Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân

Lời mở đầu Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta rất chú trọng đến “ thực túc, binh cường” để yên dân và bảo đảm cho non sông bền vững. Đảng ta trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng cũng luôn đặc biệt quan tâm đến vấn đề này và quan điểm về xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ được đề cập đến trong nhiều nghị quyết quan trọng của Đảng, nhất là từ đại hội VI đến nay. Tuy nhiên trong bối cảnh của thế giới hiện nay,khi toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đan

doc16 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1221 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g diễn ra như một xu thế khách quan thì việc mở cưả đất nước để nền kinh tế hội nhập với thế giới, cùng phát triển chung là điều cần thiết. Do vậy, việc đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân là cần thiết. Xây dựng nền kinh tế tư nhân vận hành theo cơ chế thị trường mà Đảng và nhân dân ta đang thực hiện đã tỏ rõ tầm nhìn thế kỷ cuả Đảng cộng sản Việt Nam. Cơ chế vận hành của nền kinh tế tư nhân được xác định là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng kế hoạch, pháp luật và công cụ đòn bẩy kinh tế. Điều đó có nghĩa là trong 15 năm đổi mới đất nước, từ việc xoá bỏ cơ chế bao cấp cũ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước đã chấp nhận vai trò của các qui luật kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước chú trọng thực hiện các chức năng quản lý của mình, cơ cấu lại một cách toàn diện về tổ chức, chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của từng bộ máy nhà nước, góp phần thể chế hoá tư tưởng “Nhà nước do dân và vì dân”. Nhà nước đã giành cho mình quyền can thiệp vào thị trường đúng lúc, đúng liều lượng. Mục đích thay đổi cơ cấu và quyền can thiệp này chính là giúp các doanh nghiệp cạnh tranh trong một môi trường lành mạnh và có hiệu quả. Duy trì sự định hướng đúng đắn và tạo ra cơ chế thúc đẩy, kích thích các đơn vị kinh tế, các cơ sở chủ động hợp tác và đua tranh phát triển phù hợp với cơ cấu kinh tế của kế hoạch vĩ mô, bãi bỏ và ngăn chặn các tổ chức gây nên độc quyền và mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, tồn tại và phát triển theo nguyên tắc hiệu quả. Từ những nhận thức đó, em đã nghiên cứu thực hiện đề tài “ Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân". Đề tài được thực hiện với hai nội dung chính : 3 Khái niệm, tầm quan trọng và cơ chế vận hành của nền kinh tế tư nhân có sự quản lý của Nhà nước. 3Những giải pháp cơ bản nhằm đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Chương I: khái niệm, tầm quan trọng và cơ chế vận hành của nền kinh tế tư nhân có sự quản lý của nhà nước. 1.Cơ sở lý luận của nền kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của xã hội loài người. Khi xã hội phát triển, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt thành một nghề độc lập, của cải làm ra ngày một nhiều, không những đáp ứng đủ cho nhu cầu cuộc sống mà còn có thừa. Số sản phẩm dư thừa này được đem ra trao đổi hoặc buôn bán đó chính là hàng hoá. Hàng hoá phát triển cùng với phát triển của xã hội loài người. Ơ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, xã hội phân chia giai cấp thành kẻ giầu người nghèo, sản xuất bước đầu phát triển, giai cấp chủ nô ngày càng giầu, của cải dư thừa nhiều, dẫn đến trao đổi hàng hoá. Thời kỳ phong kiến, phương thức sản xuất phong kiến ra đời, giai cấp địa chủ nắm trong tay hầu hết ruộng đất, công cụ lao động và tư liệu lao động, trong khi đó người nông dân là lực lượng chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất. Trong thời kỳ này, sản xuất hàng hoá phát triển hơn. Đến chủ nghĩa tư bản, sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển mạnh, xuất hiện các tập đoàn tư bản lớn mang tính chất toàn cầu, thị trường hàng hoá ra đời. Khi chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ra đời là một thành công của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xoá bỏ chế độ bóc lột, xây dựng một chế độ công bằng mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động là người làm chủ. ở thời kỳ này xuất hiện phương thức sản xuất XHCN. Lực lượng sản xuất phát triển cho nên hàng hoá và thị trường hàng hoá cũng phát triển mạnh. Như vậy, qua sự phát triển của các giai đoạn lịch sử kinh tế, hàng hoá ngày một phát triển và kinh tế hàng hoá xuất hiện như một tất yếu khách quan. 2. Thị trường trong kinh tế thị trường. Thị trường đã và đang là vấn đề lớn nổi lên, bởi đó là nơi hàng ngày, hàng giờ xảy ra các mối quan hệ về cung, cầu hàng hoá thông qua các mối quan hệ mua bán trực tiếp như việc ký hợp đồng thương mại giữa các doanh nghiệp với nhau. Nói cách khác, nó là tấm gương phản chiếu sinh động những vấn đề từ cuộc sống đặt ra mà sản xuất phải đáp ứng. Trong nền kinh tế sản xuất nhỏ cung luôn bé hơn cầu, ít người quan tâm đến thị trường. Song khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá sản xuất lớn, trong xu thế đan xen hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu, thị trường hàng hoá trở thành vấn đề thời sự và cấp bách. Ngày nay, thị trường không hẳn là khâu cuối cùng phụ thuộc và bị động hoàn toàn vào sản xuất như thời bao cấp. Vì thế hơn lúc nào hết các nhà sản xuất cần tham khảo và hiểu biết nhiều hơn nữa các thông tin thị trưòng trong và ngoài nước, khảo sát thăm dò, dự đoán đúng xu hướng diễn biến thị trường từ đó mở rộng đầu tư đổi mới công nghệ, tổ chức sản xuất hợp lý, làm những sản phẩm có nhiều lợi thế cạnh tranh, được thị trường chấp nhận. Sản xuất chỉ quyết định tiêu dùng khi sản xuất bắt mạch trúng thị trường. Đối với nước ta trước đây, mỗi năm nhà nước phải tìm nguồn cân đối cho được trên dưới 7000 tỷ đồng và một khoản ngoại tệ lớn để các doanh nghệp vay, bao nhiêu cũng hết nhưng nay thì có tiền mà nhiều doanh nghiệp không vay do không có dự án. Quanh đi quẩn lại chỉ có trên dưới mười mặt hàng nông, thuỷ sản xuất khẩu chiến lược( không tính dầu thô) mà cứ thừa một phần do giá cả, chất lượng chưa có sức cạnh tranh cao, nhưng một phần cũng do thị trường nhỏ hẹp. Cái khó hiện nay là đầu tư làm ra sản phẩm gì, có thị trường không, quy mô thị trường đó như thế nào, tập quán thị trường ra sao, hàng gì xuất khẩu và xuất khẩu bao nhiêu, hàng gì để lại trong nước. Tất cả những câu hỏi từ đầu ra, cụ thể là nơi tập kết cuối cùng của sản phẩm phải được giải đáp trước. Đó là nét đặc trưng của thị trường trong cơ chế thị trường. Làm tốt điều này để chúng ta yên tâm bàn tới chuyện đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, ổn định vững chắc hàng năm. Từ những nét đặc trưng của thị trường trong cơ chế thị trường chúng ta thấy được hiện nay ở Việt Nam ta, cơ chế vận hành trong nền kinh tế là một cơ chế có nhiều ưu và khuyết tật. Nó đòi hỏi các nhà kinh tế học Việt Nam phải có những lời giải đúng cho bài toán kinh tế để thúc đẩy cho nền kinh tế phát triển. 3. Tính tất yếu và sự cần thiết phát triển nền kinh tế tư nhân ở Việt Nam . Trong thời kỳ quá độ việc tồn tại nền kinh tế tư nhân nhiều thành phần là một tất yếu khách quan. Phân công lao động xã hội và sự chuyên môn hoá sản xuất phát triển từ đó nảy sinh ra những mối quan hệ kinh tế, những sự trao đổi hoạt động xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, nền kinh tế còn nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, có nhiều chủ thể kinh tế khác nhau. Các chủ thể này độc lập tách biệt nhau nhưng đều nằm trong một hệ thống phân công lao động xã hội, do đó sản xuất và đời sống của họ có sự phụ thuộc lẫn nhau Trong kinh tế quốc dân và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự tách biệt nhất định và có quyền tự chủ về sản xuất kinh doanh, cạnh tranh và hợp tác với nhau. Ngoài ra các đơn vị còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý và hiệu quả kinh doanh...do đó còn có sự khác biệtvề mặt lợi ích kinh tế. Vì vậy, quan hệ kinh tế tư nhân nhiều thành phần, thuận lợi bảo đảm sự công bằng, hợp lý trong quan hệ giữa các đơn vị ấy với nhau. Sản xuất hàng hoá, quan hệ hàng hoá-tiền tệ còn cần thiết và là tất yếu trong quan hệ kinh tế đối ngoại của các nước trên thế giới vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là những chủ sở hữu khác nhau về sản phẩm hàng hoá. Sản xuất hàng hoá không những là một tất yếu khách quan mà còn rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế ở những nước có nền kinh tế lạc hậu, kinh tế còn mang tính tự cấp, tự túc trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Kinh tế tư nhân thúc đẩy phát triển phân công lao động xã hội đi sâu vào chuyên môn hoá sản xuất, tạo điều kiện nâng cao trình độ người lao động, cải tiến máy móc thiết bị, nâng cao năng suất lao động. Kinh tế tư nhân thúc đẩy việc tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất để đáp ứng nhu cầu xã hội ngày càng tăng và vươn tới những thị trường quốc tế. Kinh tế tư nhân cũng thúc đẩy việc không ngừng cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, đổi mới tổ chức quản lý nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Kinh tế tư nhân thúc đẩy việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, tạo điều kiện cho sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi cá nhân, đồng thời tạo ra cơ chế phân bổ và sử dụng các nguồn lực của xã hội hợp lý, tiết kiệm. Kinh tế tư nhân còn mở rộng và phát triển giao lưu kinh tế và văn hoá giữa các địa phương, các vùng các miền của đất nước với các nước, các dân tộc khác trong khu vực và trên thế giới, làm phong phú hơn cuộc sống tinh thần, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, quan hệ hợp tác giữa các nước, các khu vực trên thế giới. 4. Sản xuất hàng hoá tư nhân ở nước ta hiện nay. Sản xuất hàng hoá tư nhân ở nước ta hiện nay là sản xuất hàng hoá mở, vừa vận động theo cơ chế thị trường vừa có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Sản xuất hàng hóa tư nhân của nước ta ngày càng được mở rộng, phát triển việc trao đổi hàng hoá, hợp tác sản xuất giữa các vùng, các miền của đất nước, mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế, tham gia hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, thu hút đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước ngoài vào nước ta. Sản xuất hàng hoá tư nhân của nước ta vận động theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh dưới tác động của quan hệ cung cầu, cạnh tranh và của quy luật giá trị. Nước ta đang ở chặng đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa với sản xuất nhỏ và phổ biến. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, biểu hiện cụ thể là sản lượng, mặt hàng và chủng loại hàng hoá còn nghèo nàn, khối lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường và kim ngạch xuất khẩu còn thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm còn cao, chất lượng giá trị sử dụng hàng hoá còn thấp, quy mô và dung lượng thị trường còn hẹp. Hiện nay ở nước ta thị trưòng hàng hoá ( tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, bất động sản) và dịch vụ còn ở trình độ sơ khai. Thị trường lao động, thị trường tài chính( tiền tệ, vốn) mới đang trong quá trình hình thành. Trình độ phát triển thấp của sản xuất hàng hoá tư nhân bắt nguồn từ trình độ thấp của cơ sở vật chất kỹ thuật, từ tính sản xuất nhỏ của nền kinh tế nước ta hiện nay. Bên cạnh một số lĩnh vực và một số cơ sở sản xuất đã được trang bị một số máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại, bộ phận lao động thủ công vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Bởi vậy, năng suất, chất lượng, chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh của ta còn rất thấp so với khu vực và thế giới. Trình độ trên còn là sự phản ánh, là hậu quả của sự phân công lao động xã hội kém phát triển. Hơn 70% lực lượng lao động và hơn 80% dân số tập trung trong nông nghiệp và nông thôn, trong khi ở những nước công nghiệp phát triển thì tỷ lệ đó là dưới 10%; lao động và dân cư nông nghiệp vẫn chủ yếu là độc canh cây lúa. Việc phát triển cây công nghiệp, một tiềm năng lớn của đất nước bắt đầu được chú ý. Chăn nuôi còn phụ thuộc vào trồng trọt, chưa trở thành một ngành sản xuất chính, độc lập. Cây hoa màu, rau quả mới chỉ phát triển ở quy mô nhỏ. Sản phẩm nông nghiệp mới chỉ được sơ chế, công nghiệp chế biến chậm phát triển, chưa gắn với nông nghiệp. Tỷ trọng nông sản hàng hoá thấp so với tổng khối lượng sản phẩm nông nghiệp cũng như so với khối lượng hàng hoá trên thị trường nói chung. Nông nghiệp trên nhiều vùng đặc biệt là ở các vùng núi cao, chủ yếu còn mang tính tự cấp, tự túc, chỉ một bộ phận nông sản thừa trở thành hàng hoá. 5. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Việc thể chế hoá các quan điểm đổi mới của Đảng vào thực tiễn công cuộc đổi mới ở Việt Nam được diễn ra nhanh chóng. Từ nền kinh tế kế hoạch tập trung chuyển sang kinh tế thị trường, hoạt động của thị trường đã thay đổi căn bản. Bên cạnh việc thừa nhận sự điều tiết khách quan của cơ chế thị trường, bộ mặt của thị trường xã hội được thay đổi cả về nội dung, hình thức và chức năng hoạt động. Các loại thị trường bước đầu được hình thành, cùng với môi trường cạnh tranh và khả năng tự điều tiết của thị trường tăng lên đang trở thành cơ chế quan trọng trong việc huy động, luân chuyển và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của xã hội. Quan hệ cung cầu và sự vận động của giá cả thị trường đã dần trở thành tín hiệu cho các quyết định sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, qua đó cũng là cơ sở cho Nhà nước xem xét việc hoạch định và thực hiện chính sách điều tiết vĩ mô. Thị trường đã dần mở rộng trong và cả ngoài nước, việc đầu tư kinh doanh và tự do hoá giá cả từng bước được bảo đảm, làm cho thị trường phát huy tốt hơn tác dụng trong việc hướng dẫn, cung cấp thông tin để doanh nghiệp điều chỉnh hoạt động của mình. Những thành công trong hoạt động đổi mới thị trường đã đạt được là to lớn, góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội, đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của xã hội, đồng thời kích thích sản xuất trong nước phát triển. Mặc dù vậy, bên cạnh các thành tựu đã đạt được vẫn còn nhiều hạn chế. Đó là về cơ bản thị trường nước ta vẫn còn ở tình trạng sơ khai, chưa phát triển các thị trường quan trọng: tiền tệ, vốn, sức lao động;các quan hệ thị trường tuy đã được hình thành bước đầu nhưng chưa đồng bộ; mặt tích cực của cơ chế thị trường phát huy chưa mạnh trong khi mặt tiêu cực như đang lớn dần lên. Cần tạo lập một môi trường cạnh tranh ổn định và lành mạnh hơn nữa, khuyến khích tự do làm ăn công khai, hợp pháp, giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước, xoá bỏ cơ chế xin cho, đồng thời tiếp tục hoàn thiện đầy đủ các loại thị trường nhất là các thị trường vốn, lao động, bất động sản. Chấm dứt hoàn toàn việc chia cắt thị trường theo địa giới hành chính cũng như theo các thành phần kinh tế và kiểm soát có hiệu quả tình trạng độc quyền, lũng đoạn thị trường. Trên cơ sở đó, hạn chế môi trường xuất hiện và tác động xấu của cơ chế thị trường. Chương II: Những giải pháp cơ bản nhằm đổi mới cơ chế chính sách để thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Để phát triển kinh tế theo định hướng XHCN cần chuyển nền kinh tế tự cấp, tự túc với cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, động viên mọi tiềm năng vật chất của xã hội và công nghệ, đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế với năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao. Cụ thể để phát triển sản xuất hàng hoá cần thực hiện các biện pháp sau đây: 1.Nhất quán thực hiện chính sách kinh tế tư nhân, sắp xếp lại kinh tế quốc doanh, đổi mới hình thức tổ chức và phương thức hoạt động của kinh tế tập thể, khuyến khích kinh tế tư nhân và cá thể, huy động những tiềm năng to lớn còn bị phân tán của xã hội vào phát triển sản xuất. Trong những năm qua, đất nước ta đã đạt được những thành tựu theo hướng này, nhưng kết quả chưa lớn. Nhiều xí nghiệp quốc doanh nhất là thương nghiệp quốc doanh vẫn chưa chuyển kịp theo yêu cầu của cơ chế thị trường, việc cổ phần hoá một bộ phận xí nghiệp quốc doanh vẫn chưa thực hiện được. Việc đổi mới kinh tế tập thể còn nhiều lúng túng. Kinh tế cá thể và tư nhân phát triển mạnh nhưng chưa phản ánh đúng tiềm năng thực tế. Nhiều người chưa thật tin vào sự nhất quán trong chính sách của Nhà nước nên chưa mạnh dạn đầu tư. Vốn của tư nhân và cá thể đầu tư vào lĩnh vực sản xuất còn ít, sử dụng chủ yếu vào buôn bán lòng vòng. Để thu hút khối lượng vốn của tư nhân, cá thể vào sản xuất, hơn nữa lại theo định hướng của nhà nước: một mặt phải thể chế hoá các quan điểm của Đảng để khẳng định sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một chính sách lâu dài, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, để tạo môi trường pháp lý xác định rõ phạm vi tồn tại và hoạt động, trách nhiệm và quyền hạn của doanh nghiệp tư nhân, cá thể. Mặt khác phải kiên quyết trấn áp, ngăn chặn mọi hành vi lừa đảo buôn lậu qua biên giới, đồng thời phải tạo ra môi trường kinh tế ổn định, thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân, cá thể hoạt động kinh doanh bình thường. Trong nông nghiệp, vấn đề quan trọng hiện nay là phải khẳng định vai trò của kinh tế hộ, đổi mới mô hình và phương thức hoạt động của các hợp tác xã hội nông nghiệp, nhằm làm cho kinh tế hộ phát triển như những chủ thể của kinh tế hàng hoá; phát triển các hoạt động dịch vụ, sản xuất cho kinh tế hộ và dịch vụ sinh hoạt. Bằng cách đó, thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội trong nông nghiệp, thúc đẩy sự phát triển nông sản hàng hoá. 2.Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường. Đây là điều kiện và tiền đề quan trọng bậc nhất để phát triển sản xuất hàng hoá: thị trường là sản phẩm tất yếu của sản xuất hàng hoá, sản xuất hàng hoá càng phát triển thì thị trường càng mở rộng. Nói như vậy có nghĩa là sản xuất hàng hoá quyết định thị trường, song thị trường cũng tác động trở lại, thúc đẩy sản xuất hàng hoá. “ Khi thị trường, nghĩa là lĩnh vực trao đổi, mở rộng ra thì quy mô sản xuất cũng tăng lên và sự phân công trong sản xuất cũng biến đổi theo”. Để mở rộng lưu thông, mở rộng thị trường và tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường phải: ] Tôn trọng quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. ] Xoá bỏ các hành vi chia cắt lững đoạn thị trường, lũng đoạn lưu thông, đảm bảo thị trường xã hội thống nhất và thông suốt. ] Phát triển thị trường các yếu tố sản xuất, dịch vụ, thị trường vốn, thị trường tiền tệ, thị trường sức lao động, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán. 3.Tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phân công lại lao động xã hội để phát triển sản xuất hàng hoá. Cùng với việc thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, đổi mới cơ chế kinh tế, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, thì điều hết sức quan trọng là phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Những đổi mới trong chính sách và cơ chế kinh tế có thể tạo ra môi trường cho sản xuất hàng hoá phát triển, nhưng nếu sản xuất vẫn dựa trên cơ sở công cụ và kỹ thuật thủ công lạc hậu, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao, nếu lao động xã hội vẫn chủ yếu tập trung trong nông nghiệp thì không thể có một nền sản xuất hàng hoá phát triển. Bởi vậy, để phát triển sản xuất hàng hoá phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, phải ứng dụng công nghệ mới ngày càng hiện đại trong tất cả các ngành kinh tế bao gồm: công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phải xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, phát triển công nghiệp cơ khí và điện tử... phân công và phân công lại lao động xã hội, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP, trong cơ cấu lao động lao động xã hội... 4. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Kết hợp kinh tế trong nước với mở rộng kinh tế đối ngoại là một nhân tố quan trọng để phát triển hàng hoá. Ngày nay, quốc tế hoá kinh tế đang trở thành một xu thế phổ biến. Một quốc gia muốn thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển phải nhanh chóng tìm thời cơ hoà nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới thông qua mở rộng thị trường ngoài nước, mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài. Đối với những nước kém phát triển như nước ta, phải gia tăng sức xuất khẩu để nhập máy móc thiết bị, vật tư... nhằm tạo điều kiện khai thác tiềm năng lao động, tài nguyên thiên nhiên đất nước. Xuất khẩu và nhập khẩu vừa là yêu cầu, vừa tạo điều kiện tăng nhanh số lượng, chủng loại, chất lượng hàng hoá, giảm chi phí lao động, tiến tới đạt tiêu chuẩn về kinh tế, về giá trị hàng hoá, đồng thời đẩy nhanh xuất nhập khẩu cũng làm cho hàng hoá tiêu dùng trong nước ngày càng đa dạng và phong phú hơn, chất lượng hàng hoá ngày càng tốt hơn. Ngoài hình thức xuất nhập khẩu, cần phát triển mạnh mẽ các hình thức khác như: nhận làm gia công cho nước ngoài, hợp tác, liên doanh sản xuất, tranh thủ tín dụng quốc tế, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh hiện có, xây dựng những cơ sơ sản xuất hiện có, xây dựng những cơ sở sản xuất mới, tạo ra những hàng hoá mới có chất lượng cao. Trong việc mở rộng kinh tế đối ngoại, cần đặc biệt chú ý triệt để khai thác nguồn hàng, quy trình công nghệ hiện đại với những thiết bị kỹ thuật tiên tiến và chủ động được thị trường một cách ổn định để tạo điều kiện cho các nguồn lực bên trong phát triển mạnh, nhằm phát triển kinh tế đất nước. Phấn đấu tạo ra các mặt hàng xuất khẩu chủ lực có giá trị cao, có khối lượng lớn và ổn định, có thị trường vững chắc. 5.Tăng cường vai trò hướng dẫn, điều tiết và kiểm soát của nhà nước đối với nền kinh tế tư nhân. Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế tư nhân là một yêu cầu khách quan, nhằm khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường làm cho toàn bộ hoạt động kinh tế hướng vào mục tiêu hiệu quả, công bằng, ổn định và tăng trưởng. Để khỏi đi chệch hướng XHCN, một yêu cầu khách quan đặt ra cho công tác quản lý tầm vĩ mô là phải hướng dẫn, điều tiết và kiểm soát kinh tế tư nhân theo định hướng XHCN. Một mặt, bằng một hệ thống pháp luật Nhà nước XHCN, tạo môi trường và hành lang thuận lợi cho các đơn vị sản xuất và kinh doanh hoạt động, phát huy mọi tiềm năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động, kinh nghiệm kinh doanh và kinh nghiệm quản lý để phát triển sản xuất tư nhân một cách sôi động, phong phú và đa dạng. Mặt khác, nhà nước cần nắm giữ vai trò điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá, tiền tệ, thống nhất quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh nội địa và kinh doanh xuất nhập khẩu, tăng cường vai trò kiểm tra, kiểm soát để ổn định kinh tế vĩ mô, kích thích tăng trưởng kinh tế cao, bảo đảm công bằng, tránh sự phân cực quá mức về thu nhập, bảo vệ môi trường, hướng sản xuất tư nhân theo đúng quỹ đạo XHCN. 6. Một số kiến nghị. Để phát triển tốt nền kinh tế tư nhân ở Việt Nam em có một số nhận xét sau: Nhà nước cần tạo nên một môi trường tốt cho các nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn trong nước để tạo điều kiện tăng khối lượng xuất khẩu sang các nước, đồng thời cũng giữ vững được thị trường trong nước không bị thị trường nước ngoài chiếm đoạt. Nhà nước cũng nên đầu tư chất xám cho lớp trẻ kế cận là nhân tố vô cùng quý giá trong tương lai để đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, để trở thành một nước công nghiệp phát triển. Việt Nam nên mở cửa thị trường bằng cách gia nhập vào thương mại toàn cầu, vào khu vực (WTO,APEC...) để được hưởng các quy chế tối huệ quốc và những ưu đãi giành cho các nước đang phát triển trong buôn bán quốc tế. Đây là một cách tốt nhất để học hỏi kinh nghiệm quản lý kinh tế của những nước phát triển, từ những thành tựu của họ biến thành những cái của mình. Mặt khác Nhà nước nên có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh làm cơ sở vững chắc trên con đường phát triển bước vào thế kỷ 21. Đối với bản thân, em sẽ cố gắng học hỏi thầy cô, bạn bè, xã hội...để có một kiến thức nhất định góp phần nhỏ bé của mình xây dựng đất nước ngày càng giầu đẹp hơn. Kết luận Trong công cuộc đổi mới kinh tế của nước ta hiện nay, chúng ta thấy nên tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là một tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản, là con đường duy nhất mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn để đưa đất nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đuổi kịp một số nước trong khu vực và trên toàn thế giới. Nền kinh tế tư nhân của chúng ta đã tận dụng được những lợi thế so sánh từ tài nguyên, nguồn lực bên trong kết hợp khoa học kỹ thuật bên ngoài, tạo ra năng suất lao động ngày càng cao, giải quyết được nhiều việc làm, hạn chế được lạm phát... Đó là những mặt thuận lợi trước mắt, nhưng nền kinh tế tư nhân cũng có một số hạn chế nhất định như gây ra nhiều mâu thuẫn trong xã hội, bản sắc văn hoá dân tộc bị mai một nên cần có một đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Thực tiễn 15 năm đổi mới cho chúng ta khái quát được nền kinh tế Việt Nam ngày càng đổi mới, bộ mặt xã hội được thay đổi từng ngày, cuộc sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, giáo dục y tế ngày được chăm sóc tốt hơn...Đó là con đường Đảng và Nhà nước ta đã chọn để thực hiện tốt công cuộc đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, ngày càng chiếm được lòng tin của nhân dân. Đây chính là nhân tố quyết định đưa đất nước ta bước sang thế kỷ thứ 21. Tài liệu tham khảo - Đảng Cộng sản Việt nam, văn kiện đại hội đại biểu lần thứ 7, 8, 9. - Đảng Cộng sản Việt Nam các nghị quyết hội nghị lần thứ 5, ban chấp hành Trung ương khoá 9. - Tiến sỹ Hà Huy Thành - Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà nội 2002. - Đảng cộng sản Việt nam văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 7, 8,9. - Tiến sỹ Nguyễn Văn Dân - Những vấn đề toàn cầu hoá kinh tế - Nhà xuất bản Khoa học xã hội - Hà nội 2001. - Giáo sư tiến sỹ Dương Phú Hiệp - Toàn cầu hoá kinh tế - Nhà xuất bản KHXH - Hà nội 2001. Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin (trường đại học kinh tế quốc dân) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28289.doc
Tài liệu liên quan