Tiến trình gia nhập WTO và những cAM kết của Việt Nam trong WTO

Tài liệu Tiến trình gia nhập WTO và những cAM kết của Việt Nam trong WTO: ... Ebook Tiến trình gia nhập WTO và những cAM kết của Việt Nam trong WTO

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1716 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Tiến trình gia nhập WTO và những cAM kết của Việt Nam trong WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tr­êng Đ¹i häc kinh tÕ quèc d©n KHOA TH¦¥NG MẠI vµ KINH TẾ QUỐC TẾ š&› ĐỀ ÁN MÔN HỌC §Ò tµi: TIÕN TR×NH GIA NHËP WTO Vµ NH÷NG CAM KÕT CñA VIÖT NAM TRONG WTO Giao vien huong dan : GS.TS. §ÆNG §×NH §µO Sinh vien thuc hien : NGUYÔN THÞ V¢N ANH Líp : qtkd TM 48A Hµ Néi - 2009 MỤC LỤC II. Những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO 25 1. Giới thiệu về bộ nội dung cam kết của việt Nam trong WTO 25 2. Tóm tắt nội dung cam kết của Việt Nam trong WTO 26 2.1. Cam kết đa phương 26 2.1.1. Kinh tế phi thị trường: . 26 2.1.2. Dệt may: 26 2.1.3. Trợ cấp phi nông nghiệp: 27 2.1.4. Trợ cấp nông nghiệp: 27 2.1.5. Quyền kinh doanh (quyền xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa): 27 2.1.6. Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia: 28 2.1.7. Doanh nghiệp Nhà nước / doanh nghiệp thương mại Nhà nước: 28 2.1.8. Tỷ lệ cổ phần để thông qua quyết định tại doanh nghiệp: 28 2.1.9. Một số biện pháp hạn chế nhập khẩu: 28 2.1.10. Minh bạch hóa: 29 2.1.11. Một số nội dung khác: 29 2.2. Cam kết về thuế nhập khẩu 29 2.2.1. Mức cam kết chung: 29 2.2.2. Mức cam kết cụ thể: . 29 2.3. Cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ 30 2.3.1. Cam kết chung cho các ngành dịch vụ: 30 2.3.2. Dịch vụ khai thác hỗ trợ dầu khí: 31 2.3.3. Dịch vụ viễn thông: 31 2.3.4. Dịch vụ phân phối: 32 2.3.5. Dịch vụ bảo hiểm: 32 2.3.6. Dịch vụ ngân hàng: 32 2.3.7. Dịch vụ chứng khoán: 32 2.3.8. Các cam kết khác: . 32 3. Tình hình thực hiện cam kết 33 3.1. Tình hình thực hiện cam kết thương mại dịch vụ 34 3.2. Tình hình thực hiện cam kết thuế quan 35 3.3. Tình hình thực hiện cam kết về hải quan 37 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ NHỮNG CAM KẾT CỦA VIỆT NAM TRONG WTO 40 I. Giải pháp chung 40 II. Giải pháp thực hiện một số hiệp định của Việt nam trong WTO 41 1. Giải pháp thực hiện Hiệp định TBT 42 1.1. Giới thiệu về Hiệp định TBT 42 1.2. Giải pháp thực hiện Hiệp định TBT 43 2. Giải pháp thực hiện các cam kết về hải quan 45 2.1. Những cam kết cơ bản 45 2.2. Giải pháp thực hiện cam kết về hải quan 46 III. Một số kết quả về kinh tế_thương mại Việt Nam sau hơn hai năm gia nhập WTO 51 1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế 53 2. Lạm phát qua các năm. 54 3. Xuất khẩu gia tăng 55 4. Khả năng cạnh tranh. 57 5. Quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước và vùng lãnh thổ 57 6. Vẫn còn nhiều thách thức 60 KẾT LUẬN 62 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 63 DANH MỤC BẢNG BIỂU Biểu 1: Diễn giải mức thuế bình quân cam kết 33 Biểu đồ 1. Tăng trưởng GDP của Việt Nam qua các năm 53 Biểu đồ 2: Lạm phát qua các năm. 54 Biểu đồ 3: Giá trị xuất, nhập khẩu qua các năm 56 LỜI NÓI ĐẦU Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bắt tay vào xây dựng một Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa với việc sớm bầu Quốc hội khóa I và thông qua Hiến pháp 1946, nhằm tăng cường nội lực đảm bảo cho sự hội nhập chủ động vào thế giới hiện đại. Trong một hoàn cảnh lịch sử vô cùng phức tạp, Người đưa ra rất nhiều sách lược mềm mỏng nhằm đoàn kết dân tộc và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế để thực hiện mục tiêu, lý tưởng của mình; đặc biệt là trên lĩnh vực đối ngoại, tư tưởng hội nhập của nước Việt Nam độc lập rất rõ ràng, minh bạch và nhất quán, đó là "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước dân chủ", "nước Việt Nam sẵn sàng mở cửa đón nhận sự đầu tư của mọi quốc gia, kể cả với nước Pháp, không chỉ trên phương diện kinh tế mà kể cả vấn đề an ninh thế giới và khu vực", "nước Việt Nam mong muốn được thế giới và Liên hiệp quốc công nhận nền độc lập của mình đồng thời cũng sẵn sàng gia nhập Liên hiệp quốc, các tổ chức và tham gia các cam kết quốc tế". Quán triệt tư tưởng hội nhập chủ động và toàn diện đó, từ Đại hội VII Đảng ta đã chủ trương "Độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại" với phương châm "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". Và theo tinh thần đó, năm 1992, chúng ta đã nối lại được quan hệ với IMF, WB, ADB; tháng 7 năm 1995, Việt Nam gia nhập ASEAN; năm 1996 tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); tháng 3 năm 1996, tham gia diễn đàn hợp tác Á-Âu; tháng 11 năm 1998, Việt Nam được kết nạp là thành viên chính thức của APEC. Tháng 12 năm 1994, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập và đến những ngày đầu năm 2007 này, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Điều đó cũng có nghĩa rằng, cả thế giới thừa nhận Việt Nam là thành viên trong cộng đồng kinh tế lớn nhất của hành tinh này. Nếu nhìn lại cả quá trình, ta mới thấy việc gia nhập WTO là một sự kiện có ý nghĩa vô cùng quan trọng, là kết quả tất yếu của những nỗ lực mà nhân dân Việt Nam đã đạt được trong suốt hơn 20 năm đổi mới, cùng với việc thực hiện đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa và chủ động tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Nói cách khác, sự kiện đó không phải là một bước ngoặt đột biến, mà là kết quả của cả một quá trình cải cách, là bước đi tất yếu mang tính khách quan. Việc gia nhập WTO sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội lớn và động lực để thúc đẩu đầu tư trong nước và nước ngoài, tạo nên năng lực sản xuất mới; hàng hóa, dịch vụ của nước ta nhận được sự đối xử bình đẳng khi tiếp cận thị trường của tất cả các thành viên WTO và cơ hội sử dụng Quy chế giải quyết tranh chấp của WTO để đấu tranh bình đẳng với các đối tác thương mại, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tham gia bình đẳng vào việc hoạch định các định chế thương mại toàn cầu. Nhận thấy ý nghĩa to lớn của việc Việt Nam gia nhập WTO đối với nền kinh tế, em đã tìm hiểu và lựa chọ nghiên cứu đề tài: “ Tiến trình gia nhập WTO và những cam kết của Việt Nam trong WTO” như một cách thực hiện nhiệm vụ tổng quan lại quá trình nước ta gia nhập WTO và những kết quả về kinh tế_thương mại sau hơn hai năm gia nhập tổ chức kinh tế quan trọng này. Nội dung chính của đề tài gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về tổ chức Thương Mại Thế Giới WTO Chương II: Tiến trình Việt Nam gia nhập WTO và những cam kết của Việt Nam trong WTO Chương III: Giải pháp để thực hiện có hiệu quả những cam kết của Việt Nam trong WTO Dù đã cố gắng nghiên cứu nhưng do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên không tránh khỏi các thiếu sót nên rất mong nhận được sự góp ý, xây dựng của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn GS.TS Đặng Đình Đào đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề án này. CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO I. Giới thiệu tổng quan về tổ chức thương mại Thế giới WTO 1. Lịch sử hình thành WTO là chữ viết tắt của Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization) - tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra những nguyên tắc thương mại giữa các quốc gia trên thế giới. Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã và đang được các nước đàm phán và ký kết. WTO là tổ chức thương mại quy mô toàn cầu, hiện có 149 Thành viên, được thành lập vào ngày 01 tháng 01 năm 1995. Tiền thân của tổ chức này là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), được 23 quốc gia ký kết vào năm 1947 nhằm tăng cường giao lưu thương mại giữa các quốc gia thông qua việc cắt giảm các hàng rào bảo hộ ở mỗi nước thành viên. Trong lịch sử gần 50 năm của mình, GATT đã tổ chức được 8 vòng đàm phán đa phương về thương mại. Vòng thứ 8, thường được gọi là Vòng đàm phán Uruguay, diễn ra từ năm 1986 đến năm 1994, đã hoàn tất quá trình cải tổ GATT để lập ra một định chế thương mại toàn cầu mới có tên là Tổ chức Thương mại thế giới, gọi tắt là WTO.  GATT chỉ là một hiệp định thương mại đa phương, không phải là một tổ chức. Trong khi đó, WTO là một tổ chức hoàn chỉnh, bao gồm các cơ quan có thẩm quyền như Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng, các Uỷ ban chức năng và Cơ quan giải quyết tranh chấp. Giúp việc cho các cơ quan này là Ban Thư ký với hơn 600 nhân viên, đứng đầu là Tổng thư ký. Trụ sở WTO đặt tại  Giơ-ne-vơ, Thụy Sỹ. Các thành viên tham gia vào hoạt động của WTO thông qua phái đoàn đại diện. Các quyết định quan trọng nhất của WTO được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng (họp ít nhất 2 năm một lần) hoặc tại các cuộc họp của Đại hội đồng (cấp đại sứ, họp thường xuyên tại Giơ-ne-vơ). Mỗi thành viên có một phiếu biểu quyết, không phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế hay mức niên liễm đóng góp. 2.Cơ cấu tổ chức của WTO Cấp cao nhất: Hội nghị Bộ trưởng Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng diễn ra ít nhất hai năm một lần. Hội nghị có sự tham gia của tất cả các thành viên WTO. Các thành viên này có thể là một nước hoặc một liên minh thuế quan (chẳng hạn như Cộng đồng châu Âu). Hội nghị Bộ trưởng có thể ra quyết định đối với bất kỳ vấn đề trong các thỏa ước thương mại đa phương của WTO. Cấp thứ hai: Đại Hội đồng Công việc hàng ngày của WTO được đảm nhiệm bởi 3 cơ quan: Đại Hội đồng, Hội đồng Giải quyết Tranh chấp và Hội đồng rà soát Chính sách Thương mại. Tuy tên gọi khác nhau, nhưng thực tế thành phần của 3 cơ quan đều giống nhau, đều bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành viên. Điểm khác nhau giữa chúng là chúng được nhóm họp để thực hiện các chức năng khác nhau của WTO. Đại Hội đồng là cơ quan ra quyết định cao nhất của WTO tại Geneva, được nhóm họp thường xuyên. Đại Hội đồng bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành viên và có thẩm quyền quyết định nhân danh hội nghị bộ trưởng (vốn chỉ nhóm họp hai năm một lần) đối với tất cả các công việc của WTO. Hội đồng giải quyết tranh chấp được nhóm họp để xem xét và phê chuẩn các phán quyết về giải quyết tranh chấp do Ban Hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm đệ trình. Hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên (cấp đại sứ hoặc tương đương). Hội đồng rà soát chính sách Thương mại được nhóm họp để thực hiện việc rà soát chính sách thương mại của các nước thành viên theo cơ chế rà soát chính sách thương mại. Đối với những thành viên có tiềm lực kinh tế lớn, việc rà soát diễn ra khoảng hai đến ba năm một lần. Đối với những thành viên khác, việc rà soát có thể được tiến hành cách quãng hơn. Cấp thứ ba: Các Hội đồng Thương mại Các Hội đồng Thương mại hoạt động dưới quyền của Đại Hội đồng. Có ba Hội đồng Thương mại là: Hội đồng Thương mại Hàng hóa, Hội đồng Thương mại Dịch vụ và Hội đồng Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại. Mội hội đồng đảm trách một lĩnh vực riêng. Cũng tương tự như Đại Hội đồng, các hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên WTO. Bên cạnh ba hội đồng này còn có sáu ủy ban và cơ quan độc lập khác chịu trách nhiệm báo cáo lên Đại Hội đồng các vấn đề riêng rẽ như thương mại và phát triển, môi trường, các thỏa thuận thương mại khu vực, và các vấn đề quản lý khác. Đáng chú ý là trong số này có Nhóm Công tác về việc Gia nhập chịu trách nhiệm làm việc với các nước xin gia nhập WTO. Hội đồng Thương mại Hàng hóa chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), tức là các hoạt động liên quan đến thương mại quốc tế về hàng hóa. Hội đồng Thương mại Dịch vụ chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS), tức là các hoạt động liên quan đến thương mại quốc tế về dịch vụ. Hội đồng Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định về Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại (TRIPS), cũng như việc phối hợp với các tổ chức quốc tế khác trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ. Cấp thứ tư: Các Ủy ban và Cơ quan Dưới các hội đồng trên là các ủy ban và cơ quan phụ trách các lĩnh vực chuyên môn riêng biệt. Dưới Hội đồng Thương mại Hàng hóa là 11 ủy ban, 1 nhóm công tác, và 1 ủy ban đặc thù. Dưới Hội đồng Thương mại Dịch vụ là 2 ủy ban, 2 nhóm công tác, và 2 ủy ban đặc thù. Dưới Hội đồng Giải quyết Tranh chấp (cấp thứ 2) là Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm. Ngoài ra, do yêu cầu đàm phán của Vòng đàm phán Doha, WTO đã thành lập Ủy ban Đàm phán Thương mại trực thuộc Đại Hội đồng để thức đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán. Ủy ban này bao gồm nhiều nhóm làm việc liên quan đến các lĩnh vực chuyên môn khác nhau. 3. Nguyên tắc hoạt động Toàn bộ hoạt động của WTO dựa trên một loạt các văn bản pháp lý đề cập tới rất nhiều lĩnh vực thương mại. Tuy nhiên các văn bản pháp lý này chỉ dựa trên một số nguyến tắc sau: - Không phân biệt đối xử - Thương mại ngày càng tự do thông qua đàm phán - Xây dựng môi trường kinh doanh dễ dự đoán - Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng - Dành cho các thành viên đang phát triển một số ưu đãi 4. Điều kiện gia nhập Bất kỳ quốc gia nào có quyền độc lập về chính sách thương mại điều có thể gia nhập WTO. Quá trình gia nhập được trãi qua các giai đoạn sau: - Điều kiện đầu tiên là phải công nhận các bản Thỏa ước GATT - Quá trình gia nhập trải qua 4 bước "Nói cho chúng tôi biết tình hình của bạn" Chính phủ quốc gia muốn gia nhập phải giới thiệu mọi phương diện chính sách kinh tế và thương mại có liên quan đến WTO. Thuyết minh này được đệ trình lên WTO dưới hình thức "Bị vong lục", sẽ được nhóm công tác thụ lý và thẩm tra. Nhóm công tác có thể là tất cả các thành viên của WTO. "Từng bước đưa ra đánh giá của bạn cho chúng tôi" Khi Ban công tác đạt được những tiến triển phù hợp về các nguyên tắc và chính sách, thành viên tương lai và các nước thành viên WTO sẽ tiến hành các cuộc đàm phán song phương, cam kết tham gia thị trường và các chính sách khác. Những cam kết của thành viên mới sẽ được trình tất cả các thành viên WTO thông qua nguyên tắc không phân biệt. "Chúng ta cùng nhau khởi thảo điều kiện gia nhập" Khi việc thẩm tra cơ chế thương mại của nước đăng ký gia nhập WTO và các cuộc đàm phán vể gia nhập thị từường song phương hoàn tất, ban công tác sẽ kết thúc các điều khoản gia nhập. "Đưa ra quyết định" Túi hồ sơ cuối cùng gồm bản báo cáo, nghị định thư và danh mục cam kết được đệ trình lên Hội đồng WTO hoặc Hội nghị Bộ trưởng WTO. Nếu 2/3 thành viên WTO bỏ phiếu chấp thuận, thì quốc gia đó chính thức là thành viên của WTO. Dựa trên cơ sở xem xét các chính sách kinh tế, thương mai của nước xin gia nhập và các cuộc đàm phán song phương về mở cửa thị trường. Việc gia nhập được chính thức hóa bằng việc ký vào Nghị định thư gia nhập. Có hiệu lực 30 sau khi nộp văn bản thông báo việc cơ quan có thẩm quyền đã thông qua hay phê chuẩn Nghị định thư gia nhập. II. Sự cần thiết, cơ hội và thách thức của việc Việt Nam gia nhập WTO Gia nhập WTO là tham gia sâu hơn vào tiến trình toàn cầu hoá kinh tế. Tiến trình này có những mặt thuận. Nó giúp các nước tận dụng được lợi thế so sánh của mình. Tăng trưởng kinh tế, vì vậy, trở nên ổn định và bền vững hơn. Sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ và phúc lợi chung của toàn xã hội được nâng cao nhờ nguồn lực được phân bổ một cách có hiệu quả hơn. Quá trình này cũng tạo ra cơ hội rất lớn cho các nước đang phát triển đẩy mạnh công nghiệp hoá và tham gia có hiệu quả hơn vào phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh mặt thuận, toàn cầu hoá kinh tế cũng có những mặt nghịch. Trước hết, toàn cầu hoá có khả năng dẫn tới sự lệ thuộc ngày càng tăng của các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, vào các thành tố có độ ổn định kém của kinh tế toàn cầu như luồng vốn đầu tư và thị trường tài chính. Bên cạnh đó, toàn cầu hoá tuy có khả năng làm tổng sản phẩm xã hội tăng lên nhưng cũng tiềm ẩn khả năng làm gia tăng hơn nữa khoảng cách phát triển giữa nước giàu với nước nghèo cũng như giữa các vùng và các tầng lớp xã hội trong phạm vi quốc gia. Cuối cùng, tự do hoá thương mại, nội dung đầu tiên và cốt lõi của toàn cầu hoá kinh tế, thường có ảnh hưởng tiêu cực tới một bộ phận của sản xuất trong nước, gây ra những vấn đề kinh tế và xã hội phức tạp. Vì những mặt thuận, thế giới có GATT, WTO và Nghị trình Phát triển Đô-ha. Vì những mặt nghịch, thế giới có biểu tình chống toàn cầu hoá, có thất bại của hội nghị Xi-át-tơn và hội nghị Can-cun. Tuy nhiên, bất chấp các dích dắc, tiến trình toàn cầu hoá kinh tế vẫn tiến về phía trước theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu bởi lợi ích của toàn cầu hoá kinh tế là rất khó phủ nhận. Chúng ta nhận thức được thực tiễn đó khi làm đơn và sau đó là đàm phán để gia nhập WTO. Nhờ thực hiện đường lối đổi mới và từng bước chủ động hội nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, nền kinh tế nước ta có những thay đổi rất tích cực. Đã hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt mức cao; chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng lực cạnh tranh được nâng cao một bước; cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực; thị trường xuất khẩu được mở rộng, kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng liên tục và đạt xấp xỉ 40 tỷ USD trong năm 2006; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt trên 55 tỷ USD và tăng cao trong năm 2006. Việc làm được tạo ra ngày càng nhiều, công cuộc xóa đói giảm nghèo thu được những thành tựu quan trọng. Gia nhập WTO tạo cho chúng ta nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng không ít những thách thức phải đối mặt. 1. Những thuận lợi và cơ hội phát triển - Thứ nhất, những thành tựu của 20 năm đổi mới đã tạo ra những tiền đề và điều kiện làm cơ sở cho tiến trình hội nhập rộng hơn, sâu hơn vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Đồng thời chúng ta có sự đồng thuận của cả dân tộc với quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp canh tân đất nước, làm cho "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". - Thứ hai, trong WTO có những điều kiện thuận lợi và cơ hội mới cho Việt Nam phát triển nhanh về kinh tế - xã hội, tránh được tụt hậu. Đó, trước hết là việc khơi dậy các tiềm năng sáng tạo trong nước và thu hút các nguồn lực phát triển ở bên ngoài vào Việt Nam (FDI, ODA...). Là nước đi sau, Việt Nam tham khảo những bài học kinh nghiệm của những nước đi trước; đồng thời tranh thủ được những tri thức khoa học tiên tiến, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý... để thực hiện bước phát triển "rút ngắn". - Thứ ba, môi trường của WTO tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam cấu trúc lại nền kinh tế, phát triển và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tham gia phân công lao động và hợp tác quốc tế. Gia nhập WTO, Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. - Thứ tư, WTO là tổ chức kinh tế thương mại quốc tế lấy thị trường làm cơ sở, lấy tự do hóa mậu dịch và thúc đẩy mậu dịch thế giới làm tôn chỉ. Điều này có lợi cho phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Các doanh nghiệp kinh tế Việt Nam căn cứ vào nhu cầu thị trường, tập quán kinh doanh quốc tế để hoạt động, dựa trên hệ thống tiêu chuẩn quốc tế để sản xuất kinh doanh. Tức là, sản xuất theo yêu cầu và tiêu chuẩn của thị trường, chứ không phải sản xuất theo khả năng hiện có cuả mình. Ở đây, sự cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của thị trường quốc tế sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất của Việt Nam liên tục phát triển. - Thứ năm, WTO sẽ tạo ra áp lực, sẽ thúc đẩy mạnh mẽ và toàn diện quá trình đổi mới; và việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới thúc đẩy và bảo đảm cho tiến trình cải cách của Việt Nam phát triển nhanh hơn, đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn. Cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo qui định của WTO, môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện. - Thứ sáu, người dân Việt Nam được tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ đa dạng ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và không bị phân biệt đối xử. Người lao động Việt Nam có nhiều cơ hội để học tập, làm việc ở trong và ngoài nước với điều kiện tốt hơn và thu nhập cao hơn. - Thứ bảy, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng với WTO, con người Việt Nam có môi trường và điều kiện mở rộng tầm nhìn, đào sâu suy nghĩ, vươn ra thế giới, vừa học hỏi tiếp thu tinh hoa của các nền văn hóa khác vừa giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc; đồng thời tranh thủ quảng bá những giá trị Việt Nam ra thế giới. Đó cũng chính là quá trình hội nhập, thích ứng và rèn luyện, nâng cao bản lĩnh Việt Nam. 2. Những khó khăn và thách thức - Thứ nhất, cho đến nay, kinh tế nước ta vẫn dựa trên nền kinh tế nông nghiệp manh mún, trình độ chuyên canh và áp dụng khoa học- công nghệ còn hạn chế, năng suất lao động rất thấp. Nếu dựa vào thống kê năm 2005 của Ngân hàng Thế giới (WB) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) để tính toán khối lượng của cải bình quân hàng năm một lao động làm ra, chúng ta thấy nông nghiệp của Việt Nam nếu tính là 1, thì chỉ số này của Thái Lan là 1,3; của Đài Loan là 12 và của Mỹ là 20. Cũng theo cách tính như vậy trong công nghiệp của Việt Nam là 1 thì của Thái Lan là 2,8; của Đài Loan là 10; của Mỹ là 30. Trong khu vực dịch vụ, sự chênh lệch này còn lớn hơn nhiều. Dân số nước ta chiếm 13 phần nghìn dân số thế giới nhưng chỉ chiếm 7 phần nghìn kim ngạch thương mại thế giới. Kim ngạch thương mại (bao gồm xuất khẩu và nhập khẩu) của Việt Nam chỉ bằng 0,05% kim ngạch thương mại của Trung Quốc và 0,02% của Mỹ. Mặc dù kinh tế tăng trưởng cao và liên tục trong nhiều năm qua, nhưng chất lượng tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. - Thứ hai, nguồn nhân lực của nước ta tuy đông về số lượng, nhưng còn yếu về chất lượng và bất hợp lý về cơ cấu ngành nghề. Cho đến nay, lực lượng lao động ở nước ta mới có 26% đã qua đào tạo, còn 74% là lao động phổ thông. Theo điều tra mới nhất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại hơn 63.000 doanh nghiệp của 36 tỉnh thành trên cả nước cho thấy: có 43,3% lãnh đạo các doanh nghiệp có trình độ học vấn dưới cấp 3, số chủ doanh nghiệp có trình độ thạc sĩ trở lên chỉ 2,99%. Hiện nay, chúng ta đang thiếu trầm trọng một đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp có tri thức, kỹ năng quản trị và lực lượng lao động trực tiếp có tay nghề cao. Tình trạng mất cân đối về cơ cấu phát triển nguồn nhân lực vẫn tồn tại trong nhiều năm. Hiện tại, tỷ lệ đại học và trên đại học - trung học chuyên nghiệp - công nhân kỹ thuật ở nước ta là: 1 - 1,13 - 0,92 (tỷ lệ này của thế giới là 1 - 3 - 5). Trong khi đó, giáo dục- đào tạo lại đang ở thời kỳ "khủng hoảng": Nội dung đào tạo lạc hậu, phương pháp cũ kỹ, những tiêu cực còn phổ biến ở các trường, các cấp học. Trong các trường đại học và cao đẳng vẫn còn tình trạng dạy chay, học chay, "cơm chấm cơm" (hơn 55% giảng viên là cử nhân, 1 giảng viên phụ trách 30 sinh viên, trong khi tỷ lệ này của thế giới là 1/15). - Thứ ba, về quy mô, phần lớn các doanh nghiệp của ta có quy mô vừa và nhỏ, khả năng liên kết liên doanh theo chuỗi sản phẩm còn rất yếu, lực lượng lao động tuy dồi dào nhưng chất lượng không cao, tính cạnh tranh còn thấp. Với 84 triệu dân hiện nay nước ta mới có khoảng 250.000 doanh nghiệp, tỷ lệ này là quá thấp so với các nền kinh tế thị trường khác. Đa số các doanh nghiệp của nước ta có quy mô nhỏ và ít vốn (51,3% doanh nghiệp có dưới 10 lao động, 44% doanh nghiệp có từ 10 đến 200 lao động, chỉ có 1,43% doanh nghiệp có từ 200 đến 300 lao động, 42% doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng, 37% doanh nghiệp có vốn từ 1 đến 5 tỷ đồng và chỉ có 8,18% doanh nghiệp có vốn từ 5 đến 10 tỷ đồng). Phần lớn các doanh nghiệp ở nước ta hiện đang sử dụng công nghệ lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ so với mức trung bình của thế giới (76% máy móc, dây chuyền công nghệ thuộc thế hệ 1960s- 1970s, 75% số thiết bị đã hết khấu hao, 50% là đồ tân trang). Chỉ có 10% doanh nghiệp có công nghệ hiện đại, 38% ở mức trung bình, 52% là lạc hậu. Tỷ lệ sử dụng công nghệ cao mới chỉ có 2%; trong khi đó, tỷ lệ này ở Thái Lan là 31%, Singapore là 73% và Malaysia là 51%. Để đạt trình độ một nước công nghiệp, tỷ lệ này phải là hơn 60%. Mức tỷ suất lợi nhuận bình quân của cả nước trên vốn đạt 4,4% và trên doanh thu đạt 5,1%. Ở khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tỷ suất lợi nhuận bình quân trên vốn là 11,6% và trên doanh thu là 14,6%. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp nhà nước có mức tỷ suất lợi nhuận bình quân tương ứng là 2,7% và 4,0%, còn khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước có mức tỷ suất lợi nhuận tương ứng là 2,0% và 1,4%. Ngoài ra, kết quả xếp hạng về chỉ số năng lực cạnh tranh tòan cầu năm 2006- 2007 do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) công bố tháng 9 năm 2006 cho thấy: Việt Nam được xếp thứ 77 trên tổng số 125 nền kinh tế, tính trong khối ASEAN, Việt Nam chỉ xếp trên Campuchia và đứng rất xa sau Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Philippines. Theo đánh giá của WB và Công ty tài chính Quốc tế (IFC) về mức độ thuận lợi của môi trường kinh doanh, năm 2006, Việt Nam được xếp hạng 104/175 nền kinh tế (tụt 6 bậc so năm 2005); trong khu vực châu Á- Thái Bình Dương, Việt Nam chỉ đứng thứ 17/23 nền kinh tế. - Thứ tư, cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội còn yếu kém, không đồng bộ và bất hợp lý. Trong những năm qua, nhà nước đã dành nguồn vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng ở mức khá cao (giai đoạn 2001- 2005 chiếm khoảng 70% tổng đầu tư toàn xã hội). Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa khai thác tốt các nguồn vốn để đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng; Vì vậy, lĩnh vực này vẫn thiếu hụt khoảng 2,5 tỷ USD mỗi năm. Trong khi đó, thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là rất lớn, ước tính mỗi năm mất 1 tỷ USD (tương đương với khoảng 2% GDP). - Thứ năm, gia nhập WTO, chúng ta phải tuân thủ nhiều hiệp định của tổ chức này nên thách thức lớn nhất sẽ đặt ra đối với các cơ quan quản lý Nhà nước. Trong quá trình thực thi các nguyên tắc của WTO, yêu cầu đòi hỏi các cơ quan công quyền phải đảm bảo việc thực thi công vụ trên cơ sở minh bạch, không phân biệt đối xử, bảo đảm môi trường cạnh tranh bình đẳng; giảm thiểu tình trạng tiêu cực, tham nhũng, thiếu trách nhiệm trong thực thi công vụ và công quyền. Nhà nước cũng sẽ phải tạo ra một khuôn khổ pháp luật để đảm bảo tận dụng tốt nhất những cơ hội phát triển mà quá trình hội nhập mang đến. CHƯƠNG II: TIẾN TRÌNH GIA NHẬP WTO VÀ NHỮNG CAM KẾT CỦA VIỆT NAM I. Tiến trình Việt Nam gia nhập WTO 1. Những mốc quan trọng trong tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam 1-1995: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO. Ban Công tác xem xét việc gia nhập của Việt Nam được thành lập với Chủ tịch là ông Eirik Glenne, Đại sứ Na Uy tại WTO (riêng từ 1998–2004, Chủ tịch là ông Seung Ho, Hàn Quốc) 8-1996: Việt Nam nộp “Bị vong lục về chính sách thương mại” 1996: Bắt đầu đàm phán Hiệp định Thương mại song phương với Hoa kỳ (BTA) 1998 - 2000: Tiến hành 4 phiên họp đa phương với Ban Công tác về Minh bạch hóa các chính sách thương mại vào tháng 7-1998, 12-1998, 7-1999, và 11-2000. Kết thúc 4 phiên họp, Ban công tác của WTO đã công nhận Việt Nam cơ bản kết thúc quá trình minh bạch hóa chính sách và chuyển sang giai đoạn đàm phán mở cửa thị trường. 7-2000: ký kết chính thức BTA với Hoa Kỳ 12-2001: BTA có hiệu lực 4-2002: Tiến hành phiên họp đa phương thứ 5 với Ban Công tác. Việt Nam đưa ra Bản chào đầu tiên về hàng hóa và dịch vụ. Bắt đầu tiến hành đàm phán song phương. 2002 – 2006: Đàm phán song phương với một số thành viên có yêu cầu đàm phán, với 2 mốc quan trọng: 10-2004: Kết thúc đàm phán song phương với EU - đối tác lớn nhất 5-2006: Kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ - đối tác cuối cùng trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương. 26-10-2006: Kết thúc phiên đàm phán đa phương cuối cùng, Ban Công tác chính thức thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam. Tổng cộng đã có 14 phiên họp đa phương từ tháng 7-1998 đến tháng 10-2006. 7-11-2006: WTO triệu tập phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng tại Geneva để chính thức kết nạp Việt Nam vào WTO. 2. Trình tự gia nhập WTO 2.1. Nộp đơn xin gia nhập Nộp đơn là bước đầu tiên và bắt buộc đối với một nước xin gia nhập WTO. Ðồng thời với việc tham gia Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) vào tháng 7-1995; là thành viên đồng sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) vào tháng 3-1996; tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) vào tháng 11-1998; Việt Nam đã sớm nhận thức tầm quan trọng của việc tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO). 1-1-1995, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO. WTO tiếp nhận đơn xin gia nhập của WTO của Việt Nam và Việt Nam trở thành quan sát viên của tổ chức này. 31-1-1995, Nhóm công tác (của WTO) về việc Việt Nam gia nhập WTO được thành lập. 2.2. Minh bạch hóa chính sách thương mại ( Nộp Bị vong lục ) và trả lời các câu hỏi của Ban cônng tác WTO Minh bạch hoá chính sách là việc chính phủ nước xin gia nhập phải thông báo, mô tả (phác hoạ) bức tranh chung về các cơ chế, chính sách thương mại, kinh tế của nước mình có liên quan đến các hiệp định của WTO. Việc minh bạch hoá chính sách được thực hiện thông qua việc Việt Nam gửi bản Bị vong lục về cơ chế ngoại thương của Việt Nam (trình bày về hệ thống chính sách thương mại - kinh tế của Việt Nam) tới Nhóm công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO (sau đây gọi là Nhóm công tác) để Nhóm công tác xem xét. Tất cả các thành viên đều có thể tham gia Nhóm công tác này. Nhóm công tác là tổ chức chịu trách nhiệm thụ lý đơn xin gia nhập. Tháng 8/1996, Việt Nam nộp Bị vong lục. Trong quá trình Nhóm công tác xem xét, tất cả các nước thành viên WTO đều có thể yêu cầu trả lời những câu hỏi mà họ quan tâm. Việt Nam đã trả lời khoảng 2.600 nhóm câu hỏi do các thành viên WTO đưa ra và đã thông báo hàng chục ngàn trang văn bản cho các thành viên WTO về hệ thống chính sách, pháp luật có liên quan đến các lĩnh vực thuế, đầu tư, nông nghiệp, thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ... Theo quy định của WTO, khi việc xem xét của Nhóm công tác đã có những bước tiến đáng kể, nước xin gia nhập có thể bắt đầu các cuộc đàm phán.  2.3. Đàm phán gia nhập Tháng 7 năm 1994, Việt Nam được công nhận là quan sát viên của GATT. Trong ngày làm việc đầu tiên của mình, 04 tháng 01 năm 1995, WTO tiếp nhận đơn xin gia nhập của Việt Nam. Ngày 31 tháng 01 năm 1995, Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO được thành lập. Thời gian đầu, đàm phán tiến triển rất khó khăn vì mức độ “mở” của nền kinh tế còn thấp, bảo hộ còn cao, cơ chế quản lý còn chịu nhiều ảnh hưởng của thời bao cấp, phức tạp, cồng kềnh, nhiều chỗ không tương thích với chuẩn mực của WTO. Quá trình minh bạch hoá chính sách, vì vậy, bị kéo dài; đàm phán song phương chậm đi vào thực chất. Bên cạnh đó, ta còn có khó khăn về nguồn lực, thiếu chuyên gia về đàm phán thương mại trong khi các vấn đề WTO lại là những vấn đề mới, phức tạp. Đàm phán chỉ thực s._.ự được đẩy mạnh trong 3 năm cuối, khi ta đã có sự chuyển biến mạnh về nhận thức của xã hội đối với hội nhập kinh tế quốc tế căn cứ trên các thành tựu phát triển kinh tế-xã hội, khi đội ngũ đàm phán dần được kiện toàn, năng lực xây dựng pháp luật được nâng cao. 2.3.1. Đàm phán đa phương ( về thực hiện các quy định của WTO ) Về mặt hình thức chính là các cuộc họp giữa Việt Nam với Nhóm công tác. Các cuộc họp này được tiến hành ở Geneva, trụ sở của WTO. Về mặt thực chất, đây là các cuộc họp nhằm tổng kết hoá các cam kết của Việt Nam. Tổng kết có tất cả 14 phiên họp đa phương từ tháng 7-1998 đến tháng 10-2006. Tháng 7/1998, phiên họp đa phương đầu tiên với Ban công tác về minh bạch hoá các chính sách kinh tế thương mại. Tháng 12/1998, họp đa phương phiên 2. Tháng 7/1999, họp đa phương phiên 3 Tháng 11/2000, họp đa phương phiên 4. Tháng 4/2002, họp đa phương phiên 5 Tháng 5/2003, họp đa phương phiên 6 đàm phán về mở cửa thị trường. Tháng 12/2003, Phiên đàm phán đa phương thứ 7. Tháng 6/2004, phiên đàm phán đa phương thứ 8. Tháng 12/2004, phiên đàm phán đa phương thứ 9. Tháng 9/2005, phiên đàm phán đa phương thứ 10. Tháng 12/2005, phiên đàm phán đa phương thứ 11. Tháng 7/2006, phiên đàm phán đa phương thứ 12. Tháng 10/2006, phiên đàm phán đa phương thứ 13. Tháng 10/2006, phiên đàm phán đa phương thứ 14. Phiên họp đầu tiên của Ban công tác được tổ chức vào tháng 7/1998. Tới Phiên 7 (tháng 12/2003), Ban công tác ghi nhận Việt Nam đã hoàn thành cơ bản quá trình minh bạch hoá và thống nhất giao Ban Thư ký dự thảo tài liệu Những yếu tố cơ bản của Báo cáo của Ban công tác. Phiên 9 (tháng 12 năm 2004) đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình đàm phán đa phương. Tại phiên này, ta chính thức cam kết sẽ tuân thủ về cơ bản toàn bộ các hiệp định của WTO ngay từ thời điểm gia nhập và đồng ý đẩy nhanh tiến độ xây dựng pháp luật để thực thi các cam kết. Trên cơ sở đó, Ban công tác bắt đầu xem xét Dự thảo ban đầu của Báo cáo gia nhập.  Trong 2 năm 2005 và 2006, trên cơ sở các cam kết mang tính xây dựng của ta và được sự hỗ trợ của kết quả đàm phán song phương, Ban công tác đã tiến hành thêm 4 phiên họp chính thức và một số phiên không chính thức để hoàn tất Báo cáo gia nhập. Tới Phiên 13 (9  - 13 tháng 10 năm 2006), ta và các đối tác thoả thuận được các chi tiết cuối cùng của bản Báo cáo. Tại phiên 14 (26 tháng 10 năm 2006), phiên cuối cùng, Ban công tác đã thông qua toàn bộ các văn kiện gia nhập của Việt Nam để trình lên Đại hội đồng WTO xem xét. Trong quá trình đàm phán đa phương, ta đã phải trả lời 3516 câu hỏi của các đối tác. Hàng nghìn trang tài liệu đã được đệ trình lên Ban công tác để làm rõ về chính sách thương mại của Việt Nam. 2.3.2. Đàm phán song phương (về mở cửa thị trường hành hóa và dịch vụ) Song song với đàm phán đa phương là các phiên đàm phán song phương giữa Việt Nam và các thành viên WTO có yêu cầu bởi vì mỗi nước thành viên có những lợi ích thương mại và yêu cầu, toan tính khác nhau. Như đã nói ở trên, về mặt bản chất, khi gia nhập WTO, Việt Nam có quyền tiếp cận thị trường của tất cả các thành viên WTO, được hưởng quyền ngang với các thành viên khác của WTO, trong đó bao gồm cả việc được hưởng những kết quả đàm phán giữa các thành viên khác với nhau, theo nguyên tắc tối huệ quốc của WTO. Mặc khác, Việt Nam cũng phải đưa ra mức thuế suất thấp và loại bỏ các hàng rào phi thuế để các thành viên khác tiếp cận được thị trường Việt Nam. Ðồng thời, Việt Nam phải cam kết tuân thủ các quy định trong các hiệp định của WTO liên quan đến việc mở cửa thị trường cho các đối tác thương mại. Do vậy, nói một cách khác, các cuộc đàm phán song phương nhằm xác định các lợi ích mà các thành viên của WTO có thể thu được từ việc gia nhập của một thành viên mới. Khi các cuộc đàm phán song phương này kết thúc và Việt Nam trở thành thành viên WTO, các cam kết qua các cuộc đàm phán sẽ trở thành cam kết áp dụng cho tất cả các thành viên WTO. Tháng 01 năm 2002, ta gửi các Bản chào ban đầu về hàng hoá và dịch vụ tới các Thành viên có yêu cầu đàm phán song phương. Bản chào này thiếu sức thuyết phục vì khi đó ta chưa thừa nhận nguyên tắc phải dành BTA cho tất cả các thành viên WTO. Bản chào thứ hai và thứ ba sau đó, do vẫn giữ nguyên cách tiếp cận, cũng không thành công trong việc đưa đàm phán đi vào thực chất. Tháng 4 năm 2004, ta đưa ra bản chào thứ tư (Bản chào 4) với những cam kết đột phá. Về thuế, ta đồng ý ràng buộc mức trần cho gần như toàn bộ biểu thuế. Về dịch vụ, ta tuân thủ hoàn toàn nguyên tắc ngang bằng với BTA và đưa ra một số cam kết mới so với BTA. Bản chào 4 đã tạo được sự quan tâm của các đối tác. Đàm phán ngay lập tức đi vào thực chất và có tiến triển rất tích cực. Trên cơ sở đó, ta quyết định không gửi bản chào chung nữa mà chuyển sang xây dựng các bản chào riêng để tiếp cận yêu cầu cụ thể của từng đối tác.  Công tác vận động đàm phán được đẩy mạnh trên tất cả các diễn đàn đa phương (ASEAN, APEC, ASEM v.v...) và trong các cuộc tiếp xúc song phương của lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Tháng 10 năm 2004, nhân Hội nghị Thượng đỉnh ASEM tại Hà Nội, ta đã tạo được bước đột phá bằng việc kết thúc đàm phán song phương với EU. Sau đó, nhân chuyến thăm Mỹ La-tinh của Chủ tịch nước, ta kết thúc thêm với 3 nước là Bra-xin, Ac-hen-ti-na và Chi-lê. Cũng trong tháng 10 năm 2004, ta có phiên đàm phán đầu tiên và thực chất với Hoa Kỳ tại Washington. Năm 2005 là năm bản lề của đàm phán song phương. Các cuộc đàm phán song phương phần lớn được chuyển về thủ đô để tăng tính hiệu quả. Nhờ chiến lược đúng đắn này, ta lần lượt kết thúc đàm phán với nhiều đối tác lớn như Hàn Quốc, Nhật Bản, Canađa, Trung Quốc, Thụy Sỹ, Nauy, Ấn Độ, Đài Loan. Tổng cộng đến cuối năm 2005, ta kết thúc được đàm phán song phương với 20 đối tác và đạt tiến bộ rất quan trọng trong đàm phán song phương với Hoa Kỳ. Sang đầu năm 2006, ta kết thúc đàm phán với Niu Dilân, ngay sau đó là Úc và các nước Mỹ La-tinh còn lại.  Ngày 13 tháng 5 năm 2006, tại phiên đàm phán thứ 13 tại Washington, ta đạt được thoả thuận song phương với đối tác cuối cùng là Hoa Kỳ. Tổng cộng, chúng ta đã phải đàm phán với 28 Thành viên WTO. Số phiên đàm phán song phương lên tới hơn 200 cuộc. Các nước Bun-ga-ri và Ki-rơ-gi-xtan có yêu cầu đàm phán nhưng sau đó rút yêu cầu. Cộng hoà Séc và Cộng hoà Slô-va-kia ngừng đàm phán giữa chừng do gia nhập EU. Dưới đây xin được đề cập đến cuộc đàm phán song phương với hai đối tác tiêu biểu là Hoa Kỳ và EU. a. Đàm phán song phương với EU. Phiên đàm phán song phương lần đầu tiên giữa VN và EU diễn ra tháng 4-2002 tại Geneva (Thụy Sĩ). Trong ba ngày 4, 5 và 6/6/2002, tại Hà Nội, VN và Liên minh châu Âu (EU) đã tiến hành phiên thứ hai đàm phán song phương về việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của VN. Tại phiên đàm phán này, hai bên tập trung làm rõ hai vấn đề chính: Chương trình hành động của VN để thực hiện hiệp định của WTO; quá trình cũng như mức độ mở cửa thị trường của VN trong một số lĩnh vực như công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Đại diện phía EU đưa ra các câu hỏi liên quan. Các câu hỏi đã được phía VN trả lời đầy đủ và rõ ràng. Phía EU cũng ghi nhận những cố gắng của VN trong việc xây dựng bản chào ban đầu và các chương trình hành động. Ngày 6/7/2004, đoàn đàm phán sáu thành viên do ông Raffaele Mauro Petriccione, tổng vụ trưởng thương mại của Ủy ban châu Âu (EC) tại Brussels dẫn đầu tới Hà Nội. Từ 7-7, đoàn sẽ tiến hành đàm phán song phương với VN về việc VN gia nhập WTO.Nội dung chính của cuộc đàm phán sẽ xoay quanh các vấn đề về lĩnh vực nông nghiệp, tài chính, thuế và dịch vụ. Tổng cộng Việt Nam và EU đã trải qua 7 phiên đàm phán song phương về việc gia nhập WTO của Việt Nam. Phiên đàm phán thứ 7 cũng là phiên đàm phán cuối cùng diễn ra vào ngày 9/10/2004 tại Hà Nội. b. Đàm phán song phương với Hoa Kỳ. Từ tháng 8/1998 đến tháng 5/2006, tại Washington, Việt Nam và Hoa Kỳ đàm phán song phương về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Là nền kinh tế lớn nhất trên thế giới, Hoa Kỳ là nhà đầu tư và bạn hàng thương mại ngày càng quan trọng đối với Việt Nam. Tính tới tháng 12-2005, Hoa Kỳ là nhà đầu tư lớn thứ 11 ở Việt Nam với 265 dự án có tổng giá trị vốn đầu tư đạt 1,45 tỷ USD. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, kim ngạch thương mại hai chiều năm 2005 đạt gần 7 tỷ USD. Trong quá trình đàm phán song phương với các nước về việc Việt Nam gia nhập WTO, đàm phán Việt Nam - Hoa Kỳ đã diễn ra với nhiều nội dung sâu rộng. Qua 12 phiên đàm phán ở Washington, Hà Nội và Geneva, chưa kể một loạt các cuộc gặp gỡ, trao đổi bên lề các hội nghị, tại phiên thứ 12 ở Washington từ ngày 9-12/5/2006, hai bên đã đạt được thỏa thuận nguyên tắc về việc Việt Nam gia nhập WTO và sau đó hai bên đã tiếp tục trao đổi và thỏa thuận về mặt kỹ thuật. Hoa Kỳ cũng là đối tác cuối cùng kết thúc đàm phán trong số 28 thành viên WTO có yêu cầu đàm phán song phương với Việt Nam. Việc kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu việc Việt Nam hoàn tất quá trình đàm phán song phương và góp phần hiện thực hóa mục tiêu gia nhập WTO của Việt Nam trong năm 2006. Việc đạt đến thỏa thuận này là sự kiện lịch sử đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ hai nước, phù hợp với lợi ích của cả hai bên, tạo tiền đề quan trọng cho sự hợp tác bình đẳng, cùng có lợi về nhiều mặt giữa hai nước; cho thành công của Hội nghị Thượng đỉnh APEC 2006 tại Hà Nội cũng như chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống George Bush. Ngày 30/5/2006, quyền Đại diện Thương mại Mỹ Susan Schwab, và phái đoàn đàm phán của Mỹ đã đến TP.HCM để dự Hội nghị Bộ trưởng Thương mại APEC và tham gia lễ ký thỏa thuận chính thức kết thúc đàm phán WTO Việt Nam - Hoa Kỳ. 2.3.3. Đàm phán về nông nghiệp Đàm phán về nông nghiệp thuộc đàm phán đa phương nhưng do tính chất quan trọng của nó nên xin được tách ra thành phần riêng. Nhìn chung, đây là mảng đàm phán rất khó khăn vì quy định của WTO tương đối lỏng lẻo. Việt Nam rất muốn tận dụng sự lỏng lẻo này để đạt kết quả có lợi cho ta nhưng nhiều thành viên của WTO lại là cường quốc xuất khẩu nông sản nên đưa ra đòi hỏi rất cao, nhiều khi ngược hẳn với quy định của WTO. Nước ta sẽ không thể gia nhập nếu không giải quyết được sự mất cân đối này, nhất là khi nông nghiệp cũng là lĩnh vực nhạy cảm đối với ta.    Đàm phán đa phương về nông nghiệp tập trung xem xét các chương trình hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu nông sản. Việt Nam đã phải thống kê tất cả các chương trình trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ trong nước để trình ra Ban công tác. Trong 8 phiên đầu, đàm phán đa phương về nông nghiệp tiến triển hết sức chậm chạp bởi nước ta không chấp nhận bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản trong khi tất cả các nước mới gia nhập, kể cả các nước chậm phát triển, đều cam kết xoá bỏ hình thức trợ cấp này ngay từ khi gia nhập. Tới Phiên 9 (tháng 12 năm 2004), với chủ trương tạo đột phá trong đàm phán, nước ta đồng ý cam kết bãi bỏ hoàn toàn trợ cấp xuất khẩu nông sản. Đàm phán đa phương về nông nghiệp coi như kết thúc về cơ bản bởi thời gian sau này chỉ là làm rõ và chi tiết hoá các chương trình hỗ trợ trong nước mà thôi. 2.4. Hoàn chỉnh hồ sơ gia nhập - Kết nạp và công bố chính thức Theo thông lệ, khi Nhóm công tác đã kết thúc việc xem xét chế độ ngoại thương của nước xin gia nhập, đồng thời các cuộc đàm phán đa phương, song phương về mở cửa thị trường đã kết thúc, Nhóm công tác sẽ dự thảo một Báo cáo gia nhập của nước xin gia nhập, bao gồm một Nghị định thư gia nhập và các danh mục ghi các cam kết của nước xin gia nhập (là tổng hợp kết quả của các thoả thuận trong các phiên đàm phán đa phương và các cam kết trong các phiên đàm phán song phương). Các văn bản này sẽ được trình lên Ðại hội đồng hoặc Hội nghị bộ trưởng. Tại cuộc họp của Hội nghị bộ trưởng, nếu 2/ 3 số thành viên của WTO chấp thuận, quyết định về việc gia nhập sẽ được thông qua. Sau đó, Nghị định thư gia nhập của Việt Nam sẽ được được Tổng giám đốc WTO và chín phủ Việt Nam ký và Việt Nam trở thành thành viên của WTO. 30 ngày sau khi chủ tịch nước (hoặc quốc hội) phê chuẩn nghị định thư, Việt Nam sẽ chính thức trở thành thành viên WTO. Ngày 7/11, tại trụ sở của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) ở Giơnevơ (Thụy Sĩ) đã diễn ra phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng WTO về việc kết nạp Việt Nam vào tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này. Đúng 19h (giờ VN) ngày 7/11, Bộ trưởng Thương mại VN Trương Đình Tuyển và Tổng Giám đốc Pascal Lamy đã ký vào Nghị định thư gia nhập WTO của VN. Ngay sau đó, Người phát ngôn của tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh này cho biết, đã chính thức mời Việt Nam trở thành thành viên thứ 150. Như vậy, 149 quốc gia thành viên WTO đã chính thức bật đèn xanh cho Việt Nam gia nhập vào hệ thống thương mại tự do toàn cầu. Việc kết nạp này chấm dứt chặng đường 11 năm đàm phán của Việt Nam. II. Những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO 1. Giới thiệu về bộ nội dung cam kết của việt Nam trong WTO Bộ nội dung các cam kết của việt Nam trong WTO bao gồm: - Nghị định thư gia nhập. - Báo cáo của Ban công tác. - Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO. - Các Luật, quy định và các thông tin khác được Việt Nam cung cấp cho Ban công tác. Biểu cam kết về hàng hóa. - Hàng nông sản. - Hàng phi nông sản. - Phụ lục đối với sản phẩm CNTT. - Lộ trình xóa bỏ thuế nhập khẩu cho các sản phẩm ITA. - Hạn nghạch thuế quan. - Các sản phẩm nông nghiệp – Cam két hạn chế trợ cấp. Biểu cam kết về dịch vụ. - Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ. (Danh mục miễn trừ đối xử tối huệ quốc theo diều II). - Tài liệu giải thích biểu cam kết cụ thể về thương mại dịch vụ. 2. Tóm tắt nội dung cam kết của Việt Nam trong WTO 2.1. Cam kết đa phương Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định và các quy định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, do là nước đang phát triển ở trình độ thấp, lại đang trong quá trình chuyển đổi nên Việt Nam đã yêu cầu và WTO đã chấp nhận hưởng một thời gian chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), trợ cấp cho phi nông nghiệp, quyền kinh doanh, v.v. Cam kết chính thức như sau: 2.1.1. Kinh tế phi thị trường: Việt Nam chấp nhận bị coi là nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm ( không muộn hơn 31/12/2018). Tuy nhiên, trước thời điểm trên, nếu chứng minh được với đối tác nào đó là kinh tế Việt Nam đã hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường thì đối tác đó sẽ ngừng áp dụng chế độ "phi thị trường". Chế độ "phi thị trường" nói trên chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá giá. Các thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù (là cơ chế khác với cơ chế chung trong WTO mà một số nước có nền kinh tế phi thị trường khi gia nhập WTO phải chịu) đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, kể cả trong thời gian bị coi là nền kinh tế phi thị trường. 2.1.2. Dệt may: các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt may đối với Việt Nam khi vào WTO. Riêng trường hợp vi phạm quy định WTO về trợ cấp bị cấm đối với hàng dệt may thì một số nước có thể có biện pháp trả đũa nhất định. Ngoài ra thành viên WTO cũng sẽ không được áp dụng tự vệ đặc biệt đối với hàng dệt may của Việt Nam. 2.1.3. Trợ cấp phi nông nghiệp: Ta đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định WTO như trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa. Tuy nhiên với các ưu đãi đầu tư dành cho hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, ta được bảo lưu thời gian quá độ là 5 năm (trừ ngành dệt may). 2.1.4. Trợ cấp nông nghiệp: Ta cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm nhìn chung ta duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm.Có thể nói, trong nhiều năm tới, ngân sách của nước ta cũng chưa đủ sức để hỗ trợ cho nông nghiệp ở mức này. Các loại trợ cấp mang tính chất khuyến nông hay trợ cấp phục vụ phát triển nông nghiệp được WTO cho phép nên ta được áp dụng không hạn chế. 2.1.5. Quyền kinh doanh (quyền xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa): Tuân thủ quy định WTO, ta đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất nhập khẩu hàng hóa như người Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ đối với các mặt hàng thuộc danh mục thương mại nhà nước như: xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo chí và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà ta chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi như gạo và dược phẩm. Ta đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Quyền xuất khẩu chỉ là quyền đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ tục xuất nhập khẩu. Trong mọi trường hợp, doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài sẽ không được tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong nước. Các cam kết về quyền kinh doanh sẽ không ảnh hưởng đến quyền của ta trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc biệt đối với sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo - tạp chí... 2.1.6. Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia: Các thành viên WTO đồng ý cho ta thời gian chuyển đổi không quá 3 năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy định WTO. Hướng sửa đổi là đối với rượu trên 20 độ cồn ta hoặc sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc một mức thuế phần trăm. Đối với bia, ta sẽ chỉ áp dụng một mức thuế phần trăm. 2.1.7. Doanh nghiệp Nhà nước / doanh nghiệp thương mại Nhà nước: Cam kết của ta trong lĩnh vực này là Nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, Nhà nước với tư cách là một cổ đông được can thiệp bình đẳng vào hoạt động của doanh nghiệp như các cổ đông khác. Ta cũng đồng ý cách hiểu mua sắm của doanh nghiệp Nhà nước không phải là mua sắm Chính phủ. 2.1.8. Tỷ lệ cổ phần để thông qua quyết định tại doanh nghiệp: Điều 52 và 104 của Luật doanh nghiệp quy định một số vấn đề quan trọng có liên quan đến hoạt động của công ty TNHH và công ty cổ phần chỉ được phép thông qua khi có số phiếu đại diện ít nhất làng 65% hoặc 75% vốn góp chấp thuận. Quy định này có thể vô hiệu hóa quyền của bên góp đa số vốn trong liên doanh. Do vậy, ta đã xử lý theo hướng cho phép các bên tham gia liên doanh được thỏa thuận vấn đề này trong điều lệ công ty. 2.1.9. Một số biện pháp hạn chế nhập khẩu: Ta đồng ý cho nhập khẩu xe máy phân phối lớn không muộn hơn ngày 31/5/2007. Với thuốc lá điếu và xì gà, ta đồng ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên sẽ chỉ có một doanh nghiệp Nhà nước được quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điếu và xì gà. Mức thuế nhập khẩu mà ta đàm phán được cho hai mặt hàng này là rất cao. Với ô tô cũ ta cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm. 2.1.10. Minh bạch hóa: Ta cam kết ngay từ khi gia nhập sẽ công bố dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý kiến nhân dân. Thời hạn dành cho việc góp ý và sửa đổi tối thiểu là 60 ngày. Ta cũng cam kết sẽ đăng công khai các văn bản pháp luật trên. 2.1.11. Một số nội dung khác: Về thuế xuất khẩu ta chỉ cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và màu theo lộ trình, không cam kết về thuế xuất khẩu của các sản phẩm khác. Ta còn đàm phán một số vấn đề đa phương khác như bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là sử dụng phần mềm hợp pháp trong cơ quan Chính phủ. Định giá tính thuế xuất nhập khẩu, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, các biện pháp hàng rào kỹ thuật trong thương mại... Với nội dung này, ta cam kết tuân thủ các quy định của WTO kể từ khi gia nhập. 2.2. Cam kết về thuế nhập khẩu 2.2.1. Mức cam kết chung: Ta đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình trong 5-7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong 5-7 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5-7 năm (xin tham khảo Biểu 1 kèm theo báo cáo). 2.2.2. Mức cam kết cụ thể: Có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô - xe máy... vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử. Ta đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hóa chất là phương tiện vận tải. Ta cũng cam kết cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do theo ngành của WTO giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp. Đây là hiệp định tự nguyện của WTO nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y tế. Ta cũng tham gia một phần với thời gian thực hiện từ 3 – 5 năm đối với ngành thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng. Về hạn ngạch thuế quan, ta bảo lưu quyền áp dụng với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối. 2.3. Cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ Về diện cam kết, trong BTA với Mỹ, ta đã cam kết 8 ngành dịch vụ khoảng 65 phân ngành. Trong thỏa thuận WTO, ta cam kết đủ 11 ngành dịch vụ, tính theo phân ngành khoảng 110. Trong thỏa thuận WTO đi xa hơn BTA nhưng không nhiều. Với hầu hết các ngành dịch vụ, trong đó có những ngành nhạy cảm như bảo hiểm, phân phối, du lịch... ta giữ được mức độ cam kết gần như trong BTA. Riêng viễn thông, ngân hàng và chứng khoán, để sớm kết thúc đàm phán, ta đã có một số bước tiến nhưng nhìn chung không quá xa so với hiện trạng và đều phù hợp với định hướng phát triển đã được phê duyệt cho các ngành này. Nội dung cam kết của một số lĩnh vực chủ chốt như sau: 2.3.1. Cam kết chung cho các ngành dịch vụ: Về cơ bản như BTA. Trước hết, công ty nước ngoài không được hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh, trừ phi điều đó được ta cho phép trong từng ngành cụ thể mà những ngành như thế là không nhiều. Ngoài ra, công ty nước ngoài tuy được phép đưa cán bộ quản lý vào làm việc tại Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý của công ty phải là người Việt Nam. Cuối cùng, ta cho phép tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam nhưng tỷ lệ phải phù hợp với mức mở cửa thị trường ngành đó. Riêng ngân hàng ta chỉ cho phép ngân hàng nước ngoài mua tối đa 30% cổ phần. 2.3.2. Dịch vụ khai thác hỗ trợ dầu khí: Ta đồng ý cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập để đáp ứng các dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí. Tuy nhiên, ta còn giữ nguyên quyền quản lý các hoạt động trên biển, thềm lục địa và quyền chỉ định các công ty thăm dò, khai thác tài nguyên. Ta cũng bảo lưu được một danh mục các dịch vụ dành riêng cho các doanh nghiệp Việt Nam như dịch vụ bay, dịch vụ cung cấp trang thiết bị và vật phẩm cho dàn khoan xa bờ... Tất cả các công ty vào Việt Nam cung ứng dịch vụ hỗ trợ dầu khí đều phải đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (hiện nay ta không có chế độ đăng ký này). 2.3.3. Dịch vụ viễn thông: Ta có thêm một số nhân nhượng so với BTA nhưng ở mức độ hợp lý, phù hợp với chiến lược phát triển của ta. Cụ thể là cho phép thành lập liên doanh đa số vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ viễn thông không gắn với hạ tầng mạng (phải thuê mạng do doanh nghiệp Việt Nam nắm quyền kiểm soát) và nới lỏng một chút về việc cung cấp dịch vụ qua biên giới để đổi lấy giữ lại hạn chế áp dụng cho viễn thông có gắn với hạ tầng mạng (chỉ các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm đa số vốn mới đầu tư hạ tầng mạng, nước ngoài chỉ được góp vốn đến 49% và cũng chỉ được liên doanh với đối tác Việt Nam đã được cấp phép). Như vậy, với dịch vụ có gắn với hạ tầng mạng, ta vẫn giữ mức cam kết như BTA, một yếu tố quan trọng góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng. 2.3.4. Dịch vụ phân phối: về cơ bản giữ được như BTA, tức là khá chặt so với các nước mới gia nhập. Trước hết, về thời điểm cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là như BTA vào 1/1/2009. Thứ hai, tương tự như BTA, ta không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quý cho nước ngoài. Nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt thép, xi măng, phân bón... ta chỉ mở cửa thị trường sau 3 năm. Quan trọng nhất, ta hạn chế khá chặt chẽ khả năng mở điểm bán lẻ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mở điểm bán lẻ thứ hai trở đi phải được ta cho phép theo từng trường hợp cụ thể. 2.3.5. Dịch vụ bảo hiểm: về tổng thể, mức độ cam kết ngang BTA, tuy nhiên, ta đồng ý cho Mỹ thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ ngày gia nhập. 2.3.6. Dịch vụ ngân hàng: Ta đồng ý cho thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 1/4/2007. Ngoài ra ngân hàng nước ngoài muốn được thành lập chi nhánh tại Việt Nam nhưng chi nhánh đó không được phép mở chi nhánh phụ và vẫn phải chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND từ thể nhân Việt Nam trong vòng 5 năm kể từ khi ta gia nhập WTO. Ta vẫn giữ được hạn chế về mua cổ phần trong ngân hàng Việt Nam, không quá 30%. Đây là hạn chế đặc biệt có ý nghĩa đối với ngành ngân hàng. 2.3.7. Dịch vụ chứng khoán: Ta cho phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi nhánh sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO 2.3.8. Các cam kết khác: Với các ngành còn lại như du lịch, giáo dục, pháp lý, kế toán, xây dựng, vận tải..., mức độ cam kết về cơ bản không khác xa so với BTA. Ngoài ra không mở cửa dịch vụ in ấn- xuất bản. Biểu 1: Diễn giải mức thuế bình quân cam kết Bình quân chung và theo ngành Thuế suất MFN hiện hành (%) Thuế suất cam kết khi gia nhập WTO (%) Thuế suất cam kết vào cuối lộ trình (%) Mức giảm so với thuế MFN hiện hành (%) Cam kết WTO của Trung Quốc Mức cắt giảm thuế chung tại Vòng Uruguay Nước phát triển Nước đang phát triển Nông sản 23,5 25,2 21,0 10,6 16,7 giảm 40% giảm 30% Hàng công nghiệp 16,6 16,1 12,6 23,9 9,6 giảm 37% giảm 24% Chung màn biểu 17,4 17,2 13,4 23,0 10,1 3. Tình hình thực hiện cam kết Trong hơn hai năm qua, nhìn chung Việt Nam đã thực thi đầy đủ và nghiêm túc các cam kết gia nhập WTO, bao gồm các cam kết về mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ, và các cam kết đa phương về tuân thủ các quy định chung trong WTO. Ngay sau khi gia nhập WTO, ngày 27-2-2007, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP ban hành Chương trình Hành động của Chính phủ nhằm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (Khóa X) về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên WTO, giao nhiệm vụ cho các bộ, ngành và địa phương trong giai đoạn hội nhập kinh tế sâu rộng. Chương trình Hành động thể hiện sự chủ động và quyết tâm cao của Chính phủ trong việc tận dụng triệt để các cơ hội và vượt qua các thách thức từ việc gia nhập WTO, để phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời gian tới. 3.1. Tình hình thực hiện cam kết thương mại dịch vụ Các hoạt động SERV-1 và SERVE-2 của Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa Biên (MUTRAP) được triển khai trong giai đoạn mang tính quyết định, một năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO, thời điểm mà về mặt pháp lý, Việt Nam đã phải thực hiện hầu hết các nghĩa vụ và cam kết Hiệp định GATS. Hoạt động của SERV-2 “ Hỗ trợ Bộ Tư pháp và các bộ, ngành hữu quan rà soát khung pháp lý trong nước so với các cam kết, nghĩa vụ của GATS” tiếp nối Hoạt động SERV-1 của Dự án MUTRAP II về “Hỗ trợ rà soát cam kết và nghĩa vụ GATS của Việt Nam”. Mục tiêu chung của hai hoạt động này là hỗ trợ Chính phủ Việt Nam thực thi các cam kết và nghĩa vụ GATS về thương mại dịch vụ mà Việt Nam đã và đang thực hiện kể từ khi gia nhập WTO, nhằm rà soát sự phù hợp của các quy định và pháp luật Việt Nam đối với các nghĩa vụ điều ước quốc tế này, đồng thời xác định các lĩnh vực liên quan đến quy định và khuôn khổ pháp lý dịch vụ của Việt Nam cần được sửa đổi và có biện pháp mới, với mục tiêu thực hiện các nghĩa vụ và cam kết GATS của Việt Nam và đề xuất biện pháp pháp lý phù hợp. - Việt Nam đạt tiến bộ vượt bậc trong việc thực thi các nghĩa vụ chung trong GATS, ví dụ đối xử tối huệ quốc, các nghĩa vụ minh bạch hoá trong ban hành các quy định, luật về dịch vụ, thanh toán và chuyển khoản, các thủ tục cấp phép, v.v…Có nhiều tiến bộ thông qua việc ban hành pháp lý nói chung trong quá trình chuẩn bị gia nhập WTO, ví dụ Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Cạnh tranh, Luật các Điều ước và Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. - Khi gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết nhiều nghĩa vụ chung trong GATS, bao gồm đối xử tối huệ quốc (MFN), minh bạch hoá, quy định trong nước, các nhà cung cấp dịch vụ đặc biệt và độc quyền, thanh toán và chuyển khoản, trợ cấp, cũng như nghĩa vụ điều ước để tham gia các vòng đàm phán đa phương GATS, hướng tới mức độ tự do hoá sâu rộng. Việt Nam cũng tham gia đàm phán nhiều cam kết cụ thể về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia liên quan tới tất cả các lĩnh vực dịch vụ và 110 phân ngành. Tuy nhiên, tiến độ thực hiện các nghĩa vụ GATS của Việt Nam trong từng lĩnh vực là khác nhau. Theo tuyên bố gần đây Bộ Công Thương, quy trình pháp lý tốt, xây dựng khung pháp lý mới hay sửa đổi, đã được thực hiện trong các lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, chuyển phát nhanh, phân phối, vận tải và văn hoá. - Mặc dù đã đạt được những tiến triển pháp lý đối với các nghĩa vụ GATS chung – không chỉ thành phần dịch vụ mà còn cả nền kinh tế, vẫn còn những quan ngại về việc thực hiện một số các nghĩa vụ này. Đó là các cam kết cụ thể trong thủ tục cấp phép. Các chuyên gia trong nước đề cập đến hiện trạng pháp lý đơn thuần và kết luận rằng nói chung Việt Nam tuân thủ các cam kết và nghĩa vụ GATS. Tuy nhiên, Chính phủ nên quan tâm đến ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước thường phàn nàn về sự thiếu chắc chắn và minh bạch các thủ tụ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1976.doc