Tiếp tục đổi mới & phát triển kinh tế trang trại ở Tuyên Quang

Lời nói đầu Trong điều kiện nước ta hiện nay. Đường lối phát triển kinh tế của Đảng là " phát triển mọt nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN". Cùng với xu hướng phát triển của nền sản xuất hàng hoá trong các ngành của nền kinh tế quốc dân, kinh tế trang trại đã góp phần tạo một bước tiến quan trọng trong sự phát triển của sản xuất nông nghiệp và kinh tế xã hội ở nông thôn. Phát triển kinh tế trang trại đã góp phần tích cực trong q

doc26 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1993 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tiếp tục đổi mới & phát triển kinh tế trang trại ở Tuyên Quang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, góp phần tạo việc làm, .xoá đói giảm nghèo kinh tế xã hội ở nhiều địa phương. Thành công của kinh tế trang trại không chỉ về mặt kinh tế xã hội môi trường. Điều quan trọng là nó đã khẳng định một hướng đi đúng đắn, một triển vọng sáng sủa cho sự phát triển của nền sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và làm thay đổi chuyển biến nhận thức, quan điểm của nhiều cấp nhiều ngành, nhiều người trong việc hoạch định chủ trương chính sách theo chiều hướng tiến bộ, tích cực, phù hợp với xu thế phát triển tất yếu khách quan của đời sống kinh tế xã hội, của thời đại và lịch sử. Ngày 02 tháng 02 năm 2000 chính phủ có nghị quyết 03 về kinh tế trang trại (NQ03/NQ_CP), tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng và chính phủ về tính tất yếu, khách quan của kinh tế trang trại của nước ta trong thời kỳ CNH - HĐH đất nước. Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc của tổ quốc, có tiềm năng phát triển nông lâm nghiệp. Trong những năm gần đây, Tuyên Quang được sự quan tâm của Trung Ương, các Bộ ngành tạo điều kiện đầu tư cùng với sự nỗ lực phấn đấu của đồng bào các dân tộc, Tuyên Quang đã phát triển khá nhanh vê kinh tế xã hội, đời sống nhân dân được cải thiện. Song Tuyên Quang vẫn là một tỉnh nghèo, sản xuất hàng hoá chậm phát triển, cơ sở hạ tầng còn yếu, tuy nhiên trình độ dân trí còn thấp tiếp khoa học kỹ thuật còn kém. Cùng với các mô hình kinh tế khác, mô hình kinh tế trang trại ở tỉnh Tuyên Quang đã và đang được phát triển và có hiệu quả. Tuy nhiên, kinh tế trang trại ở Tuyên Quang vẫn còn một số vấn đề cần làm rõ như: Thế nào là một trang trại? Vai trò của kinh tế trang trại? Phương hướng và những biện pháp chủ yếu để phát triển kinh tế trang trại trong thời gian tới…Với điều kiện về tự nhiên, kinh tế, xã hội như ở Tuyên Quang thì việc phát triển mô hình kinh tế trang trại ở đây là một định hướng đúng đắn hợp với quy luật của nền sản xuất hàng hoá trong cơ chế thị trường, theo định hướng XHCN. Chính vì thế mà em chọn đề tài: "Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế trang trại ở Tuyên Quang". Nội dung chính của đề tài gồm 3 phần: I. Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển kinh tế trang trại. II. Thực trạng về kinh tế trang trại ở Tuyên Quang. III. phương hướng và một số giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế trang trại ở Tuyên Quang. Em xin chân thành cảm ơn Th.s Vũ Thị Minh, người Cô đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình viết đề tài này. Trong quá trình viết, mặc dù em đã hết sức cố gắng nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong có được những góp ý của các thầy cô. nội dung chính I- những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển kinh tế trang trại. 1) Khái niệm , vai trò và những đặc trưng của kinh tế trang trại 1.1.Khái niệm kinh tế trang trại. Ngày nay ,trong điều kiện kinh tế thị trường ,quy mô gia đình ngày càng trở thành phổ biến và chiếm tuyệt đại bộ phận số lượng các đơn vị sản xuất nông nghiệp mang tính tập trung .ngôn ngữ cácnước điều có những thuật ngữ để chỉ hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp tập trung đó , đó là ''nông trại '' hay ''trang trại ''.Có thể hiểu đó là những khu đất tập trung tương đối lớn, ở đó sản xuất nông nghiệp được tiến hành có tổ chức dưới sự chỉ huy của người chủ mà phần lớn là chủ gia đình .Lao động bao gồm: lao động gia đình và lao động thuê ngoài (lao động thuê thường xuyên và lao động thuê thời vụ). Sản xuất nông nghiệp đi vào sản xuất hàng hoá và từng bước gắn liền với kinh tế thị trường. trong những năm gần đây, ở nước ta, các cơ quan các nhà khoa học và các nhà quản lý khi nghiên cứu kinh tế trang trại hầu như đều đua ra khái niệm về kinh tế trang trại và coi đó là điểm xuất phát để nghiên cứu. Về thực chất ''trang trại '' và ''kinh tế trang trại '' là hai khái niệm không đồng nhất. ''kinh tế trang trại ''là tổng thể các yếu tố vật chất của sản xuất và các quan hệ kinh tế này trong quá trình tồn tại và hoạt động của trang trại. Còn ''trang trại '' là nơi kết hợp những yếu tố sản xuất và chủ thể các quan hệ kinh tế đó . Như vậy, có thể thấy khái niệm ''trang trại '' rộng hơn khái niệm ''kinh tế trang trại ''.Tuy nhiên ,trong các mặt kinh tế - xã hội - môi trường thìmặt kinh tế là cơ bản chúa đựng những nội dung cốt lõi của trang trại, nển trong nhiều trường hợp người ta thường gọi tắt kinh tế trang trại là trang trại. Chúng ta có thể hiểu khái niệm kinh tế trang trại như sau:'' trang trại là hình thức cơ sở trong nông - lâm - ngư nghiệp có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá. Tư liệu sản xuất thuộc quyền sản xuất và sử dụng của người chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất đựoc tập trung tưong đối lớn với cách thức tổ chức vầ quản lý tiến bộ, trình độ kỹ thuật cao hoạt động tự chủ và gắn với thị trường ''. Có thể trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông- lâm -ngư nghiệp. Nó là đơn vị trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật chất cần thiết cho xã hội gồm: nông lâm nghiệp thuỷ sản đồng thời quá trình sản xuất của trang trại là khép kín với các khâu của quá trình tái sản xuất luôn kế tiếp nhau bao gồm: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Mục đích của trang trại là sản xuất hàng hoá. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các yếu tố sản xuất như :vốn, đất đai, lao động…được tập trung với quy mô nhất định theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá . Tư liệu sản xuất của trang trại thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của người chủ độc lập. Chính vì thế trang trại tự chủ hoàn toàn trong cáchuyển dịch hoạt động sản xuất kinh doanh, tự lựu chọn phương hướng sản xuất quyết định kỹ thuật và công nghệ sản xuất đến tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm . 1.2.Vai trò của kinh tế trang trại . Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá chủ yếu trong nông nghiệp .Chính vì thế trang trại có vị trí hết sức to lớn trong việc sản xuất lương thực, thực phương hướngẩm cung cấp cho xã hội, trong việc phương hướngát triển nông nghiệp , nông thôn mới ,thực hiện sự phân lao động xã hội . Điều kiện thể hiện ở những mặt sau: + Trang trại lấy việc khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh,lấy phục vụ nhu cầu làm phương thức vì vậy nó cho phép huy động sử dụng đất đai, sức lao động và các nguồn lực khác một cách hợp lý,có hiệu quả, nó góp phần làm cho nông nghiệp không ngừng tăng trưởng. + Trang trại góp phương hướngần chuyển dịch kinh tế, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hoá cao,khắc phục tình trạng manh mún, tạo điều kiện để tập trung hoá và chuyên môn hoá vì vậy nó đẩy nhanh nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá. trang trại còn thúc đẩy công nghiệp,nhất là công nghiệp chế biến và dịch vụ sản xuất ở nông thôn. + Thông qua hoạt động của trang trại với cách thức tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh tiên tiến trang trại làm tăng hộ giàu cho nông thôn, góp phần thúc đấy phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn, làm cho nông dân hiểu biết thêm về các tổ chức sản xuất và có hiệu quả vì thế nó có vai trò làm thay đổi bộ mặt của nông thôn theo hướng tích cực . 1.3.Những đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại. Từ những khái niệm ở trên có thể thấy kinh tế trang trại có những đặc điểm cơ bản sau đây: * Trang trại là đơn vị sản xuất hoạt động trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp là chủ yếu. * Kinh doanh nông sản hàng hoá cho thị trường tỷ xuất hàng hoá thường đạt 70-80%trở lên. Tỷ suất hàng hoá càng cao càng thể hiện bản chất và trình độ phát triển của kinh tế trang trại. * Chủ trang trại là chủ kinh tế cá thể (bao gồm kinh tế hộ gia đình và kinh tế tiểu chủ) nắm một quyền sở hữu và toàn bộ quyền sử dụng đối với ruộng đất,vốn,tư liệu sản xuất… vì thế trang trại hoàn toàn tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Chủ trang trại là người có ý trí, có năng lực tổ chức quản lý, kinh nghiệm và kiến thức nhất định về sản xuất kinh doanh nông nghiệp đồng thời có kiến thức nhất định về thị trường. * Tổ chức sản xuất của trang trại tiến bộ hơn nông dân và nhu cầu tiến bộ khoa học kỹ thuật và tiếp cận thị trường cao hơn. * Lao động trong trang trại chủ yếu là người trong gia đình ngoài ra có lao động thuê ngoài bao gồm:lao động thuê thường xuyên và lao động thuê thời vụ. * Về đất đai của trang trại ngoài đất được Nhà nước giao quyền sử dụng theo luật đất đai còn có thể khai hoang hoặc thuê của Nhà nước hoặc sang nhượng để đất đai có quy mô lớn hơn, liền vùng, liền khoảnh hơn so với sản xuất kinh tế hộ. 2) Những tiêu chí để nhận dạng trang trại và xu hướng để vận động trang trại. 2.1.Những tiêu chí để xác định trang trại. Có nhiều tiêu chí để xác định trang trại,theo thông tư số 69( tháng 6/2000) của liên bộ nông nghiệp &phát triển nông thôn và tổng cục thống kê đưa ra các chỉ tiêu sau: -Một là, giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân một năm của trang trại (đối với miền Bắc có quy mô 40 triệu đồng và miền Nam 50 triệu đồng trở lên). -Hai là, quy mô sản xuất phải tương đối vượt trội so kinh tế hộ tại địa phương,tương ứng với từng ngành sản xuất cụ thể như sau: * Đối với các trang trại trồng cây các loại hàng năm là chủ yếu thhì ở miền Bắc và ở miền Trung phải có diện tích từ một ha trở lên, còn ở các tỉnh là 3ha trở lên. * Đối với các trang trại chăn nuôi như trâu,bò phương hướngải có từ 50 con trở lên, lớn hơn 100 con trở lên (không kể lợn sữa hai tháng tuổi), gia cầm từ 2000 con trở lên(không tính số con dưới 7 ngày). * Đối với trang trại nuôi thuỷ sản phải có từ 2ha diện tích mặt nước trở lên. - Ba là, có sử dụng lao động thuê thường xuyên từ 2 lao động/ năm, nếu lao động thuê thời vụ thì quy đổi thành lao động thuê thường xuyên. - Bốn là, chủ trang trại phương hướngải là người có kiến thức, kinh nghiệm về nông lâm ngư nghiệp và trực tiép điều hành sản xuất tại trang trại. - Năm là, lấy sản xuất hàng hoá làm hướng chính và có thu nhập vượt trội so với mức trung bình của kinh tế hộ địa phương. Tóm lại, trong điều kiện của nước ta hiện nay,trang trại được xác định là những hộ nông dân có mục đích hoạt động chủ yếu là sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hoá, quy mô diện tích từ 1ha trở lên và đạt giá trị sản phẩm hàng hoá hàng năm 20 triệu đồng trở lên . 2.2. Sự phát triển tất yếu của kinh tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hoá. Quá trình CNH đã tác động mạnh mẽ vào nông nghiệp,phương hướngá vỡ từng mảng kết cấu nông nghiệp truyền thống, bắt nông nghiệp phải chuyển sang sản xuất kinh doanh hàng hoá cho phù hợp với nhịp độ phát triển của công nghiệp. kinh tế trang trại là một trong những hình thức tổ chức sản xuất tỏ ra phù hợp với điều kiện và đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, đáp ứng được yêu cầu của CNH, có nhiều lợi thế trong sản xuất và kinh doanh trên thương trường đã nhanh chóng phát triển trên khắp các lục địa:Châu Âu, Châu á,Châu mỹ …ở các nước công nghiệp phát triển,kinh tế trang trại đã trở thành lực lượng chủ đạo trong sản xuất nông nghiệp, hàng năm sản xuất từ 60-90% khối lượng nông sản của cả nước. Việt nam đang trong quá trình thực hiện CNH, tính quy luật về sự phát triển tất yếu của kinh tế trang trại con đường hình thành và từng bước phát triển của kinh tế trang trại về bản chất cũng không nằm ngoài quỹ đạo mà các nước trên thế giới đã trải qua hàng thế kỷ nay. Thậm chí sự phát triển của kinh tế trang trại ở nước ta còn bức xúc hơn do những đòi hỏi khách quan, chủ quan của thời đại CNH, thời đại mở cửa và hội nhập toàn cầu, thời đại kinh tế thị trường. Không thể phát triển cây công nghiệp, thực hiện thành công sự nghiệp CNH nếu không có nền nông nghiệp hàng hoá phát triển; đảm bảo nguồn cung ứng nguyên liệu dồi dào,đồng thời là thị trường mở rộng cho công nghiệp. Không có nền công nghiệp và nông nghiệp hàng hoá phát triển thì không thể đẩy mạnh ngoại thương, trao đổi mua bán với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặt nền móng cho sản xuất nông nghiệp hàng hoá phát triển lực lượng chủ yếu là kinh tế trang trại. Mặt khác, con đường phát triển tất yếu của con kinh tế trang trại còn là nhu cầu nội tại của chính các hộ nông dân, của bản thân nền nông nghiệp trước bước ngoặt lịch sử, chuyển sang cơ chế thị trường. 2.3. Xu hướng vận động của kinh tế trang trại. kinh tế trang trại được hình thành từ ba nguồn gốc: * Từ khi kinh tế hộ sản xuất tự cấp, tự túc đi dần vào kinh doanh sản xuất hàng hoá rồi trở thành hộ sản xuất giỏi rồi chuyển lên kinh tế trang trại gia đình. Loại hình trang trại này chiếm số đông, thông thường khoảng 60- 80% tổng số trang trại tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng vùng, từng địa phương . * Một số người trong các bộ phận dân cư có khả kinh tế bỏ vốn ra để mua đất hoặc thuê đất lập trang trại. Loại này gọi là trang trại tiểu chủ, này càng tăng thêm nhưng cũng vào khoảng 10%. * Loại thứ ba là những hộ nông dân khoán,trở thành những đơn vị kinh tế tự chủ trong các nông lâm trường quốc doanh sản xuất những loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao. Ba loại trang trại nói trên tuy khác nhau về trình độ kinh doanh hàng hoá,về hình thức sở hữu nhưng đều có một bản chất chung là kinh tế trang trại và trong quá trình vận động đi lên phải qua ba quá trình: + Về nội dung và trình độ kinh doanh quá trình vận động được khái quát trong công thức 3 giai đoạn phát triển; Trang trại Trang trại sản xuất Trang trại nông đất dạng chuyên canh công- thương nghiệp Từ giai thấp lên giai đoạn cao là một quá trình biến đổi về chất rất sâu sắc.Khi đạt trình độ nông -công- thương nghiệp có nghĩa là trang trại được CNH và thương nghiệp hoá. Sản xuất nông nghiệp đã đạt trình độ và tính chất công nghiệp - thương nghiệp. + Quy mô trang trại ở đây là quy mô đất đai lớn nhỏ phụ thuộc vào nhiều nhân tố: mức ruộng đất bình quân đầu người,cây trồng vật nuôi được kinh doanh và chuyên canh, độ thâm canh, trình độ cơ giới hoá và tự động hoá nông nghiệp mức thu hút lao động nông nghiệp từ các ngành kinh tế khác… nên quy mô rất khác nhau giữa các nước, các vùng. Những xu thế chung là quy mô trang trại được mở rộng dần với quá trình cơ giới hoá và tự động hoá trong nông nghiệp và quá trình CNH -HĐH đất nước. + Về hình thức tổ chức trang trại nó cũng chuyển từ trang trại độc lập, riêng lẻ đi dần vào liên kết vơíi nhau, liên kết giữa các hình thức kinh tế qua các hình thức từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp II- thực trạng về kinh tế trang trại ở tỉnh tuyên quang 1) Đặc điểm tự nhiên -kinh tế -xã hội của Tuyên Quang 1.1. Đặc điểm tự nhiên. a) Vị trí địa lý Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía bắc của tổ quốc, phía bắc giáp Hà Giang, phía nam giáp Phú Thọ, phía đông giáp Thái Nguyên, phía tây giáp Yên Bái . Do sự khác nhau về điều kiện tự nhiên , địa lý và kinh tế xã hội mà Tuyên Quang được chia làm ba vùng kinh tế : (Vùng cao núi đất ở phía Bắc , vùng cao núi đất ở phía Nam và vùng trung tâm ở phía Đông Bắc) b) Đất đai và khoáng sản Diện tích đất đai ở Tuyên Quang là 776458 ha , trong đó đất nông nghiệp là 10452 ha , đất lâm nghiệp 2695451 ha , đất chuyên dùng 4184 ha , đất ở 5973 ha , đất chưa sử dụng là392405 ha và diện tích nuôi trồng thuỷ sản là 934 ha Tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản) :là một tỉnh miền núi, do địa hình bị chia cắt nên tạo nhiều sông, suối nhỏ và dốc nên có điều kiện để phát triển thuỷ lợi nhỏ, tạo ra các hang động, địa danh phong cảnh sinh thái đẹp. Tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng… c) Khí hậu, thời tiết và thuỷ văn : Tuyên Quang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa.nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 220C- 240C,độ ẩm trung bình từ 80-85%, lượng mưa trung bình : thấp nhất là ở Na Hang 143,4mm ,nơi cao nhất là ở Yên Sơn 5833,3mm. Số giờ nắng trong năm là 1182,4 giờ đến 1372,9 giờ. Nhìn chung thời tiết khí hậu ở Tuyên Quang thuận lợi cho phát triển nông nghiệp . 1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội Theo số liệu thống kê năm 2002 thì dân số ở Tuyên Quang là 602924 người , với mật độ là 0,076 người / km2 đây là con số thấp với diện tích là 776458 km2 thì diện tích bình quân đầu người ở đây là cao. Tuy Tuyên Quang có diện tích đất tự nhiên lớn, dân số ít mật độ thưa nhưng do địa hình bị chia cắt bởi núi cao và sông suối nhỏ nên diện tích đất nông nghiệp ở Tuyên Quang rất hạn chế và hàng năm lại ít được mở rộng, bình quân khoảng 2,25 lao động/ ha. Khoảng 0,4 ha/lao động nông nghiệp, vậy là quá thấp so với cả nước. Bù lại tỉnh lại có diện tích trồng rừng rất lớn, rất thuận lợi cho việc tập trung đất đai để lập trang trại Về hạ tầng cơ sở ( điện, đường, trường, trạm … ) : Nhìn cũng đã được quan tâm đầu tư xây dựng, nhưng do là tỉnh miền núi địa hình hiểm trở nên còn gặp nhiều khó khăn : + Mạng lưới điện quốc gia cũng được đầu tư và phát triển khá. Đến nay 10 trung tâm huyện thị xã đều có điện lưới quốc gia, 35% đã được sử dụng điện, đã xây dựng được hàng trục km đường điện chiếu sáng ở thị xã, thị trấn , huyện lỵ . + Mạng lưới giao thông phát triển rộng khắp. Đã xây dựng được hàng nghìn km đường giao thông : quốc lộ, tỉnh lộ, đường liên xã, liên thôn, bản Hoàn thành mới đường đến 40 xã, đưa 100% số xã có đường đến trung tâm , nhiều tuyến đường ô tô cũng đã được nâng cấp + Tình hình văn hoá, giáo dục ở đây còn gặp nhiều khó khăn. Do cơ sở vật chất kĩ thuật còn lạc hậu, đội ngũ cán bộ y tế, giáo dục còn yếu nên dẫn đến trình độ dân trí thấp, đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn, vấn đề chăm sóc sức khoẻ còn chưa được đảm bảo đúng mức . Nhìn chung tình hình phát triển nông nghiệp của Tuyên Quang tăng với tốc độ ổn định, tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp bình quân năm khoảng 4%, giá trị sản xuất năm 2002 là 535810 triệu đồng tăng 13,25% so với năm trước. Do xuất phát của tỉnh thấp mà trong những năm qua nền kinh tế còn tăng trưởng chậm, nhưng nó tăng trưởng đều và vững chắc, nhịp độ tăng trưởng GDP năm 1992; là 5% đến 1999 đạt 10,38%, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đúng hướng theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong công nghiệp -xây dựng và dịch vụ. Có thể khẳng định rằng Tuyên Quang có tiềm năng đa dạng và điều kiện thuận lợi để xây dựng và phát triển kinh tế nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói riêng, tiềm năng của tỉnh còn rất lớn nhưng dân chưa giàu, tỉnh chưa mạnh. Để khai thác tiềm năng, phát huy nội lực, xây dựng nông thôn mớitỉnh cần lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân các dân tộc phát triển kinh tế theo mô hình kinh tế trang trại. 2) Thực trạng về kinh tế trang trại ở Tuyên Quang. 2.1. Thực trạng về kinh tế trang trại ở Tuyên Quang. Toàn tỉnh có hai nông trường và năm lâm trường quốc doanh đó những đơn vị sản xuất hàng hoá. Bước vào thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, mô hình kinh tế trang trại được khởi nguồn ,hình thành và phát triển ở Tuyên Quang từ những năm 80, khi có chỉ thị 29-CT/TW về giao đất rừng đến hộ, chỉ thị 35 - CT/TW về phát triển kinh tế gia đình của ban bí thư TW Đảng, NQ 11của bộ chính trị (khoá VI tháng 4/1988), NQ TW 5 khoáVII, luật đất đai 1993… đường lối đổi mới của đảng cùng với hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước là tiêu đề và là điều kiện thuận lợi cho việcchuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ,nông thôn trên phạm vi quy hoạch tổng thể từ tỉnh đến các vùng, huyện để phát triển kinh tế. Ngành ngân hàng ngoài việc cho các doanh nghiệp quốc doanh và hợp tác xã nay đã cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất, các ngành kinh tế kỹ thuật dịch vụ cũng chuyển hướng chuyển giao trực tiếp kỹ thuật canh tác đến các hộ … đó là những điều kiện để chuyển nền kinh tế tự cung ,tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá, nhiều nông dân từ sản xuất kinh tế hộ lên sản xuất kinh tế trang trại với mục đich sản xuất hàng hoá và thu lợi nhuận nhiều hơn. Có thể nói kinh tế trang trại ở Tuyên Quang được hình thành chính thức từ năm 1991. Sau khi chia tách tỉnh Hà Tuyên 2.2. Thực trạng về kinh tế trang trại mấy năm gần đây . 2.2.1. Hiện trạng về số lượng và các loại hình sản xuất trang trại của tỉnh. Tuyên Quang có 2150 hộ gia đình sản xuất theo mô hình kinh tế trang trại (theo số liệu UBND tỉnh đến tháng 4/2002). Trong đó có huyện Hàm Yên có 526 hộ, huyện Chiêm Hoá có 200 hộ, huyện Na Hang, thị xã Tuyên Quang có 35 hộ, huyện Yên Sơn có 24 hộ, huyện Sơn Dương có 28 hộ, kinh tế trang trại đạt tới trình độ cao vậy mô hình kinh tế trang trại gia đình rất phù hợp với điều kiện kinh tế ở miền núi . Thực tế điều tra cho thâý, các trang trại trồng cây ăn quả chủ yếu tập trung ở các huyện vùng cao như: Hàm Yên, Na Hang, Chiêm Hoá, các trang trại chè lại ở huyện vùng thấp như: Yên Sơn, Sơn Dương ngày càng xuất hiện nhiều trang trại lâm nghiệp, trang trại chăn nuôi với quy mô sản xuất hàng hoá vừa và nhỏ cũng được phát triển ở các huyện vùng cao. Với đặc điểm địa hình, điều kiện tự nhiên, thời tiết khí hậu ở Tuyên Quang tạo nên những đặc thù của các trang trại Tuyên Quang thành trang trại trồng rừng ,trang trại trồng cây ăn quả ,trang trại chăn nuôi, trang trại nuôi trồng thuỷ sản, trang trại trồng cây công nghiệp và trang trại sản xuất tổng hợp. Sự phát triển của các loại hình trang trại qua các năm thể hiện : Số lượng và loại hình trang trại của tỉnh qua các năm : Loại hình trang trại 2000 số lượng Tỷ lệ 2001 số lượng Tỷlệ % cái 2002 Số lượng Tỷ lệ % cái Trang trại trồng rừng 19 4,6 24 5,4 28 5,9 Trang trại trồng cây ăn quả 257 62,8 279 62,7 300 62,8 Trang trại chăn nuôi 3 0,7 4 0,9 5 1,0 Trang trại nuôi trồng thuỷ sản 9 2,2 10 2,0 10 2,0 Trang trại trồng cây công nghiệp 57 13,9 60 13,5 61 12,8 Trang trại sản xuất tổng hợp 64 15,8 68 15,5 74 15,5 Tổng số 409 100 445 100 478 100 Nguồn : Số liệu điều tra của ban kinh tế tỉnh uỷ Qua bảng số liệu trên ta thấy rằng ngoài một số cây ăn quả có giá trị được cấc trang trại đưa vào làm cây trồng chính thì việc sản xuất tổng hợp cũng đem lại kết quả kinh tế vì với cơ cấu sản xuất tổng hợp. Như vậy thì các trang trại sẽ tập trung được nhiều điều kiện thuận lợi của tự nhiên, cho phép lấy ngắn nuôi dài trong giai đoạn đầu , đi từ ít vốn đến nhiều vốn, từ sản xuất tổng hợp đến chuyên canh cây trồng vật nuôi có giá trị mà thị trường đang có nhu cầu. Việc phát triển mạnh các trang trại cây ăn quả với một tỷ trọng lớn trong các loại hình trang trại sẽ làm bỏ ngỏ các loại hình sản xuất khác cũng rất phù hợp với điều kiện ở Tuyên Quang, đó là các: trang trại chăn nuôi, trang trại nuôi trồng thủy sản, trang trại trồng rừng; những trang trại này còn ít và chưa được các chủ trang trại quan tâm phát triển. Nhưng nếu xét theo xu hướng chung của nhà nước và của thị trường thì trong những năm tới các trang trại loại này sẽ được khuyến khích và ưu tiên phát triển . 2.2.2. Thực trạng về chủ trang trại a ) Đặc điểm xuất thân của chủ trang trại Nếu theo nghề nghiệp cũ thì chủ trang trại ở Tuyên Quang chủ yếu xuất thân từ nông, dân chiếm tới 56% tổng số chủ trang trại. Chứng tỏ kinh nghiệm sản xuất đã giúp cho lao động trong nông nghiệp thực hiện sản xuất một cách dễ dàng lựa chọn cây trồng, con giống phù hợp với điều kiện tự nhiênthị trường và dễ dàng chăm sóc…Trong 268 trang trại của nông dân thì có tới 173 trang trại đi vào chuyên canh trồng cây ăn quả, chiếm 64,5%.Ngoài kinh nghiệm và kỹ thuật sản xuất trồng trọt, người nông dân còn rất hạn chế việc nắm bắt kinh nghiệm kinh tế tiến bộ . Tiếp đến là các phần chủ trang trại có xuất thân từ các nguồn khác, có 110 người, chiếm 23%, họ chủ yếu phát triển cây công nghiệp và sản xuất tổng hợp. có một số cán bộ công nhân viên chức sau khi đã nghỉ chế độ về nông thôn và phát triển kinh tế theo mô hình trang trại,có 42 người chiếm 8,7%, ngoài ở Tuyên Quang hiện nay có tới 12,13% tuy thấp so với các thành kinh tế khác nhưng nó cũng là nhiều. Trong những năm tới cần có hướng giải quyết sao cho Đảng viên vẫn được làm chủ trang trại theo đúng nghĩa của nó mà vẫn không đi ngược các quy định và điều lệ của Đảng . Với dân số nhiều thành phần dân tộc như ở Tuyên Quang thì trong phát triển kinh tế trang trại người Tày có 220 trang trại chiếm 43,7%, người Kinh có khoảng 167 trang trại chiếm 34,9%, một số dân tộc ít người khác như: Dao, Mông, Nùng có từ 12 đến 33 trang trại chiếm 2,5 đến 6,9%, còn các dân tộc khác có không đáng kể. Vào độ tuổi từ 30 đến 50 là độ tuổi đã chín muồi của các chủ trang trại ,họ đã tích luỹ được một số kinh nghiệm về sản xuất và thị trường. Phần lớn các chủ trang trại ở trong độ tuổi này. Từ 40 độ tuổi có 280 người chiếm 58,5%, từ 30 đến 40 tuổi có 103 người chiếm 21,5%, ở dười độ tuổi 50 có từ 33 đến 62% chiếm 6,97 đến13% . b) Trình độ văn hoá và chuyên môn hoá của trang trại ở Tuyên Quang vẫn còn thấp: trình độ văn hoá cấp 1 và hết cấp 1 của chủ trang trại chiếm rất đông với 215 người chiếm 45%: trình độ cấp 2 và hết cấp 2 là 131 người chiếm 31,6%; cấp 3 có 96 người chiếm 20%. Hầu hết các chủ trang trại theo xu hướng chung là đi vào phát triển cây ăn quả là chủ yếu . 2.2.3. Tình hình đất đai của các trang trại a) Quy mô và điện tích của trang trại Quy mô diện tích được sử dụng để nhận định và đánh giá một trang trại , căn cứ vào đó để xác định vốn đầu tư cho sản xuất của trang trại. Những trang trại có quy mô 10 - 20ha chiếm chủ yếu, có 234 cái tương đương 48,9%, các trang trại có qui mô diện tích từ 5 - 10 ha và 2 - 5ha, có 122 - 155 cái chiếm 15,5% - 32,4%. Đó là tình hình qui mô diện tích của trang trại phân theo nhóm diện tích. Mặt khác, nếu xét theo loại hình sản xuất thì qui mô diện tích của trang trại thể hiện ở bảng số liệu sau: Quy mô diện tích đất của trang trại phân theo loại hình sản xuất Loại hình trang trại Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Số trang trại (cái ) Diện tích (ha) Diện tích bình quân (ha) Số trang trại (cái) Diện tích (ha) Diện tích bình quân (ha) Số trang trại (cái) Diện tích (ha) Diện tích bình quân (ha) TT trồng rừng 19 296,40 15,60 24 396,60 15,40 28 420,19 15,00 TT trồng cây ăn quả 257 2487,76 9,68 279 2762,10 9,90 300 3060,93 10,20 TT chăn nuôi 3 7,80 2,60 4 11,20 2,80 5 14,25 2,85 TT nuôi trồng thuỷ sản 9 52,20 5,80 10 60,00 6,00 10 62,45 6,20 TT trồng cây công nghiệp 57 302,10 5,30 60 336,00 5,60 61 350,64 5,70 TT sản xuất tổng hợp 64 960,00 15,00 68 1060,80 15,60 74 1161,70 15,70 Tổng cộng 409 4106,26 10,04 445 4581,22 10.33 478 5070,16 10,60 Nguồn : số liệu điều tra của ban kinh tế tỉnh uỷ. Quy mô diện tích trang trại ở Tuyên Quang qua các năm tăng lên rõ rệt , từ quy mô tổng diện tích 4106,26 ha năm 200 tăng lên 5070,16ha năm 2002 Năm 2002 bình quân diện tích một trang trại là 10,60 ha qua các năm diện tích bình quân của các trang trại tăng lên không nhiều mặc dù tổng diện tích có tăng, trong đó sự tăng lên của số lượng các trang trại thì quy mô diện tích của trang trại trồng cây ăn quả cũng tăng lên tương ứng. Chỉ riêng có trang trại trồng rừng và trang trại sản xuất tổng hợp là có sự giảm về quy mô diện tích. b) Nguồn gốc đất đai của trang trại : Với tinh thần '' mỗi ha đều có chủ sử dụng cụ thể '' từ năm 1993 trở lại đây Tuyên Quang thường xuyên liên tục chỉ đạo việc giao đất, giao rừng cho dân, các trang trại bắt đầu phát triển từ thời kì này. Nguồn đất đai của các trang trại được thể hiện qua bảng thống kê sau: Loại hình TT Tổng số Do Nhà nước cấp Đất sang nhượng Đất tự khai phá Đất nhận thầu Đất thừa kế Trực tiếp Qua các nông -lâm trường Tổng cộng 5070,16 1539,70 598,76 598,76 963,30 456,30 1166,20 TT trồng rừng 420,19 127,49 49,60 49,60 79,60 37,50 96,40 TT trồng cây ăn quả 3060,93 928,40 361,03 361,03 582,30 275,14 699,29 TT chăn nuôi 14,25 4,35 1,70 1,70 2,70 1,40 3,10 TT nuôi trồng thuỷ sản 62,45 19,00 7,45 7,45 11,40 5,60 14,60 TT trồng cây công nghiệp 350,64 106,54 41,40 41,40 66,80 31,00 80,20 TT sản xuất tổng hợp 1161,70 347,40 135,40 135,10 220,50 104,90 272,70 Nguồn : Số liệu điều tra của Ban kinh tế tỉnh uỷ. Nhìn vào bảng số liệu điều tra ta thấy đẩt đai của trang trại chủ yếu là do Nhà nước cấp thường trực qua các nông - lâm trường đóng trên địa bàn. Nói chung thì nguồn nông nghiệp chiếm gần một nửa quỹ đất của trang trại ( khoảng 43%) trong đó là do Nhà nước cấp trực tiếp 72%, còn 28% là thông qua các nông - lâm trường. 2.2.4. Lao động của trang trại . Để phát triển kinh tế trang trại trong kinh tế thị trường theo hướng sản xuất hàng hoá lớn thì chỉ sử dụng nguyên lao động trong gia đình và họ hàng là chưa đủ. Ngoài ra do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là mang tính thời vụ nên lao động phục vụ cho phát triển kinh tế trang trại ngoài lao động của gia đình thì cần có thêm lao động thuê thường xuyên và lao động thuê thời vụ . Thực tế tình hình lao động trong các trang trại ở Tuyên Quang như sau : Lao động trong các trang trại ở Tuyên Quang . Loại hình trang trại Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 lao động của gđ lao động thuê theo thợi vụ lao động thuê thường xuyên lao động của gđ lao động thuê theo thợi vụ lao động thuê thường xuyên lao động của gđ lao động thuê theo thợi vụ lao động thuê thường xuyên TT trồng rừng 57 80 24 78 93 28 84 106 30 TT trồng cây ăn quả 809 1199 324 920 1319 448 962 1421 478 TT chăn nuôi 8 - 1 12 - 2 14 - - TT nuôi trồng thuỷ sản 16 1 - 18 1 - 29 1 11 TT trồng cây CN 179 206 82 190 234 90 196 268 109 TT sản xuất tổng hợp 198 211 72 242 235 81 244 259 89 Tổng cộng 1267 1697 503 1460 1882 649 1529 2055 717 Nguồn : Số liệu của ban kinh tế tỉnh uỷ. Ta thấy thực tế năm 2002 bình quân một trang trại có 3 lao động gia đình, 4,3 lao động thuê thời vụ và 1,5 lao động thuê thường xuyên. Trong đó trang trại trồng cây ăn quả có lao động gia đình bình quân 3,2 lao động, thường xuyên 1,6 lao động, lao động thời vụ 4,7 lao động. Trang trại trồng cây công nghiệp và trang trại sản xuất tổng hợp có lao động gia đình từ 3,2 - 3,3 lao động, thuê thường xuyên là 1,2 - 1,8 lao động, lao động thuê theo thời vụ 3,5 - 4,4 lao động, thấp nhất là trang trại chăn nuôi và trang trại nuôi trồng thuỷ sản . 2.2.5. Vốn và các tư liệu khác của trang trại . Tình hình chung hiện nay của Tuyên Quang về vấn đề vốn ở trang trại là rất bức thiết. Các chủ trang trại tự tích luỹ được vốn là rất ít, chủ yếu là đi vay để đầu tư phát triển sản xuất , bên cạnh đó có các nguồn vốn khác được nghành cho phát triển sản xuất nhưng không lớn lắm . Trong._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0085.doc
Tài liệu liên quan