn hạn chế, vẫn còn tư tưởng bao cấp ỷ lại Nhà nước nên ý thức sử dụng nước chưa tiết kiệm, trách nhiệm thanh toán chưa cao.
Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ, vào lúc thời vụ chính mọi khách hàng đều có nhu cầu được phục vụ, do đó doanh nghiệp phải huy động hết công suất máy móc và nhân lực nhưng qua thời điểm đó nhân lực lại rất ít, người lao động phải chờ việc làm vì vậy cần phải tổ chức các hoạt động ngoài nhiệm vụ chính để thu hút lao động nhàn rỗi trong doanh nghiệp, có thể thành lập các đội tu sửa công trình hoặc tổ chức thiết kế để làm nhiệm vụ kinh doanh (ngoài hoạt động công ích), các tổ chức này được hạch toán riêng theo cơ chế hoạt động sản xuất kinh doanh tự trang trải kinh phí đảm bảo có lãi, thông qua hình thức này để rút bớt lao động trong tổng biên chế từ đó nâng cao thu nhập cho người lao động.
1.2.2.6- Về hoạt động tài chính của doanh nghiệp thủy nông
Đặc điểm nổi bật trong hoạt động tài chính của DNTN là mất cân đối thu - chi, chi thường lớn hơn thu, số thu ít (chủ yếu là thủy lợi phí) gần như được ổn định, thời gian thu chậm, thu theo vụ mỗi năm 2 kỳ vào cuối vụ thu hoạch của sản xuất nông nghiệp. Những khoản chi lại nhiều, lượng của mỗi khoản chi lớn lại mang tính chất tức khắc như: chi trả tiền điện, mua sắm thiết bị phụ tùng, chi lương cho cán bộ công nhân viên, các khoản chi này chiếm tỷ trọng 60-65% tổng số phải chi. Nguyên nhân của chi lớn hơn thu là do ngoài chi phí cho việc cung ứng dịch vụ nước cho các ngành có địa chỉ, các doanh nghiệp còn phải chi phí đảm nhận chức năng xã hội không có địa chỉ, đó là chi cho công việc tiêu úng ở các vùng dân cư, vùng phi canh tác. Mặt khác còn một số điểm bất hợp lý là: các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất như máy móc, phụ tùng nguyên liệu, năng lượng, lương công nhân... đều do cơ chế thị trường chi phối và theo chiều hướng tăng nhiều lần, trong khi đó giá đầu ra (mức thu thủy lợi phí) vẫn thực hiện theo quy định đến nay đã lạc hậu vừa thấp vừa gặp phải thất thu, nợ tồn đọng thủy lợi phí quá lớn do đó tình hình chung hiện nay mất cân đối thu chi ở các DNTN xảy ra là phổ biến.
1.3. Yêu cầu đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thủy nông.
1.3.1. Nhận thức về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thủy nông.
Hiệu quả của hoạt động DNTN với tư cách là một doanh nghiệp công ích, bao gồm cả hiệu quả sản xuất, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường.
* Hiệu quả sản xuất: hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng nguồn nhân tài, vật lực của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả là một doanh nghiệp thoả mãn được tối đa nhu cầu của thị trường và xã hội về hàng hoá, dịch vụ trong giới hạn cho phép của nguồn lực hiện có và thu được lợi nhuận nhiều nhất, đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất.
Đây là một vấn đề phức tạp có liên quan đến nhiều yếu tố, nhiều mặt của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: lao động, vốn, tài sản và trình độ quản lý của doanh nghiệp... chỉ tiêu phản ánh tổng quát nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được xác định bằng công thức:
Hiệu quả sản xuất =
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng chi phí đầu vào trong kỳ phân tích thì thu được bao nhiêu kết quả đầu ra. Với một khối lượng chi phí đầu vào nhất định, chỉ tiêu hiệu quả tỷ lệ thuận với lượng đầu ra, tỷ lệ nghịch với chi phí đầu vào. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng lớn. Kết quả đầu ra có thể được tính bằng chỉ tiêu giá trị sản lượng, doanh thu,lợi tức chi phí đầu vào có thể được tính bằng chỉ tiêu giá thành sản xuất, giá vốn hàng bán, chỉ tiêu lao động, vốn cố định.
* Một số chỉ tiêu cụ thể đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu lợi nhuận: Trong điều kiện sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường, để tồn tại và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải có lãi - lợi nhuận. Lợi nhuận là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí.
Ta có: TP = DT - TCP.
Trong đó: TP: Tổng lãi của doanh nghiệp.
DT: Là tổng doanh thu; TCP: Tổng chi phí.
Trước kia cơ chế kế hoạch hoá tập trung ở nước ta quy định cách xác định lợi nhuận theo các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Trong giai đoạn chuyển sang cơ chế thị trường, đối với mỗi doanh nghiệp phân biệt lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh chính, phụ ... và lợi nhuận của doanh nghiệp được hạch toán và báo cáo riêng, theo tính chất chính, phụ của sự phân loại (điều này được Bộ tài chính quy định tại mẫu biểu báo cáo số 02/BCKT ban hành tại quyết định số 224-TC/CĐKT ngày 18/9/1990.
Theo quyết định 1141 TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995 của Bộ Tài chính áp dụng từ 01/01/1996 của hệ thống chế độ kế toán mới, đối với doanh nghiệp lợi nhuận được báo cáo dưới một cách chung nhất không phân biệt loại hình kinh doanh. Lợi nhuận là chênh lệch giữa tổng thu và tổng chi. Cách nhìn nhận chỉ tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp theo quyết định số 1141 trên đây của Bộ tài chính lần này gần gũi với cách nhìn nhận phổ biến về lợi nhuận trong hệ thống kế toán Quốc tế.
Hiện nay, hoạt động của doanh nghiệp khá đa dạng. Chúng có thể bao gồm hoạt động sản xuất, hoạt động mua bán hàng hoá, vật tư, hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính, hoạt động môi giới, hoạt động dịch vụ... Đối với mỗi doanh nghiệp, quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh không còn các giới hạn nghiêm ngặt. Mỗi doanh nghiệp phải tự lo nguồn hàng, nguồn vật tư cũng như tự lo khâu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá.
Mặc dù doanh nghiệp thủy nông là doanh nghiệp hoạt động công ích nhưng phải đảm bảo hiệu quả kinh tế, trong chi phí đầu tư, chi phí sản xuất, tiết kiệm tiêu dùng nước và sử dụng nước có hiệu quả đối với cây trồng vật nuôi.
* Hiệu quả xã hội.
- Cung cấp nước cho đời sống dân sinh, bảo đảm nguồn nước và chống ô nhiễm: nước được dùng để ăn, uống, tắm giặt... trong đời sống con người. Nước dưới đất lâu nay là nguồn cung cấp chủ yếu, song nếu không có nước bề mặt thì nguồn nước ngầm sẽ bị hạn chế. Thông qua các hoạt động cung cấp nước cho nông nghiệp, công trình thủy lợi đã góp phần tạo tăng nguồn nước ngầm và ổn định nguồn nước ngầm, ngoài ra còn cung cấp trực tiếp cho nhiều vùng dân cư về nước sinh hoạt cũng như nước cho vật nuôi khác.
- Các CTTL phát triển, kết hợp tạo nên một mạng lưới giao thông thuận lợi trong làng xã, góp phần tích cực trong việc xây dựng nông thôn mới.
* Hiệu quả môi trường:
Thông qua hoạt động của các CTTL bảo vệ được môi trường sinh thái: cải tạo đất, làm thay đổi khí hậu ở một số tiểu vùng, tạo thêm các vùng nước lợ, nước ngọt, khắc phục được tình trạng nước mặn.
Ngoài hiệu quả kinh tế xã hội hoạt động thủy nông còn có hiệu quả về môi trường đó là cải tạo đất, tạo thêm các vùng nước lợ, thay đổi khí hậu ở một số vùng. Hạn chế được lũ lụt và tham gia cắt lũ, khi có lũ lớn xảy ra trên các sông ngòi tự nhiên. Góp phần bảo vệ tài sản và đời sống nhân dân trong toàn bộ xã hội.
Cả ba loại hiệu quả sản xuất, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường có liên quan mật thiết với nhau không thể xem nhẹ một loại hiệu quả nào. Trong điều kiện thời tiết diễn biến bình thường thì hiệu quả sản xuất, hiệu quả kinh tế có vị trí hàng đầu, trái lại khi gặp thiên tai thì việc cấp nước, tiêu thoát nước cho dân sinh phải được coi trọng, ưu tiên, nhưng không vì thế mà xem nhẹ hiệu quả kinh tế.
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thủy nông.
1.3.2.1. Các nhân tố về tự nhiên:
- Thời tiết, khí hậu: Hoạt động thủy nông là hoạt động vận dụng các quy luật tự nhiên, cải tạo tự nhiên để phục vụ đời sống con người. Yếu tố thời tiết, khí hậu có ảnh hưởng trực tiếp đến cả đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp. Các yếu tố đầu vào trong đó chi phí điện năng tiêu thụ cho việc bơm nước tưới tiêu là chịu ảnh hưởng rõ nhất và nhiều nhất. Có thể nói toàn bộ hoàn toàn phụ thuộc vào thời tiết khí hậu: Năm thuận lợi lượng điện tiêu hao ít, năm hạn hán, bão lụt, lượng điện tiêu hao nhiều. Ngoài lượng điện tiêu thụ còn các yếu tố khác cũng ảnh hưởng tăng theo. Sản lượng thu hoạch trong nông nghiệp chịu ảnh hưởng lớn của thời tiết khí hậu, những năm nông nghiệp giảm sản lượng hoặc mất mùa thì doanh thu của các DNTN cũng bị ảnh hưởng theo. Như vậy hiệu quả của doanh nghiệp cao hay thấp là chịu ảnh hưởng lớn của thời tiết, khí hậu. Vì thế hoạt động thủy nông thường mang tính rủi ro cao.
- Đồng ruộng, sông ngòi: ở các vùng, địa phương có ruộng đồng sông ngòi khác nhau thì hiệu quả hoạt động thủy nông cũng khác nhau. Cũng tưới tiêu cho một ha đất gieo trồng, ở vùng đồng bằng chi phí sẽ thấp hơn so với vùng miền núi, tưới bằng công trình tự chảy chi phí sẽ thấp hơn so với tưới bằng bơm điện... Chính vì ảnh hưởng này nên hiện nay doanh nghiệp tưới bằng hồ đập hiệu quả hơn doanh nghiệp tưới bằng hệ thống bơm điện.
1.3.2.2. Các nhân tố về kỹ thuật - công nghệ.
- Yếu tố kỹ thuật công nghệ nói chung quyết định năng suất hiệu quả hoạt động của mọi doanh nghiệp. Kỹ thuật công nghệ hiện đại thì có năng suất cao, chất lượng tốt dẫn đến hiệu quả cao. Đối với hoạt động thủy nông công trình đầu mối quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp: hồ chứa, trạm bơm có công suất lớn hay nhỏ quy định phạm vi hoạt động của công trình. Song để hiệu quả cao hay thấp, có phát huy tối đa năng lực thiết kế hay không, lại phụ thuộc vào hệ thống kênh dẫn. Nếu kênh mương được bê tông hoá sẽ chống được thất thoát nước, phát huy hết năng lực tưới của công trình đầu mối thì hiệu quả mang lại sẽ cao hơn.
- Tưới tiêu khoa học: Vừa tiết kiệm được nước, vừa đảm bảo có lợi cho cây trồng và cũng góp phần tăng hiệu quả. Một trong những biện pháp tưới tiêu khoa học hiện nay là "tưới luân phiên" thay cho tưới đại trà trước đây đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Mặt khác trong điều hoà phân phối nước khoa học, sẽ giảm được lao động của công nhân và cũng dẫn đến giảm chi phí.
1.3.2.3. Nhân tố xã hội, dân trí.
Hoạt động thủy nông diễn ra trên thị trường giữa doanh nghiệp và các hộ dùng nước. Việc cung cấp nước hiện nay chưa có thiết bị đo đếm, chưa xác định đúng lượng nước đã cung cấp. Ở đâu các thủy nông cơ sở, hộ dùng nước có ý thức tự giác cao về tiết kiệm nước và bảo vệ công trình, không có tình trạng nước chảy tràn lan xuống kênh tiêu, thì ở đó mức nước cung cấp không bị lãng phí, công trình được bảo vệ từ đó làm cho chi phí giảm và nâng cao hiệu quả.
1.3.2.4. Nhân tố về tổ chức quản lý.
- Trước hết là quản lý doanh nghiệp: Trong doanh nghiệp bộ máy gọn nhẹ, đủ mạnh để điều hành quản lý, thì trước tiên giảm được chi phí quản lý, sau đó quản lý có khoa học, tưới tiêu khoa học thì mới tiết kiệm được nước. Năng lực đội ngũ công nhân lành nghề, hoạt động có năng suất, giảm bớt được lao động chuyển sang các hoạt động khác để tăng thu nhập cho doanh nghiệp, cũng dẫn đến giảm chi phí, tăng thu nhập từ đó hiệu quả cũng được tăng lên.
- Quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương: Hoạt động thủy nông mang tính xã hội cao, gắn liền với địa bàn nông thôn, nông nghiệp và nông dân. Từ lúc tưới, tiêu đến lúc thu thủy lợi phí không thể tách rời sự lãnh đạo của chính quyền địa phương. Nơi nào chính quyền địa phương quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ công tác thủy lợi, thì nơi đó công tác thu thủy lợi phí tốt hơn, nông dân sử dụng nước tiết kiệm hơn, tham gia làm công tác thủy lợi và bảo vệ công trình cũng tốt hơn, từ đó cũng góp phần làm giảm chi phí và tăng thu nhập cho doanh nghiệp.
Để đạt được hiệu quả cao nhất trong hoạt động thủy nông, cần phải nhận thức đầy đủ các nhân tố ảnh hưởng trên. Tuỳ từng điều kiện cụ thể, từng thời kỳ để có những tác động tích cực.
1.3.3. Phương hướng đổi mới quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thủy nông.
- Thành tựu và sự đóng góp của DNTN đối với nông nghiệp và nền kinh tế:
Trong mấy chục năm qua công tác thủy lợi nói chung, thủy nông nói riêng đã có bước phát triển mạnh. Thủy nông đã phục vụ tốt cho phát triển nông nghiệp đa dạng, thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế nông nghiệp theo hướng hiệu quả, bảo vệ môi trường sinh thái, tạo ra công ăn việc làm trong nông nghiệp, nâng cao thu nhập từ lĩnh vực nông nghiệp. Hàng năm Nhà nước đã đầu tư 10% ngân sách và huy động sức dân rất lớn để xây dựng nhiều CTTL. Cơ sở vật chất này đã tạo ra năng lực tưới cho 3 triệu ha đất canh tác, năng lực tiêu nước vụ mùa ở các tỉnh Bắc bộ 1,4 triệu ha đất tự nhiên, găn mặn 70.000 ha, cải tạo 1,6 triệu ha đất chua phèn ở Đồng bằng Sông Cửu Long, khắc phục tình trạng úng hạn, mở rộng được diện tích gieo trồng, cải tạo đất, thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng, góp phân đưa sản lượng lương thực 31,8 triệu tấn năm 1998 lên 34,2 triệu tấn năm 1999.
Ngoài ra mỗi năm còn cung cấp gần 5 tỷ m3 nước cho công nghiệp và dân sinh, tiêu nước cho hầu hết các khu vực đô thị, dân cư ở các vùng đồng bằng.
- Những hạn chế khó khăn của DNTN trong thời gian qua:
+ Hệ thống CTTL thuộc các DNTN đang quản lý, khai thác, tuy đã được chú ý quan tâm đầu tư, cải tạo, nâng cấp song vẫn còn nhiều tồn tại: công trình không đồng bộ, nhiều công trình thủy công và cơ điện đã hết tuổi thọ, chưa được đại tu thay thế, nhiều hồ chứa nước chưa được nâng cấp, hệ thống kênh mương đa số vẫn là kênh đất qua nhiều năm sử dụng đã xuống cấp nghiêm trọng. Hệ thống máy bơm điện đã quá lâu, trang thiết bị khác phục vụ công tác quản lý điều hành còn thiếu và lạc hậu.
+ Tổ chức bộ máy quản lý thủy nông còn cồng kềnh, manh mún. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân còn chưa đồng đều, năng lực còn hạn chế chưa thích ứng kịp với điều kiện chuyển đội cơ chế hiện nay.
+ Hệ thống chính sách: Một số được hình thành từ thời bao cấp đến nay chưa được sửa đổi và thay thế. Một số mới ra đời vẫn còn bộc lộ những bất cập chưa phù hợp với hoạt động thực tế của các doanh nghiệp.
+ Tâm lý chung của nhân dân nhất là nông dân còn nặng tư tưởng bao cấp, ỷ lại Nhà nước thiếu trách nhiệm trong việc bảo vệ CTTL và thu nộp thủy lợi phí.
+ Diễn biến thời tiết khí hậu những năm gần đây có xu hướng ngày càng phức tạp vượt quá khả năng phục vụ của doanh nghiệp.
Xuất phát từ yêu cầu thủy nông phục vụ sản xuất và đời sống, đặc biệt phục vụ chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, căn cứ vào thực trạng quản lý thủy nông hiện nay đặt ra yêu cầu khách quan và cấp thiết phải đổi mới quản lý DNTN trên những phương hướng chính sau đây:
+ Sắp xếp lại doanh nghiệp: Từng địa phương cần đánh giá hiệu quả hoạt động của từng doanh nghiệp, phân tích rõ nguyên nhân, căn cứ vào chủ trương đổi mới doanh nghiệp của Nhà nước hiện nay để tiến hành sắp xếp lại các doanh nghiệp một cách hợp lý, trên cơ sở tính hệ thống của CTTL, nhằm phát huy tối đa năng lực của công trình, tập trung được sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp và mọi thành phần kinh tế.
+ Đổi mới cơ chế chính sách tài chính: Tiến hành rà soát lại các văn bản chính sách hiện nay, khẩn trương ban hành những chính sách mới, tiếp tục hoàn thiện bổ sung các chính sách còn khiếm khuyết. Tạo dựng hành lang pháp lý nâng cao tính tự chủ cho các doanh nghiệp.
+ Đổi mới tổ chức quản lý: Phân công phân cấp cụ thể về quản lý khai thác CTTL, tiến hành xã hội hoá công tác quản lý thủy nông, tăng cường tổ chức thủy nông cơ sở. Chuyển dần hoạt động thủy nông sang hoạt động kinh doanh và đa dạng hoá công tác thủy nông.
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THỦY NÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THANH HOÁ
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội Thanh hoá có liên quan đến quản lý thủy nông.
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên:
Thanh hoá là một tỉnh nằm ở vị trí địa lý 19023' đến 20030' vĩ độ Bắc, 104023' đến 1060._.p hơn để giảm được chi phí trực tiếp và gián tiếp, nâng cao chất lượng hiệu quả.
Sắp xếp tổ chức lại các doanh nghiệp cần phải dựa trên các nguyên tắc sau:
- Bảo đảm tính hệ thống của CTTL. Do đặc điểm nổi bật của CTTL là mang tính chất hệ thống liên hoàn, không bị chia cắt bởi địa giới hành chính, tổ chức doanh nghiệp phụ thuộc vào địa bàn phục vụ khi CTTL nằm gọn trong địa bàn đó.
- Bảo đảm sự kết hợp chặt chẽ quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ. CTTL là một hệ thống diễn ra trên một không gian rộng, gắn với nhiều địa phương, nhiều vùng lãnh thổ do đó nguyên tắc này cần phải quán triệt trong sắp xếp tổ chức cũng như trong quản lý, khai thác, bảo vệ công trình, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, các thành phần kinh tế.
- Bảo đảm sự tách bạch cần thiết và mối quan hệ qua lại giữa vai trò quản lý Nhà nước và vai trò quản lý sản xuất của các doanh nghiệp.
- Bảo đảm phân công, phân cấp tối đa về quản lý kế hoạch, tài chính, quản lý công trình cho các đơn vị thành viên trong mỗi doanh nghiệp.
- Bộ máy tổ chức phải gọn nhẹ, có hiệu lực, vận hành công trình an toàn để phát huy tối đa năng lực của máy móc thiết bị, nâng cao hiệu quả về mọi mặt trong quản lý.
Hiện nay toàn tỉnh Thanh hoá có 9 DNTN, trong đó có 3 công ty xí nghiệp thủy nông liên huyện, còn lại là xí nghiệp thủy nông huyện. Thực tế cho thấy tình hình hoạt động ở các doanh nghiệp liên huyện phát triển tốt hơn, từ khâu phục vụ tưới tiêu đến công tác tu sửa công trình, đời sống cán bộ công nhân viên. Các DNTN huyện do có khả năng tài chính thấp, nguốn thu ít không có điều kiện để tu sửa công trình, từ đó phục vụ tưới tiêu còn hạn chế dẫn đến nguồn thu thấp và cứ luẩn quẩn như vậy, hàng năm ngân sách tỉnh phải cấp bù nhiều cho các doanh nghiệp này. Đánh giá chung toàn tỉnh thì hiệu qủa hoạt động còn thấp, nhiều công ty xí nghiệp bị thua lỗ, chi phí gián tiếp còn quá lớn, chưa tạo sức mạnh tổng hợp trong quản lý khai thác, chưa điều hoà được nguồn tài chính giữa các doanh nghiệp. Để tạo một mặt bằng chung, bình đẳng trong các DNTN với nhau, khắc phục các mặt hạn chế tồn tại trên, cần phải được nghiên cứu sắp xếp tổ chức lại các doanh nghiệp theo hướng nâng cao và mở rộng quy mô của các doanh nghiệp nhỏ, bằng cách sát nhập theo ranh giới hành chính phù hợp.
Căn cứ vào thông tư 06/1998/TT-BNN-TCCB về "hướng dẫn tổ chức và hoạt động của các công ty khai thác CTTL", căn cứ tình hình đặc điểm, phạm vi phục vụ của hệ thống công trình trên địa bàn toàn tỉnh, khả năng cán bộ quản lý hiện nay, Thanh hoá nên thành lập 3 công ty thủy nông liên huyện gồm:
+ Công ty thủy nông Sông Chu quản lý các huyện, thành phố: Ngọc Lạc, Thường Xuân, hữu Thọ Xuân, Triệu Sơn, hữu Thiệu Hoá, Đông Sơn, Quảng Xương, Nông Cống, Như Thanh, Tĩnh Gia và Thành phố Thanh hoá.
+ Công ty thủy nông Bắc Sông Mã quản lý các huyện: Hoàng Hoá, Hậu Lộc, Nga Sơn, Bỉm Sơn và Thạch Thành.
+ Công ty thủy nông Nam Sông Mã quản lý các huyện: Vĩnh Lộc, Yên Định, tả Thọ Xuân, tả Thiệu Hoá và Cẩm Thủy.
Mỗi công ty được tổ chức theo mô hình tổ chức bộ máy như sau:
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY CÔNG TY
GIÁM ĐỐC
CÁC XN HOẠT ĐỘNG CÔNG ÍCH
CÁC PHÒNG NGHIỆP VỤ
CÁC XN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY CÁC XÍ NGHIỆP THÀNH VIÊN
GIÁM ĐỐC
CÁC CỤM SẢN XUẤT
CÁC TỔ NGHIỆP VỤ
Hoạt động kinh tế trong công ty được phân công phân cấp:
* Tại công ty:
+ Chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất tài chính. Hướng dẫn kiểm tra đôn đốc các xí nghiệp thành viên thực hiện kế hoạch sản xuất tài chính.
+ Quản lý sử dụng các nguồn vốn khấu hao cơ bản, sửa chữa lớn và các nguồn đầu tư trợ cấp của Nhà nước hoặc các tổ chức cá nhân khác.
+ Quản lý các quỹ, điều hoà phân phối chênh lệch thu, chi giữa các đơn vị trong công ty.
* Tại các xí nghiệp thành viên:
+ Thực hiện kế hoạch sản xuất tài chính hàng năm được giao đã được phân công, phân cấp.
+ Ký hợp đồng kinh tế: tưới tiêu nước, thu thủy lợi phí và các nguồn thu khác trên địa bàn, thực hiện các hợp đồng kinh tế về sử dụng điện, mua bán vật tư, sửa chữa thường xuyên tài sản trên địa bàn theo kế hoạch.
+ Được mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng. Thực hiện chế độ hạch toán, kế toán phụ thuộc.
Cùng với việc đổi mới sắp xếp lại các doanh nghiệp thì yếu tố nguồn lực trong mỗi doanh nghiệp hết sức quan trọng có tính chất quyết định đến kết quả hoạt động. Trong đó đáng chú ý nhất là đội ngũ cán bộ quản lý, việc phân công bố trí cán bộ phải đảm bảo tiêu chuẩn phẩm chất đạo đức chính trị, trình độ năng lực chuyên môn để đảm nhận và hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Bố trí sắp xếp cán bộ phải dựa trên cơ sở đòi hỏi của sản xuất, "từ việc bố trí người, tránh tình trạng từ người bố trí việc".
Trong tổng số 1.461 cán bộ công nhân viện hiện nay có 105 là đại học thủy lợi tập trung ở công ty Thủy nông Sông Chu (60 người), các xí nghiệp còn lại 45 người là quá ít, cần phải được điều chuyển, bổ sung tăng cường cho các doanh nghiệp này thông qua việc sắp xếp lại các doanh nghiệp, kiên quyết tuyển chọn, bổ nhiệm đội ngũ cán bộ lãnh đạo xí nghiệp có đủ tiêu chuẩn. Sau khi sắp xếp lại các doanh nghiệp, biên chế phù hợp cần phải tiếp tục bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ, tay nghề công nhân bằng các hình thức cử cán bộ đi học các lớp tại chức, mở lớp bồi dưỡng nâng cao tay nghề, khắc phục tình trạng công nhân trái ngành, trái nghề. Làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, bồi dưỡng xây dựng được đội ngũ cán bộ, công nhân có đủ trình độ năng lực hoạt động trong điều kiện mới.
3.3.3. Đổi mới hoàn thiện cơ chế chính sách tài chính
3.3.3.1. Đổi mới chính sách thủy lợi phí:
Chính sách thủy lợi phí (giá nước) là vấn đề khá phức tạp vì có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến như: kinh tế kỹ thuật, chính trị, xã hội, là một chính sách lớn có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các DNTN. Hiện nay thu thủy lợi phí ở nước ta đang được thực hiện theo nghị định 112 CP của Chính phủ ban hành từ tháng 8 năm 1984 đã có nhiều nội dung không còn phù hợp, cần phải được thay đổi, mục tiêu là nâng mức thủy lợi phí lên cho phù hợp với chi phí của các DNTN và năng suất sản lượng lúa thu hoạch hiện nay.
Trước hết chúng ta phải khẳng định nước tưới lấy từ CTTL là hàng hoá, vì nó tồn tại dưới hình thái vật chất và thoả mãn đầy đủ hai thuộc tính của hàng hoá, đó là giá trị và giá trị sử dụng, do đó nhất thiết phải có giá (giá thành sản xuất và giá bán). Tuy nhiên đây là hàng hoá đặc biệt không giống như hàng hoá thông thường vì xác định giá thành và giá bán có những đặc điểm riêng. Ở đây ta xem xét nước đối với sản xuất nông nghiệp, đối tượng phục vụ chủ yếu của DNTN. Nước ở đây là lượng nước vừa đủ cho cây trồng phát triển, khi thiếu cần cung cấp được gọi là tưới, khi thừa cần phải thoát đi gọi là tiêu, lượng nước vừa đủ đó mới được gọi là "nước hàng hoá", vậy để có hàng hoá cần phải kết hợp với tưới và tiêu được tính trên diện tích cây trồng các loại.
- Những căn cứ để xây dựng chính sách thủy lợi phí:
+ Căn cứ vào chi phí hoạt động của các DNTN bao gồm các khoản mục được quy định trong thông tư liên tịch số 90/1997/TTLT/TC-NN ngày 19 tháng 12 năm 1997.
+ Căn cứ vào thực trạng của sản xuất nông nghiệp ở nước ta. So với nhiều nước trên thế giới nông nghiệp nước ta còn ở trình độ thấp nhưng lại có vai trò quan trọng đối với đời sống của toàn xã hội, do đó nâng cao hiêụ quả sản xuất nông nghiệp không chỉ là trách nhiệm của ngành nông nghiệp mà còn là trách nhiệm của nhiều ngành kinh tế và nói chung là của toàn xã hội. Biện pháp về thủy lợi là "đầu vào" quan trọng cho nông nghiệp thường được Nhà nước xác định mức thủy lợi phí thấp hơn chi phí giá thành của Nhà nước.
Theo số liệu của tổng cục thống kê điều tra ở m ột số tỉnh miền Bắc và miền Trung thì thủy lợi phí chiếm tỷ lệ chung là 5,3% tổng sản lượng thu hoạch của nông dân (vào năm 1992). Và thủy lợi phí phân tích theo các yếu tố chi phí trong sản xuất nông nghiệp được phản ánh ở bảng dưới đây
Bảng 13: Chi phí sản xuất cho 1 ha/năm [2]
Yếu tố
Tổng chi phí (tấn)
Tỷ lệ
(%)
Nước
Phân
Cày bừa
Giống
Chăm sóc, thu hoạch
0,38
2,70
0,64
0,40
0,81
7,7
54,8
13,0
8,2
16,4
Qua số liệu ở bảng trên cho thấy mức thủy lợi phí chiếm tỷ lệ 5,3% tổng sản lượng thu hoạch là một tỷ lệ thấp, so với tổng chi phí sản xuất nông nghiệp chi phí về nước chiếm 7,7% đây cũng là tỷ lệ thấp không tương xứng với tỷ lệ của các yếu tố khác trong khi nước là yếu tố quan trọng hàng đầu. Theo tính toán của ngành nông nghiệp nước ta nếu giá nước được tính đúng, tính đủ các chi phí thì phải thu tới 17-20% tổng sản lượng thu hoạch. Rõ ràng phải tăng mức thủy lợi phí nhưng trong lĩnh vực này không thể theo nguyên tắc ngang giá vì 17 - 25% tổng sản lượng thu hoạch là quá lớn, nếu thu sẽ ảnh hưởng đến đời sống của nông dân và không thúc đẩy sản xuất phát triển ( đây là đối tượng mà xã hội cần phải quan tâm). Theo các chuyên gia của tổ chức lương thực và nông nghiệp của liên hợp quốc thì: " Tăng thuế (giá) nước là vấn đề khá tinh tế, phải phân tích kỹ trước khi quyết định. Có trường hợp phương pháp này đã thất bại, sau khi tăng người nông dân không nộp thuế nước nữa"[5, 109].
Cần có sự lựa chọn giảm giá đầu vào hay tăng giá đầu ra với hàng hoá nông sản, xét về hiệu quả thì giảm giá đầu vào nói chung vẫn là biện pháp dễ được chấp nhận hơn. Nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đã nhất trí rằng: "Lợi ích của người sản xuất được đảm bảo bằng cách cung cấp kết cấu hạ tầng nông nghiệp để tạo điều kiện tăng năng suất lúa" [5, 199].
+ Căn cứ vào quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân, Đảng và Nhà nước ta bao giờ cũng cho rằng nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò hết sức quan trọng, đến nay tuy đã có bước phát triển lớn song nông nghiệp nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn nhiều yếu kém, năng suất cây trồng, vật nuôi còn thấp, sản xuất nông nghiệp chưa đáp ứng nhu cầu đời sống nhân dân, nhiều nơi đời sống nông dân còn rất khó khăn. Do đó cần phải có chính sách để tạo điều kiện cho nông nghiệp, nông thôn phát triển, chính sách thủy lợi phí cần phải được xem xét ở mức độ nhất định để góp phần vào việc phát triển nông nghiệp nói trên.
+ Kinh nghiệm của một số nước về thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản các CTTL và thu thủy lợi phí.
Đối với hệ thống công trình chính từ đầu mối đến kênh cấp II phần lớn vốn được trích từ ngân sách trung ương và ngân sách tỉnh. Một số nước như Nam Triều Tiên, Inđônêxia, Nhà nước đầu tư 100% cho khâu quy hoạch thiết kế, 70-80% cho xây dựng cơ bản, còn lại 20-30% là vốn vay và phải trả trong quá trình khai thác do các đối tượng hưởng lợi thực hiện. Các nước Đông Âu cũ Nhà nước đầu tư 100%, Philippin Nhà nước đầu tư 70%, nông dân 30%. Nhật Bản là nước công nghiệp phát triển, nông dân đóng góp 30% vốn đầu tư đốivới các dự án tưới có diện tích 3.000 ha, các dự án có diện tích nhỏ hơn 2.000 ha thì Nhà nước hỗ trợ 45%. Một số nước trong khu vực cũng tiến hành thu thủy lợi phí nhằm trang trải một phần chi phí nhưng còn ở mức độ thấp như: Ấn Độ 12 USD/ha/năm, Băng la đet, Pakistan 5USD/ha/năm, Thái Lan không thu thủy lợi phí mà Chính phủ cấp toàn bộ kinh phí lấy từ thuế đất. Có 4 nước xung quanh nước ta có chủ trương trang trải lại chi phí này bằng việc thu thủy lợi phí ở mức 100 kg thóc/ha/vụ trở lên như: Nam Triều Tiên 175 kg, Philippin 146 kg, Trung Quốc thu từ 4 đến 8% sản lượng trên diện tích tưới. Với mức thu trên Nam Triều Tiên đủ trang trải theo yêu cầu, Philippin, Trung Quốc đảm bảo khoảng 50%, các nước khác chỉ đủ trang trải cho chi phí quản lý, khai thác và 15 đến 20% nhu cầu bảo dưỡng công trình.
Giá nước và vấn đề tổ chức quản lý có mối quan hệ khăng khít với nhau: cơ cấu tổ chức, quy trình công nghệ sản xuất là căn cứ để xác định các khoản mục chi phí, xác định giá thành sản xuất và giá bán cho người sử dụng. Trong điều kiện hiện nay muốn xác định giá trị sản phẩm theo đơn vị m3 thì cầnphải đổimới mô hình tổ chức quản lý theo hướng chuyển giao quản lý cho người sử dụng. Các DNTN nên chuyển giao cho các hội dùng nước quản lý từ kênh cấp II trở xuống là hiệu quả nhất, các công ty thực hiện phương thức bán nước đầu kênh cấp II thì việc đo đếm xác định khối lượng tiêu thụ theo m3 có thể thực hiện được và giá bán nước chỉ nên quy định đến điểm đo nhận nước đầu kênh cấp II, các hội dùng nước tự xây dựng giá bán nước đến người sử dụng. Do đó cần phải phân cấp quản lý, đổi mới mô hình tổ chức, tạo tiền đề cho việc hình thành giá nước mới. Thực hiện cơ chế giá trên cơ sở mô hình tổ chức quản lý khoa học sẽ là giải pháp hữu hiệu để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, thực hiện đầy đủ quyền tự chủ trong hoạt động và bình đẳng trước pháp luật, gắn chặt quyền lợi với trách nhiệm thông qua kết quả hoạt động sản xuất. Về phía Nhà nước rất thuận lợi trong việc quản lý và điều tiết vĩ mô, bảo đảm công bằng giữa các vùng dân cư trong cả nước, những đối tượng thuộc diện xoá đói giảm nghèo, những nơi khó khăn như miền núi vùng sâu vùng xa Nhà nước có thể thực hiện chính sách giảm hoặc miễn giá bán, khi thực hiện các cơ quan có thẩm quyền cũng dễ dàng trong việc tính toán cấp bù cho các DNTN bảo đảm tính chính xác và tránh được thất thoát lãng phí ngân sách Nhà nước.
3.3.3.2. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế tài chính
- Về chi phí nợ khó đòi: để xác định đúng kết quả hoạt động tài chính của các DNTN điều cần thiết trước hết phải khẳng định được các yếu tố đầu vào và xác định đầu ra của doanh nghiệp. Các yếu tố đầu ra đã được thể hiện ở phần chính sách thủy lợi phí. Ngoài yếu tố đầu vào hiện nay đang áp dụng còn một khoản mà chưa được đề cập đến đó là nợ khó đoì. Nợ khó đòi của các DNTN chủ yếu là thủy lợi phí, hàng năm nợ tồn đọng là 10-15% số ghi thu, thực tế khẳng định là không thu được. Trong cân đối xác định kết quả tài chính hàng năm, so sánh doanh thu với chi phí thì đều có thu lớn hơn chi nhưng thực chất thu nhỏ hơn chi, vì số chênh lệch này là số không thu được mà các doanh nghiệp đã chủ động cắt giảm chi phí. Nếu được lập quỹ dự phòng khó đòi vào chi phí như các doanh nghiệp khác thì trong cân đối sẽ không có số chênh lệch này, vì vậy cần sửa đổi chính sách cho phép các DNTN được trích lập dự phòng nợ khó đòi vào kinh phí như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
- Về phân phối thu nhập: Sau khi các DNTN được trích lạp dự phòng vào phí, các khoản chi phí khác thực hiện theo chính sách hiện hành, giá thu thủy lợi phí được đổi mới. Khi cân đối xác định kết quả nếu thu nhỏ hơn chi thì được Nhà nước cấp bù, nếu thu lớn hơn chi thì thu về ngân sách Nhà nước, đây là nguyên tắc chung. Cần phải cụ thể hơn để đảm bảo công bằng lợi ích giữa các doanh nghiệp phải có sự phân biệt khuyến khích các doanh nghiệp có lãi, hạn chế các doanh nghiệp bị lỗ. Qua thực tế hoạt động của các doanh nghiệp chúng tôi đề xuất nên xác định kết quả phân phối như sau: lấy doanh thu trừ chi phí (doanh thu và chi phí đã được đổi mới ở phần trên).
+ Nếu số lãi bằng 2 tháng lương thực tế thì được trích lập 2 quỹ khen thưởng phúc lợi bằng 2 tháng lương.
+ Nếu số lãi lớn hơn 2 tháng lương thực tế thì được trích 2 quỹ khen thưởng phúc lợi bằng 2 tháng lương cộng 10% số lớn hơn. Số còn lại (90%) nộp ngân sách Nhà nước.
+ Nếu lỗ thì được Nhà nước cấp bù 2 quỹ khen thưởng, phúc lợi ở mức 70-90% 2 tháng lương thực tế.
+ Số lãi sau khi doanh nghiệp trích lập 2 quỹ thì được trích vào quỹ dự phòng tài chính, không nên thực hiện phân phối như thông tư liên tịch số 90 hiện nay.
3.3.5. Đa dạng hoá, xã hội hoá công tác thủy nông, chuyển dần sang hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hiện nay có không ít hệ thống CTTL phục vụ đạt hiệu quả chưa cao, chưa tương xứng với đầu tư. Theo nhiều tài liệu đánh giá thì bình quân cả nước mới đảm bảo tưới chủ động đạt 50-60% so với năng lực thiết kế (có nơi chỉ đạt 27%) thậm chí có những công trình đã bị huỷ diệt, nhất là công trình thủylợi nhỏ. Do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân do tổ chức quản lý chưa được đồng bộ khép kín ở 2 cấp Nhà nước và người dùng nước, tổ chức thủy nông cấp cơ sở chưa thích ứng. Nhiều hệ thống công trình do thiếu vốn để duy tu bảo dưỡng, đặc biệt là không ít hệ thống thủy lợi nhỏ chưa có chủ quản lý, một số kênh mương cấp xã thuộc hệ thống thủy lợi nhỏ đang bị bỏ ngỏ hoặc có chủ nhưng không phải là chủ thực sự.
Trong cơ chế thị trường hiện nay các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn hạn chế, với mô hình tổ chức hiện tại chưa thể giảm được chi phí, chưa khuyến khích người lao động, còn tư tưởng bao cấp ỷ lại, trông chờ vào cấp bù của ngân sách. Về phía hộ dùng nước chưa thấy rõ trách nhiệm của mình trong công tác bảo vệ CTTL, nhiều nơi đã xâm phạm nghiêm trọng như lấn chiếm bờ kênh, hành lang bảo vệ công trình thậm chí một số công trình còn bị phá hoại, sử dụng nước còn lãng phí.
Để khắc phục tình trạng trên, trong những năm gần đây Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã có nhiều văn bản hướng dẫn chỉ đạo các công ty hình thành tổ chức thủy nông cơ sở. Nhà nước đã ban hành luật tài nguyên nước, luật hợp tác xã, pháp lệnh bảo vệ CTTL và các quy định có liên quan đến quản lý nước và khai thác các CTTL, đặc biệt ngày 10 tháng 1 năm 1998 Bộ chính trị đã có nghị quyết số 06 nhấn mạnh " ... trước hết ưu tiên đầu tư nâng cấp, tăng cường công tác quản lý để nâng cao hiệu quả khai thác công trình hiện có, có chính sách khuyến khích nhân dân tham gia đầu tư và quản lý khai thác CTTL".
Chúng ta phải thống nhất và khẳng định lại là: CTTL thống nhất quản lý theo hệ thống, đã có công trình thì phải có một tổ chức quản lý nhưng phải là chủ đích thực. Hiện nay hệ thống quản lý CTTL ở địa phương đã hình thành 2 cấp: Công ty thủy nông (Nhà nước) quản lý các hệ thống công trình vừa và lớn có kỹ thuật phức tạp, tập thể hợp tác xã quản lý các CTTL nhỏ, mạng lưới kênh mặt ruộng. Theo kinh nghiệm cả từ trong và ngoài nước đã rút ra bài học là phải củng cố và phát triển tổ chức thủy nông cơ sở, thực hiện theo hướng chuyển giao cho nông dân quản lý, khai thác các công trình trên địa bàn của họ với quy mô thích hợp, gắn quyền lợi và trách nhiệm của người dân trong quản lý vận hành, duy tu theo phương châm: của dân, do dân quản lý, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đây cũng là điều kiện ứng dụng khoa học công nghệ mới, tạo tiền đề thực hiện xã hội hoá về thủy lợi, công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn.
Tổ chức thủy nông cơ sở theo hình thức và quy mô đa dạng, tuỳ theo điều kiện cụ thể về công trình, dân trí, tình hình kinh tế - xã hội trong từng vùng mà lựa chọn tổ chức thủy nông cơ sở thích hợp: hợp tác xã, hội, tổ, đội... quy mô thôn, xã hoặc liên xã. Việc lựa chọn hình thức và quy mô phải xuất phát từ hiệu quả, vì lợi ích chung tránh tình trạng áp đặt hoặc né tránh.
Để phát huy tổ chức thủy nông cơ sở, đa dạng hoá hoạt động thủy nông trước hết cần phải đề cập đến một số các vấn đề vai trò của cán bộ các ngành, các cấp, của người dân và của chính quyền địa phưong. Xây dựng chính sách tạo hành lang pháp lý cho tổ chức này hoạt động
Vai trò của cán bộ, trước hết là cán bộ các cấp, các ngành phải thông suốt tư tưởng đổi mới, phát huy vai trò lãnh đạo để hướng dẫn người dân hiểu rõ lợi ích và trách nhiệm của mình. CTTL phục vụ cho dân thì người dân nên tham gia đầu tư, xây dựng và vận hành duy tu. Quyền lợi của họ phải gắn liền với trách nhiệm, Nhà nước không làm thay (bao cấp) vì lâu nay càng bao cấp thì càng hư hỏng và thực tế không thể bao cấp nổi. Chính quyền các cấp có vai trò hết sức quan trọng, nơi nào Chính quyền quan tâm thực hiện chức năng quản lý Nhà nước thì nơi đó công tác thủy lợi đạt hiệu quả cao.
+ Cơ chế chính sách cho các tổ chức thủy nông cơ sở hoạt động: hiện nay ở Nghệ An, Thanh hoá, Tuyên Quang đã hình thành các tổ chức thủy nông cơ sở là hợp tác xã dùng nước, các hợp tác xã nhận quản lý một tuyến kênh chịu trách nhiệm vận hành, duy tu bảo dưỡng, dẫn nước tưới cho một xã hoặc 2 xã (tuỳ thuộc năng lực của tuyến kênh đó), thu thủy lợi phí từ các hộ nông dân để nộp cho các công ty thủy nông. UBND các tỉnh đã có văn bản quy định mức thủy lợi phí để lại sử dụng tại các hợp tác xã là 12% số thủy lợi phí thực thu.
Với mô hình tổ chức này bước đầu đã mang lại hiệu quả rõ rệt: tiết kiệm được nước, không còn tình trạng nước chảy tràn lan như trước đây, kênh mương được nạo vét thông dòng kịp thời, giảm được chi phí sửa chữa lớn, thu nộp thủy lợi phí đạt kết quả cao hơn.
Đa dạng hoá, xã hội hoá hoạt động thủy nông còn có thể thực hiện trong khâu bảo vệ công trình. Đối với những công trình tiêu, công trình tưới phục vụ chống hạn có thời gian hoạt động không thường xuyên, thời gian hoạt động ít, nếu cứ bố trí công nhân trông coi bảo vệ thì chi phí sẽ rất lớn, nên chuyển giao các công trình này cho địa phương quản lý. Đối với những vùng, địa phương công trình tưới đơn giản, thuận lợi, mức đầu tư thấp, phạm vị phục vụ có tính độc lập, nên chuyển giao cho hợp tác xã hoặc tư nhân. Đối với hệ thống công trình lớn sau khi hoàn chỉnh về mặt kỹ thuật, trang thiết bị đầy đủ, có thể đo đếm được khối lượng nước thì nên hình thành các doanh nghiệp đầu mối hoạt động công ích còn các tổ chức thủy nông tiếp theo chuyển sang hoạt động kinh doanh.
3.2.6. Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước trên lĩnh vực thủy nông.
Hệ thống thủy nông được xây dựng là hệ thống đa mục tiêu, trong đó mục tiêu ưu tiên hàng đầu là cung cấp, điều hoà, phân phối nước cho nhu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp. Hệ thống bao gồm nhiều loại hình công trình phức tạp tổ hợp lại với nhau, phân trải rộng theo một không gian lớn, chịu tác động rất nhiều của điều kiện tự nhiên, xã hội. Tổ chức điều hành hoạt động của hệ thống thủy nông vừa phải tôn trọng các quy luật tự nhiên vừa phải tôn trọng các quy luật xã hội. Hoạt động thủy nông mang tính đặc thù, đòi hỏi phải có sự liên kết cộng đồng rất cao. Điều 29 Pháp lệnh khai thác và bảo vệ CTTL khẳng định: "Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về khai thác và bảo vệ CTTL trong phạm vi cả nước". Trên cơ sở đó phân công các ngành, các cấp, các cơ quan Nhà nước tuỳ theo chức năng quyền hạn của mình để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về quản lý thủy nông. Nội dung quản lý Nhà nước là đặc biệt quan tâm đến việc ban hành các chính sách văn bản pháp quy về quản lý thủy nông và cũng như tổ chức thực hiện văn bản đó. Quản lý thủy nông muốn hoạt động tốt không thể độc lập thiếu vai trò của Nhà nước.
Nâng cao vai trò của Nhà nước trước hết cần tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động quản lý Nhà nước trên lĩnh vực thủy nông:
+ Xây dựng và hoàn thiện luật, văn bản dưới luật có liên quan đến công tác thủy nông, các văn bản này phản ánh được chiến lược, chính sách, chương trình, kế hoạch, pháp chế, quy chế điều chỉnh khi có tranh chấp.
+ Coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân, đặc biệt là nông dân.
Quản lý và khai thác tài nguyên nước trong thời gian vừa qua còn có nhiều hạn chế, đồng thời với việc tuyên truyền giáo dục nhân dân hiểu rõ, có ý thức sử dụng nước, bảo vệ tài nguyên nước, bảo vệ công trình để phát huy bền vững nguồn tài nguyên, tài sản quý giá này, phải làm tốt công tác giáo dục cho nhân dân hiểu rõ và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật. Một mặt phải giúp nông dân nâng cao kiến thức chuyên môn về kỹ thuật sử dụng nước, quản lý và vận hành công trình, một mặt giúp họ hiểu rõ pháp luật, từ đó tạo ra ý thức tự giác trong việc tuân thủ pháp luật trên lĩnh vực bảo vệ, khai thác công trình thủy nông. Tăng cường vai trò tham gia quản lý thủy nông của nông dân theo xu hướng xã hội hoá công tác thủy nông là điều kiện bảo đảm quyền làm chủ của dân và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực thủy lợi.
+ Kiểm tra giám sát và xử lý kịp thời các vi phạm về pháp luật có liên quan đến bảo vệ khai thác CTTL. Song song với việc bổ sung hoàn thiện pháp luật có liên quan đến thủy nông, công tác kiểm tra giám sát thực hiện là điều kiện vô cùng quan trọng, bảo đảm cho hệ thống pháp luật đi vào cuộc sống. Kiểm tra việc chấp hành pháp luật của cơ quan Nhà nước, của tổ chức thủy nông, của nông dân trong lĩnh vực này. Hiện nay tình trạng vi phạm CTTL, chiếm dụng thủy lợi phí, không thực hiện đầy đủ điều khoản thanh toán theo hợp đồng kinh tế ở các hợp tác xã chưa được xử lý nghiêm minh, tình hình này đang là gánh nặng cho các doanh nghiệp cần phải được kiểm tra giám sát, xử lý kịp thời, nghiêm minh để tạo điều kiện cho quản lý thủy nông hoạt động được tốt hơn.
Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước còn thể hiện trong việc huy động đóng góp sức dân làm CTTL. Phương châm làm thủy lợi: " Nhà nước và nhân dân cùng làm", " Trung ương và địa phương cùng làm", là hoàn toàn đúng đắn, nhưng hiện nay do ảnh hưởng của cơ chế thị trường, việc huy động sức dân gặp rất nhiều khó khăn, nếu Nhà nước, chính quyền địa phương huyện, xã không tác động vào thì các doanh nghiệp không thể huy động được. Vì vậy chính quyền các cấp từ tỉnh đến xã cần phải thể chế hoá nhiệm vụ về công tác thủy lợi trong từng thời gian cụ thể của địa phương, hàng năm duy trì tổ chức các chiến dịch nạo vét kênh tiêu, đắp đê..., triển khai kiểm tra tình hình thực hiện Pháp lệnh khai thác và bảo vệ CTTL, lồng ghép chính sách thủy lợi phí với thuế nông nghiệp để nhân dân các địa phương chấp hành giao nộp thủy lợi phí.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Đất nước ta đang tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội lần thứ VIII của Đảng đề ra, thu được nhiều thắng lợi quan trọng, tạo thế và lực mới để bước vào thế kỷ 21 cùng với toàn nhân loại. Trong quá trình đó Đảng ta rất coi trọng lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm. Thủy lợi là một ngành kinh tế - kỹ thuật thuộc kết cấu hạ tầng, công tác quản lý thủy nông phục vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp và có tác dụng to lớn đối với nền kinh tế quốc dân và các mặt khác của đời sống xã hội. Để phát huy tối đa khả năng của hệ thống CTTL, phục vụ kinh tế phát triển bền vững cần phải được tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý thủy nông.
Trong điều kiện chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN hoạt động thủy nông còn gặp nhiều khó khăn: hệ thống công trình xuống cấp, khả năng tài chính có hạn, thủy lợi phí ở mức lạc hậu và bị chiếm dụng lớn, hệ thống chính sách quản lý tài chính tuy đã có nhưng còn một số chưa phù hợp, do ảnh hưởng của cơ chế thị trường ý thức bảo vệ công trình và chấp hành pháp luật của người dân bị giảm sút. Đòi hỏi cần phải có sự chuyển biến về nhận thức, nghiên cứu tìm các giải pháp thích hợp mới đứng vững và phát triển.
Là một doanh nghiệp hoạt động công ích, các yếu tố đầu vào chịu chi phối của thị trường, đầu ra do Nhà nước quy định và ổn định quá lâu. Xét cả về vi mô và vĩ mô chưa phù hợp thích ứng trong điều kiện hiện nay.
Qua phân tích thực trạng tình hình hoạt động, các tồn tại vướng mắc hiện nay của các DNTN trên địa bàn Thanh hoá được nêu trong luận án, luận án đã đưa ra một số hệ thống quan điểm và giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới quản lý cac DNTN trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
Để biến các phương hướng và giải pháp thành hiện thực, chúng tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau:
1) Nhà nước sớm phân cấp quản lý CTTL để nâng cao trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế và mọi cá nhân trong việc quản lý khai thác CTTL.
2) Nhà nước sớm ban hành Nghị định mới về thủy lợi phí thay cho Nghị định 112/CP (năm 1984) đang áp dụng hiện nay. Bảo đảm nguồn thu, đủ trang trải các chi phí của các DNTN, tiết kiệm cấp phát ngân sách Nhà nước.
3) Nhà nước cần xem xét cấp bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp vì các yếu tố đầu vào của các doanh nghiệp này đã tăng nhiều lần trong khi đó nguồn vốn lưu động không được bổ sung.
4) Điều chỉnh, bổ sung thông tư liên tịch số 90/1997/TTLT/TC-NN ngày 19 tháng 12 năm 1997 phần phân phối lợi tức và xem xét một số chính sách tài chính khác. Khi cân đối xác định kết quả sản xuất của các DNNN nên cho được trích lập dự phòng nợ khó đòi vào phí.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo quyết toán tài chính của các doanh nghiệp thuỷ nông Thanh Hoá. Năm 1997 - 1998 - 1999.
Báo cáo tổng kết công tác thuỷ lợi của Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh Hoá. Năm 1997 - 1998 - 1999.
Ngô Chí Hoạt, Phương hướng phát triển thuỷ lợi và quản lý tài nguyên nước đến năm 2010 để bảo đảm an toàn lương thực của Việt Nam vào thế kỷ 21- Tạp chí thuỷ lợi số 332 (tháng 1+2/2000).
Hai mươi lăm năm sự nghiệp thuỷ lợi Việt Nam. Nxb Nông nghiệp Hà Nội - 1984.
Hai thập kỷ phát triển của Châu Á và triển vọng của những năm 1980. Tập 1 - Nxb Khoa học xã hội - 1981.
Nguyễn Quốc Luật, Đổi mới tổ chức và nội dung hoạt động của các xí nghiệp thuỷ nông trong bước chuyển sang cơ chế thị trường - Luận văn Thạc sỹ kinh tế - Hà Nội năm 1993.
ThS. Đoàn Thế Lợi, Chính sách giá nước và vấn đề đổi mới mô hình tổ chức quản lý ở các hệ thống thuỷ nông - Tạp chí thuỷ lợi số 332 (tháng 1+2/2000).
Lênin, Toàn tập - Tập 39 - Nxb Tiến bộ Matxcơva năm 1979.
Lênin, Tuyển tập - Tập 2 - Nxb Sự thật.
Hồ Chí Minh, Toàn tập - Nxb Sự thật Hà Nội - 1984.
Hồ Chí Minh, Tuyển tập - Nxb Sự thật Hà Nội - 1960.
Nghị quyết Trung ương 5 (khoá III). Nxb Chính trị Quốc gia năm 1960.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khoá VII).
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII).
Niên giám thống kê. 1990-1994 - Thanh Hoá.
Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi. Nxb Nông nghiệp Hà Nội - 1996.
Sơ thảo lịch sử Việt Nam, tập 1. Hà Nội - 1981.
Tập san thuỷ lợi. Số 278 (tháng 1+2/1991), (tài liệu của PAO VP - Châu Á - TBD) xuất bản năm 1989.
Tổng cục thống kê - Nxb Thống kê 1991,
Tổ chức khai thác bảo dưỡng hệ thống tưới. Nxb Nông nghiệp - 1992.
Tài liệu quy hoạch lưu trữ . Bộ Thuỷ lợi.
Đào Thế Tuấn, Chiến lược phát triển nông nghiệp - Nxb năm 1986.
T.S Nguyễn Đình Thịnh, Đẩy mạnh việc củng cố và phát triển thuỷ nông cấp cơ sở, có sự tham gia của nông dân - Tạp chí thuỷ lợi số 333 (tháng 3+4/2000).
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III. Nxb Chính trị Quốc gia năm 1960.
Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII. Nxb Chính trị Quốc gia năm 1991.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia năm 1996.
Văn kiện Đại hội Tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá lần thứ XIV.
._.