Lời mở đầu
Bước sang thế kỷ XX, toàn cầu hoá nền kinh tế trở thành vấn đề thời đại mang tính sống còn đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Đó là một xu thế mới của quá trình phát triển kinh tế thị trường, phản ánh trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội mà ở đó, phân công lao động quốc tế và quốc tế hoá sản xuất trở thành phổ biến. Và có thể nói rằng Tổ chức thương mại thế giới (WTO) ra đời là một hệ quả tất yếu của quá trình này. WTO là một tổ chức quốc tế biểu hiện gần như đ
49 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1488 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Tiến trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam - Thực trạng & triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầy đủ và tiêu biểu nhất cho xu hướng toàn cầu hoá hiện nay. Thực tế đã chứng minh rằng thương mại quốc tế đã mang lại rất nhiều lợi ích to lớn cho nền kinh tế thế giới nói chung và từng quốc gia nói riêng. Do vậy, gia nhập WTO không chỉ đơn thuần là chịu sức ép của xu thế tất yếu của thời đại mà nó còn mang tính chủ động, là mục tiêu của nhiều nước trên thế giới vì lợi ích phát triển kinh tế quốc gia mình.
Đối với Việt Nam, một nước mà quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mới chỉ diễn ra trong vòng 10 năm trở lại đây thì tiến trình đàm phán gia nhập WTO càng trở nên khó khăn phức tạp. Mặc dù hiện nay Việt Nam đã có thêm nhiều thuận lợi trong quan hệ quốc tế như: là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) và khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), là thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC), và gần đây nhất là đã ký kết được Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ... Nhưng không thể phủ nhận một thực tế là Việt Nam vẫn còn rất yếu trong quá trình đàm phán cả song phương, khu vực và đa phương. Việt Nam vẫn còn thiếu cả về mặt lý luận và kinh nghiệm thực tiễn đối với các cuộc đàm phán quốc tế. Trong khi đó tiến trình đàm phán để gia nhập WTO lại đặt ra rất nhiều vấn đề phức tạp.
Trước một thực tế bức bách đó, em đã chọn đề tài: "Tiến trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam - thực trạng và triển vọng" để có thể nghiên cứu sâu hơn về tình hình đàm phán gia nhập WTO hiện nay của Việt Nam, cố gắng tìm ra những khó khăn, những mặt yếu kém tồn tại... để từ đó có những ý kiến đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, đề án gồm 3 chương:
- Chương I: Lý luận chung về WTO
- Chương II: Thực trạng tiến trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam.
- Chương III: Một số đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam.
Do một số nguyên nhân chủ quan và khách quan, đồng thời để thuận tiện cho việc nghiên cứu, đề án này chỉ quan tâm đến tiến trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam kể từ sau khi được công nhận là quan sát viên của WTO năm 1994.
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên của em nên chắc chắn không tránh khỏi những sai sót. Vì vậy rất mong được sự quan tâm góp ý của các thầy cô, các bạn đọc để bài viết ngày càng hoàn thiện.
Qua đây em cũng xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến ThS. Ngô Thị Tuyết Mai vì đã tận tình giúp đỡ, đóng góp ý kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành tốt bài nghiên cứu này.
Chương I
Lý luận chung về tổ chức thương mại thế giới
I. Một số vấn đề cơ bản về WTO.
1. Quá trình hình thành và phát triển của WTO.
Tháng 2 năm 1946, Hội đồng kinh tế và xã hội Liên Hiệp Quốc đã triệu tập một hội nghị bàn về thương mại và việc làm. Văn kiện cuối cùng của hội nghị này là Hiến chương Lahabana. Đây là cơ sở để 23 nước thương lượng ký Nghị định thư tạm thời về việc thi hành "Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) vào ngày 23 tháng 10 năm 1947, chính thức có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1948.
Và thế là GATT, công ước mang tính chất lâm thời, trở thành thoả thuận đa phương then chốt về mậu dịch toàn cầu. Hiệp định GATT trở thành văn kiện công pháp quốc tế đầu tiên điều chỉnh quan hệ thương mại giữa các quốc gia mang tính chất đa phương. Nhiệm vụ chính của GATT là tự do hoá thương mại, cắt giảm thuế quan, bãi bỏ các hạn chế về nhập khẩu và chấm dứt mọi phân biệt đối xử về kinh tế và buôn bán giữa các nước. Bất cứ sự thay đổi nào trong hiệp định cũng đòi hỏi phải được tất cả các thành viên đồng ý. Nếu có sự tranh chấp, mọi thành viên phải đồng thuận về giải pháp.
Khi GATT ra đời, các quốc gia chỉ xem đây là một giải pháp dung hoà tạm thời nhưng trên thực tế nó tồn tại trong một thời gian dài. GATT đã trải qua bảy vòng đàm phán, không kể vòng khai sinh ra nó gồm: 1949 (vòng Annecy), 1951 (vòng Torquay), 1956 (vòng Geneva), 1960 - 1961 (vòng Dillon), 1964 - 1967 (vòng Kennedy), 1973 - 1979 (vòng Tokyo) và 1986 - 1994 (vòng Uruguay).
Sau hơn 40 năm tồn tại của mình, GATT đã góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế thế giới. Nhưng do cơ chế giải quyết tranh chấp không hiệu quả và người được lợi chủ yếu là Mỹ nên các quốc gia khác đòi phải có một tổ chức thay thế GATT có hiệu quả hơn. Trong vòng Uruguay (vòng đàm phán cuối cùng của GATT) các quốc gia thành viên đã đồng thuận thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) để kế vị GATT từ ngày 1 tháng 1 năm 1995.
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là tổ chức quốc tế, là thiết chế pháp lý của hệ thống thương mại thế giới quy định các nghĩa vụ chủ yếu mang tính cam kết để xác định các chính phủ xây dựng và thực thi luật pháp và các quy chế thương mại trong nước như thế nào.
Hiện nay WTO là một tổ chức quốc tế có quy mô lớn nhất thế giới (trừ Liên Hiệp Quốc) với 135 thành viên chính thức, 33 nước là quan sát viên. Thêm vào đó, thoả thuận WTO cũng có quy mô khá đồ sộ với 29 văn bản pháp quy riêng rẽ, bao quát mọi thứ từ nông nghiệp đến vải vóc và may mặc, từ dịch vụ đến mua sắm của chính phủ, từ nguồn gốc hàng hoá đến sở hữu trí tuệ. Ngoài ra còn có 25 văn bản bổ sung là tuyên bố, quyết định và ghi nhớ cấp bộ trưởng giải thích rõ các nghĩa vụ và cam kết của các thành viên WTO. Như vậy rõ ràng WTO có nhiều khác biệt so với GATT và chủ yếu ở năm điểm cơ bản sau:
- GATT chỉ là một loạt quy định, một thoả thuận đa phương không mang tính chất thiết chế và chỉ có một ban thư ký điều phối nhỏ. WTO là một thiết chế thường trực, có cả một bộ phận văn phòng điều hành lớn.
- Các quy định của GATT được áp dụng trên cơ sở "lâm thời". Các cam kết của WTO là toàn bộ và thường trực.
- Các quy định của GATT chỉ áp dụng đối với buôn bán hàng hoá. WTO thì ngoài hàng hoá còn bao quát cả thương mại trong dịch vụ và thương mại về phương diện liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.
- GATT là công cụ đa phương, và từ những năm 1980, có thêm nhiều hiệp định của một số bên nên mang tính chất chọn lựa. Hầu hết các hiệp định của WTO là đa phương và như vậy đòi hỏi sự cảm kết bắt buộc của tất cả các thành viên.
- Hệ thống xử lý tranh chấp của WTO nhanh hơn, linh động hơn, và như vậy giảm nguy cơ bế tắc so với hệ thống của GATT. Việc thực thi cũng được bảo đảm hơn.
"GATT 1947" tồn tại cho đến cuối năm 1995. Nhưng "GATT 1994", bổ sung và cập nhật nó, là bộ phận tổng thành của WTO và vẫn tiếp tục phát huy chức năng tác dụng về thương mại hàng hoá quốc tế trong tổ chức mới này.
2. Mục tiêu và chức năng chủ yếu của WTO.
2.1. Mục tiêu của WTO.
Mục tiêu của WTO là khuyến khích tăng dần tự do hoá thương mại thông qua hoạt động đàm phán và thực thi hàng loạt các thoả thuận thương mại đa phương. Đây là mục tiêu to lớn của WTO và nó được thể hiện xuyên suốt, thống nhất trong tất cả các Hiệp định của WTO. Chẳng hạn, Hiệp định đa phương đầu tiên về thương mại trong dịch vụ đã giải thích rõ nghĩa vụ của các thành viên như phạm vi thi hành, đối xử quốc gia, tiếp cận thị trường và đưa ra một khuôn khổ cho tiến trình tự do hoá trong thương mại dịch vụ. Rõ ràng tất cả các điều trên đều nhằm phục vụ cho mục tiêu tự do hoá thương mại.
Có thể thấy rõ nhất mục tiêu này là ở chỗ WTO đã cấm phân biệt đối xử giữa các thành viên, giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước. Chẳng hạn, theo Điều I về đãi ngộ tối huệ quốc - MFN, các thành viên phải đối xử với sản phẩm của các thành viên khác không kém hơn sự đối xử bất cứ quốc gia nào khác. Một hình thức thứ hai về không phân biệt đối xử gọi là "đối xử quốc gia", yêu cầu một khi hàng ngoại đã vào một thị trường phải được đối xử không kém thuận lợi so với hàng nội.
Biểu hiện rõ ràng hơn cả trong mục tiêu này chính là vấn đề cắt giảm thuế quan. Từ năm 1948, sau khi GATT thành lập, trải qua các vòng thương lượng đã tiến hành giảm thuế từng bước, đến vòng cuối cùng, vòng Uruguay thuế đã được giảm mạnh hơn, đồng thời tăng đáng kể số lượng các mặt hàng cần được giảm thuế. Tính ra, theo WTO, trong vòng 5 năm đã cắt giảm được 40% thuế quan đánh vào các mặt hàng công nghiệp nhập vào các nước phát triển, từ mức thuế bình quân 6,3% giảm xuống còn 3,8%, đưa giá trị hàng công nghiệp nhập khẩu được miễn thuế ở các nước phát triển từ 20% lên 44%.
Ngoài ra, trong lời mở đầu văn bản khai sinh WTO còn bao gồm một số mục tiêu phi thương mại như: mức sống cao hơn và toàn dụng lao động, còn các thoả thuận của nó ảnh hưởng tới nhiều chính sách quốc gia về kinh tế và xã hội, chẳng hạn như đầu tư, an ninh lương thực và cả y tế. Trong thực tế các cuộc thương thuyết này đều bị chi phối bởi các lợi ích thương mại của các nước thành viên nên quá trình đàm phán thường rất khó khăn và quyết liệt.
2.2. Chức năng chủ yếu của WTO.
Trước hết, với bản chất pháp lý của mình, WTO có chức năng điều hành và thực thi các hiệp định thương mại đa phương và hiệp định giữa một số bên cấu thành WTO. Đây là một trong những chức năng quan trọng nhất của WTO vì nó thể hiện được quyền hạn và sức mạnh của WTO cũng như là một số cơ sở đảm bảo về mặt pháp lý cho các hiệp định được ký kết.
Thứ hai là đối với các cuộc thương lượng, đàm phán mậu dịch, WTO hoạt động với tính chất diễn đàn cho các cuộc thương lượng mậu dịch đa phương đó.
Thứ ba là với tư cách như một trọng tài, WTO luôn tìm kiếm các giải pháp xử lý tranh chấp thương mại có hiệu quả. Bởi vì đối với WTO thì các quốc gia thành viên đều là "người trong một nhà" và các quốc gia không phải là thành viên thì dần dần cũng sẽ được gia nhập và cũng là "người trong một nhà". Do đó các giải pháp xử lý tranh chấp thường là vấn đề rất nan giải cho WTO.
Thứ tư là chức năng giám sát các chính sách thương mại quốc gia. Đây là chức năng khá quan trọng của WTO vì nó vừa giám sát các quốc gia thành viên xem có thực hiện đúng các hiệp định đã ký kết không, vừa giám sát các quốc gia chưa phải là thành viên nhưng đang trong tiến trình đàm phán gia nhập. Có thể thấy đây là một chức năng khá nặng nề của WTO.
Cuối cùng là sự hợp tác với các thiết chế quốc tế khác liên quan tới hoạch định chính sách kinh tế toàn cầu. Điều này là rất cần thiết vì trong điều kiện hiện nay thường thì một quốc gia là thành viên của khá nhiều các tổ chức, các thiết chế quốc tế. Do vậy sự hợp tác là rất cần thiết cho việc thực hiện các chức năng của WTO.
3. Các nguyên tắc cơ bản của WTO.
3.1. Nguyên tắc không phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế.
Theo điều khoản về "đãi ngộ tối huệ quốc - MFN", mỗi nước thành viên sẽ dành sự ưu đãi của mình đối với sản phẩm của các thành viên khác, không có nước nào dành lợi thế thương mại đặc biệt cho bất kỳ một nước nào khác hay phân biệt đối xử chống lại nước đó. Tất cả đều trên cơ sở bình đẳng và chia sẻ lợi ích về mậu dịch trong mọi lĩnh vực. Một loại hình chống phân biệt đối xử khác là "đối xử quốc gia". Loại hình này đòi hỏi khi hàng hoá thâm nhập vào một thị trường thì nó phải được đối xử không kém ưu đãi so với hàng hoá tương tự sản xuất trong nước. Ngoài ra, WTO còn đưa ra các điều khoản không có sự phân biệt đối xử khác bao gồm các hiệp định, các quy tắc về xuất xứ, kiểm nghiệm hàng hoá trước khi giao hàng, về biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại và về áp dụng các tiêu chuẩn vệ sinh và kiểm dịch.
3.2. Sự thâm nhập thị trường ngày càng tăng và có thể dự đoán trước.
Hệ thống thương mại đa phương là một sự cố gắng của các quốc gia nhằm cung cấp cho các nhà đầu tư, người chủ, người lao động và người tiêu dùng một môi trường kinh doanh thuận lợi để có thể khuyến khích thương mại, đầu tư và tạo công ăn việc làm, cũng như các cơ hội và giá cả thấp trên thị trường. Môi trường đó cần được ổn định và có khả năng dự đoán trước, đặc biệt là với những công việc liên quan đến đầu tư và phát triển.
Vấn đề mấu chốt của những điều kiện thương mại có thể dự báo trước là sự rõ ràng của luật pháp trong nước, các quy định và thực tiễn. Nhiều hiệp định của WTO chứa đựng những điều khoản rõ ràng đòi hỏi phải công bố trong toàn quốc, ví dụ thông qua các báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng hay thông báo chính thức với WTO. Phần lớn công việc của các quan chức WTO có liên quan là xem xét lại những thông báo này. Việc giám sát này sẽ cung cấp thêm các biện pháp nhằm khuyến khích sự rõ ràng của các điều luật và các quy định ở cả phạm vi trong nước và quốc tế.
3.3. Tăng cường cạnh tranh lành mạnh.
WTO là một tổ chức hướng tới tự do hoá thương mại trên toàn cầu nhưng hiện tại nó vẫn chấp nhận một số dạng bảo hộ (thuế...) mà WTO cho phép các nước thành viên sử dụng để chống trả lại mọi biện pháp có thể gây méo mó về giá cả trong nước hoặc gây tổn hại cho chính nước bạn hàng như việc bán phá giá, trợ cấp đầu vào, áp dụng các biện pháp phụ thu đối với hàng nhập khẩu để bảo hộ nội địa, sử dụng các hàng rào thuế để hạn chế hoặc hạn chế buôn bán... Theo nguyên tắc này buộc các thành viên phải đưa ra những ứng xử công bằng với các nước bạn hàng như giảm bớt các bảo hộ, rõ ràng các luật lệ thương mại, đưa ra các biện pháp bảo hộ trí tuệ...
Các quy tắc về không phân biệt đối xử được đưa ra đảm bảo hoạt động thương mại bình đẳng; tương tự các quy tắc về chống phá giá và trợ cấp nhằm mục đích đó. Hiệp định về nông sản của WTO đưa ra nhằm gia tăng sự công bằng trong thương mại nông sản. Hiệp định đa biên về mua sắm của các chính phủ sẽ quy định các nguyên tắc cạnh tranh cho các vụ mua sắm của hàng nghìn cơ quan khác nhau của chính phủ ở nhiều quốc gia. Còn nhiều ví dụ khác về điều khoản của WTO được đưa ra để đẩy mạnh sự cạnh tranh công bằng và không bị bóp méo.
3.4. Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế.
Hơn 3/4 số thành viên của WTO là các nước phát triển và các nước đang phát triển và các nước đang trong quá trình cải cách nền kinh tế theo hướng thị trường. Các nước này đang ở trong thời kỳ chuyển đổi để điều chỉnh theo các điều khoản phức tạp và phi thuế quan của WTO, đặc biệt là đối với các nước nghèo và kém phát triển nhất. Trong phần IV của GATT - 1994, bao gồm 3 điều khoản đã được đưa ra năm 1965, là nhằm khuyến khích các nước công nghiệp giúp đỡ các nước đang phát triển thành viên "như một sự cố gắng có ý thức và kiên quyết" trong các điều kiện thương mại của họ và không đòi hỏi một sự đáp lại nào về sự nhượng bộ của các nước đang phát triển trong thương lượng. Biện pháp tiếp theo được thoả thuận tại thời điểm cuối của vòng đàm phán Tokyo năm 1979 và được đề cập một cách thông thường như là "điều khoản có thể", đưa ra một cơ sở pháp lý vĩnh viễn cho sự nhượng bộ thâm nhập thị trường của các nước phát triển đối với các nước đang phát triển theo hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP).
3.5. Tăng cường mở cửa thương mại.
Nhiều lý thuyết kinh tế học hiện đại đã chỉ ra rằng "lợi thế so sánh" là căn nguyên của thương mại quốc tế. Tuy vậy lịch sử và kinh nghiệm cho thấy, tất cả các nước có lợi thế, chẳng hạn lợi thế về chi phí lao động hay nguồn tài nguyên thiên nhiên, cũng có thể trở thành không thể cạnh tranh được trong một vài sản phẩm hay dịch vụ khi nền kinh tế của họ phát triển. Tuy nhiên, với những ưu thế của nền kinh tế mở, chúng có khả năng cạnh tranh ở một nơi khác. Đây là một quá trình dần dần. Mặt khác bảo hộ quá mức sẽ làm nền kinh tế trì trệ, không hiệu quả. Chính vì những lợi ích trên mà một trong những mục tiêu mang tính nguyên tắc của WTO là ngăn cản xu thế bảo hộ và tiến tới xoá bỏ chủ nghĩa bảo hộ.
3.6. Giải quyết các bất đồng thương mại.
Việc giải quyết tranh chấp trong WTO được coi là một yếu tố trung tâm bảo đảm cho việc vận hành thương mại một cách an toàn và nằm trong dự kiến. Các thành viên phải dựa vào cam kết không hành động đơn phương chống lại những điều mà họ coi là vi phạm luật lệ thương mại, mà phải dựa vào hệ thống giải quyết tranh chấp đa phương và phải tuân thủ các quy định và phán quyết của hệ thống này.
Trong vòng 30 ngày sau khi nhận được khiếu kiện hoặc kháng án, cơ quan xử lý tranh chấp (DSB) phải họp để phán quyết. Bên bị kiện phải tuyên bố rõ ý định chấp hành khuyến nghị. Nếu có khó khăn trong việc tuân thủ ngay lập tức thì có thể được DSB cho kéo dài "một thời gian hợp lý" để chấp hành. Trong trường hợp vẫn không chấp hành được thì thành viên bị kiện phải thương lượng với bên nguyên để xác định những điều kiện bồi thường có thể chấp nhận được cho cả hai phía - chẳng hạn, giảm thuế suất về một số lĩnh vực nào đó có lợi cho bên nguyên.
Nếu sau 21 ngày mà yêu cầu bồi thường vẫn chưa được thoả mãn thì bên nguyên có thể đề nghị DSB cho phép mình thực hiện việc đình chỉ thoả nhượng hoặc nghĩa vụ với phía bên kia. DSB sẽ đồng ý với đề nghị này sau khi mãn hạn 30 ngày nói trên. Vụ việc sẽ nằm trong nghị trình của DSB cho đến khi đã được hoàn toàn giải quyết. Như vậy, DSB có thẩm quyền duy nhất thành lập các hội đồng xét xử, thụ lý các báo cáo của hội đồng xét xử và kháng cáo, duy trì giám sát việc thực thi các phán quyết và khuyến nghị, cho phép vận dụng các biện pháp trả đũa trong những trường hợp không chịu chấp hành khuyến nghị.
4. Tổ chức và hoạt động của WTO.
4.1. Cơ cấu tổ chức của WTO.
Hội nghị cấp bộ trưởng là cơ quan quyền lực tối cao của WTO, gồm đại diện của tất cả các thành viên, ít nhất hai năm họp một lần và có thể ra quyết định về mọi vấn đề thuộc bất kỳ hiệp định thương mại đa phương nào.
Công việc thường ngày do một số cơ quan sau đây chịu trách nhiệm: Đại hội đồng, cũng bao gồm các thành viên, có trách nhiệm báo cáo cho Hội nghị cấp Bộ trưởng. Đại hội đồng điều hành công việc thường xuyên nhân danh Hội nghị cấp bộ trưởng, thành lập hai bộ phận chuyên trách là Cơ quan xử lý tranh chấp (DSB) và Ban kiểm điểm chính sách thương mại (TPRB).
Đại hội đồng giao trách nhiệm cho 3 cơ quan chức năng sau:
- Hội đồng mậu dịch về hàng hoá.
- Hội đồng mậu dịch về dịch vụ.
- Hội đồng mậu dịch về các phương diện liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Các hội đồng này hoạt động theo chức năng và nhiệm vụ được giao, có các tiểu ban giúp việc. Biên chế của Ban thư ký có 500 người, đứng đầu là Tổng giám đốc và bốn Phó tổng giám đốc. Ngân sách của WTO do đóng góp của các thành viên tính theo tỷ phần của mỗi nước trong tổng kim ngạch thương mại thế giới.
4.2. Hoạt động của WTO.
Quy trình ra quyết định của WTO tiếp tục truyền thống của GATT là đồng thuận chứ không phải bằng bỏ phiếu. Phương pháp này theo WTO, là nhằm đảm bảo cho quyền lợi của các thành viên được coi trọng, "mặc dù có khi họ có thể đồng thuận vì lợi ích chung của hệ thống thương mại đa phương". Nhưng nếu không đạt được đồng thuận thì thoả thuận WTO cho phép đầu phiếu theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số và mỗi nước một phiếu. Như vậy, có thể coi, ít ra về hình thức, WTO hình như rất dân chủ.
Thoả thuận WTO quy định bốn trường hợp bỏ phiếu:
- Một đa số phiếu ba phần tư có thể thông qua một diễn dịch của bất kỳ hiệp định thương mại đa phương nào.
- Cũng bằng đa số đó, Hội nghị bộ trưởng có thể quyết định cho một thành viên nào đó lùi thời gian thi hành một hiệp định đa phương nào đó.
- Những quyết định bổ sung một số điều khoản của các hiệp định thương mại có thể được thông qua nếu được tất cả các thành viên hoặc được một số hai phần ba chấp thuận, tuỳ theo tính chất của vấn đề. Tuy nhiên, các điều khoản bổ sung đó chỉ có hiệu lực đối với các thành viên đã chấp nhận chúng.
- Việc kết nạp thành viên mới phải được đa số hai phần ba của Hội nghị cấp bộ trưởng tán thành.
5. Các điều kiện gia nhập WTO.
Để trở thành thành viên của WTO, một quốc gia phải đáp ứng đầy đủ một số điều kiện cụ thể.
1. Phải là quốc gia có nền kinh tế thị trường.
2. Phải sẵn sàng và có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ là thành viên WTO.
3. Phải được sự tán thành của hai phần ba số thành viên trở lên tại Hội nghị bộ trưởng WTO.
Trên thực tế, khi xem xét cho một nước gia nhập WTO thì việc đánh giá xem các nước đó đã hội đủ các điều kiện gia nhập chưa thì các quan chức WTO cũng như các nước thành viên căn cứ vào 5 điều kiện mang tính nguyên tắc sau:
- Không phân biệt đối xử: Không một nước nào có thể phân biệt đối xử với các nước bạn hàng của mình cùng có chân trong WTO hoặc với các sản phẩm, dịch vụ cùng các công dân các nước này.
- Tự do hơn: Các rào cản sẽ lần lượt được dỡ bỏ thông qua thương thuyết.
- Có thể tiên liệu được: Các công ty, các nhà đầu tư, các chính phủ các nước sẽ được đảm bảo rằng sẽ không có những rào cản đột xuất mọc lên một cách tuỳ tiện, nay bằng nghị định này, mai bằng thông tư nọ...
- Cạnh tranh hơn: Trong ý nghĩa không còn những hành động phá giá, trợ cấp xuất khẩu... mang tính chất "không sòng phẳng".
- Chiếu cố đến các nước kém phát triển: Các nước này được định nghĩa là có GDP/đầu người dưới 1.000 USD/năm, sẽ được những thời gian ân hạn, một sự linh động du di hơn trong những tình huống cần bảo vệ một lĩnh vực sản xuất và dịch vụ nào đó có nguy cơ bị phá sản trước làn sóng nước ngoài.
Và một điều không thể thiếu là quốc gia đó phải tuân thủ đúng thủ tục gia nhập của WTO. Đây chính là một trong các điều kiện để gia nhập WTO.
Một nước gia nhập WTO không nhất thiết phải trải qua thời kỳ là quan sát viên. Tuy nhiên các nước xin gia nhập thường xin chấp nhận quy chế quan sát viên trước khi bắt đầu đàm phán với mục đích có thời kỳ trung chuyển để tiếp cận và hiểu rõ hơn về nguyên tắc, quy chế hoạt động của WTO; thông qua đó thiết lập mối quan hệ gần gũi và gắn bó hơn với các thành viên nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình vận động gia nhập WTO.
Sau khi quốc gia đã nộp đơn xin gia nhập WTO (đơn xin gia nhập WTO được soạn thảo căn cứ vào thủ tục và trình tự được hướng dẫn chung, theo tài liệu WT/ACC1 do Ban thư ký soạn thảo) thì quy trình đàm phán sẽ theo hai bước sau:
- Giai đoạn 1: Minh bạch hoá chính sách.
Trong giai đoạn này có những vấn đề sau:
a. Quốc gia xin gia nhập nộp bảng tổng hợp (bị vong lục) về chính sách thương mại của mình.
b. Đại hội đồng (General Council) lập ra một ban công tác cho từng quốc gia.
c. Các nước thành viên đặt câu hỏi mà họ quan tâm về nội dung, chính sách thương mại đã được trình bày trong bị vong lục của quốc gia xin gia nhập WTO.
d. Quốc gia xin gia nhập trả lời các câu hỏi trên.
e. Sau khi Ban thư ký WTO nhận được số lượng các câu hỏi xác định từ quốc gia xin gia nhập WTO, thì phiên đầu tiên sẽ diễn ra (thời gian 8 - 10 tuần sau khi Ban thư ký nhận được các câu hỏi).
f. Những phiên đàm phán thuộc giai đoạn đầu (thường từ 2 - 5 phiên) tập trung để minh bạch chính sách thương mại cuả quốc gia xin gia nhập WTO. Hình thức đàm phán là đàm phán đa biên.
- Giai đoạn 2: Là giai đoạn bao gồm những phiên đàm phán song biên giữa quốc gia xin gia nhập với từng đối tác cụ thể. Đan xen là những phiên đàm phán đa biên để đưa chính sách thương mại của nước đàn xin gia nhập tiếp cận với các nguyên tắc và định chế chung của WTO.
Khi các điều kiện đã chín muồi tức là quốc gia đang gia nhập thoả mãn những điều kiện của các nước tham gia đàm phán chấp thuận thì Chủ tịch Ban công tác tham vấn với Ban thư ký WTO và đại diện các nước đang tham gia đàm phán thông qua các văn bản chấp nhận là thành viên chính thức đối với quốc gia đang gia nhập WTO.
6. Triển vọng của WTO.
Hiện nay có rất nhiều ý kiến tỏ ra nghi ngờ về triển vọng tương lai của WTO vì Hội nghị Bộ trưởng thương mại WTO diễn ra tại Siatơn, Mỹ ngày 30 tháng 10 năm 1999 vừa qua đã không đạt được kết quả như mong muốn ban đầu của nước chủ nhà. Dường như WTO đã rơi vào tay những tập đoàn tư bản lớn, những quốc gia tư bản lớn. Chính vì vậy mà tương lai của WTO phụ thuộc rất nhiều ở các nước đang phát triển, những nước đang bị xem là thua thiệt trong quá trình toàn cầu hoá. Thất bại của Hội nghị Siatơn đã cho thấy rằng WTO đang cần một sự cải tổ lớn. Tuy nhiên muốn làm được điều đó thì các nước thế giới thứ ba phải đoàn kết với nhau, đoàn kết với các lực lượng không ngừng lớn mạnh của các tổ chức nhân dân, của những người có lương tri và có hiểu biết thì chắc chắn các tập đoàn tư bản không dễ dàng thao túng bộ máy thương mại thế giới. Và như vậy WTO sẽ không ngừng thay đổi và phát triển, đưa thế giới ngày càng phát triển và thịnh vượng.
II. Kinh nghiệm của Trung Quốc gia nhập WTO.
1. Về thể chế.
Trung Quốc là nước có nền kinh tế chuyển đổi từ mô hình công hữu xã hội chủ nghĩa, thời gian thực hiện cơ chế kinh tế thị trường còn rất ngắn, thiếu kinh nghiệm, cơ cấu tổ chức chưa hoàn thiện. Để thích ứng với nguyên tắc vận hành của WTO, trước hết cần có sự thay đổi về nhận thức và quan niệm, cần nghiên cứu, tìm hiểu những mặt có lợi và bất lợi khi gia nhập WTO nhằm đi đến nhận thức chung, tạo thuận lợi cho các bước cải cách từ nay về sau. Trung Quốc đã rất thành công trong các việc này. Tiếp đến, Trung Quốc đã không ngừng hoàn thiện cơ chế thị trường, hệ thống luật và văn bản đồng bộ tương ứng. Đồng thời tiến hành điều chỉnh, nâng cấp và đổi mới cơ cấu ngành nghề. Bên cạnh đó, Trung Quốc đã đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kỹ thuật giỏi, đi sâu nghiên cứu về WTO.
2. Về điều chỉnh cơ cấu ngành nghề.
Đối với nông nghiệp: Trung Quốc là một nước có nền nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân. Để gia nhập WTO, Trung Quốc đã tiến hành rất nhiều các điều chỉnh cần thiết và có thể nói phải trả khá đắt cho cái giá của nông nghiệp. Trung Quốc vừa phải đầu tư vốn để cơ giới hoá nông nghiệp, cấp vốn tín dụng ưu đãi để phát triển trang trại, cam kết đảm bảo đầu ra cho nông sản và áp dụng các biện pháp bảo hộ hết sức linh hoạt và hiệu quả để có được sự đồng ý của các thành viên WTO.
Đối với công nghiệp: Do cần xoá bỏ dần hạn ngạch nên việc gia nhập WTO sẽ đưa lại cho Trung Quốc nhiều cơ hội xuất khẩu các sản phẩm dệt, hàng công nghiệp cơ điện, nhưng lại gây những tác động lớn đối với ngành xe hơi của Trung Quốc. Trong quá trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm tất sẽ có hàng loạt xí nghiệp phải đóng cửa. Tuy nhiên gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện cho Trung Quốc du nhập kỹ thuật hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Đối với ngành dịch vụ: Các lĩnh vực bưu chính, ngân hàng, bảo hiểm và tài chính tiền tệ của Trung Quốc cơ bản nằm dưới sự khống chế độc quyền của nhà nước. Nhưng sau khi gia nhập WTO, những ngành này tất phải mở cửa, chính phủ sẽ từng bước giảm can thiệp hành chính, lãi suất và hối suất từng bước được thị trường hoá, vì thế mà thị trường tài chính tiền tệ sẽ chịu nhiều rủi ro hơn. Ngân hàng nước ngoài có chất lượng cao hơn sẽ thu hút hết khách hàng của ngân hàng trong nước. Vì vậy Trung Quốc đã không ngừng cải cách hệ thống ngân hàng của mình, bồi dưỡng thêm cho cán bộ ngân hàng trong nước, hiện đại hoá hệ thống ngân hàng...
Trên đây là vài kinh nghiệm trong quá trình chuyển đổi về thể chế và cơ cấu kinh tế của Trung Quốc nhằm mục đích nhanh chóng gia nhập WTO. Đây là bài học quý giá cho những nước có cơ cấu và thể chế kinh tế tương đồng với Trung Quốc đang trong quá trình gia nhập WTO.
Chương II
Thực trạng tiến trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam
I. Sự cần thiết gia nhập WTO của Việt Nam.
1. Quá trình quốc tế hoá phát triển.
Toàn cầu hoá đang trở thành xu thế tất yếu của thời đại. Trước xu thế như vũ bão của toàn cầu hoá, một quốc gia muốn phát triển được phải tham gia vào quá trình đó. Bởi vì toàn cầu hoá mang lại nhiều lợi ích to lớn cho các quốc gia. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, hợp tác các lĩnh vực khác giữa các quốc gia. Đại diện tiêu biểu nhất và đầy đủ nhất cho xu thế toàn cầu hoá hiện nay chính là Tổ chức thương mại thế giới. Việt Nam cũng là một quốc gia đang đứng trước thử thách toàn cầu hoá và một điều tất yếu là Việt Nam sẽ tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới để tận dụng những thuận lợi cho phát triển kinh tế đất nước. Thực tế đã chứng minh rằng kể từ khi hoà nhập vào quá trình toàn cầu hoá, Việt Nam đã có nhiều thành công to lớn về kinh tế xã hội.
2. Thành công của Việt Nam trong cải cách kinh tế.
Quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam trong 10 năm gần đây chỉ ra rằng, sự thành công kinh tế của Việt Nam phụ thuộc rất nhiều ở mức độ tham gia của đất nước vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Chính phủ Việt Nam cũng nhận thấy sự cần thiết và lợi ích khi tham gia vào hệ thống thương mại thế giới mà WTO là tổ chức lớn nhất hiện nay. Đặc biệt sau khi đã nghiên cứu các kết quả của vòng đàm phán Uruguay tháng 1/1995, Chỉnh phủ Việt Nam đã quyết định nộp đơn gia nhập WTO. Quyết định này sẽ giúp đất nước đổi mới kinh tế có hiệu quả hơn, đồng thời góp phần mở rộng hơn nữa các quan hệ kinh tế với các nước khác.
Sự ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm qua chính là cơ sở cho việc tham gia của Việt Nam vào hệ thống thương mại thế giới. Việt Nam đang được xem là một nước có nền kinh tế tăng trưởng nhanh, mức tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 1991 - 2000 là 7,4%, theo đó tổng giá trị GDP đạt gấp đôi năm 1990, GDP theo đầu người tăng 1,8 lần. Cũng trong thời kỳ này xuất khẩu của Việt Nam tăng bình quân hàng năm 18,2%, tăng gấp 5,3 lần so với năm 1990. Tốc độ tăng trưởng giá trị nhập khẩu bình quân hàng năm trong 10 năm qua là 17,5%. Tổng giá xuất nhập khẩu năm 2000 đã tương đương tổng GDP. Với đường lối phát triển kinh tế hướng ngoại đúng đắn, Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng hộ và hợp tác của nhiều nước trên thế giới. Tính đến quý I năm 1999 tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký là 35,8 tỷ USD nếu tính cả vốn bổ sung là 40,3 tỷ USD.
Thành công kinh tế của Việt Nam gần đây là kết quả của quá trình chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Quá trình này đã kéo theo một loạt những cải cách, làm thay đổi nền kinh tế Việt Nam. Lĩnh vực nông nghiệp đã được giải phóng, giá cả được tự do, trợ cấp từ ngân sách đã bị cắt giảm nhiều. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tháng 4 năm 2001 đã đưa ra các quyết định tiếp tục đổi mới nền kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Một sự kiện có ý nghĩa lớn trong việc tham gia WTO của Việt Nam là ngày 28 - 7 - 1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) và đã ký hiệp định để gia nhập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Theo Hiệp định này, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế quan đối với các nước thành viên ASEAN xuống còn 0 - 5% trong vòng 10 năm, bắt đầu từ này 1 - 1 - 1996. Việc gia nhập ASEAN của Việt Nam đã củng cố thêm vị trí của Việt Nam trong ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0173.doc