Mục lục
Chương 1. Khái quát chung về lý luận thương mại quốc tế (TMQT) và CEPT/AFTA 4
Lý thuyết về TMQT 4
Nguyên tắc lợi thế so sánh và TMQT. 4
Lập trường về TMQT xuất phát từ thực tế cơ cấu nền công nghiệp quốc gia 4
Nguyên lý tự do mậu dịch, bảo hộ mậu dịch. 6
Chương trình CEPT/AFTA và tình hình thực hiện của Việt Nam 8
Sự ra đời và mục tiêu của AFTA. 8
Nguyên tắc và các quy định chung về CEPT/AFTA. 11
Lịch trình thực hiện CEPT/AFTA của Việt Nam 16
Chương 2. Hội nhập CEPT/AFTA và
73 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1404 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tiến trình hội nhập CEPT trong quá trình tự do hoá thương mại của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tác động đối với Việt Nam. 18
2.1 Thương mại Việt Nam và ASEAN. 18
Một số vấn đề lớn và lộ trình thực hiện CEPT/AFTA
của Việt Nam 22
2.2.1 Những vấn đề ảnh hưởng đối với việc thực hiện CEPT/AFTA 22
2.2.2. Lộ trình thực hiên CEPT của Việt Nam 28
2.3 Tác động của CEPT/AFTA đến nền kinh tế Việt Nam. 30
2.4 Đánh giá chung đối với việc thực hiên CEPT/AFTA. 38
2.4.1.Những thuận lợi và cơ hội có được khi thực hiện. 38
2.4.2 Những kết quả bước đầu. 40
2.4.3 Những khó khăn, thách thức phải đương đầu. 41
2.2.4 Kinh nghiệm thực tiễn từ việc hội nhập CEPT/AFTA. 43
2.5 Những nét mới gần đây nhất trong lộ trình thực hiện CEPT/AFTA của Việt Nam. 45
Chương 3. Giải pháp cho tiến trình hội nhập CEPT/AFTA của Việt Nam. 50
3.1 Các giải pháp thiết thực trước mắt. 50
3.1.1 Định hướng đầu tư phù hợp cho thị trường sản phẩm. 50
3.1.2 Nâng cao khả năng cạnh trạnh của doanh nghiệp trên thị trường nội địa và khu vực. 51
3.1.3 Mở rộng quy mô của doanh nghiệp theo hướng chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế trên cơ sở CEPT/AFTA. 52
3.1.4 Cải thiện hệ thống thuế quan phù hợp và tăng cường nghĩa vụ của Hải quan. 54
3.1.5 Sự can thiệp cần thiết của các Bộ, Ngành quản lý và Chính phủ. 55
Các chính sách cần chú trọng trong dài hạn. 56
Nhìn nhận xu thế hội nhập CEPT/AFTA trong giai đoạn mới
của Việt Nam 60
Kết luận 64
Tài liệu tham khảo 65
Lời mở đầu
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, chưa bao giờ lại có một sự hợp tác phát triển rộng rãi và nhiều tầng lớp như hiện nay, tạo nên một xu thế nổi bật trong quan hệ quốc tế hiện đại. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của quan hệ kinh tế đối ngoại đối với tăng trưởng kinh tế, chúng ta đang đẩy nhanh quá trình đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ kinh tế. Khi ngày càng hoà nhập vào hệ thống kinh tế toàn cầu, chúng ta càng phải đối mặt với nhiều thách thức. Mặc dù thực trạng còn yếu kém nhưng tiềm năng tăng trưởng dài hạn của các quốc gia đang phát triển rất sáng lạn. Việc gia nhập ASEAN của Việt Nam với tư cách là thành viên đầy đủ là một trong những bằng chứng chứng minh cho xu hướng chung của thế giới.
ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng đã tham gia quá trình tự do hoá thương mại trên cơ sở phát triển nền kinh tế hướng về xuất khẩu bằng việc thiết lập một khu vực mậu dịch tự do và cơ chế của nó là chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Việc thực hiện CEPT sẽ đưa Việt Nam lên vị trí mới trong nền kinh tế thế giới. Bởi CEPT là cơ sở tốt nhất để Việt Nam thực hiện tự do hoá thương mại, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và gắn chặt nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới. Để khẳng định cho tính thực tiễn của vấn đề này, người viết muốn trình bày vấn để đang được quan tâm nhiều hiện nay là “ Tiến trình hội nhập CEPT trong quá trình tự do hoá thương mại của Việt Nam”. Tuy rằng quá trình thực hiện CEPT đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ nhưng vẫn còn một số tồn tại cần được khắc phục và giải quyết khéo léo dựa trên kinh nghiệm và năng lực quốc gia.
Bài viết được chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về lý luận thương mại quốc tế và CEPT/AFTA.
Chương 2 : Hội nhập CEPT/AFTA và tác động đối với Việt Nam. Thuận lợi và khó khăn.
Chương 3 : Giải pháp cho tiến trình hội nhập CEPT/AFTA của Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu viết bài, chắc hẳn không tránh khỏi những thiếu sót về vấn đề này. người viết mong muốn nhận được những ý kiến và nhận xét của những người quan tâm để vấn đề được phân tích sâu rộng hơn.
Chương 1.
Khái quát chung về lý luận thương mại quốc tế và cept/afta.
Lý thuyết về Thương mại quốc tế (TMQT).
1.1.1 Nguyên tắc lợi thế so sánh và thương mại quốc tế
Nền thương mại giữa các quốc gia trên thế giới đã tồn tại một nguyên tắc mang tính sâu sắc nhất và nó đứng sau mọi hoạt động thương mại - đó là nguyên tắc lợi thế so sánh. Nguyên tắc này cho rằng: Một nước có thể thu lợi từ thương mại ngay cả khi nó có lợi thế tuyệt đối có hiệu quả hơn (hoặc tuyệt đối không hiệu quả bằng) các nước khác trong việc sản xuất hàng hoá. Đồng thời, nguyên tắc lợi thế so sánh phát biểu rằng: Mỗi nước sẽ có lợi nếu nó chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các hàng hoá mình có thể sản xuất với chi phí tương đối thấp (tức là những hàng hoá mà nó tương đối có hiệu quả hơn các nước khác); ngược lại mỗi nước sẽ có lợi nếu nó nhập khẩu mà mình sản xuất với chi phí tương đối cao (tức là những hàng hoá mà nó tương đối hơn các nước khác)...
Nguyên tắc đơn giản này là cơ sở vững chắc đối với TMQT và nó được chứng minh trong các mô hình TMQT của các nhà kinh tế học nổi tiếng thế giới.
TMQT xuất hiện từ sự đa dạng hoá tự nhiên của nền sản xuất giữa các nước thông qua các mô hình TMQT của các nhà kinh tế học từ cổ điển, tân cổ điển cho đến hiện đại, có thể đi đến kết luận rằng các nước buôn bán với nhau hoặc vì họ khác biệt về các nguồn lực, về công nghệ, hoặc vì họ khác nhau về lợi thế kinh tế nhờ quy mô, hoặc vì cả hai lý do này. Từ xu hướng chuyên môn hoá sản xuất, họ có thể nhập khẩu những sản phẩm trong nước không có điều kiện sản xuất hoặc hiệu quả sản xuất thấp và xuất khẩu những sản phẩm có điều kiện thuận lợi, hiệu quả cao đồng thời kết hợp quan tâm đến nhu cầu thị trường quốc tế. Trong bất kỳ môi trường cạnh tranh nào, hoàn hảo hay không hoàn hảo, thương mại luôn mang lại lợi ích cho các nước tham gia và lợi ích này là tiềm tàng. Việc tiến hành thương mại tác động lên phân phối thu nhập giữa các nhóm dân cư trong nội bộ một nước và giữa các nước làm cho một bên lợi, một bên thiệt. Đây chính là nền tảng để các Chính phủ tham gia và điều tiết hoạt động thương mại.
Lập trường về TMQT xuất phát từ thực tế cơ cấu nền công nghiệp quốc gia
Trước hết, đứng trên quan điểm về kinh tế phát triển đối với thế giới thứ ba, “Vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói” của R.Nurkse – nhà kinh tế học nổi tiếng người Thuỵ Điển đã đưa ra một sự nhìn nhận mang tính chất khá mới mẻ và hoàn thiện về TMQT. Nó được ông mô tả như sau: “Xét về lượng cầu, việc thu hút đầu tư có thể bị thấp, nguyên nhân bởi sức mua của dân chúng và bị quy định bởi thu nhập thực tế thấp, thu nhập thực tế thấp lại do năng suất lao động thấp, năng suất lao động lại là kết quả của dung lượng vốn nhỏ bé được đưa vào sản xuất và đến lượt mình, tình trạng không đủ vốn trong sản xuất một phần do đầu tư ít ỏi gây ra”. Vì thế, ông cho rằng: “Quy mô thị trường quy định khối lượng trao đổi thương mại quốc tế”, một nước chậm phát triển, lạc hậu về trình độ công nghệ có thể làm ra hàng hoá gì để xuất khẩu, nếu thu nhập từ xuất khẩu là nhỏ bé thì chắc chắc rằng không thể có cân bằng về cán cân thương mại, cũng vì thế không có tích luỹ để tái sản xuất mở rộng hoặc tích luỹ quá ít không đủ để đáp ứng cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thậm chí, ngay cả những trường hợp có thị trường trong nước rộng lớn như T.Quốc cũng không thể trở thành quốc gia giàu có nếu thi hành chính sách hạn chế TMQT để trở thành thị trường duy nhất. R.Nurkse đã minh hoạ điều đó bằng chế độ thuế quan nội bộ mà T.Quốc thi hành trong những năm đầu thế kỷ XX. Mặc dầu đến năm 1928, họ đã phải xoá bỏ chế độ này nhưng rút cuộc, T.Quốc vẫn là một trong nhứng quốc gia nghèo nhất thế giới. Để khẳng định lý giải của R.Nurkse, những dẫn chứng về sau này đặc biệt dễ thấy trường hợp Malaysia chuyển hướng thành công từ chuyên sản xuất nguyên liệu thô sang xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo càng minh hoạ rõ hơn quan niệm mà ông đã nêu ra từ thập kỷ 80.
Đối với các nước thuộc thế giới thứ ba, quy mô nhỏ hẹp của thị trường mà mức thu nhập thấp của tuyệt đại đa số gây ra trên thực tế cản trở quá trình công nghiệp hoá cũng như tăng trưởng kinh tế, rồi sau đó tác động đến khả năng thu hút vốn đầu tư cho các dự án kinh tế mở rộng. Từ đó, R.Nurkse đi đến kết luận rằng: các nước lạc hậu cần phải tiến hành công nghiệp hoá bằng cách tạo nguồn vốn từ bên ngoài, đồng thời khuyến khích tiết kiệm trong nước để xây dựng các dự án đầu tư theo hướng mở rộng khả năng trao đổi TMQT.
Bởi vậy, ông cho rằng một mặt các nước nghèo phải thúc đẩy sự phát triển bên trong của họ. Mặt khác, các nước giàu phải tham gia vào quá trình này của các nước nghèo để tạo ra “sự tăng trưởng cân bằng” trên quy mô thế giới – một cơ sở tốt cho TMQT hiện đại cũng như là con đường để lấp những lỗ hổng ở các nước “ngoại vi” (các nước thế giới thứ ba). Vậy là quan hệ thương mại bước đầu mà các nước thế giới thứ ba cần là phát triển buôn bán với các nước giàu chứ không phải với các nước nghèo. Những lợi ích đem lại cho các nước nghèo trong mối quan hệ với các nước giàu nhiều hơn là giữa các nước nghèo.
Với hàm ý đồng tình với ý kiến trên, R.Nurkse đã kết luận bằng một câu dẫn của D.H.Robetson viết về vai trò của TMQT là: “Hơn tất cả, ngoại thương là động lực của sự tăng trưởng, nhưng là sự tăng trưởng bắt nguồn và lan toả từ các trung tâm công nghiệp đi trước”. Điều này cho thấy R.Nurkse đồng tình mạnh mẽ với xu hướng liên kết với thế giới bên ngoài để thúc đẩy công nghiệp hoá.
Tóm lại, dù rằng ở những mức độ nhấn mạnh khác nhau, các học giả phương Đông đã được đề cập đều đề cao vai trò của ngoài thương đối với các nước lạc hậu. Có thể việc mở rộng để phát triển TMQT không hẳn chỉ có động lực tích cực, mà bên cạnh đó còn ảnh hưởng tiêu cực. Nhưng rõ ràng lợi ích đạt được nhiều hơn tổn thất phải gánh chịu.
1.1.3 Nguyên lý tự do mậu dịch, bảo hộ mậu dịch trong TMQT hiện đại.
Tự do hoá thương mại.
Xu hướng tự do hoá thương mại bắt nguồn từ quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới với những cấp độ toàn cầu hoá và khu vực hoá, lực lượng sản xuất phát triển vượt ra ngoài phạm vi biên giới của mỗi quốc gia, sự phân công lao động quốc tế phát triển cả về bề rộng và bề sâu, vai trò của các công ty đa quốc gia được tăng cường, hầu hết các quốc gia chuyển sang xây dựng mô hình “kinh tế mới” với việc mở cửa và khai thác ngày càng triệt để lợi thế so sánh của mỗi nước. Tự do hoá thương mại đều đưa lại lợi ích cho mỗi quốc gia dù trình độ phát triển khác nhau nhiều hay ít và nó phù hợp với xu thế phát triển chung của nền văn minh nhân loại.
Nội dung của tự do hoá thương mại là Nhà nước áp dụng các biện pháp cần thiết để từng bước giảm thiểu những trở ngại trong hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong quan hệ mậu dịch quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc phát triển các hoạt động TMQT cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đương nhiên, tự do hoá thương mại trước hết nhằm thực hiện việc mở rộng quy mô xuất khẩu của mỗi nước cũng như đạt tới điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động nhập khẩu. Kết quả của tự do hoá thương mại là tạo điều kiện mở cửa thị trường nội địa để hàng hoá, công nghệ nước ngoài cũng như những hoạt động dịch vụ quốc tế dễ dàng xâm nhập vào thị trường nội địa đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài. Như vậy, tự do hoá thương mại đồng nghĩa với việc cần phải đạt tới một sự hài hoà giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
Bảo hộ mậu dịch
Có nhiều nguyên nhân làm xuất hiện bảo hộ mậu dịch, nhưng cơ sở khách quan của xu hướng này là sự phát triển không đều và sự khác biệt trong điều kiện tái sản xuất giữa các quốc gia, do sự chênh lệch về khả năng cạnh tranh giữa các công ty trong nước và công ty nước ngoài cũng như các nguyên nhân lịch sử để lại. Bên cạnh đó còn có các lý do về chính trị và xã hội cũng đưa đến yêu cầu bảo hộ mậu dịch.
Xu hướng này xuất hiện ngay từ khi hình thành và tiếp tục được củng cố trong quá trình phát triển của nền TMQT với các công cụ hành chính, các biện pháp kỹ thuật khác nhau. Mục tiêu của bảo hộ mậu dịch là bảo vệ thị trường nội địa trước sự thâm nhập ngày càng mạnh mẽ của các luồng hàng hoá từ bên ngoài, cũng tức là bảo về lợi ích quốc gia. Cho đến nay vẫn còn nhiều lý lẽ khác nhau để bảo vệ cho chế độ bảo hộ mậu dịch như: để bảo vệ “các ngành công nghiệp non trẻ”, tạo điều kiện để chúng trưởng thành và chống lại sự cạnh tranh ở bên ngoài; để tạo nên các nguồn “tài chính công cộng” tức là đảm bảo nguồn thu cho Chính phủ trong việc cung cấp các hàng hoá công cộng và các chi phí khác; để khắc phục một phần “tình trạng thất nghiệp” hay tạo việc làm cho các lao động trong nước thông qua mở rộng sản xuất các loại sản phẩm có thể thay thế hàng nhập khẩu; và để “phân phối lại thu nhập” làm dịch chuyển một phần thu nhập của những người tiêu dùng giàu có sang cho những người sản xuất hàng hoá đáp ứng được sự thay thế hàng hoá nhập khẩu.
Tuy nhiên, việc thực hiện các biện pháp và chính sách theo chế độ bảo hộ mậu dịch thường không đem lại hiệu quả như các lý lẽ trên đề cập đến và còn tồn tại những hạn chế do các điều kiện thực tiễn khác nhau đòi hỏi trong mỗi quốc gia. Hơn nữa, về nguyên tắc thì hai xu hướng bảo hộ mậu dịch và tự do hoá thương mại đối nghịch với nhau và chúng gây nên tác động nhau đến hoạt động TMQT. Nhưng hai xu hướng này không bài trừ nhau mà trái lại, chúng thống nhất với nhau – một sự thống nhất giữa hai mặt đối lập. Trong thực tế, chúng song song tồn tại và được sử dụng một cách kết hợp nhau.
Do vậy, tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước, tuỳ theo điều kiện và đặc điểm cụ thể mà người ta sử dụng và kết hợp khéo léo giữa hai xu hướng trên với những mức độ khác nhau ở từng lĩnh vực kinh tế. Mặc dù, các nhà kinh tế đã chứng minh rằng thương mại tự do đem lại lợi ích tối đa cho dân tộc bằng các lý thuyết thương mại, song thực tế đã khẳng định rằng chế độ này là không khả thi. Các Chính phủ có nhiều lý do khác nhau để bảo hộ cho sự tồn tại của chính sách thương mại, chúng thường liên quan đến chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và mức độ ổn định chính trị quốc gia. Thông qua các công cụ như thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, hàm lượng nội địa của sản phẩm .. ., sự tồn tại của chính sách thương mại tạo nên một tác động mang tính hai mặt cho nền kinh tế. Một mặt, nó có thể tác động đến việc phân bổ các nguồn lực trong dài hạn, đóng góp vào nguồn thu ngân sách, nhưng mặt khác nó lại tạo ra những tổn thất về mặt phúc lợi cho xã hội. Một sự vận dụng phù hợp các công cụ bảo hộ mậu dịch là sự bảo hộ có chọn lọc và có điều kiện, gắn liền với không gian và thời gian nhất định. Công cụ bảo hộ không chỉ mang tính tự vệ, hỗ trợ các ngành sản xuất trong nước trong quá trình cạnh tranh với hàng hoá từ bên ngoài mà còn phải tạo điều kiện cho các ngành sản xuất trong nước vươn lên cạnh tranh thắng lợi không chỉ ở thị trường nội địa mà còn trên thị trường nước ngoài. Điều này có nghĩa là phải vận dụng các công cụ bảo hộ mậu dịch một cách tích cực và năng động, đồng thời thực hiện bảo hộ phải gắn liền với quá trình tự do hoá thương mại đạt được trong các quan hệ quốc tế.
1.2 Chương trình CEPT/AFTA và tình hình thực hiện của Việt Nam
1.2.1 Sự ra đời và mục tiêu của AFTA
Bối cảnh ra đời.
Bước vào thập kỷ 90, môi trường chính trị quốc tế có nhiều chuyển biến quan trọng. Trên bình diện thế giới, chiến tranh lạnh kết thúc, toàn cầu hoá kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu rộng tác động mạnh đến các nền kinh tế và nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là kinh tế thương mại, dịch vụ và đầu tư. Cùng với sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sau vòng đàm phán urugoay cuối cùng của GATT, kinh tế thế giới đang hình thành một cách sôi động những thị trường mới như thị trường chứng khoán và phi thuế quan, những công cụ hội nhập mới như công nghệ điện tử viễn thông với mạng Internet, những hoạt động xúc tiến hợp tác song phương và đa phương với sự phát triển của nhiều tổ chức kinh tế ở khắp các Châu lục v.v... đã tạo môi trường kinh tế thế giới cạnh tranh mang tính toàn cầu sâu sắc hơn và gay gắt hơn.
Khi nhận thức rõ về bối cảnh lịch sử ra đời của ASEAN, ta thấy thực chất đó là giai đoạn mà những yếu tố và động thái chính trị hơn là những lực lượng kinh tế, có vai trò quan trọng thúc đẩy sự ra đời của một Hiệp hội. Hiệp hội mà các phản ứng của nó mang tính khu vực và màu sắc hành động tập thể của các quốc gia - đó là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) được thành lập vào ngày 8/8/1967. Theo đó, Bộ trưởng ngoại giao 5 nước gồm Indonesia, Malaysia, Philippin, Singapore và Thái Lan đã thảo luận về một chủ đề quan trọng trong chính sách đối ngoại của họ: “cùng phối hợp hành động tập thể trên những lĩnh vực kinh tế và chính trị mà họ có sự quan tâm chung”.
Tất cả các quốc gia Đông Nam á trở thành khu vực rất nhạy cảm đối với tác động của các thế lực chính trị và dân tộc chủ nghĩa, đặc biệt do ý đồ muốn tranh thủ các quốc gia này của các siêu cường thuộc hai khối chính trị XHCN và TBCN. Sự sống còn của các nước Đông Nam á phụ thuộc vào chủ trương thi hành chính sách chính trị, ngoại giao của họ đối với tất cả các nước lớn và theo kiểu càng hoà thuận bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Do đó, điều kiện quốc tế đòi hỏi các quốc gia này phải tăng cường đoàn kết nội bộ, đồng nhất nguyện vọng chung là tự do, độc lập dân tộc và trung lập. Tình hình chính trị trong nội bộ từng nước cũng rối ren và có nhiều diễn biến phức tạp như: xuất hiện các phe đối lập, các hoạt động du kích ở Indonesia và Philippin; hàng loạt vấn đề chính trị và kinh tế khi Singapore mới tách khỏi liên bang Malaysia; mâu thuẫn chủng tộc, tôn giáo căng thẳng ở những nước này.
Với bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước như vậy, tất cả 5 quốc gia đều đứng trước yêu cầu phải liên kết chặt chẽ để củng cố hoà bình và đảm bảo an ninh toàn khu vực. Họ cùng sát cánh, cùng thi hành chính sách đối ngoại hoà bình và trung lập, phối hợp hành động những vấn đề có mối quan tâm chung và xây dựng nền kinh tế thị trường, ổn định và củng cố về chính trị cũng như kinh tế không vì lợi ích riêng của từng quốc gia.
Trải qua khá nhiều thăng trầm, để đạt được đích cuối cùng là sự thịnh vượng chung của các thành viên trong khối, ASEAN vốn là khối hợp tác toàn diện nay lại càng đoàn kết vững chắc hơn trong quan hệ quốc tế thông qua sự tôn trọng các quyền lợi và nghĩa vụ của nhau. Hợp tác trong khối cũng đã chuyển từ chú trọng vào chính trị sang chủ trọng vào kinh tế là chủ yếu, nhằm tạo ra hiệu quả kinh tế cao dựa vào lợi thế riêng của từng nước. Cũng từ những nỗ lực này, sự hợp tác trong ASEAN đã được đưa lên tầm cao nhất từ ngày thành lập Hiệp hội cho đến nay, đó là việc thiết lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) – một cơ sở để thực hiện tự do hoá kinh tế và thương mại của ASEAN. Nó sẽ giúp cho các quốc gia có nhiều thêm nhiều khả năng giành được những lợi ích tạo ra nhờ kinh doanh. Nội dung cốt lõi và cơ chế thực hiện của AFTA là Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Từ đó, có thể thấy một điều chắc chắn rằng Hiệp hội ASEAN sẽ trở thành một khối kinh tế hoà hợp, ổn định và phát triển bền vững trong tương lai.
Mục tiêu và tầm quan trọng của AFTA đối với Việt Nam
AFTA được các nước ASEAN đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau: Thứ nhất, dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan tăng tổng kim ngạch buôn bán trong nội bộ ASEAN đang còn thấp và kếm nhiều lần so với các tổ chức kinh tế hợp tác kinh tế khu vực khác như EU và AFTA. Thứ hai, kết nối các nền kinh tế ASEAN thành một thị trường rộng mở thông thoáng và phi thuế quan tạo môi trường hấp dẫn thu hút nhiều hơn đầu tư nước ngoài ở trong và ngoài khu vực vào các nền kinh tế của Hiệp hội. Thứ ba, thông qua đó nâng cao sức cạnh tranh của kinh tế ASEAN trở thành một trung tâm kinh tế trong bối cảnh kinh tế thế giới gia tăng quy mô và mức độ toàn cầu hoá. Thứ tư, cùng với những động thái ngoại giao chính trị tích cực, nhằm thúc đẩy tăng cường liên kết kinh tế để ASEAN mạnh hơn, mở rộng hơn khi ĐNA đang có xu thế hoà bình và hợp tác các nền kinh tế ngoài ASEAN trong khu vực và Trung Quốc đang cải cách kinh tế sang kinh tế thị trường, thế giới đang hội nhập và giảm đối đầu trong xu hướng hình thành cấu trúc đa cực, đa trung tâm với nhiều tổ chức liên kết kinh tế khu vực và liên khu vực.
Việc thành lập AFTA không chỉ là giải pháp tích cực nhất nhằm hạn chế hàng rào bảo hộ, cải thiện dòng lưu thông hàng hoá và dịch vụ mà từ đó còn dẫn đến cải thiện môi trường đầu tư và tạo động lực làm gia tăng ngày càng nhiều các cơ hội đầu tư trực tiếp ở trong khối và ngoài khối. Hơn nữa, các nền kinh tế thành viên ASEAN đều là kinh tế mở, cho nên AFTA là công cụ quan trọng và chủ yếu để đặt nền tảng cho sự hoà nhập cao trong khối.
Lập ra AFTA là chương trình hợp tác quy mô nhất, phạm vi không gian và thời gian lớn nhất, đồng thời được triển khai trực tiếp và gián tiếp trên tất cả các lĩnh vực thương mại và đầu tư. Nếu Việt nam thực hiện thành công và hiệu quả AFTA, cơ cấu kinh tế sẽ được chuyển dịch theo hướng tích cực hơn, phù hợp hơn với nền kinh tế thế giới, đạt được nhiều lợi ích hơn, khi đó năng suất lao động ở trình độ cao hơn và đời sống của toàn dân được cải thiện hơn.
Tham gia AFTA sẽ làm cho các xí nghiệp trong nước phải sớm bị đặt trong một môi trường cạnh tranh quốc tế. Nhưng vấn đề này có ảnh hưởng tích cực đến những sản phẩm công nghiệp mà Việt Nam có lợi thế so sánh trước mắt. Hiện nay, thuế nhập khẩu của những mặt hàng này là khoảng 50-60%, đủ để xí nghiệp trong nước cạnh trang với hàng nhập. Nhưng kinh nghiệm của Nhật và một số nước Châu á cho thấy, nếu bảo hộ kéo dài quá lâu, các ngành đó sẽ không thể phát triển lành mạnh và sẽ không thể trở thành lợi thế so sánh để cạnh tranh trên thị trường thế giới. Lịch cắt giảm mà CEPT quy định là phù hợp với chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu, trong đó phát triển công nghiệp chế biến gắn với phát triển nguồn nguyên liệu nông sản, thuỷ sản, sản xuất hàng xuất khẩu và hàng tiêu dùng mà Đảng đã đề ra. Nhìn từ góc độ này, ta thấy việc gia nhập AFTA của Việt Nam sẽ không trở thành một gánh nặng do bảo hộ để ngăn chặn hàng hoá bên ngoài cho Việt Nam; ngược lại ta có thêm cơ hội xâm nhập vào thị trường các nước ASEAN khác.
Điều này sẽ là một tác nhân quan trọng không những thúc đẩy việc cải tiến kỹ thuật công nghệ và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất, mà hơn thế, còn bắt buộc chúng ta điều chỉnh cơ cấu sản xuất, nếu cần phải ngừng sản xuất những mặt hàng không đủ sức cạnh tranh.
Nguyên tắc và các quy định chung về CEPT/AFTA.
A. Nguyên tắc
Một vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với việc duy trì xung lượng và đảm bảo thực hiện thành công CEPT, đó là việc thiết lập một thể chế phối hợp AFTA cần thiết giữa các thành viên ASEAN. Theo quyết định của Hội nghị Bộ trởng Kinh tế ASEAN lần thứ 26, cơ quan AFTA trực thuộc Ban th ký ASEAN và các cơ quan AFTA quốc gia tại nước thành viên đã đưược thiết lập. Cho dù cách tổ chức các cơ quan AFTA quốc gia không thống nhất, chúng đều phải tuân thủ các nguyên tắc hoạt động chung là: 1) Đảm bảo thực hiện CEPT trôi chảy. 2) Làm đầu mối cho các hoạt động phối hợp giữa Ban thư ký ASEAN, cơ quan AFTA của ASEAN với các quốc gia thành viên. 3) Trình những vấn đề nảy sinh trong tiến trình thực hiện CEPT tại các cuộc Hội nghị ASEAN thích ứng để có thể đa ra nhiều giải pháp hợp lý. Ngoài ra, khi thực hiện CEPT, những nhượng bộ đưược trao đổi trên nguyên tắc có đi có lại và cùng có lợi giữa các quốc gia.
Đối với Việt nam, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã đề ra những nguyên tắc chỉ đạo việc xây dựng lịch trình giảm thuế theo chương trình CEPT của nước ta như sau:
Không gây ảnh hưởng tới nguồn thu ngân sách
Bảo hộ hợp lý cho nền sản xuất trong nước
Tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho các ngành công nghiệp trong nước.
Hợp tác với các nước ASEAN trên cơ sở các quy định của Hiệp định CEPT để tranh thủ ưu đãi, thị trường cho xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
Các quy định chung về CEPT/AFTA
Công cụ chính để thực hiện AFTA là cắt giảm thuế quan trong thương mại nội bộ xuống còn 0 - 5%. Tuy nhiên, bên cạnh vấn đề cắt giảm thuế quan, việc loại bỏ các rào cản thương mại và việc hợp tác trong lĩnh vực hải quan cũng đóng vai trò quan trọng và không thể tách rời khi xây dựng một khu vực mậu dịch tự do.
Vấn đề về thuế quan.
Danh mục các sản phẩm và tiến trình giảm thuế theo CEPT.
Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay (IL): Danh mục này gồm các sản phẩm đưược cắt giảm thuế theo lịch trình giảm nhanh và giảm bình thường. Theo lịch trình giảm bình thường, các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ đưược giảm xuống 20% vào 1/1/1998 và tiếp tục xuống 0-5% vào 1/1/2003. Các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% đưược giảm xuống 0-5% vào 1/1/2000. Còn đối với lịch trình giảm nhanh, các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ đưược giảm xuống 0-5% vào 1/1/2000. Các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% được giảm xuống 0-5% vào 1/1/1998.
Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL): Hiệp định CEPT cho phép các nước thành viên ASEAN đa ra một số sản phẩm tạm thời chưa thực hiện theo kế hoạch để tạo thuận lợi cho các nước thành viên có một thời gian ổn định trong một số lĩnh vực cụ thể hoặc có thời gian chuyển hướng đối với một số sản phẩm tương đối trọng yếu. Các sản phẩm trong danh mục loại trừ tạm thời sẽ không đưược hưởng nhượng bộ từ các nước thành viên. Tuy nhiên, danh mục này chỉ có tính chất tạm thời và sau một khoảng thời gian nhất định các quốc gia phải đa toàn bộ các sản phẩm này vào danh mục giảm thuế. Lịch trình này là toàn bộ các sản phẩm trong danh mục tạm thời loại trừ sẽ đưược chuyển vào danh mục cắt giảm thuế ngay trong vòng 5 năm từ 1/1/1996 1/1/2000, mỗi năm chuyển 20% số sản phẩm.
Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL): Đó phải là những sản phẩm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội; cuộc sống, sức khoẻ con ngời, động thực vật, đến việc bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật, di tích lịch sử, khảo cổ. Việc cắt giảm thuế cũng như xoá bỏ các biện pháp phi thuế đối với các mặt hàng này sẽ không đưược xem xét đến theo Chương trình CEPT.
Danh mục sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SEL): Sản phẩm nông sản chưa chế biến theo CEPT 1992 thì không đưược đa vào thực hiện theo kế hoạch, còn theo CEPT sửa đổi thì sẽ đa vào 3 loại Danh mục khác nhau là: Danh mục giảm thuế, Danh mục loại trừ tạm thời và Danh mục sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm. Sản phẩm nông sản chưa chế biến trong Danh mục cắt giảm thuế ngay đưược chuyển vào Chơng trình cắt giảm thuế nhanh hoặc bình thường vào 1/1/1996 sẽ được giảm thuế xuống còn 0-5% vào 1/1/2003. Các sản phẩm trong Danh mục tạm thời loại trừ của hàng nông sản chưa chế biến sẽ đưược chuyển sang Danh mục cắt giảm thuế trong vòng 5 năm, từ 1/1/1998 đến 1/1/2003, mỗi năm chuyển 20%. Các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm sau đó lại được phân vào 2 Danh mục tuỳ theo mức độ nhạy cảm là Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm và Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm cao. Quy định về cơ chế cắt giảm thuế quan cho 2 Danh mục này tuỳ thuộc vào bản chất của từng loại sản phẩm và đưược áp dụng liên quan đến mức thuế suất kết thúc và các biện pháp tự vệ, phòng ngừa.
Cơ chế trao đổi nhượng bộ của CEPT.
Khi xuất khẩu hàng hoá trong khối, một sản phẩm muốn đưược hưởng nhượng bộ về thuế quan cần có 3 điều kiện sau:
Sản phẩm đó phải nằm trong Danh mục cắt giảm thuế của cả nước xuất khẩu và nước nhập khẩu và phải có mức thuế quan bằng hoặc thấp hơn 20%.
Sản phẩm đó phải có Chương trình giảm thuế được Hội đồng AFTA thông qua.
Sản phẩm đó phải là một sản phẩm của khối ASEAN, tức phải thoả mãn yêu cầu hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN ít nhất là 40%.
Công thức 40% hàm lượng ASEAN như sau:
Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận các sản phẩm là đầu vào nhập khẩu từ nước không phải phát triển (1)
+
Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào xác định xuất xứ (2)
x 100% <60%
Giá FOB
Trong đó: (1) là giá CIF tại thời điểm nhập khẩu.
(2) là giá xác định ban đầu trước khi đa vào chế biến trên lãnh thổ của nước xuất khẩu là thành viên của ASEAN.
Nếu một sản phẩm có đủ cả 3 điều kiện trên thì sẽ đưược hưởng ưu đãi hoàn toàn mà quốc gia nhập khẩu đa ra. Nếu sản phẩm thoả mãn các yêu cầu nêu trên trừ việc có mức thuế quan bằng hoặc thấp hơn 20% thì nó chỉ đưược hưởng thuế suất CEPT cao hơn 20% trước đó hoặc thuế suất MFN, tuỳ thuộc thuế suất nào thấp hơn.
Vấn đề loại bỏ các hạn chế định lượng(QRs) và các rào cản phi thuế qua khác (NTBs)
Các hạn chế về số lượng nhập khẩu có thể được xác định một cách dễ dàng, do đó được quyết định loại bỏ ngay đối với các mặt hàng trong chương trình CEPT để được hưởng nhượng bộ. Đối với các rào cản phi thuế quan khác, vấn đề phức tạp hơn nhiều và việc loại bỏ chúng có rất nhiều cách và ý nghĩa khác nhau. Đối với các phụ thu thì đơn giản chỉ cần phải loại bỏ, song với đối với các tiêu chuẩn chất lượng lại không thể như vậy, bởi vì có rất nhiều lý do, duy trì chúng như các lý do về an ninh xã hội, bảo vệ môi trường, sức khoẻ...Việc loại trừ chúng sẽ có ý nghĩa là phải thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, hay các nước phải thoả thuận để đi đến thống nhất về tiêu chuẩn của nhau.
Các nước thành viên sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với các sản phẩm trong CEPT trên cở sở hưởng ưu đãi áp dụng cho sản phẩm đó.
Các hàng rào phi thuế khác sẽ được xoá bỏ dần dần trong vòng 5 năm sau khi sản phẩm được hưởng ưu đãi.
Các hạn chế ngoại hối các nước đang áp dụng sẽ được hưởng ưu tiên đặc biệt đối với các sản phẩm thuộc CEPT.
Tiến tới thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, công khai chính sách và thừa nhận các chứng nhận chất lượng của nhau.
Trong trường hợp khẩn cấp, các nước có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để hạn chế hoặc dừng việc nhập khẩu.
Vấn đề hợp tác trong lĩnh vực hải quan.
Thống nhất biểu thuế quan.
Các nước thành viên hiện đang sử dụng biểu thuế quan theo hệ thống điều hoà của Hội đồng hợp tác hải quan(HS) ở các mức độ khác nhau, từ 6 đến 10 chữ số. Hội nghị các bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 26 tháng 9- 1994 đã quyết định sẽ thống nhất biểu thuế trong khối ở mức 8 chữ số và các nhóm kỹ thuật về danh mục biểu thuế hiện đã và đang tiếp tục xúc tiến các công việc để đạt đưược mục tiêu này.
Thống nhất hệ thống tính giá hải quan.
Hội nghị Hội đồng AFTA lần thứ 11 (10/1997) đã quyết định thời hạn thực hiện vào năm 2000 đối với phương pháp xác định trị giá hải quan theo GATT - GTV được nêu trong Hiệp định thực hiện điều khoản VII của GATT, cũng sẽ được áp dụng với tất cả các nước thành viên mới trong đó có Việt Nam.
Xâ._.y dựng hệ thống Luồng xanh hải quan.
Hội nghị Hội đồng AFTA lần thứ 8 đã thông qua khuyến nghị của Hội nghị tổng cục Hải quan ASEAN xây dựng hệ thống Luồng xanh Hải quan và thực hiện từ 1/1/1996 và đơn giản hoá hệ thống thủ tục hải quan dành cho các hàng hoá thuộc diện được hưởng ưu đãi theo chương trình CEPT.
Thống nhất thủ tục hải quan.
Phải đơn giản hoá và thống nhất thủ tục hải quan giữa các nước thành viên để giảm sự khác biệt giữa hàng hoá được hưởng nhượng bộ và các hàng hoá khác như tiêu chuẩn về hàm lượng xuất xứ, mức thuế suất... Hai vấn đề đưược ưu tiên là:
Mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hoá thuộc diện CEPT: Do các tờ khai hải quan của các nước thành viên tương tự như nhau nên thủ tục có thể đưược đơn giản hoá bằng 3 loại tờ khai là giấy chứng nhận xuất xứ, tờ khai hải quan xuất khẩu và tờ khai hải quan nhập khẩu thành một mẫu chung cho hàng hoá CEPT.
Thủ tục xuất nhập khẩu đưược tập trung vào các vấn đề.
Các thủ tục trước khi nộp tờ khai hàng hoá xuất khẩu.
Các thủ tục trước khi nộp tờ khai hàng hoá nhập khẩu.
Các vấn đề về giám định hàng hoá.
Các vấn đề về gửi hàng trong đó giấy chứng nhận xuất xứ đưược cấp sau và có hiệu lực hồi tố.
Các vấn đề có liên quan đến hoàn trả.
Chương trình thực hiện.
Việc cắt giảm thuế theo cơ chế CEPT được thực hiện theo 2 chương trình: chương trình giảm nhanh (Fast Track), chương trình giảm thông thường (Nomal Track).
Trong tiến trình giảm thuế thông thường, thuế XNK giảm xuống còn từ 0-5%: (a) vào ngày 1/1/2000, đối với những hàng hoá hiện có mức thuế suất từ 20% trở xuống; và (b) vào ngày 1/1/2003, đối với những hàng hoá hiện có mưchính sách thuế suất từ 20%.
Trong tiến trình giảm nhanh, người ta giảm thuế đánh vào 15 loại mặt hàng như: các mặt hàng chất béo và dầu, các sản phẩm mỏ; các hoá chất; các loại nhựa, da , bột giấy và giấy các sản phẩm dệt và quần áo xi măng, đá quý, các kim loại cơ bản và các mặt hàng cơ khí, máy móc và thiết bị điện các mặt hàng được sản xuất tổng hợp. Các mặt hàng sẽ bị giảm xuống (0-5%: (a) vào ngày 1/1/1998 đối với những hàng hoá hiện có mức thuế suất từ 20% trở xuống; và (b) ngày 1/1/2000 đối với những hàng hoá hiện có mức thuế suất từ 20% trở lên.
Lịch trình thực hiện CEPT/AFTA
Do tham gia AFTA muộn hơn các nước thành viên khác và trình độ phát triển của nước ta lại thấp hơn, trên cơ sở áp dụng công thức “10X”, Việt Nam sẽ thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với chương trình này vào năm 2006. Căn cứ theo quy định của Hiệp định CEPT và thoả thuận giữa Việt Nam và các thành viên khác trong ASEAN, chương trình giảm thuế nhập khẩu theo CEPT của Việt Nam bắt đầu thực hiện từ 1/1/1996 với các bước cụ thể như sau:
Xác định danh mục các mặt hàng thực hiện giảm thuế theo CEPT gồm Danh mục giảm thuế ngay (IL), Danh mục loại trừ tạm thời (TEL), Danh mục hàng hoá nhạy cảm (SL) và Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL).
Các mặt hàng thuộc Danh mục IL bắt đầu giảm thuế từ 1/1/1996 và kết thúc với thuế suất 0-5% vào 1/1/2006. Các mặt hàng có thuế suất trên 20% phảI giảm xuống 20% vào 1/1/2001 và tiếp tục cắt giảm cho đến khi đạt 0-5% ngày 1/1/2006. Các mặt hàng có thuế suất thấp hơn hoặc bằng 20% sẽ giảm xuống đến 0-5% vào 1/1/2003. Danh mục IL gồm 1661 nhóm mặt hàng, chiếm 51,6% tổng số các nhóm mặt hàng trong Biểu thuế nhập khẩu tại thời điểm công bố, chủ yếu bao gồm các mặt hàng đang có thuế suất thấp dưới 20% - tức là các mặt hàng thuộc diện có thể áp dụng ưu đãi theo CEPT ngay.
Các mặt hàng thuộc Danh mục TEL được chuyển sang Danh mục IL trong vòng 5 năm từ 1/1/1999 đến 1/1/2003 để thực hiện giảm thuế với thuế suất cuối cùng là 0-5% vào năm 2006. Mỗi năm sẽ đưa 20% số các mặt hàng từ Danh mục này vào Danh mục IL. Đồng thời, các bước giảm sau khi đưa vào Danh mục IL phải thực hiện chậm nhất là 2-3 năm một lần và mỗi lần giảm không nhỏ hơn 5% để đạt được mức 20% đối với những mặt hàng có thuế suất cao hơn 20%. Danh mục TEL gồm 1317 nhóm mặt hàng, chiếm 40,9% tổng số mặt hàng trong Biểu thuế nhập khẩu tại thời điểm công bố.
Các mặt hàng thuộc Danh mục SEL bắt đầu giảm thuế từ 1/1/2004 và kết thúc vào năm 2013 với thuế suất cuối cùng là 0-5%. Danh mục SEL gồm 26 mặt hàng vào thời điểm công bố năm 1995.
Các mặt hàng thuộc Danh mục GEL phải được miễn trừ hoàn toàn đối với một số sản phẩm vì mục đích bảo vệ sức khoẻ, an ninh quốc gia và tôn giáo. Danh mục GEL gồm 213 nhóm mặt hàng, chiếm 6,6% tổng số mặt hàng của Biểu thuế nhập khẩu vào thời điểm công bố.
Ngoài ra, các mặt hàng đã đưa vào chương trình giảm thuế và được hưởng nhượng bộ thì phải bỏ ngay các quy định về hạn chế số lượng và bỏ dần các biện pháp phi thuế quan khác 5 năm sau đó. Việt nam còn phải có nghĩa vụ tối đa hoá số dòng thuế đạt 0-5% vào năm 2003 và mở rộng dòng thuế đạt 0% vào năm 2006.
Biểu đồ: Danh mục hàng hoá thực hiện CEPT của Việt nam
Chương 2.
Hội nhập cept/afta và tác động đối với việt nam
Thuận lợi và khó khăn.
Thương mại Việt nam – ASEAN. Lợi ích và chi phí của quá trình tham gia AFTA.
Có thể nói, Những điều kiện và cơ sở bắt đầu về kinh tế, thương mại có một ý nghĩa rất quan trọng ảnh hưởng đến sự thành công của Việt Nam khi tham gia vào các tổ chức liên kết kinh tế khu vực. Những yếu tố chủ yếu tố chủ yếu trong nền tảng về thương mại và kinh tế đưược phân tích ở mức khái quát hoá tình hình, sẽ có tác động đến việc chúng ta tham gia thực hiện AFTA.
Từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới với chính sách mở cửa và đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước thành viên ASEAN ngày càng đưược cải thiện và phát triển. Thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN đã phát triển với một tốc độ tăng trưởng cao mặc dù mức tăng trưởng trong thời kỳ này còn rất đột biến và thất thường. Mức tăng trưởng bình quân thời kỳ1991-1995 là 26%,chiếm hơn 25% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Thời kỳ 1992-1994 trong khi kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore tăng 50% (200 triệu USD), sang các nước ASEAN tăng 67% (630 triệu USD), nhưng sang Hồng Kông lại giảm 35% (100 triệu USD). Bắt đầu từ năm 1993, Hồng Kông đã giảm mạnh vị trí đầu cầu trung chuyển hàng XNK của Việt nam, phần nào vị trí này đã chuyển sang Singapore.
Đầu năm 1996, nươc ta bước vào thực hiện chương trình CEPT như lịch trình đã đề ra. Xét về cơ cấu xuất nhập khẩu, Việt nam xuất sang các nước ASEAN gồm dầu thô, gạo, lạc, đậu, cao su, chè, ngô, hạt điều, rau quả, tươi, thuỷ sản, thép, gỗ, da thuộc, hàng thủ công. Rất nhiều các mặt hàng nông sản chưa chế biến này được các nước ASEAN xếp vào Danh mục hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm và nhạy cảm cao để làm chậm quá trình giảm thuế. Số các mặt hàng nông sản được các nước thành viên ASEAN bổ sung vào CEPT để áp dụng việc cắt giảm thuế ngay chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ, trong khi những mặt hàng chủ đạo là dầu thô và nông sản chưa chế biến chiếm hầu hết kim ngạch xuất khẩu của Việt nam. Tác động kích thích chủ yếu của CEPT là đối với các mặt hàng công nghiệp chế biến, bởi vì mức cắt giảm thuế suất lớn chính là đối với các mặt hàng này. Như vậy, những nước có trình độ phát triển cao hơn như Singapore và Malaysia có ưu thế hơn trong việc bành trướng hàng hoá của mình khi những hàng rào thuế và phi thuế cắt giảm và xoá bỏ (Xem bảng 1)
Bảng 1. Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam với các nước ASEAN năm 1996.
Nước
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Indonesia
Gạo
Hải sản
Rau quả
Phân bón
Ô tô và linh kiện
Xe máy và linh kiện
Xi măng
Sắt thép
Malaysia
Gạo
Hải sản
Rau quả
Hàng công nghiệp
Dệt
Than
Phân bón
Sắt thép
Xe máy
Philippin
Gạo
Hải sản
Rau quả
Hàng công nghiệp
Than
Phân hoá học
Singapore
Gạo
Hải sản
Rau quả
Hàng công nghiệp
Dệt
Than
Dầu thô
Phân bón
Ô tô và linh kiện
Xe máy và linh kiện
Xi măng
Sắt thép
Xăng dầu
Thái Lan
Gạo
Hải sản
Rau quả
Hàng công nghiệp
Than
Ô tô và phụ tùng
Xe máy và linh kiện
Xi măng
Sắt thép
Xăng
Nguồn: Tổng hợp từ các số liệu về kim ngạch XNK của tổng cục hải quan
Như vậy, với cơ cấu xuất khẩu ở thời điểm này, lợi ích mà Việt nam thu được từ AFTA không đáng kể. Nếu như cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tăng mạnh những sản phẩm công nghiệp chế biến thì sự cắt giảm đáng kể về thuế có thể trở thành kích thích tố đối với các DN sản xuất cho xuất khẩu. Tuy nhiên, sức cạnh tranh của hàng hoá Việt nam so với hàng hoá của các nước ASEAN trên thị trường các nước này còn rất yếu ớt, bởi vì những hàng hoá công nghiệp mà Việt nam đang và sẽ sản xuất cũng tương tự như những hàng hoá của các nước ASEAN. Với trình độ công nghệ thua kém hơn thì Việt nam chỉ có thể cạnh tranh trên thị trường ASEAN dựa trên tính độc đáo của chủng loại và mẫu mã hàng hoá. Vì vậy, việc giảm thuế nhập khẩu của các nước ASEAN sẽ không làm tăng rõ rệt sức cạnh tranh của hàng hoá Việt nam trên các thị trường này.
Đối với nhập khẩu, Việt nam nhập từ ASEAN chủ yếu là những nguyên vật liệu dùng cho sản xuất và hàng công nghiệp. Ta đã sản xuất được một phần hàng hoá thuộc dạng này nhưng còn kém sức cạnh tranh so với các nước ASEAN bởi thua về chât lượng, chủng loại và cả số lượng. Vì thế, các nước này đã cố gắng chiếm lấy một thị phần lớn hơn ở Việt nam. Việc ứng dụng AFTA sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nước ASEAN trong việc nâng cao sức cạnh tranh về giá cả so với hàng hoá Việt nam, chiếm ưu thế hơn về giá cả và về các thủ hải quan so với hàng hoá của các nước ngoài ASEAN.
Như vậy, đối với các DN Việt nam, việc gia nhập AFTA đồng nghĩa với cạnh tranh khốc liệt với những công ty của các nước trong khu vực lớn mạnh hơn nhiều. Tác động này chắc chắn sẽ rất dữ dội đối với cả khu vực quốc doanh lẫn tư nhân.
Trong cơ cấu kinh tế và thương mại Việt nam sẽ có những thay đổi không tránh khỏi như là một phản ứng dây truyền từ thị trường, tất cả các lợi thế so sánh như lao động rẻ, vị trí địa lý chiến lược, nguồn tài nguyên chưa khai thác sẽ được phản ánh trong năng lực cạnh tranh thực như giá cả, chất lượng cũng như các điều kiện liên quan. Trên thị trường, các nhà sản xuất phải chuyển đổi cơ cấu sản phẩm và dịch vụ của họ. Một vài ngành sản xuất có thể sẽ phát triển, một số khác có thể sẽ phải phá sản do không có khả năng cạnh tranh. Lực lượng công nhân cần phải được chuẩn bị cho những thay đổi nhanh và đôi khi bất ngờ trong việc làm.
Trong toàn bộ quá trình từ 1996 đến nay, ASEAN là thị trường mà ta thường xuyên nhập siêu. Tổng nhập siêu từ các nước ASEAN lên đến 1,4 tỷ USD trong năm 1998, chiếm hơn 60% tổng nhập siêu và hơn 50% kim ngạch xuất của ta cho ASEAN (Bảng 2)
Bảng 2. Giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam với các nước ASEAN.
Đơn vị: 1000USD.
1997
1998
1999
2000
Xuất khẩu
1.913.548
1.944.982
2.516.277
2.619.035
Nhập khẩu
3.220.490
3.344.400
3.290.886
4.449.021
Nguồn: Niên Giám Thống Kê, 2001.
Bảng 3. Kim ngạch XNK, nhập siêu và tỷ lệ nhập siêu qua các năm.
Năm
Xuất khẩu (triệu USD)
Tốc độ tăng (%)
Nhập khẩu (triệu USD)
Tốc độ tăng (%)
Nhập siêu (triệu USD)
Tỷ lệ nhập siêu (%)
1990
2.404,0
23,5
2.752,4
7,3
348,4
14,5
1991
2.087,1
-13,2
2.338,1
-15,1
251,0
12,0
1992
2.580,7
23,7
2.540,7
8,7
-40,0
1993
2.985,2
15,7
3.924,0
54,4
938,8
31,4
1994
4.054,3
35,8
5.825,8
48,5
1.771,5
43,7
1995
5.448,9
34,4
8.155,4
40,0
2.706,5
49,7
1996
7.255,9
33,2
11.143,6
36,6
3.887,7
53,6
1997
8.185,0
26,6
11.592,3
4,0
2.407,3
26,2
1998
9.360,3
1,9
11.499,6
-0,8
2.139,3
22,9
1999
11.541,4
23,3
11.742,1
2,1
200,7
1,7
2000
14.482,7
25,5
15.636,5
33,2
1.153,8
8,0
2001
15.027,0
3,8
16.162,0
3,4
1.135,0
7,6
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam 9/5/2003.
Về cơ cấu XNK trong thời gian qua, vẫn còn dựa nhiều vào vai trò và vị trí của Nhà nước trong nền kinh tế. Việt nam nhập khẩu chủ yếu là hàng hoá tư bản, nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Trong khi tỷ trọng hàng tiêu dùng ngày càng nhỏ và giảm. Cơ cấu hàng xuất khẩu thì bao gồm các sản phẩm nông nghiệp và các sản phẩm thô, sản phẩm sơ chế vẫn là chủ yếu. Với quá trình tham gia AFTA, đối chiếu với việc thực hiện CEPT, cơ cấu mặt hàng XNK của Việt nam với ASEAN đã đem lại một số lợi ích nhưng không ít chi phí phải trả cho quá trình tự do hoá thương mại này.
Tham gia thương mại tự do trong thời gian vừa qua, lợi ích mà Việt nam có được là lấy thế mạnh của nông nghiệp làm lĩnh vực chủ đạo để phát triển mọi nguồn lực khác, đặc biệt kế thừa được kinh nghiệm đi lên từ nông nghiệp của các nước ASEAN khác. Từ những mặt hàng xuất khẩu về nông nghiệp là chủ yếu, chúng ta còn tận dụng được nguồn lao động dồi dào, cần cù, giá rẻ cộng với nguồn tài nguyên sẵn có và vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Mặt khác, tạo ra công ăn việc làm đầy đủ, đời sống của nhân dân được phát triển thêm vì hàng nhập khẩu chủ yếu là nguyên vật liệu dùng để chế tạo và lắp ráp, làm ra thành phẩm đáp ứng sản xuất nội địa tăng lên. Nhưng do ít nhập khẩu hàng tiêu dùng từ ASEAN nên lợi ích của người tiêu dùng bị giảm đi vì dùng hàng của ta thì kém chất lượng và kém khả năng cạnh tranh. Song song với những lỗ hổng do mậu dịch tự do tạo ra, chúng ta lại chịu hàng loạt các chi phí phải trả nhiều hơn là lợi ích mà ta có được trong quá trình tham gia mậu dịch tự do. Trước hết, là chi phí cho việc đổi mới công nghệ để chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, từ đó phải đầu tư cho sản xuất, đầu tư cho khuyến khích xuất khẩu. Nền kinh tế chịu tổn thất và lãng phí do các nguồn lực bị tiêu phí vào các hàng hoá đã mất đi lợi thế so sánh. Do lạc hậu và kém cạnh tranh so với các mặt hàng cùng loại của ASEAN, nên phải đầu tư thật nhiều cho công nghiệp chế biến, chế tạo và lắp ráp. Đồng thời nâng cao sức cạnh tranh những mặt hàng chủ yếu có trong CEPT. Nỗ lực trong quá trình tạo vốn để đầu tư trong nước cũng như vốn từ bên ngoài bằng việc thu hút, huy động, chuyển giao công nghệ. Tạo ra những mặt hàng có chất lượng cao, mẫu mã, bao bì cải tiến bằng việc sử dụng công nghệ và kỹ thuật cao, từ đó cần có chi phí nhằm chú trọng đầu tư cho giáo dục, dịch vụ và trình độ tay nghề. Ngoài ra, thực hiện AFTA chúng ta còn chịu chi phí cơ hội khi mất đi phần nhập khẩu từ các nước ngoài ASEAN do họ không ở trong khuôn khổ của CEPT, kéo theo kim ngạch buôn bán với các nước ngoài ASEAN giảm hơn trước.
Vậy với những điều kiện thực tế đặt ra, Việt nam cần tận dụng những ưu thế sẵn có tạo ra khả năng cạnh tranh cao cho nền kinh tế trên cơ sở tối đa hoá lợi ích và tối thiểu hoá chi phí.
Một số vấn đề lớn và lộ trình thực hiện CEPT/AFTA của Việt nam.
Những vấn đề ảnh hưởng đối với việc thực hiện CEPT/AFTA.
Thị trường trong nước.
Thị trường trong nước với nội dung chủ yếu là sự giao lưu hàng hoá trên tất cả các vùng của đất nước và sau đó là việc mở rộng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của tiêu dùng và sản xuất trong nước, kể cả sự tham gia của các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài, phải trở thành một bộ phận hợp thành của thị trường khu vực và thế giới. Cũng vì lẽ này thị trường trong nước và ngoài nước có sự quy định và bổ sung lẫn nhau. Thứ nhất, sự chi phối của những luồng hàng nhập khẩu, nhất là những danh mục nhập khẩu vì mục tiêu sản xuất cho xuất khẩu, sẽ đóng vai trò tích cực đối với việc thúc đẩy cạnh tranh sản xuất trong nước và đi sau chúng, những công nghệ và bí quyết kỹ thuật, văn minh thương mại sẽ trở thành những xúc tác thực sự để đánh thức những năng lực tăng trưởng xuất khẩu cho nền kinh tế đất nước; Thứ hai, nếu thị trường trong nước không có các lợi thế cạnh tranh xuất khẩu theo các tiêu chí của thị trường khu vực và thế giới về chất lượng, giá cả, mẫu mã...Nó sẽ không có đủ điều kiện để tận dụng cơ hội đến từ tự do hoá mậu dịch. Kinh nghiệm thế giới những năm gần đây cho thấy rằng, những nền kinh tế nào không có sự đối mặt trên thị trường thế giới, không tìm kiếm được các bí quyết công nghệ và kỹ thuật từ các quốc gia phát triển cao hơn, thì cho dù có thị trường trong nước lớn, họ vẫn không có sự tăng trưởng cao như các NIEs Đông á.
Với cách thức lập luận trên, cần xem xét ở hai khía cạnh. Một là, lịch trình giảm thuế và phi thuế diễn ra nhanh chóng dẫn đến sự mở rộng các luồng hàng nhập khẩu, tác động tới sự kích thích của AFTA đối với các khả năng xuất khẩu và vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hai là, cố gắng, nỗ lực tổ chức thị trường trong nước theo mô thức dịch chuyển cơ cấu kinh tế hướng tới xuất khẩu, hỗ trợ thực sự cho xuất khẩu để khai thác tốt các cơ hội do AFTA mang lại. Mục tiêu chủ yếu của hai khía cạnh này là thực hiện những nỗ lực đáng kể để hội nhập thị trường Việt nam vào thị trường khu vực, làm cho thị trường trong nước đạt tới trình độ tự do hoá về lưu chuyển thương mại với các nền kinh tế ASEAN và hơn nữa, làm cho nền kinh tế Việt Nam thích ứng với các điều kiện thường xuyên biến đổi của nền kinh tế thế giới. Do đó, còn có một khía cạnh “phái sinh” từ hai khía cạnh trên cần được tiếp cận là dù xây dựng thị trường trong nước theo bất kì chương trình cải cách dài hạn nào, các chính sách thương mại và công nghiệp cũng cần đưược phối hợp chặt chẽ với nhau. Theo Ngân hàng phát triển Châu á, việc tự do hoá ngoại thương của một quốc gia nếu không đi kèm với việc cải cách chính sách công nghiệp thì chắc chắn sẽ bị thất bại.
Những năm gần đây, nền công nghiệp trong nước còn tồn tại một số ngành non trẻ, không đủ sức và kinh nghiệm cạnh tranh trên thị trường Việt nam và vươn ra thị trường bên ngoài. Cho nên Chính phủ đã có chính sách bảo hộ có hiệu quả và hợp lý các ngành công nghiệp này nhưng không có nghĩa là bảo hộ hoàn toàn, vĩnh viễn. Bên cạnh đó, quan trọng hơn là việc bảo hộ và phát triển các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu, đồng thời có chính sách khuyến khích, bảo hộ các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu. Xem xét và so sánh tương quan, trên thực tế mấy năm qua, kinh tế Việt nam phát triển theo chiều hướng chiến lược thay thế nhập khẩu hơn là chiến lược hướng về xuất khẩu. Sở dĩ như vậy là vì mục đích hạn chế tình trạng nhập siêu, ngăn chặn sự tràn ngập của hàng hoá các nước ASEAN trên thị trường Việt nam do ưu đãi của CEPT mang lại. Mặt khác, Việt nam là một trong những nước có nền kinh tế kém phát triển trong ASEAN, nhiều ngành công nghiệp mới hình thành cần được bảo hộ ở mức độ hợp lý. Việc tham gia AFTA sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách thông qua thực hiện CEPT, cho nên cần có thời gian để đưa ra lịch trình cắt giảm thuế tối ưu cho từng mặt hàng sao cho vẫn thực hiện được những quy định chung của AFTA mà không làm giảm nguồn thu ngân sách. Điều đó không đồng nghĩa với việc tiếp tục bao cấp hoặc bảo hộ những ngành kém hiệu quả không có tiềm năng phát triển mà chỉ nhằm thay thế nhập khẩu. Thực hiện theo chiến lược này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có cơ hội đứng vững và phát triển các ngành công nghiệp non trẻ trong thời gian củng cố sức cạnh tranh với hàng hoá ASEAN. Một khi các ngành công nghiệp được bảo hộ trong nền kinh tế đã phát triển về chất, có nghĩa là có khả năng cạnh tranh cao và lành mạnh với hàng ngoại nhập, lúc đó nền kinh tế mới có thể chuyển sang giai đoạn phát triển công nghiệp hướng về xuất khẩu.
Tóm lại, thực tế này cho thấy, việc củng cố và phát triển thị trường trong nước còn là sự đòi hỏi bức bách của việc giảm thiểu những tác động tiêu cực của AFTA đối với nền kinh tế đất nước.
Vấn đề bảo hộ của Việt nam và tác động của chính sách thương mại.
Trước hết cần khẳng định rằng Việt nam không là quốc gia dùng chính sách bảo hộ mậu dịch làm chính sách phát triển của mình bởi lẽ trong bối cảnh tự do hoá thương mại quốc tế, thực hiện chủ nghĩa bảo hộ về thực chất là không thừa nhận vị thế của nền kinh tế Việt Nam trong nền kinh tế quốc tế cũng như nguyên nhân sâu xa của những biến đổi đang diễn ra trên thế giới. Mặt khác, việc dỡ bỏ các hàng rào bảo hộ là tiến trình quan trọng nhất diễn ra trong ASEAN trong vài năm qua.
Tuy nhiên, việc bảo vệ thị trường trong nước trước các sức ép khu vực cũng như đảm bảo năng lực cạnh tranh cho hàng hoá Việt nam ở cả trên thị trường trong nước và xuất khẩu theo từng mặt hàng, từng lúc, từng nơi vẫn còn là cần thiết. Ngoài những lý do như: Về lý luận, có thị trường quốc tế, lẽ đơng nhiên liên quan đến tồn tại vấn đề bảo hộ mậu dịch vì một trong những đặc trưng của thương mại là xuất phát từ quốc gia mang đặc thù quốc gia; Về thực tiễn, ở tất cả các quốc gia tăng trưởng nhờ xuất khẩu, dù đã gần đạt tới tỷ suất tự do hoá hoàn toàn, họ vẫn thực hiện một số biện pháp bảo hộ trong nước; và cuối cùng, vấn đề bảo hộ mậu dịch càng đặc biệt chú trọng ở các quốc gia mà sản xuất nông nghiệp chiếm ưu thế( Việt Nam hiện vẫn là quốc gia nông nghiệp với 80% dân số là nông dân, vấn đề bảo hộ thị trường trong nước ở đây không đơn thuần là do yêu cầu của vấn đề bảo hộ sản xuất - kinh doanh nông sản mà còn là do yêu cầu của vấn đề ổn định xã hội và vấn đề an toàn sinh thái môi trường quá trình tái sản xuất nông nghiệp gắn liền với các quá trình tái sản xuất tự nhiên).
Từ thực tiễn thị trường Việt Nam trong tiến trình AFTA, còn phát sinh một số lý do riêng hết sức quan trọng. Một là, ngoại trừ tăng xuất khẩu dầu thô và nông sản, vào lúc đó đã chiếm 2/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra thế giới, thực tế trong khi AFTA chưa có tác động gì đáng kể mà nền kinh tế đã nhập siêu lớn thì khi thị trường đã tự do hoá nhập khẩu, những nỗ lực trong nước để bảo vệ, hỗ trợ cho những mặt hàng xuất khẩu sẽ càng vô cùng cần thiết để có thể hạn chế các sức ép nhập khẩu, mở rộng xuất khẩu và theo đó, giảm thiểu nhất tình trạng bội chi buôn bán. Hai là, do kích thích xuất khẩu của CEPT chủ yếu là đối với những mặt hàng công nghiệp chế biến (mức thuế suất cắt giảm lớn nhất được giành cho những mặt hàng này), việc thực hiện các biện pháp hỗ trợ để điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ phần các mặt hàng chế biến xuất khẩu (ví dụ: chưa tham gia giảm thuế cho những mặt hàng theo các ưu đãi được giành cho các quốc gia gia nhập ASEAN sau ...) là rất quan trọng, nếu không Việt nam chẳng được lợi từ AFTA về mặt xuất khẩu và cạnh tranh xuất khẩu. Ba là, những hỗ trợ về vốn, thông tin, công nghệ, thuế và các ưu đãi thuế khác là cần thiết để hàng hoá Việt Nam có vị thế cạnh tranh thực sự về chất lượng và giá cả thay vì tính độc đáo của mẫu mã và chủng loại chứ không chỉ khuôn hẹp ở một số mặt hàng mang tính chất bổ sung vào cơ cấu kinh tế của các quốc gia ASEAN. Bốn là, việc thực hiện AFTA có tính đến nhiệm vụ chống buôn lậu là cơ sở để đưa ra một mô thức lựa chọn các mức giảm thuế cho từng mặt hàng, theo từng thời điểm trong lịch trình AFTA. Nguyên tắc chi phối chung là các tỷ suất thuế quan đưược đưa ra sẽ không kiềm chế nhập khẩu nhưng cũng không gây ra tình trạng nhập khẩu tuỳ tiện, tạo các “ cú sốc” lớn cho sản xuất và thị trường trong nước. Vấn đề bảo hộ thị trường trong nước ở đây không đơn thuần là do yêu cầu của vấn đề bảo hộ sản xuất - kinh doanh nông sản mà còn là do yêu cầu của vấn đề ổn định xã hội và vấn đề an toàn sinh thái môi trường quá trình tái sản xuất nông nghiệp gắn liền với các quá trình tái sản xuất tự nhiên.
Mục tiêu của chính phủ Việt Nam đối với việc áp dụng các loại thuế xuất nhập khẩu và các hàng rào phi quan thuế là bảo hộ sản xuất trong nước và đảm bảo nguồn thu ngân sách. Song, một hệ thống các công cụ được áp dụng rất không ổn định như vậy không những gây khó khăn cho hoạt động SXKD của bản thân các DN, cho hoạt động quản lý của các cơ quan thuế mà còn ảnh hưởng xấu đến việc thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài phục vụ cho quá trình CNH của đất nước. Hơn nữa, nhiều biểu hiện thực tế có thể cho rằng hệ thống thuế của nước ta gây tác động bảo hộ ngược trong một số ngành, nghĩa là thay vì bảo vệ sản xuất trong nước chúng ta đã bảo hộ cho các nhà sản xuất nước ngoài. việc thay đổi thuế suất đối với phụ tùng nhập CKD để lắp ráp xe máy 6 lần trong 5 năm từ 20% năm 1993 lên 55% năm 1997 và 50% năm 1998, thực chất đã góp phần làm tăng giá thành xe máy được lắp ráp trong nước từ đó ảnh hưởng xấu đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Việc tăng thuế và phí nhập khẩu đối với xăng dầu tuy góp phần tăng thu ngân sách, nhưng đã gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Một số nhà nghiên cứu nước ngoài cũng cho rằng, có quá nhiều những quy chế ủng hộ bảo hộ trong chính sách thương mại của VN. Trong báo cáo trình bày tại Hội nghị “nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi: những nhân tố thành công” tổ chức tại Paris tháng 5/1996, họ đã cho rằng việc hàng quý các nhà chức trách Việt Nam thay đổi mức thuế quan cho phù hợp với tình hình cung cầu trên thị trường gây ra tình trạng không chắc chắn, không khuyến khích các nhà ĐTNN đầu tư dài hạn vào đây. Cơ cấu thuế nhập khẩu hiện tại được đặc trưng bởi mức bảo hộ hữu hiệu cao mức thuế tản mạn (26 mức) và độ phân tán lớn (từ 0-60%) với hệ thống khuyến khích không đồng đều, mặc dù mức thuế trung bình tính theo bình quân gia quyền ở mức thấp (khoảng 15%). Bên cạnh đó , các nhà kinh tế nưước ngoài còn cho rằng việc áp dụng giá tham khảo để tính thuế đối với hàng hoá tiêu dùng là tuỳ tiện và không phản ánh những thay đổi trên thị trường quốc tế, vì giá này do Nhà nước VN đặt ra. Chưa hết, thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào thuốc lá, rượu bia, các sản phẩm dầu mỏ, pháo và ô tô nhập khẩu thì bị họ coi như là một loại thuế quan nhập khẩu chính thức. Từ đó, họ cho rằng tỷ lệ bảo hộ thực sự đối với hàng hoá ở Việt Nam là rất cao.
Kết luận nêu trên của các nhà nghiên cứu nước ngoài là hợp lý và đã được các nhà nghiên cứu VN thừa nhận. Những kết quả nghiên cứu định lượng trong dự án “Tự do hoá thương mại và khả năng cạnh tranh” do Viện kinh tế học của Việt Nam và Trung tâm nghiên cứu phát triển quốc tế của Canada hợp tác thực hiện đã cho thấy rằng mức độ bảo hộ hiệu quả trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế VN là cao và sự phân tán của mức độ bảo hộ cũng rất cao, do đó tạo nên sự méo mó trong phân bố các nguồn lực, VN được phép bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ, song việc bảo hộ như vậy là chưa có hiệu quả. Hơn nữa tính không hiệu quả của bảo hộ còn được thể hiện ở chỗ các biện pháp bảo hộ chủ yếu dành cho khu vực kinh tế quốc doanh kém hiệu quả trong khi VN đang thực hiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Hiện tại, chính phủ đã đưa ra một số biện pháp để khắc phục tình trạng này như đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các DN nước ngoài, sử dụng giá hợp đồng làm cơ sở tính thuế nhập khẩu, áp dụng những ưu đãi về thuế đối với hàng hoá sản xuất để xuất khẩu hoặc gia công, tích cực chống buôn lậu và gian lận thương mại, đơn giản hoá các thủ tục hành chính, đặc biệt là thủ tục xuất khẩu.
ý nghĩa của sự bảo hộ đối với nền kinh tế Việt nam trong khuôn khổ CEPT/AFTA.
Cuối thế kỷ XX, với tốc độ tăng kim ngạch buôn bán của Việt Nam với các nước ASEAN vào khoảng 27% hàng năm, chiếm 1/3 tổng kim ngạch buôn bán của Việt Nam với thế giới vẫn chưa có cơ sở để lý giải kết quả là do thực hiện AFTA. Vì rằng CEPT vẫn chưa chuyển động trên thực tế ở Việt Nam, nên có thể khẳng định những hiệu quả thương mại trên trước hết và chủ yếu là kết quảcủa chính sách kinh tế mở cửa và sự thay đổi định hướng khu vực thương mại của Việt Nam từ các mặt hàng truyền thống sang các thị trường láng giềng kề cận ASEAN. Song cũng từ đó nảy sinh một vấn đề cần lưu ý là kể từ năm 1990 đến khi bắt đầu 6 tham gia AFTA, Việt Nam thường xuyên nhập siêu từ các nước ASEAN( ví dụ năm 1991:288,2 triệu USD, 1992: 385,2 triệu USD và1993:736,6 triệu USD) và có xu hướng ngày càng tăng. Trong khi CEPT chưa có tác động gì đáng kể mà nền kinh tế đã nhập siêu lớn từ ASEAN thì liệu khi thuế nhập khẩu giảm rộng hơn và các hàng rào phi thuế quan bị xoá bỏ, điều gì sẽ xảy ra đối với thị trường sản xuất trong nước? Có hai cách tiếp cận cơ bản từ phía thị trường Việt Nam đối với CEPT:Một là, cần phải đạt tới tiêu chuẩn hoá về chủng loại, mẫu mã và có giá cả cạnh tranh tốt để có thể tìm được chỗ đứng trên thị trường ASEAN. Điều này liên quan đến công nghệ sản xuất và do đó là sự hỗ trợ từ phía Nhà nước về mặt tín dụng, thuế kinh doanh, các khoản giao nộp, các ưu đãi về chuyển giao công nghệ để giúp các cơ sở sản xuất đủ mạnh, có năng lực chuyên môn hoá cao với các điều kiện thị trường khu vực và thế giới thường xuyên biến đổi. Hai là, trong điều kiện sản xuất của chúng ta còn yếu kém, CEPT đã trở thành chất xúc tác cho sự nhập khẩu ồ ạt của ASEAN vào Việt nam. Vậy vấn đề bảo hộ sản xuất trong nước sẽ phải đặt ra ở nước nào và thế nào là sự bảo hộ thị trường trong nước trong điều kiện tiến tới tự do hoá như là xu thế chung của thế giới.
Một điều không cần bàn cãi là mọi sự xoá bỏ hay duy trì bảo hộ thị trường trong nước đều có những mặt trái của nó. Nếu bảo hộ quá lâu nền kinh tế theo kiểu khép kín, các nhà sản xuất sẽ ỷ lại và trì trệ. Ngược lại, nếu xoá bỏ nhanh thì có thể dẫn đến triệt tiêu sản xuất trong nước và thị trường nội địa bị rơi vào tình trạng tràn ngập hàng hoá nước ngoài. Do vậy, sự bảo hộ trong nước trong xu thế tự do hoá thương mại ở Việt nam buộc phải có một số nguyên tắc cơ bản để đảm bảo vừa bảo vệ được thị trường trong nước, vừa tham gia tự do hoá thương mại một cách thực sự năng động. Để hội nhập nhanh chóng với nền kinh tế thế giới, thì việc chúng ta áp dụng vấn đề bảo hộ với phạm vi như thế nào và mức độ ra sao cũng là một vấn đề khá quan trọng trong tiến trình tự do hoá thương mại khu vực và quốc tế.
2.2.2 Lộ trình thực hiện CEPT/AFTA của Việt nam
Việt nam đã công bố tại Hội nghị Hội đồng AFTA ngày 10/12/1995 các Danh mục và lộ trình cắt giảm thuế cho toàn bộ quá trình 1996-2006 gồm 1622 mặt hàng. Lộ trình này được xây dựng bởi các cơ quan Nhà nước, trong đó đã tính toán kết hợp với các chương trình cải cách thuế và các chính sách thương mại trong nước. Nhận thức tình hình kinh tế của nước ta trong khoảng thời gian mà Chính phủ thực hiện bảo hộ cho các ngành sản xuất non kém, các mặt hàng, sản phẩm còn chưa có sức cạnh tranh với hàng hoá nước ngoài trên thị trường trong nước cũng như khu vực. Có thể nói các DN của ta đã phần nào củng cố được sự vững mạnh, tự tin để đối chọi và cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài khác trên thương trường. Hiện nay, chúng ta đang bước vào giai đoạn cuối của lộ trình cắt giảm thuế theo CEPT. Theo cam kết đối với chương trình cắt giảm thuế, thời gian này là thời gian chúng ta._.u; các doanh nghiệp chưa sẵn sàng trong “cuộc chươi” này cũng sẽ phải cơ cấu lại hoạt động để trụ vững và phát triển. Nhìn về lâu dài thực hiện đúng cam kết theo lộ trình đã vạch ra sẽ manh lại lợi ích thiết trực, căn bản cho chúng ta; còn xét về nguyên tắc, ngành nào càng đưược bảo hộ trong thời gian càng dài thì càng kém cạnh tranh. đây không phải là bài học của riêng Việt Nam mà chung cho tất cả các nước. Trong bối cảnh hiện nay, dù là doanh nghiệp lớn hay nhỏ cũng phải xây dựng chiến lưược sản xuất, kinh doanh của mình. Nhất là cần quan tâm ngày càng nhiều hơn đến đổi mới máy móc, thiết bị sản xuất các mặt hàng cho cả xuất khẩu và thị trường trong nước – thông qua 2 kênh tiêu thụ này sẽ nâng quy mô sản xuất đủ lớn để giảm giá thành sản phẩm. đặc biệt là phải nhanh chóng đào tạo đội ngũ quản lý giỏi theo phương châm “nắm vững luật lệ; theo sát thị trường; buôn có bạn bán có phường” thì doanh nghiệp sẽ phát triển về quy mô.
Đây là giải pháp quan trọng nhất với nhiệm vụ tổ chức thị trường trong nước theo mô thức chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng tới xuất khẩu nâng đỡ và hỗ trợ thực sự và tối đa cho các ngành xuất khẩu. Con người lao động ở các ngành này phảI dám đơng đầu với những thách thức của môi trường cạnh tranh mà thị trường xuất khẩu tạo nên, không được ỷ lại và có xu hướng hướng ngoại trong vai trò đại diện ngành xuất khẩu. Sẽ là không đủ nếu trong tiến trình thực hiện CEPT không đề cập đến khu vực tư nhân – một khu vực có vai trò đáng kể trên lộ trình AFTA. Các cơ quan AFTA cần làm mọi thứ từ cung cấp số liệu, các biểu mẫu đến liên hệ với các phòng Thương mại – công nghiệp các nước, tổ chức các hội thảo AFTA… để có thể huy động sự tham gia của khu vực tư nhân vào tiến trình này một cách có hiệu quả nhất. Từ đó mở rộng và phát triển khu vực tư nhân có thể tăng cường chuyên sâu đưược viêc sản xuất những mặt hàng CEPT để xuất khẩu. để phát triển vững chắc và nhanh chóng hơn nền kinh tế hướng ngoại trong quá trình tham gia thực hiện CEPT, các sản phẩm của những ngành thay thế nhập khẩu phải đáp ứng nhu cầu nguyên liệu hay các cấu kiện rời cho các ngành chế tạo hướng về xuất khẩu.
Trong bối cảnh như hiện nay, vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu cho ASEAN để tiến tới thương mại cân bằng là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới đây. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề bởi hai lý do. Thứ nhất, các loại hàng mà ta có thế mạnh thì các nước ASEAN cũng có, sức cạnh tranh của một số mặt hàng trong số đó thậm chí còn mạnh hơn ta. Thứ hai, trong điều kiện đó, những nỗ lực để tiến tới thương mại cân bằng sẽ bị hạn chế rất nhiều bởi sự tham gia ngày càng sâu của Việt nam vào chương trình giảm thuế CEPT.
Có thể nói, phần lớn các doanh nghiệp Việt nam đang theo đuổi một chiến lược cạnh tranh thụ động là dựa vào các “lợi thế trời cho”: các yếu tố như lao động rẻ, tài nguyên thiên nhiên, vị trí độc quyền; trợ cấp riêng lẽ, lãi suất ưu đãi. . . được nhiều doanh nghiệp coi như cơ sở để tồn tại và phát triển. Rất ít doanh nghiệp dám theo đuổi một chiến lược chủ động mà cốt lõi của nó là tạo ra một vị thế cạnh tranh khác biệt mang tính dài hạn dựa trên khả năng cắt giảm chi phí bình quân trong ngành và khả năng tạo ra các sản phẩm độc đáo hơn cũng như quy trình sản xuất hiệu quả hơn.
Vì vậy, doanh nghiệp phải chủ động tạo ra những lợi thế so sánh “động” thay vì việc duy trì các lợi thế so sánh “tĩnh” trong các chiến lược kinh tế. Lợi thế so sánh “động” hay còn gọi là lợi thế cao cấp là vốn lớn, công nghệ tiên tiến, nguồn nhân lực với trình độ khoa học và trí thức cao. . . Lợi thế này cho phép khai thác lâu dài và sản phẩm tạo ra trên cơ sở những lợi thế cao cấp giá cả cao hơn so với sản phẩm khai thác lợi thế thấp cấp. Nền kinh tế Việt nam phải có sự chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp, sơ chế sản phẩm sang các ngành công nghệ chế biến, sử dụng công nghệ và kỹ thuật cao bằng những biện pháp khuyến khích thích hợp. Nếu không có chiến lược chuyển dịch cơ cấu, kinh tế của Việt nam khó có được sức cạnh tranh trên thị trường AFTA đặc biệt trong lĩnh vực buôn bán và đầu tư nước ngoài. Thực tế thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2002 giảm mạnh là minh chứng rõ rệt cho điều này khi các lợi thế so sánh tĩnh hay các lợi thế mang tính từ nhiên, thuộc cấp thấp của ta không còn phát huy tác dụng.
3.1.4 Cải thiện hệ thống thuế quan phù hợp và tăng cường nghĩa vụ của hải quan.
Trong mô hình cải cách thuế của Việt Nam, Quốc hội đã thông qua 2 luât thuế quan trọng là luật thuế VAT và thuế thu nhập Doanh Nghiệp mà tác dụng chính của chúng là đảm bảo nguồn thu cho ngân sách và khuyến khích đầu tư trong nước, thu hẹp khoảng cách giữa nó với đầu tư nước ngoài. đây là bước cảI cách đúng đắn nhằm bảo về quyền lợi của người đầu tư trong nước cũng như ngoài nước. Từ sự cải cách này, ta đề ra đưược từng bước xây dựng hệ thống thuế quan phù hợp với chương trình giảm thuế. Việc giảm dần thuế quan chứ không phải giảm ngay một lúc phải đưược đặt trong sự cải cách chung về cơ cấu thuế vì mục đích cải tiến phương thức thu thuế, giảm buôn lậu và tăng tính hiệu quả của cơ cấu công nghiệp.
Đơn giản hoá các mức thuế xuất, nhập khẩu, tiến tới bãi bỏ thuế xuất khẩu để khuyến khích xuất khẩu, giảm dần thuế suất thuế nhập khẩu, giảm số lượng mức thuế suất thuế nhập khẩu mở rộng khoảng cách giữa các mức thuế.
Tiến hành thực hiện Hiệp định xác định trị giá hải quan theo quy định GATT/WTO. Giá tính thuế nhập khẩu được xác định trên cơ sở hợp đồng ngoại thương.
Cần sớm hoàn chỉnh các văn bản hướng dẫn thực hiện quy định về đánh thuế nhập khẩu bổ sung trong trường hợp hàng nhập khẩu được bán phá giá, được trợ cấp làm ảnh hưởng tới sản xuất trong nước.
Về các biện pháp phi quan thuế: Trong thời gian trước mắt, cần chuẩn bị điều kiện để tiến tới thực hiện đấu thầu hạn ngạch nhập khẩu và bán hạn ngạch xuất – nhập khẩu một cách công khai. Việc quy định các mặt hàng cấm nhập khẩu cần có cân nhắc cẩn thận, tránh gây ra những tác động tiêu cực như buôn lậu, trốn thuế. Việc tài trợ xuất khẩu cần xác định rõ mục đích, phương thức và cơ chế đảm bảo tránh tình trạng các doanh nghiệp ỷ lại, trì trệ và không cố gắng cải thiện tình hình, vươn ra thị trường thế giới. Xét về chuẩn mực quốc tế thì biện pháp phi quan thuế nhằm bảo hộ sản xuất trong nước không được WTO chấp nhận. Vì vậy, về lâu dài chúng ta cần xem xét để có thể bãi bỏ các biện pháp này và tiến hành thuế hoá biện pháp phi quan thuế phù hợp với quy định của WTO.
Để tăng cường nghĩa vụ của hải quan thì những gì liên quan đến hải quan phải chính xác theo nguyên tắc trong việc thực hiện chương trình CEPT; xác định đúng trị giá hải quan để tính giá hải quan; đơn giản hoá hệ thống thủ tục hải quan; thống nhất thủ tục hải quan tức là chấp hành đúng và đủ theo mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hoá thuộc diện CEPT và tuân thủ một cách nghiêm túc các thủ tục XNK chung.
3.1.5 Sự can thiệp cần thiết của các bộ, ngành quản lý và Chính Phủ.
Nhà nước đã và đang tiếp tục hỗ trợ các đIều kiện về môi trường kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh công tác hỗ trợ xúc tiến thương mại, trợ giúp thông tin… nhằm giúp doanh nghiệp tự đứng vững trên đôi chân của mình trong đIều kiện thực hiện ngày càng nhiều các cam kết thương mại. Ngày 27/11/2001, bộ Chính trị ra Nghị Quyết 07/NQ-TW về hội nhập kinh tế quốc tế. Đầu tháng 5/2002, Hội nghị toàn quốc về hội nhập kinh tế quốc tế đã đưược tổ chức ở Hà Nội với sự tham gia của đại diện các bộ, ngành, Trung ương, các địa phương và nhiều doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nội dung thực hiện lộ trình CEPT/AFTA đưược công bố sớm và rộng rãi để doanh nghiệp có sự chuẩn bị cần thiết. Các hoạt động này nâng cao một bước về nhận thức và vạch ra những bước đi căn bản giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong thực hiện các cam kết quốc tế.
Chính phủ cũng đã đưa ra những giải pháp cụ thể để nâng cao sức cạnh trạnh của toàn bộ nền kinh tế là: thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tích cực cải thiện môi trường đầu tư, động viên tối đa mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển, nâng cao hiệu quả đầu tư. Trên cơ sở nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp sẽ năng động hơn trong một môi trường thông thoáng, bình đẳng. đồng thời Chính phủ còn thực hiện nhiều biện pháp cụ thể khác giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh như tăng khả năng tiếp nhận công nghệ tiên tiến, giảm chi phí của dịch vụ độc quyền. Theo chỉ thị của Phó thủ tướng thường trực Nguyễn Tấn Dũng, từ quý I/2003, cước viễn thông sẽ giảm xuống mức ngang bằng hoặc thấp hơn các nước trong khu vực. Các dịch vụ ở cảng biển có nhiều tiến bộ, các loại phí luồng lạch, phí cảng biển cũng đưược giảm xuống ngang bằng các nước trong khu vực, giúp doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu giảm đáng kể chi phí giá thành.
Hoạt động xúc tiến thương mại từ năm 2003 đã có những thuận lợi mới. Nhà nước dành một khoảng ngân sách trích trên kim ngạch XK để hỗ trợ hoạt động này. các cơ quan quản lý cũng có đưa ra nhiều biện pháp kiểm soát chăt chẽ chất lượng hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu bằng việc áp dụng rộng rãi hệ thống các tiêu chuẩn quốc tế. Với nhiều phương pháp tiếp cận để các doanh nghiệp XK nắm vững pháp luật, các quy định nhiệm vụ trong hoạt động ngoại thương… nhằm giúp doanh nghiệp không bị hụt hẫng trong quá trình hội nhập.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, các biện pháp mà nhà nước thực hiện chủ yếu là tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng đề doanh nghiệp có thể xoay sở linh hoạt hơn trong môi trường cạnh tranh ngày càng đưược quốc tế hóa chứ không thể và không nên trực tiếp làm thay cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp có trụ vững và phát triển hay không trong quá trình thực hịên CEPT/AFTA, thực hiện Hiệp định thương mại Việt – Mỹ hay các cam kết quốc tế khác, chủ yếu phụ thuộc vào sức cạnh tranh của doanh nghiệp và công tác tiếp thị để chiếm lĩnh thị trường trong nước, tranh thủ ưu đãi 3 năm họ giành cho ta hưởng mức thuế 0 – 5% để mở rộng thị trường sang ASEAN.
3.2 Các chính sách cần chú trọng trong dài hạn.
Để đáp ứng những đòi hỏi về mặt lý luận về hiệu quả của một chương trình tự do hoá thương mại, Việt Nam cần phải thiết kế một kế hoạch toàn diện về việc thực hiện các cam kết tự do hoá thương mại theo AFTA, bao gồm xác định trình tự, tốc độ cải cách, xác định nội dung của cải cách, trong đó không chỉ chú ý đến những cải cách trong lĩnh vực thương mại, mà cả các chính sách kinh tế liên quan khác. Việt Nam đã đưa ra lịch trình giảm thuế để thực hiện AFTA và một số những cải cách khác trong lĩnh vực hải quan, tiêu chuẩn và chất lượng sản phẩm …,song hình như vẫn chưa thực sự có một kế hoạch cải cách các chính sách liên quan để đảm bảo tính nhất quán giữa cải cách chính sách thương mại và các chính sách khác trong hệ thống chính sách kinh tế quốc gia.
Với những điều kiện kinh tế – xã hội thực tế của Việt Nam, khi đất nước đã thực sự thực hiện việc cắt giảm thuế và từng bước xoá bỏ các hàng rào phi quan thuế cộng với những khó khăn và thuận lợi cơ bản đã nêu ở trên, để luôn đảm bảo tính nhất quán trong lĩnh vực cải cách chính sách khi thực hiện các cam kết theo AFTA, Việt Nam càng cần quan tâm đến những vấn đề sau đây.
Chính sách thương mại : giảm bớt những bất cập trong chính sách thương mại liên quan đến hệ thống thuế quan, các hàng rào phi thuế quan, đặc biệt nên chuyển toàn bộ việc bảo hộ bằng hạn ngạch sang thuế quan đối với các ngành cần đưược bảo hộ và ấn định thời gian áp dụng đối với các biện pháp bảo hộ tạm thời, nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách. Xuất phát từ đó trước mắt, trong lĩnh vực chính sách thương mại cần tập trung vào việc xây dựng một hàng rào bảo hộ có hiệu quả hơn, tức chỉ bảo hộ những mặt hàng có khả năng cạnh tranh. Theo báo cáo đề xuất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về khả năng chuyển dịch cơ cấu sản xuất khi thực hiện các cam kết theo AFTA, các ngành hàng mà Việt Nam đang và sẽ có lợi thế cạnh tranh là một số mặt hàng nông sản và nông sản chế biến, chủ yếu là gạo nhưng loại trừ mía đường và những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như dệt, may mặc, da giày. Các ngành khác như thép, ximăng, ôtô - xe máy, điện tử, chất dẻo hiện tại đều chưa có khả năng cạnh tranh so với hàng nhập khẩu từ khu vực.
Chính sách tỷ giá hối đoái: phải coi đIều hành tỷ giá hối đoái là một bộ phận trong quá trình hội nhập. Bất cứ lúc nào, cần nhanh chóng đưa ra một chính sách tỷ giá hợp lý, gần sát với mức tỷ giá hối đoái cân bằng mục tiêu, luôn tránh việc đặt giá cho đồng bản tệ quá cao làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh về giá của hàng hóa Việt Nam. Cẩn lưu ý rằng chỉ có việc giảm giá trị thực của đồng bản tệ mới là một trong những biện pháp hữu hiệu của bất kỳ một chương trình tự do hoá thương mại nào và đIều đó sẽ xảy ra khi đồng bản tệ đươc giảm giá với mức độ lớn hơn mức lạm phát trong thời đIểm tương ứng. Một chế đô tỷ giá hối đoái linh hoạt sẽ giúp đIều chỉnh đưược giá trị của đồng bản tệ theo mức độ lạm phát, hoặc đảm bảo giảm giá thực để tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá XK.
Việc xác định tỷ giá hối đoái cân bằng mục tiêu dựa trên hai yếu tố chính là mức lạm phát và tính cân đối của cán cân thương mại. Việt Nam đã có nhiều kinh nghiệm trong việc chống lạm phát, song vấn đề cân bằng cán cân thương mại đang còn nhiều tồn tại cần đưược giải quyết. Trong tương lai, để hạn chế thâm hụt ở mức an toàn(ít nhất là bằng 5% GDP), việc đIều chỉnh cơ cấu nhập khẩu phải gắn liền với xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành mà tiến trình tự do hoá thương mại đã đề ra và phải đưược tiến hành thông qua việc cải cách hệ thống thuế nhập khẩu sao cho khuyến khích nhập khẩu nguyên vật liệu phụcvụ cho sản xuất hàng hoá tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đồng thời hạn chế nhập khẩu thành phẩm.
Chính sách tiền tệ – tín dụng: để sử dụng có hiệu quả chính sách tiền tệ – tín dụng trong quá trình hội nhập, củng cố hệ thống ngân hàng là một yêu cầu cấp bách. Khi hàng hoá đưược trao đổi tự do hơn, để đảm bảo cân bằng cho cán cân thanh toán, nhu cầu về vốn cũng như việc di chuyển các dòng vốn sẽ tăng lên. Rút kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực, hệ thống ngân hàng của Việt Nam cần phải đưược cải cách theo hướng nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý và sử dụng vốn, mở rộng việc vay vốn từ ngân hàng, trong đó chú trọng hơn đến khu vực tư nhân, đồng thời cần đề ra các chính sách để thu hút các dòng vốn dại hạn. khi nguồn vốn đưược quản lý tốt, thủ tục hành chính bớt phiền hà, việc cho vay sẽ có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, về mặt cung tín dụng, không nên dựa vào dòng vốn vay, đặc biệt là vay nước ngoài, để tránh khả năng gia tăng gánh nặng nợ nần trong tương lai, mà nên dựa vào việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu thông qua thị trường chứng khoán, thành lập các quỹ hỗ trợ, hưu trí và bảo hiểm để thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng.
Chính sách đầu tư: trong lĩnh vực đầu tư, việc cải cách không nên tập trung quá nhiều vào việc đặt ra các ưu đãi đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, vì theo tinh thần của Nghị định 51/1999/NĐ-CP, những ưu đãi mà Việt Nam đưa ra có thể đưược đánh giá là gần như tương đơng với một số nước trong khu vực. Công việc cải cách trong thời gian tới cần đưược định hướng vào việc đIều chỉnh cơ cấu đầu tư giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, giữa các ngành sản xuất, các vùng, các địa phương, sao cho vừa giảm bớt sự phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài, vào tạo thế chủ động trong đầu tư để phát triển ổn định. Mục tiêu quan trọng của việc điều chỉnh chính sách đầu tư là phục vụ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu mà quá trình tự do hoá thương mại đòi hỏi.
Chính sách thị trường lao động và giáo dục - đào tạo: Để đảm bảo tính linh hoạt cần thiết của thị trường lao động cho quá trình hội nhập, việc cải tổ khu vực doanh nghiệp nhà nước cần đưược đẩy nhanh hơn nữa, tiếp tục củng cố và phát triển khu vực tư nhân. Việc cải tổ DNNN sẽ không chỉ tác động tích cực lên việc tái phân bổ nguồn lao động mà lên cả nguồn vốn tài sản theo hướng có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, phát triển nguồn nhân lực theo hướng nâng cao chất lượng lao động là rất cần thiết đối với Việt Nam trong suốt thời gian cải cách. Viện nghiên cứu các rủi ro trong môi trường kinh doanh đã tiến hành đánh giá chất lượng lao động của các quốc gia trên thế giới dựa trên khuôn khổ pháp luật, thái độ lao động, năng suất và trình độ tay nghề của lực lượng lao động và nếu nước nào đạt dưới 35/100 đIểm có nghĩa là tính cạnh tranh toàn cầu của lao động ở nước đó ở dưới mức cho phép. Theo kết quả đIều tra vào những năm cuối thập kỷ 90 của Viện này, Việt Nam đưược 32 đIểm, trong khi đó Singapore đạt trên 60 điểm. Thực trạng chất lượng lao động như vậy đòi hỏi chính phủ phải quan tâm hơn nữa đến việc phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng chế độ thương mại tự do hơn đòi hỏi người lao động phải có tay nghề cao hơn, năng động và kỷ luật hơn để có thể tham gia vào thị trường lao động linh hoạt sẽ đưược hình thành trong tương lai. Nếu lao động Việt Nam đạt đưược tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, việc xuất khẩu lao động sẽ là một hướng đi tốt trong tương lai, vừa giải quyết vấn đề công ăn việc làm, vừa tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước, cũng như cải thiện đời sống cho người lao động.
Trong tương lai, để thực hiện tốt các cam kết theo AFTA trong “tuyên bố Hà Nội”, tức là để đối mặt với việc thực hiện tự do hoá thương mại thực sự của khu vực, Việt Nam cần phải có một kế hoạch thực hiện AFTA có hiệu quả. Điều đó hàm ý rằng ngoài việc đưa ra lịch trình giảm thuế và các cam kết về xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan, chính phủ cần quan tâm đến việc đưa ra một kế hoạch cải cách các chính sách liên quan, trong đó quan trọng nhất là chính sách tỷ giá hối đoái, tiền tệ – tín dụng, đầu tư, thị trường lao động, giáo dục và đào tạo, để đảm bảo tính nhất quán giữa các cải cách chính sách này với cải cách chính sách thương mại. Mục đích cuối cùng của việc cải cách này là đạt đưược sự chuyển dịch cơ cấu sang những ngành mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh, trước mắt là chủ yếu bao gồm những ngành có hàm lượng lao động cao và một số hàng nông sản cũng như nông sản chế biến. Chỉ bằng cách đó, Việt Nam mới có thể tận dụng tốt những cơ hội mà việc thực hiện AFTA nói riêng và quá trình hội nhập khu vực và quốc tế nói chung mang lại.
3.3 Nhìn nhận xu thế hội nhập CEPT/AFTA trong giai đoạn mới của Việt Nam.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá với xung lực chính là tự do hoá thương mại sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ trong những năm tới. Trong khi đó các lợi thế truyền thống (tài nguyên và nhân lực) sẽ giảm dần giá trị nếu xuất khẩu chỉ đưa vào đó, sẽ không thể đạt đưược sự tăng trưởng cao và bền vững. Ngoài ra các rào cản kỹ thuật đã, đang và sẽ đưược các nước phát triển sử dụng để hạn chế nhập khẩu, bảo hộ hàng hoá trong nước. Do vậy, những yêu cầu về phương pháp sản xuất chế biến, tiêu chuẩn về môi trường, bao bì, đóng gói, kiểm dịch, chứng chỉ chất lượng, các tiêu chuẩn đánh giá sản phẩm… sẽ là những “lá chắn” mà thương nhân Việt Nam phải tính đến khi “xuất ngoại”. Đặc biêt, rào cản chống bán phá giá sẽ là một trở ngại không dễ vượt qua. Chính vì lẽ đó, lộ trình hội nhập của Việt Nam phải đưược xây dựng rất cụ thể cho tưng lĩnh vực, từng mặt hàng, từng loại hình dịch vụ, đầu tư với một thời gian biểu hợp lý. Trước mắt, cần phổ cập một cách rộng rãi, cụ thể lịch trình thực hiện Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN, và định hướng về lịch trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới. Hai bộ luật đầu tư hiện nay nên thống nhất làm một để dần xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa trong nước và ngoài nước. Bên cạnh đó, cần sửa đổi và hoàn thiện hệ thống các tiêu chuẩn liên quan đến hàng hoá và quy trình sản xuất. Phổ biến rộng rãi luật chống bán phá giá của các nước cho thương nhân kinh doanh XNK Việt Nam.
Có thể nói, chúng ta đang có thời cơ và vận hội để rút ngắn con đường phát triển của đất nước. Tham gia vào tổ chức kinh tế quốc tế chẳng những giúp Việt Nam đẩy nhanh quá trình phát triển mà sẽ còn là cuộc “tổng diễn tập” và là để khẳng định Việt Nam mong muốn làm bạn với các nước trên thế giới. Đẩy nhanh tốc độ cải ở cả 3 cấp : quốc gia, doanh nghiệp, sản phẩm phải chăng là bước phát triển hợp quy luật trong bối cảnh hiện nay của nước ta.
Nhìn chung, Việt Nam đang chuẩn bị bước vào giai đoạn gần cuối cùng của tiến trình AFTA(năm 2006) và tiến tới việc giảm dần cho đến xoá bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu giữa các nước ASEAN hay đang từng bước hoà nhập vào cái được gọi là tự do hoá thương mại thực sự trong khu vực. Cùng với xu thế lớn này, có thể nói Việt Nam đã phần nào xây dựng được một nền tảng tương đối vững chắc và khả quan về một bức tranh hội nhập kinh tế quốc tế, dù đây mới chỉ là thời điểm đầu của giai đoạn mới. Tuy nhiên, trước mắt chúng ta vẫn phải đương đầu với những khó khăn chủ quan cũng như khách quan, cố gắng đổi mới và hoàn thiện hết sức mình với toàn bộ nội lực vốn có và quan trọng hơn cả là duy trì các mối quan hệ với bên ngoài rộng rãi và thân thiện hơn nữa trên cơ sở sự phát triển cũng như lợi ích quốc gia, nhất là đối với các nước có gần vị trí và nhiều nét tương đồng.
Theo tư tưởng trên, có nghĩa là trong bối cảnh ngay nay, quốc gia nào không mở cửa thông thương và liên kết với bên ngoài sẽ tự đẩy nền kinh tế của nó đi đến diệt vong. Một ASEAN của Châu á trong đó có Việt Nam – một trong những nền kinh tế sôi động trên thế giới, đang trên con đường mở rộng liên khu vực đã chứng minh đIều đó.
Mặc dù, trong quá khứ, ASEAN đã tỏ ra hoàn toàn tin tưởng vào việc giải quyết các thách đố “bên trong tổ chức cũng như mối quan hệ với các bạn đồng cuộc trong khu vực và trên quốc tế. Nó đã đứng vững với tư thế là một hình mẫu hợp tác khu vực và đã thành công nhất trong khối các nước đang phát triển. Một trong những lý do then chốt cho sự thành công đó là các nhà lãnh đạo đã nuôi dưỡng một thói quen mạnh mẽ về xây dựng hợp tác và nhất trí trong các nước thành viên. Trong một thế giới có những thay đổi nhanh chóng và có tầm ảnh hưởng rộng lớn và trong bối cảnh các xu hướng khu vực tồn tại trên toàn cầu, nhưng thách đố tương lai có khả năng khác biệt về cơ bản với quá khứ, đồng thời có thể chứng minh được là phức tạp hơn nhiều và trong một số trường hợp lại quá vô định hình để ASEAN có thể giải quyết trong dạng toàn thể của chúng.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng, xu hướng mở rộng liên khu vực của ASEAN là một môi trường đầy hứa hẹn, chúng ta cần khám phá để thu được những lợi ích tiềm tàng nhất có thể. Chứng minh cho điều đó, đã có một số các Hiệp ước, thoả thuận và tuyên bố về định hướng chiến lược kinh tế của ASEAN cũng như của Việt nam. ASEAN đã vạch ra một đường hướng mới tiến tới năm 2020 gọi là tầm nhìn ASEAN 2020, trong đó các nước sẽ tạo nên một quan hệ đối tác trong phát triển năng động và hình thành sự hoà nhập kinh tế chặt chẽ hơn trong ASEAN. Từ đó, các nước ASEAN sẽ thu hẹp khoảng cách về mức độ phát triển với nhau, đảm bảo rằng hệ thống buôn bán đa phương tiếp tục công bằng và mở cửa, sau cùng là đạt được sức cạnh tranh toàn cầu. Bên cạnh đó, các nước ASEAN cũng đồng ý xây dựng một chương trình làm việc về hợp tác trong lĩnh vực đầu tư, trong đó bao gồm các hoạt động chung nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, cùng nhau khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực công nghiệp có công nghệ cao, các hoạt động có giá trị gia tăng cao, cùng nhau công bố các chính sách, quy định, quy trình, cơ hội đầu tư cũng như tăng cường tính công khai trong chế độ đầu tư của ASEAN, đơn giản hoá các thủ tục đầu tư của các nước ASEAN. Hội nghị cấp cao 10 nước Đông Nam á và 3 nước Đông Bắc á gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc (ASEAN + 3) đã được khởi động từ năm 1997. Đến Hội nghị cấp cao ASEAN + 3 lần thứ ba tại Manila (Philippin), nguyên thủ 13 quốc gia ở Đông á đã ký kết bản Tuyên bố chung về hợp tác Đông á nhằm tăng cường các mối quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư, tài chính, tiền tệ, phát triển nhân lực, khoa học và công nghệ điện tử – thông tin. Nói chung, các nước có nền kinh tế lớn trong ASEAN thể hiện ý chí quyết định thực hiện thành công AFTA với mong muốn có thể đi đến xoá bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu, mức thuế giảm xuống 0% chứ không phải là 0-5% như hiện nay. Khi đó các nước đạt đến mức thực sự tự do hoá thương mại và đuổi kịp các nước có nền kinh tế phát triển cao trên thế giới.
Để mau chóng hoà nhập nhanh với xu thế chung trên thế giới và trong khu vực hiện nay, mục tiêu của Việt nam trong giai đoạn 2001-2002 là: xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp; định hình thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển kinh tế nhanh, ổn định và bền vững; tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 gấp đôi so với năm 2000, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP và trong lao động xã hội, cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và văn hoá, xoá đói giảm nghèo và giải quyết về cơ bản việc làm cho người lao động; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả; tạo điều kiện để nước ta tiến nhanh và vững chắc hơn, đến khoảng năm 2020 về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Hoạt động xuất nhập khẩu trong 10 năm tới cần phục vụ trực tiếp cho mục tiêu chung nói trên với nội dung cơ bản là: nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu, bảo đảm nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, góp phần đẩy mạnh CNH-HĐH, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, áp dụng công nghệ mới để tăng sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ; về nhập khẩu chú trọng thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại ở mức hợp lý; mở rộng và đa dạng thị trường và phương thức kinh doanh, hội nhập thắng vào kinh tế khu vực và thế giới. Chớp thời cơ thuận lợi tạo ra sự phát triển đột biến, nhanh chóng rút ngắn khoảng cách giữa kinh tế nước ta và các nước trong khu vực.
Tóm lại, như đã đề cập ở phần trên, xét trên tổng thể chiến lược “hướng tới xuất khẩu”, mở rộng quan hệ thương mại với tất cả các khu vực, các nước, các lĩnh vực, không hạn chế về địa lý, thể chế chính trị với chính sách cụ thể là “đa dạng hoá, đa phương hoá thị trường” . . . giữ vai trò hết sức quan trọng trong chính sách ngoại thương của các nước Châu á. Đó không chỉ là nền tảng vững chắc mà còn là động lực, phương tiện, công cụ hiệu quả, góp phần vào thành công trong phát triển kinh tế của khu vực.
Kết luận
Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng sâu rộng, tầm quan trọng của các quan hệ đối ngoại ngày càng tăng. hội nhập kinh tế thế giới và khu vực đã trở thành hiện thực đối với các quốc gia trên thế giới. Đồng thời tự do hoá thương mại đang ngày càng trở thành một tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia và là yếu tố cơ bản của hội nhập. Đối với các quốc gia phát triển như Việt Nam, chiến lược hướng về xuất khẩu đang tỏ rõ ưu thế và cần thiết hơn bao giờ hết trong nền kinh tế.
Quá trình thực hiên CEPT/AFTA không chỉ tạo cơ sở cho Việt Nam tận dụng được những cơ hội đáng quý và thách thức phải đương đầu trong việc thực hiện thương mại tự do. Chương trình này còn giúp Việt Nam từng bước tiến sâu thêm trên con đường hội nhập với nền kinh tế thế giới như gia nhập tổ chức WTO.
Cần khẳng định rõ ràng rằng, chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới phải hướng về xuất khẩu, nhấn mạnh vào phát triển các ngành nghề mà sản phẩm có thể xuất khẩu được. Chiến lược này đòi hỏi chúng ta phải xác định chính xác các lợi thế tương đối của đất nước. Cần nhận thức rõ ràng rằng, càng chậm trễ trong việc hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực bao nhiêu thì càng bất lợi cho sự tăng trưởng kinh tế, cho công cuộc CNH-HĐH đất nước bấy nhiêu. chúng ta không thể đứng ngoài mà phải chủ động tích cực thực hiện các trách nhiệm của chúng ta trong khuôn khổ AFTA, coi đó như bước chuẩn bị cho sự tham gia các tổ chức thương mại quốc tế rộng lớn hơn như APEC, WTO…
Tài liệu tham khảo.
Ari Kokko, Quản lý quá trình chuyển sang chế độ Thương mại tự do, Chính sách thương mại của Việt Nam cho thế kỷ 21, NXB Chính trị quốc gia, 1997.
Báo Thương mại, số 1+2/2003.
Báo Đầu tư chứng khoán số 161, 6/1/2003.
Giáo trình kinh tế học quốc tế, NXB Thống kê, 1999.
GS. Tô Xuân Dân, PGS. Đỗ Đức Bình (chủ biên), Hội nhập với AFTA: cơ hội và thách thức, NXB Thống kê, 1997.
GS.TS Baladas Ghoshal, ASEAN bước vào thế kỷ 21: những thách đố trước mắt, 1997.
Lựa chọn sản phẩm và thị trường trong ngoại thương thời kỳ CNH của các nền kinh tế Đông á, NXB Chính trị quốc gia, 2000.
Michael P. Todaro, Kinh tế học cho thế giới thứ ba, NXB Giáo dục, 1998.
Niên giám thống kê 2000.
Niên giám thống kê 2001, 2002.
Nguyễn Minh Tân, Võ Thành Hưng, Hội nhập ASEAN, thúc đẩy hàng rào thuế quan-cơ hội và những thách thức, Thông tin KHTC, 3/1996.
P.A.Samuelson, W.D. Nordhans, Kinh tế học, NXB Chính trị quốc gia, 1997
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Sổ tay Hội nhập kinh tế thế giới, 11/1999.
PTS. Vũ Đức Đam, Chương trình thiết lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) với công cuộc phát triển kinh tế của Việt Nam, Văn phòng Uỷ ban quốc gia về ASEAN, 1996.
PTS. Hoàng Thị Thanh Nhàn, ASEAN-Tổ chức hợp tác khu vực,1997.
Tạp chí nghiên cứu Đông Nam á, 6/1999.
Tạp chí Tài chính,3/1996.
Thời báo kinh tế Việt Nam số 57, 11/5/2001.
Thời báo kinh tế Việt Nam 2001-2002:Việt Nam và thế giới.
Thời báo kinh tế, 2/2002.
Thông tấn xã Việt Nam, Tầm nhìn 2020 của ASEAN, 29/12/1997.
ThS. Nguyễn Thanh Hà, Giải pháp cho AFTA:Thúc đẩy hội nhập kinh tế trong khu vực, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Đại học KTQD, số 61,7/2002.
ThS. Nguyễn Thanh Hà, Việt Nam và AFTA. Vị trí của chúng ta và những giải pháp cần thực hiện Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Đại học KTQD,số đặc san, 4/1998.
ThS. Lê Thị Anh Vân, Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Đại học KTQD, NXB Lao động, Hà Nội, 2003.
TS. Trần Cao Thành, ASEAN thực hiện và mở rộng khu vực thương mại tự do, Viện nghiên cứu Đông Nam á, số 2/2002.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
Võ Thanh Thu(chủ biên), Quan hệ Thương mại - Đầu tư giữa Việt Nam và các nước thành viên ASEAN, NXB Thống kê, 1998.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37154.doc