Tài liệu Tiếp cận nguồn vốn ưu đãi cho sinh viên: Thực trạng và giải pháp: LỜI MỞ ĐẦU
Giáo dục ĐH luôn là một vấn đề được toàn xã hội quan tâm, nhất là khi nhu cầu của xã hội của về lao động có trình độ ngày càng cao. Nằm trong lộ trình công tác xã hội hóa giáo dục và đặc biệt là đề án tăng học phí của Bộ GD-ĐT chương trình tín dụng ưu đãi cho SV lại một lần nữa được chính phủ đưa ra. Với mục tiêu không để SV nào phải bỏ học, chương trình đã thực sự đem lại cơ hội học ĐH cho rất nhiều SV nghèo. Chương trình gồm các chính sách về vấn đê tín dụng ưu đãi cho SV mà gần đâ... Ebook Tiếp cận nguồn vốn ưu đãi cho sinh viên: Thực trạng và giải pháp
36 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1396 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Tiếp cận nguồn vốn ưu đãi cho sinh viên: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y nhất là Nghị quyết 157 của Chính Phủ đã đem lại hiệu quả xã hội rất lớn.
Với góc độ là những sinh viên_đối tượng thụ hưởng chính của những chính sách này, chúng tôi xin đóng góp một cách nhìn tổng quát về các chính sách tín dụng ưu đãi cho SV trong suốt thời gian qua. Trong quá trình thực hiện do hạn chế về khả năng và kiến thức nên đề tài này của chúng tôi không tránh khỏi sai sót. Rất mong nhận được sự đóng góp từ phía các bạn và thầy cô.
Hà Nội ngày 25 tháng 4 năm 2008
Nhóm thực hiện đề tài
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Hiện nay chi phí cho giáo dục đại học của mỗi gia đình Việt Nam là rất lớn- theo báo cáo thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 2007 là 838 USD/ năm tức vào khoảng 13 triệu đồng Việt Nam trong khi theo dự kiến của ngân hàng chính sách thì mỗi sinh viên cần trung bình 12 triệu đồng/năm.như vậy khoản chi phí cho một SV theo học đã chiếm gần hết thu nhập của một gia đình.Đấy là chưa kể nếu gia đình đó có tới 2 hoặc 3 người theo học thì gánh nặng sẽ là qua lớn cho họ. Cũng theo thống kê thì tỷ lệ nghèo khổ của Việt Nam năm 2007 là 15% .Số lượng sinh viên nghèo phải nghỉ học vì không có đủ tiền trang trải chi phí học tập để hàng năm là rất lớn.
Các chính sách hỗ trợ tín dụng cho sinh viên bắt đầu khởi động từ năm 1998 với Quyết Định 51/1998/QĐ-TTG của Thủ tướng chính phủ ra ngày 2 tháng 3 năm 1998 về việc lập “Quỹ Tín Dụng dành cho sinh viên”. Cho đến nay thủ tướng đã đưa ra thêm hai Quyết Định về tín dụng ưu đãi cho sinh viên là : Quyết Định 107/2006/QĐ-TTG ra ngày 18 tháng 5 năm 2006 và Quyết Định 157/2007/QĐ-TTG ra ngày 27 tháng 9 năm 2007. Trong đó phải nói đến quyết định 157/2007/QĐ-TTG đã nới lỏng các điều kiện vay của sinh viên và đã đem lại rất nhiều thay đổi trên thị trường tín dụng ưu đãi cho sinh viên trong thời gian gần đây.
Ban đầu các chính sách trên được giao cho ngân hàng Công Thương Việt Nam, bắt đầu từ năm 2003, quỹ tín dụng đào tạo dành cho chương trình vay vốn của sinh viên được chuyển sang cho Ngân hàng Chính sách xã hội
Sau hơn 4 năm hoạt động, tính đến hết tháng 7-2007 Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam đạt tổng nguồn vốn 30.851 tỷ đồng, dư nợ cho vay đạt 28.984 tỷ đồng; trong đó dư nợ cho vay hộ nghèo lớn nhất, đạt 22.238 tỷ năm và tăng gấp hơn 4 lần cuối năm 2002. Hiện nay có 99.563 sinh viên, học sinh tại hơn 250 trường đại học, cao đẳng,… trong toàn quốc đang dư nợ vốn vay học tập từ Ngân hàng chính sách xã hội.
Như vậy có thể thấy việc cần có một hình thức hỗ trợ sinh viên là rất cần thiết. Việt Nam đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và lực lượng lao động trẻ có trình độ là rất cần thiết cho sự phát triển của xã hội. Tuy có những chính sách tín dụng hỗ trợ cho sinh viên chưa đủ mà cần có những hướng dẫn, quy định trong quá trình thực hiện để các chính sách đó đi vào đời sống và thực sự giúp đỡ được các sinh viên, sinh viên có thể tiếp cận được tốt hơn, dễ dàng hơn với các chính sách đó.
Do vậy chúng tôi thực hiện đề tài: “Tiếp cận nguồn vốn ưu đãi của sinh viên: Thực trạng và giải pháp” nhằm đóng góp một cách nhìn vào bức trang toàn cảnh thị trường vốn vay ưu đãi cho sinh viên trong suốt giai đoạn vừa qua, đồng thời đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm cải thiện những vướng mắc trong quá trình đưa các chính sách đó tiếp cận với sinh viên.
2. Bố cục của đề tài
Phần I: Phần mở đầu
Lý do chọn đề tài
Bố cục đề tài
Tài liệu tham khảo
Phần II: Nội dung
Chương I: Vai trò của tín dụng đối với giáo dục đại học và kinh nghiệm của các nước
I. Mối quan hệ giữa vốn với giáo dục
1.Cầu giáo dục và các nhân tố ảnh hưởng đến cầu giáo dục
2.Vai trò của vốn với giáo dục
II. Sự cần thiết của tín dụng ưu đãi cho SV
III. Kinh nghiệm quốc tế trong việc cấp tín dụng ưu đãi cho SV
1.Các nước để lựa chọn lấy kinh nghiệm
2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Chương II. Thực trạng về tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi cho SV
I. Tổng quan về chính sách, tín dụng ưu đãi cho SV
II.Đánh giá khả năng tiếp cận tín dụng ưu đãi của SV
1. Kết quả
2. Tồn tại và nguyên nhân
Chương III.: Một số giải pháp cơ bản cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng ưu đãi cho SV
I. Những thách thức trong việc cấp tín dụng ưu đãi cho SV
II.Giải pháp cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng ưu đãi cho SV
III. Kiến nghị
Phần III: Kết luận
3. Tài liệu tham khảo
- Kinh tế học cho thế giới thứ 3
- Số liệu thống kê của Ngân hàng chính sách
- Báo điện tử Vietnamnet, dân trí
- Webside của chính phủ và ngân hàng chính sách
4. Các từ viết tắt
QĐ: Quyết định
GD-ĐT: Giáo dục đào tạo
SV: Sinh viên
ĐH: Đại học
CĐ: Cao đẳng
CBXH: Công bằng xã hội
HSSV: Học sinh sinh viên
NHCSXH: Ngân hàng chính sách xã hội
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: Vai trò của tín dụng đối với GD đại học và kinh nghiệm quốc tế của các nước
I. Mối quan hệ giữa vốn và GD
1. Cầu giáo dục và các nhân tố ảnh hưởng đến cầu giáo dục đại học.
Trong xu thế hội phát triển và hội nhập mạnh mẽ như hiện nay thì việc tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực là hết sức cần thiết với mỗi quốc gia đặc biệt với các nước đang phát triển như Việt Nam. Vì vậy các cấp học: đại học, cao đẳng và trung học dạy nghề có vị trí hết sức quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Nó góp phần đem lại các ý tưởng, nhân lực có trình độ tay nghề, tạo ra sự bình đẳng,phẩm giá và sự phát triển của con người.
Giáo dục đại học ở các nước đang phát triển là một cấp học có số học sinh ít hơn nhiều so với học sinh tiểu học và trung học phổ thông.
Tham gia giáo dục đại học và cao đẳng cũng như dạy nghề chuyên nghiệp là mong muốn của nhiều gia đình nghèo với hy vọng sẽ có được 1 việc làm, 1 mức thu nhập tốt hơn trong tương lai.
Nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận và đứng trước một thực tế đó là: những người giàu lại có cơ hội tiếp cận với loại hình giáo dục này nhiều hơn. Bởi chi phí cho giáo dục đại học là rất lớn so với các cấp học khác.
Cầu giáo dục chịu ảnh hưởng của 2 yếu tố:
Thứ nhất: Triển vọng kiếm được khoản thu nhập cao, đáng kể của người học sinh được đào tạo nhiều hơn nhằm vào khu vực hiện đại trong tương lai.
Chênh lệch về tiền lương họăc thu nhập giữa những việc làm trong khu vực hiện đại và những việc làm ngoài khu vực đó. Việc đi vào khu vực hiện đại tuỳ thuộc vào trước hết học vấn đã hoàn tất, trong khi những cơ hội kiếm được thu nhập trong khu vực truyền thống không có những yêu cầu cố định về giáo dục.
Chênh lệch thu nhập giữa khu vực hiện đại với khu vực truyền thống càng lớn thì cầu về giáo dục càng lớn. Như vậy mối quan hệ thứ nhất nói lên rằng, cầu về giáo dục có liên quan tỷ lệ thuận với mức chênh lệch tiền lương giữa các khu vực hiện đại và truyền thống. Qua nhiều điều tra cho thấy mức chênh lệch ấy đáng kể ở phần lớn các nước đang phát triển. Vì vậy cầu về giáo dục sẽ rất lớn.
Khả năng thành công trong khi tìm việc làm ở khu vực hiện đại.
Một các nhân hoàn thành được nội dung học ở trường cần thiết cho việc tiếp cận thị trường lao động trong khu vực hiện đại và có khả năng kiếm được mức lương cao.
Thứ hai: Những chi phí cho giáo dục mà cá nhân/ gia đình phải gánh chịu:
Chi phí trực tiếp của cá nhân cho giáo dục đại học:
Những chi phí này bao gồm học phí, sách vở, áo quần và các khoản chi có liên quan khác. Cầu giáo dục sẽ tỷ lệ nghịch với những chi phí trực tiếp ấy, tức là học phí và các khoản chi phí khác càng cao thì cầu về giáo dục càng thấp khi mọi yếu tố khác như nhau.
Chi phí gián tiếp hoặc chi phí cơ hội cho giáo dục.
Những chi phí cơ hội này, cũng là một trong những biến số tác động đến cầu trong giáo dục. Mối quan hệ này cũng là mối quan hệ tỷ lệ nghịch nghĩa là chi phí cơ hội càng lớn thì cầu trong giáo dục càng thấp.
Mặc dù còn nhiều biến số khác, trong đó có một số thuộc loại phi kinh tế bao gồm truyền thống văn hoá, địa vị xã hội, học vấn của các bậc cha mẹ và quy mô gia đình, chắc chắn ảnh hưởng tới cầu về giáo dục, nhưng chúng tôi chỉ tập trung vào phân tích 2 yếu tố trên.
2. Vốn trong giáo dục đại học:
Vốn cho giáo dục đại học phần lớn là do ngân sách nhà nước cấp, đây là khoản chi thường xuyên trong ngân sách của chính phủ. Nó có vai trò quan trọng trong sự phát triển chung của toàn hệ thống giáo dục nước nhà và hệ thống giáo dục đại học nói riêng.
Hiện nay, công tác giáo dục của chúng ta đang phát triền rất mạnh mẽ phù hợp với xu thế phát triển chung của đất nước. Vì vậy nền giáo dục của chúng ta đang cần rất nhiều vốn để cải cách hướng tới một tiêu chuẩn quốc tế và xu hướng xã hội hoá giáo dục bằng cách tăng học phí đang được đẩy mạnh.
Nhưng việc tăng vốn bằng cách tăng học phí lại đặt chúng ta đứng trước một thực tế đó là cầu giáo dục đại học sẽ giảm vì như đã phân tích ở trên cầu giáo dục lại tỷ lệ nghịch với chi phí mà học sinh phải gánh chịu. Khi học phí tăng đồng nghĩa với việc chi phí trực tiếp và gián tiếp đều tăng làm cho nhiều sinh viên không có khả năng gánh chịu phần chi phí này phải bỏ học.
Vì vậy sự ra đời của các nguồn vốn tín dụng cho sinh viên là hết sức cần thiết. Chúng ta có thể chỉ ra được các yếu tố ảnh hưởng đến tiếp cận nguồn vốn tín dụng đối với sinh viên được xem xét từ 2 phía:
Từ phía chính phủ: các chính sách, quyết định của chính phủ sẽ có những quy định rất cụ thể về: đối tượng, quy chế cho vay, thời hạn vay… vì thế đây sẽ là những căn cứ chính xác cho sinh viên có thể chủ động tiếp cận với nguồn vốn.
Từ phía sinh viên:
Khả năng tài chính của gia đình sinh viên: Với những gia đình có mức thu nhập trung bình, việc trang trải những khoản chi phí cho con em đang trở thành gánh nặng rất lớn.Vì vậy, việc tăng học phí sẽ làm cho gánh nặng này càng nặng hơn, rất nhiều sinh viên đang theo học có nguy cơ phải bỏ học. Và họ sẽ là những người mong muốn được tiếp cận với nguồn vốn.
Năng lực của sinh viên: những sinh viên có năng lực, có kết quả học tập tốt sẽ tin vào thu nhập mình kiếm được trong tương lai, tin vào khả năng trả nợ của mình.
II. Sự cần thiết của tín dụng ưu đãi cho SV
Cung cấp tài chính cho giáo dục đại học (GDĐH), trong đó có nguồn từ học phí, là một chính sách hết sức quan trọng, hết sức phức tạp và lại khá nhạy cảm của mọi quốc gia. Chính sách này “là nền tảng chi phối phần lớn ba chủ đề bao quát về chính sách của GDĐH hiện đại: chất lượng, công bằng xã hội và hiệu quả”
Các chương trình cho sinh viên vay vốn trên thế giới nhìn chung gồm 5 nhóm mục tiêu cơ bản sau:
1. Tạo nguồn thu nhập có các trường đại học công lập (do có thể tăng mức học phí) nhằm đảm bảo mức “Chi phí đơn vị - chi phí đào tạo 1 SV trong 1 năm - đang tăng lên để duy trì chất lượng, đối phó với việc nhà nước (NN) chuyển bớt ngân sách nhà nước (NSNN) dành cho GDĐH sang các bậc GD phổ cập…
2. Thứ hai là tạo điều kiện để mở rộng hệ thống GDĐH
3. Tăng cơ hội tiếp cận GDĐH cho người nghèo, đảm bảo CBXH trong GDĐH
4. Đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực nằm trong ưu tiên quốc gia.
5. Giảm bớt gánh nặng tài chính lên tất cả các nhóm SV, đồng thời có thể tăng cường trách nhiệm của SV và mang lại khả năng có thể độc lập về tài chính cho họ
Chương trình tín dụng ưu đãi cho sinh viên ở Việt Nam có thể hiểu, mục tiêu chính là mục tiêu (3) tăng cơ hội tiếp cận GDĐH cho người nghèo.
Tuy nhiên, chương trình đưa ra trong bối cảnh chính sách học phí của NN sắp thay đổi cũng như thực tiễn: Đang mở rộng qui mô GDĐH, đang đưa tỷ lệ SV ở các ĐH tư thục từ khoảng 23% hiện nay lên đến 30-40% vào năm 2020 v...v…, do đó có lẽ không thể không có mục tiêu (1) , (2)và (5)và thực tế khi chương trình này được thực hiện tự nó đã vô hình chung giải quyết tất cả các mục tiêu đã đề ra .Như vậy có thề nói đây là một chương trình có ý nghĩa xã hội hêt sức to lớn!
Sau đây là hai nhóm mục tiêu có thể coi là cơ bản với chương trình tín dụng cho sv hiện nay ở nước ta:
1.Nhóm mục tiêu về công bằng xã hội:
Có một vài ước tính cho rằng mức độ mất công bằng trong GDĐH, biểu thị bằng tỉ lệ số con em của nhóm 20% số dân cư giàu nhất và của nhóm 20% số dân cư nghèo nhất được hưởng thụ GDĐH, hiện nay ở VN đã đến trên dưới 20 lần, khoảng hơn hai lần mức phân hóa giàu nghèo, tính theo tỉ lệ thu nhập trung bình của hai nhóm dân cư này.
VN đã vào WTO. Điều này có nghĩa, nguồn nhân lực của VN, và từ đó là nền Giáo dục Đại học (GDĐH) cũng như nguồn cung cấp tài chính cho nền GD, nay cũng phải được đặt trên cùng một mặt bằng so sánh với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Trong bối cảnh đó, một lần nữa, Đề án điều chỉnh tăng học phí lại được soạn thảo. Tuy nhiên, tăng học phí, không ít sinh viên (SV) nghèo sẽ phải bỏ học. Vậy, làm thế nào để giải bài toán Công bằng xã hội (CBXH) trong GDĐH? Theo GS. Phạm Phụ: Tăng học phí là để đảm bảo nguồn tài chính tối thiểu cho việc đảm bảo chất lượng đào tạo. Và, đây cũng là xu thế chung trên toàn thế giới trong vài chục năm gần đây, khi mà GDĐH đã là nền GD cho số đông, đã có tính toàn cầu, “chi phí đơn vị” (cho 1 SV trong 1 năm) tăng lên rất nhanh và dịch vụ GDĐH được xem là “hàng hóa cá nhân” hơn là “hàng hóa công cộng”.
Tuy nhiên không ai co thề phủ nhận GDĐH cung là một loại hàng hóa công cộng: “tấm bằng ĐH” không chỉ đem lại lợi ích cho người học mà còn có những đóng góp đáng kể cho cộng đồng, cho phát triển kinh tế - xã hội, năng suất lao động xã hội sẽ cao hơn, sau này có thể đóng góp thuế thu nhập cho xã hội nhiều hơn.
Trong bối cảnh mới, VN sẽ chuyển từ nền kinh tế thâm dụng lao động sang thâm dụng vốn, công nghệ... Khi thâm dụng lao động, người nghèo có lao động, tình hình phân hóa giàu nghèo chưa đến mức gây cấn. Nhưng khi thâm dụng vốn, công nghệ..., người nghèo không có các thứ này, tình hình có xu thế sẽ xấu hơn. Khi đó, mất CBXH trong GDĐH sẽ trở thành rất nghiêm trọng, nếu không có giải pháp ngay từ bây giờ mức độ phân hóa trong GDĐH sẽ còn tăng cao hơn rất nhiều so với mức độ phân hóa giàu nghèo.
Và trong bối cảnh đó chương trình này có lẽ là một giải pháp hết sức hữu hiệu không thể bỏ qua!
2. Hỗ trợ đề án tăng học phí trong khuôn khổ công tác xã hội hóa giáo dục:
Tăng học phí là một điều không thề tránh được ,nó sẽ giảm bớt gánh nặng của NSNN lâu nay phải chịu trong công tác giáo dục và chia sẻ phần chi phí đó đối với những đối tượng thích hợp mà cụ thể ở đây chính là SV. Nhưng người được hưởng thành quả trực tiếp từ công tác giáo dục.Như vậy cần phải có sự đóng góp của chính SV thông qua chính sách “cho SV vay vốn có trợ cấp” của Nhà nước. Có như vậy mới vừa tạo điều kiện cho người nghèo được học ĐH vừa tăng được trách nhiệm của bản thân SV.
Tín dụng cho sinh viên xuất hiện ở các nước tiên tiến như một biện pháp hỗ trợ giải quyết vấn đề trang trải chi phí học tập. Loại hình cho vay này cần thiết trong điều kiện giáo dục đại học không miễn phí và cuộc sống ở các đô thị - nơi có các trường đại học - ngày càng đắt đỏ, trong khi người vay - tức sinh viên - lại chưa có điều kiện lao động tạo thu nhập ổn định
Lâu nay vấn đề xã hội hóa giáo dục vẫn được nhắc tới thường xuyên và bài toán chia sẻ chi phí vẫn luôn được đặt ra .nhưng không phải cứ nói là có thể thực hiện được.đi cùng với nó sẽ là rất nhiều ván đè xã hội nảy sinh nhất là khi vấn đề chạm tới ở đây lại là giáo dục.Và trong trường hợp này chương trình tín dụng cho sinh viên lại là một cứu cánh!
III. Kinh ngiệm quốc tế trong việc cấp tín dụng ưu đãi cho SV
1. Các nước lựa chọn để lấy kinh nghiệm:
Để giải quyết bài toán công bằng xã hội trong giáo dục đại học, chương trình cho sinh viên vay vốn với quy mô ngày càng lớn hiện đã phổ biến ở hơn 50 nước trên thế giới, Đã có nhiều nước như Anh, Úc, các nước Nam Mỹ và Thái Lan… Trong những năm gần đây họ đã thực hiện chính sách cho sinh viên vay vốn có tài trợ của nhà nước từ một quỹ cho vay theo kiểu đặc biệt, vay vốn không chỉ để trả học phí mà còn để trang trải chi phí ăn học, kèm theo chính sách học bổng và tài trợ cho SV con các gia đình nghèo.
Ví dụ kiểu cho vay gọi là income contigent repayment đã được áp dụng ở nhiều nước. Theo chính sách này, nguồn ngân sách nhà nước chi bình quân cho một SV không tăng, phần lớn chi phí đó là do SV gánh chịu nhưng sự gánh chịu ở trong tương lai (trả nợ) chứ không phải trong hiện tại.
Còn ở Đức, chúng ta có thể tham khảo quy trình cho vay của họ như sau:
Mỗi sinh viên du học được yêu cầu mở một tài khoản (loại giới hạn, chỉ dành cho SV) tại ngân hàng. Sau đó, tiền của người đi học sẽ được chuyển vào tài khoản này với số lượng nhất định (thông thường 6600 euro/năm).
Số tiền có thể rút được từ tài khoản này: 550 euro/tháng không được nhiều hơn, nó bằng với chi phí tối thiểu hàng tháng của mỗi SV.
Với số tiền đóng ban đầu 6600 euro thì luôn đảm bảo cho người chủ tài khoản có thể đủ chi tiêu trong 1 năm. Ngoài ra, số tiền trong tài khoản còn được dùng để chứng minh tài chính khi gia hạn visa.
Đây sẽ là những bài học vô cùng quý báu khi thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi ở Việt Nam.
2. Bài học kinh nghiệm cho VN
Từ quy trình của Đức và kinh nghiệm của các nước trên thế giới, VN có thể thực hiện theo quy trình sau:
Bước 1: Xác định mức chi tiêu tối thiểu cho một SV trong 1 học kỳ hay 1 năm, chẳng hạn 1,2 triệu/tháng.
Bước 2: Mỗi SV có yêu cầu vay vốn bắt buộc phải mở một tài khoản loại giới hạn tại ngân hàng (bất kỳ, đây là loại tài khoản ưu đãi không thu phí dành cho SV). SV ký hợp đồng vay nợ với ngân hàng, nơi cho vay sẽ chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản đó. Khoản cho vay cơ bản sẽ gồm: tiền học phí và chi phí sinh hoạt, học tập.
Bước 3: Về học phí, ngân hàng cho vay có thể chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản của nhà trường nơi SV theo học, SV chỉ cần đem biên lai nộp học phí đến ngân hàng và yêu cầu chuyển tiền. Còn khoản chi phí thì ngân hàng sẽ chuyển trực tiếp vào tài khoản của SV.
Bước 4: Điều kiện bắt buộc cho vay là SV phải xuất trình phiếu đăng ký môn học của mỗi học kỳ kèm theo biên lai thu học phí của nhà trường. Ngân hàng chỉ giải ngân cho từng học kỳ.
Như vậy, cách làm này có những ưu điểm sau:
Thứ nhất, hạn chế tối đa SV sử dụng tiền cho vay đóng học phí không đúng mục đích, học phí luôn đến được nơi cần thu (nhà trường), SV luôn có tiền để đảm bảo các chi tiêu tối thiểu.
Thứ hai, trường hợp khi tiền rút nhiều đến mức giới hạn, SV sẽ không rút được nữa, 1 hoặc 2 lần như vậy sẽ giúp cho SV có ý thức chi tiêu. Trong trường hợp SV đi làm thêm có thêm các nguồn thu nhập, họ có thể để trong tài khoản này và có quyền chi tiêu ở số dư trên ngưỡng giới hạn.
Thứ ba, hầu hết các trường đại học đều tập trung tại các đô thị lớn tập trung nhiều các ngân hàng, do vậy có thể đáp ứng nhu cầu rút tiền của SV.
Thứ tư, biện pháp này cũng bắt buộc nhà trường nâng cao nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt, tiến tới cho phép tất cả SV đóng học phí qua ngân hàng theo xu thế tất yếu của thị trường. Nhà trường phải được đặt trong sức ép bắt buộc đổi mới phương pháp làm việc.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ TIẾP CẬN VỐN TÍN DỤNG ƯU ĐÃI CHO SINH VIÊN VIỆT NAM
I. Tổng quan về chính sách, tín dụng ưu đãi cho sinh viên.
Chính sách ưu đãi tín dụng cho sinh viên là một chính sách đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của sinh viên hiện nay. Trong đó phải kể đến 3 Quyết định về vấn đề này của Thủ Tướng chính phủ, bao gồm:
Quyết định 51/1998/QĐ-TTG của Thủ tướng chính phủ ra ngày 2 tháng 3 năm 1998 về việc lập “Quỹ Tín Dụng dành cho sinh viên”.
Quyết Định 107/2006/QĐ-TTG ra ngày 18 tháng 5 năm 2006 về tín dụng với học sinh, sinh viên
Quyết Định 157/2007/QĐ-TTG ra ngày 27 tháng 9 năm 2007 về tín dụng đối với học sinh sinh viên
Về việc lập “Quỹ Tín Dụng dành cho sinh viên”.
Có thể thấy ngay từ năm 1998 đã có những chính sách ban đầu về hỗ trợ sinh viên vay vốn cho học tập, bằng việc thành lập Quỹ tín dụng dành cho sinh viên nhưng thực sự hoạt động của nó vẫn không mang lại hiệu quả như mong muốn. Cụ thể là việc tiếp cận với nguồn vốn vay trong giai đoạn này vẫn gặp rất nhiều khó khăn và ngân sách dành cho nó không nhiều, không đủ đáp ứng những nhu cầu của sinh viên . Theo thống kê ngân sách ban đầu là 100 tỷ trong đó ngân sách Nhà Nước chỉ đóng góp 30%, phần còn lại huy động từ các nguồn khác như đóng góp của các ngân hàng thương mại, của các tổ chức...do vậy không thể đáp ứng được các nhu cầu của sinh viên. Mặt khác Nghị Định này cũng yêu cầu giao cho một ngân hàng Thương Mại hoặc ngân hàng Quốc Doanh nên không tạo được động lực cho các ngân hàng này triển khai một cách tích cực hoạt động này, sở dĩ như vậy là do các khoản vay này mang tính rủi ro rất cao và với mức lãi suất cho vay tối đa của Quỹ bằng 50% mức trần lãi suất cho vay ngắn hạn hoặc lãi suất cho vay thông thường bình quân do Ngân hàng Nhà nước công bố. Trong giai đoạn này một trong những lý do làm cho sinh viên khó tiếp cận với Quỹ này là do các hướng dẫn không cụ thể, việc tuyên truyền vẫn chưa phổ biến rộng rãi, khi vay phải thế chấp và đối tượng vay cũng giới hạn trong những sinh viên nghèo phải được chứng minh. Chính vì vậy Quỹ này hoạt động không hiệu quả trong suốt một thời gian dài. Trên thực tế nhu cầu vay vốn của sinh viên là rất lớn mà hoạt động của Quỹ lại bị đình trệ một thời gian do không đủ nguồn vốn hoạt động đã gây ra rất nhiều khó khăn cho sinhviên nghèo theo học tại các trường Đại Học
Trong khi đang chờ chính sách tín dụng mới thay thế Quyết định số 51/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về lập quỹ tín dụng đào tạo, bắt đầu từ ngày 1.2.2006, Ngân hàng Chính sách xã hội cho sinh viên vay thông qua hộ gia đình, gia đình trực tiếp nhận nợ và chịu trách nhiệm trả nợ. Mỗi gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, có con đang học tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp được vay vốn tối đa 3 triệu đồng/năm học, với lãi suất ưu đãi như cho vay đối với hộ nghèo. Tuy nhiên, việc thực hiện vay vốn thông qua hộ gia đình này chỉ được áp dụng cho các sinh viên vay vốn lần đầu tiên. Còn đối với những sinh viên đang tiếp tục hợp đồng tín dụng thì họ chỉ tiếp tục thực hiện quản lý, thu hồi nợ, phía ngân hàng sẽ không tiếp tục giải quyết để sinh viên chuyển hình thức vay vốn thông qua các hộ gia đình.
Vào năm 2002, Chính phủ có ban hành một Nghị Định số 78/2002/NĐ-CP ngày 4 tháng 10 năm 2002 về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong đó tại điều 2 của chương 1 quy định rõ về đối tượng được vay vốn ưu đãi là học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và học nghề. Tiếp sau đó là Nghị Định Số 107/2006/QĐ-TTG về chính sách tín dụng cho sinh viên, nghị định này là một bước chuyển đổi mạnh mẽ trong vấn đề tín dụng dành cho sinh viên. So với Nghị Định về thành lập Quỹ Tín dụng dành cho sinh viên thì nghị định này đã có những thay đổi trong cách thức huy động và quản lý vốn cũng như nới lỏng các quy định về cho vay đối với sinh viên. Cụ thể ở đây, Ngân hàng chính sách được giao nhiệm vụ để đảm bảo cung cấp các khoản vay cho sinh viên, nguồn chủ yếu lấy từ ngân sách Nhà Nước, đối tượng vay cũng được quy định rõ ràng trong các văn bản, chỉ thị hướng dẫn, trong đó đối tượng vay vốn chỉ cần là các sinh viên đang theo học tại các trường Đại học, cao đẳng và trung cấp dạy nghề có hoàn cảnh khó khăn. Trong quá trình vay vốn cũng không cần thế chấp tài sản và mức lãi suất cho vay được ấn định là 0,65%/tháng, trong thời gian học chưa cần trả ngay vốn và lãi. Tuy nhiên mức vay quy định của chính sách này là quá thấp: 300.000 đồng/tháng. Với mức sống vào thời kỳ đó thì mức cho vay như vậy chỉ có thể đáp ứng được ¼ nhu cầu sinh hoạt của sinh viên hiện nay. Chính vì thế mà sinh viên không mấy mặn mà với cách vay tín dụng ưu đãi như thế này. Mặt khác vấn đề thiếu vốn và giải ngân chậm cũng là một thách thức không nhỏ đối với hiệu quả của chính sách. Đây là chính sách cho vay ưu đãi nên nguồn vốn chỉ có một tỷ lệ nhỏ là thu nợ để tái cho vay tiếp, còn chủ yếu phải được cân đối từ Ngân sách Nhà nước, hàng năm cấp cho Ngân hàng chính sách để cho vay. Tuy nhiên đến hết tháng 7 - 2007 đã đạt gần 70% kế hoặch cả năm, trong khi đó số lượng sinh viên, học sinh trúng tuyển và năm học mới tại các trường Đại học, cao đẳng trong cả nước tăng mạnh, lại bắt đầu vào năm học mới, nên nhu cầu vay cũng rất lớn.
Về phối hợp thực hiện cho vay vốn cũng còn rất nhiều vướng mắc. Tại nhiều địa phương, chính quyền không sẵn sàng xác nhận hoàn cảnh khó khăn cho gia đình học sinh, sinh viên. Đặc biệt là, tại hầu hết các xã, phường, với bệnh “ thành tích” nên không ít địa phương không đưa gia đình có hoàn cảnh khó khăn vào diện hộ nghèo, vì như vậy tỷ lệ hộ nghèo của địa phương bị cao, ảnh hưởng đến thành tích của địa phương. Đó là chưa kể tình trạng hành chính, quan liêu hay tiêu cực khác trong việc xác nhận hoàn cảnh khó khăn cho học sinh, sinh viên để được vay vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội. Đặc biệt là tại số đông các trường đại học, cao đẳng, việc tạo điều kiện hỗ trợ cho học sinh, sinh viên vay vốn lại coi không phải là chức năng, nhiệm vụ của họ. Do đó nhiều trường thờ ơ với công việc này.
Về phương thức cho vay, theo quy định hiện hành thì Ngân hàng Chính sách xã hội giải ngân trực tiếp cho gia đình học sinh, sinh viên ở địa phương. Sau đó gia đình chuyển tiền cho con em học tập tại trường, nếu chuyển qua Ngân hàng chính sách xã hội thì không phải trả phí chuyển tiền. Đẩy mạnh cho vay, hệ thống Ngân hàng chính sách xã hội không những được thành tích trong, mà còn được hưởng cơ chế tài chính theo quy định của Bộ Tài chính, nên họ tích cực và chủ động triển khai, song sự thiếu hụt về nguồn vốn và thiếu sự phối hợp chặt chẽ đang là vướng mắc lớn trong triển khai chính sách tín dụng ưu đãi học tập.
Để thay đổi cũng như giải quyết các vấn đề còn tồn đọng thì vào ngày 27 tháng 9 năm 2007 Chính Phủ ra một nghị định mới thay thế cho Nghị định 107/2007/QĐ-TTG trong đó đã có nhiều điều khoản rõ ràng, cụ thể và hợp lý hơn trước. Ví dụ như tăng số tiền cho sinh viên vay từ 300.000 đồng lên 800.000 đồng 1 tháng và lãi suất là 0,5%/ tháng. Ngoài ra cũng quy định rõ thời gian trả nợ là 9 năm (đối với sinh viên học hệ đại học 4 năm), bên cạnh đó Chính phủ cũng đã có những văn bản quy định, hướng dẫn việc thực hiện quá trình cho vay vốn và giải ngân vốn tại các địa phương thông qua Ngân hàng chính sách. Các thủ tục vay vôn rất đơn giản, không cần thế chấp: Sinh viên chỉ cần giấy chứng nhận là sinh viên của trường và đơn xin vay vốn là có thể vay vốn tại các ngân hàng chính sách tại các địa phương. Về vấn đề thiếu vốn thì chưa thể giải quyết ngay nhưng theo thông tin mới nhất: Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại QĐ số 319/QĐ-TTg ngày 25/3/2008 về việc bố trí đủ vốn cho thực hiện chương trình tín dụng đối với học sinh, sinh viên, ngày 1/4/2008 Bộ Tài chính đã chuyển 1.500 tỷ đồng vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội để cho vay đối với HSSV trong học kỳ II năm học 2007 – 2008 theo kế hoạch đã đề ra.
Trước đó, ngày 15/2/2008 Bộ Tài chính đã tạm ứng 1.000 tỷ đồng tiền chuyển Ngân hàng chính sách. Ngoài ra, để kịp thời thực hiện chỉ đạo TTCP tại công văn số 122/TTg-QHQT ngày 22/1/2008 về việc cấp vốn điều lệ cho Ngân hàng chính sách từ chương trình PRSC6, trong khi chờ Ngân hàng Nhà nước mua ngoại tệ của chương trình, Bộ Tài chính đã tạm ứng 1.000 tỷ đồng bổ sung nguồn vốn hoạt động cho Ngân hàng chính sách thực hiện cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách, trong đó có việc cho vay học sinh sinh viên
Như vậy có thê thấy ró những thay đổi, những chuyển biến tích cực trên thị trường vốn vay trước và sau Nghị Quyết 157 của chính phủ. Sinh viên đã có thể tiếp cận tốt hơn với nguồn tín dụng quan trọng này, giúp giảm bớt những khó khăn trước mắt, thực hiện công bằng xã hội và các mục tiêu về xóa đói giảm nghèo. Tuy còn nhiều những hạn chế cũng như những khó khăn trước mắt nhưng nghị định này thật sự là một bước thay đổi quan trọng trong các chính sách hỗ trợ và cải cách giáo dục của chính phủ trong thời gian tới.
II. Đánh giá khả năng tiếp cận tín dụng ưu đãi của SV
1.Kết quả
Chương trình tín dụng ưu đãi cho sv được biết tới từ năm 1998nhưng hoạt động khá trầm lắng và chưa trở thành người bạn đồng hành thực sự của sv nghèo.Do nhiều qui định khắt khe về đối tượng cũng như thủ tục cho vay nên số lượng sv đã tiếp cận với nguồn vốn này là chưa nhiều.Còn về phía ngân hàng thì cho rằng sv ra trường không có ý thức trả nợ,tỷ lệ nợ quá hạn của việc cho HS_SV vay rất cao lên đến 13%. Ý nghĩa xã hội của chương trình vì thế cũng chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.theo số liệu thống kê thì Số sinh viên đi vay ở các trường ĐH hầu như không đáng kể. Chẳng hạn như tại Học viện Ngân hàng, ĐH Kinh tế quốc dân, ĐH Hà Nội, ĐH Mở TPHCM, ĐH Nông lâm TPHCM, ĐH Kinh tế TPHCM, số sinh viên đi vay chỉ lẻ tẻ ở con số... vài chục, nhiều lắm cũng chỉ đến trên dưới 200 triệu.
Thống kê về số sinh viên đi vay tại ĐH Kinh tế TPHCM năm 2003-2004 chỉ có 121 sinh viên, năm 2004-2005 là 243 sinh viên trong khi tổng số sinh viên của trường lên đến hàng vạn sinh viên.
-Nhưng kể từ ngày 27/9/2007 Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 157/2007/QĐ -TTg về tín dụng đối với HSSV thay thế cho Quyết định số 107/2006/QĐ-TTg theo hướng mở rộng đối tượng cho vay thì đây đã thực sự trở thành một quyết sách đi vào trong cuộc sống. Tính trong 3 tháng từ khi Quyết định 157 có hiệu lực thi hành. NHCSXH đã cho vay đạt 2.504,6 tỷ đồng với 596.534 HSSV đang vay vốn đối với các cấp đào tạo. Trong đó có 425.313 HSSV đại học, cao đẳng vay với số tiền 1930 tỷ đồng; 157.447 trung cấp chuyên nghiệp vay vốn với số tiền 680 tỷ đồng và 47.399 học sinh học nghề vay vốn với số tiền 203 tỷ đồng. Công tác cho vay vốn tín dụng đối với học sinh, sinh viên đã đến được với đông đảo nhân dân, tạo được sự đồng thuận của toàn xã hội. Chính sách đã nhanh chóng đi vào cuộc sống tạo điều kiện cho hàng trăm ngàn sinh viên có đủ kinh phí để trang trải việc học tập, sinh hoạt, hàng trăm nghìn gia đình có điều kiện cho con em mình tiếp tục đến trường. Đặc biệt vào thời điểm năm học 2007 - 2008 đã không còn tình trạng học sinh, sinh viên trúng tuyển mà không nhập học được do khó khăn về kinh tế.
10 địa phương đứng đầu cả nước hiện nay về số lượng HSSV vay vốn là Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hải Phòng, Nam Định, Bắc Giang, Ninh Bình, Đồng Nai, Long An, Phú Thọ.
7 địa phương có số HSSV vay vốn ít nhất trong cả nước là Hà Giang, Lai Châu, Điện Biên, Bắc Cạn, Đắc Nông, Cao Bằng, Kon Tum.
Sau đây xin được nói tới kết quả thực hiện dự ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12894.doc