Tiềm năng du lịch Thái Nguyên nhìn từ góc độ Lịch sử, văn hóa (1995 - 2007)

Tài liệu Tiềm năng du lịch Thái Nguyên nhìn từ góc độ Lịch sử, văn hóa (1995 - 2007): ... Ebook Tiềm năng du lịch Thái Nguyên nhìn từ góc độ Lịch sử, văn hóa (1995 - 2007)

pdf116 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1674 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Tiềm năng du lịch Thái Nguyên nhìn từ góc độ Lịch sử, văn hóa (1995 - 2007), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TẠ THỊ KIM NIÊN TIỀM NĂNG DU LỊCH THÁI NGUYÊN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LỊCH SỬ, VĂN HOÁ (1995 - 2007) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN DUY TIẾN THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TẠ THỊ KIM NIÊN TIỀM NĂNG DU LỊCH THÁI NGUYÊN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LỊCH SỬ, VĂN HOÁ (1995 - 2007) Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60.22.54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN DUY TIẾN THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành Luận văn Thạc sĩ của mình, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học, Khoa Lịch sử và các Giảng viên trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã nhiệt tình truyền đạt những kiến thức quý báu cho em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành Luận văn Thạc sĩ. Em xin gửi lời cảm ơn tới TS Nguyễn Duy Tiến - Người trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận văn Thạc sĩ. Nhân dịp này tôi xin chân thành cảm ơn Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Thái Nguyên, Ban giám hiệu trường Trung học phổ thông Sông Công và các thầy cô giáo trong tổ, trong trường đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Xin chân thành cảm ơn Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch Thái Nguyên, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thái Nguyên, Chi cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên… đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu để hoàn thành Luận văn. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên, khuyến khích tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Xin chân thành cảm ơn. Thái Nguyên, ngày 28 tháng 9 năm 2009 Tác giả Tạ Thị Kim Niên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU............................................................................................................................................................................................................ 1 Chƣơng 1. THÁI NGUYÊN TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC .........................................................................7 1.1.Vài nét về điều kiện tự nhiên và xã hội ..............................................................................................7 1.2. Địa danh Thái Nguyên qua các thời kỳ lịch sử ............................................................... 15 1.3. Truyền thống chống ngoại xâm ............................................................................................................... 17 Tiểu kết chƣơng 1 ........................................................................................................................................................................ 23 Chƣơng 2. TIỀM NĂNG DU LỊCH THÁI NGUYÊN - NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LỊCH SỬ, VĂN HOÁ .................................................................................................................................................................................... 24 2.1. Thành phố Thái Nguyên ...................................................................................................................................... 26 2.2. Đại Từ ................................................................................................................................................................................................ 29 2.3. Định Hoá - Phú Lương ........................................................................................................................................... 32 2.4. Đồng Hỷ - Võ Nhai .................................................................................................................................................... 39 2.5. Phú Bình, Phổ Yên ...................................................................................................................................................... 44 Tiểu kết chƣơng 2 ........................................................................................................................................................................ 54 Chƣơng 3. MỘT VÀI GIẢI PHÁP PHÁT HUY TIỀM NĂNG DU LỊCH THÁI NGUYÊN ................................................................................................................................................................................. 56 3.1. Thực trạng ................................................................................................................................................................................... 56 3.2. Một vài giải pháp nhằm phát huy tiềm năng du lịch Thái Nguyên....... 67 Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................................................................................................ 80 KẾT LUẬN ....................................................................................................................................................................................................................... 82 Tài liệu tham khảo ........................................................................................................................................................................ 86 Phần phụ lục ........................................................................................................................................................................................... 92 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1. Bảng thống kê các dân tộc sinh sống trên địa bàn Thái Nguyên ....... 10 Bảng 1.2. Tỷ trọng kết cấu các dân tộc theo đơn vị hành chính trong tỉnh ......... 11 Bảng 3.1. Doanh thu du lịch trên địa bàn ...................................................................................................... 60 Bảng 3.2. Tình hình khách du lịch đến Thái Nguyên qua các năm .............................. 61 Bảng 3.3. Số lượng cơ sở lưu trú và công suất sử dụng buồng, phòng của du lịch Thái Nguyên ................................................................................................................................... 65 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Thái Nguyên là cầu nối giữa khu vực miền núi và miền xuôi, qua các thời kỳ lịch sử, đây là nơi hội tụ của nhiều thành phần dân tộc. Do đó, sự giao lưu văn hoá diễn ra, đã đem lại những nét văn hoá phong phú và đa dạng cho Thái Nguyên. Tuy nhiên, các dân tộc sinh sống trên địa bàn Thái Nguyên đều giữ được những nét bản sắc riêng biệt của mình như: Điệu hát “pả dzung” trong các ngày lễ tết của người Dao, lễ cưới độc đáo của người Nùng Phàn Sình, truyền thống đan lát, dệt vải và điệu hát “sli ”, hát “lượn” của người Tày, Nùng… Dù mỗi thành phần dân tộc ở Thái Nguyên đều mang những đặc điểm riêng về tiếng nói, trình độ sản xuất, bản sắc văn hoá… Nhưng họ đều có những nét tương đồng, hoà nhập trong một cộng đồng, tạo thành một nền văn hoá đặc trưng của Thái Nguyên. Thái Nguyên là chiếc cầu nối giữa đồng bằng châu thổ sông Hồng với vùng miền núi phía Bắc của Tổ quốc, là trung tâm vùng Việt Bắc, có bề dày lịch sử và văn hoá, giàu truyền thống cách mạng, vì vậy Thái Nguyên có vị trí hết sức quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong tiến trình lịch sử, các dân tộc ở Thái Nguyên đã đoàn kêt gắn bó cùng nhân dân cả nước xây dựng Tổ quốc và bảo vệ giang sơn. Công sức của nhiều người, của nhiều thế hệ khác nhau đã cống hiến tạo nên một Thái Nguyên giầu truyền thống lịch sử, văn hoá với những địa danh nổi tiếng, những danh nhân văn hoá, những di tịch lịch sử được đánh giá cao. Các di tích lịch sử, các yếu tố văn hoá đó trải rộng khắp mọi vùng, miền của cả tỉnh, không đâu là không có. Đây chính là thế mạnh phục vụ thiết thực cho ngành du lịch của tỉnh nhà. Những tiềm năng đó đã và đang được khơi dậy, nhưng cần được quan tâm, nghiên cứu, thông tin tuyên truyền rộng rãi hơn nữa, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 tạo dựng được mạng lưới du lịch rộng khắp cả về chiều rộng lẫn chiều sâu để cho du khách chỉ một lần đến với Thái Nguyên, sẽ không quên mảnh đất có truyền thống lịch sử lâu đời và đầy sắc thái văn hoá này. Là một giáo viên công tác tại Thái Nguyên, qua đề tài nghiên cứu này, bằng các phương pháp trực quan sinh động về lịch sử và văn hoá, tôi mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao lòng tự hào dân tộc, truyền thống yêu nước, yêu quê hương xứ sở cho các em học sinh Thái Nguyên, đồng thời quảng bá cho du lịch tỉnh nhà, nêu lên được thực trạng và những giải pháp nhằm khai thác tiềm năng du lịch vào việc phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Từ những lý do trên tôi chọn “Tiềm năng du lịch Thái Nguyên - Nhìn từ góc độ lịch, sử văn hoá (1995-2007)” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ lịch sử. 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Tìm hiểu và quảng bá cho du lịch, nhất là du lịch Thái Nguyên là một vấn đề mới mẻ, thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu Trung ương và địa phương. Từ những năm 90, khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu tham quan du lịch ngày càng tăng, việc thông tin tuyên truyền về du lịch ngày càng được phổ biến. Năm 1994, Tổng cục Du lịch ban hành “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995-2000” nhằm đưa ngành du lịch Việt Nam phát triển theo định hướng của nhà nước. Năm 1999, Nguyễn Thị Kim Anh sinh viên khoa Địa lý viết khoá luận tốt nghiệp “An toàn khu - Tiềm năng du lịch về cuội nguồn”, đã đề cập đến vấn đề du lịch cội nguồn của ATK Định Hoá, Tuyên Quang, đánh giá sơ bộ về tiềm năng du lịch của vùng trên cơ sở các tài nguyên du lịch sẵn có, đồng thời đưa ra một số định hướng trong tương lai. Đặc biệt trong những năm đầu thế kỷ XXI, khi ngành công nghiệp không khói đóng vai trò quan trọng trong ngành kinh tế của các quốc gia, du lịch trở thành một nhu cầu không nhỏ của cuộc sống con người hiện đại thì việc quảng bá cho du lịch nói chung, du lịch Thái Nguyên nói riêng ngày càng được đẩy mạnh. Năm 2003, Bảo tàng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 Thái Nguyên phát hành cuốn Thái Nguyên di tích danh thắng và triển vọng tương lai, Đồng Khắc Thọ viết Di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh Thái Nguyên. Hai tác phẩm nêu trên đã liệt kê các di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh của Thái Nguyên. Sở thương mại và Du lịch Thái Nguyên có Kỷ yếu hội thảo khoa học Du lịch sáu tỉnh Việt Bắc với vùng du lịch Bắc Bộ, trong đó có đề cập đến tính liên vùng của du lịch Thái Nguyên. Năm 2005, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia biên soạn Thái Nguyên thế và lực mới trong thế kỷ XXI, giới thiệu một số tour du lịch tiêu biểu trên đất Thái Nguyên. Năm 2006 Sở Thương mại và Du lịch Thái Nguyên phát hành Sổ tay du lịch Thái Nguyên, hướng dẫn các du khách lựa chọn các tuyến du lịch phù hợp cho mình khi đến với Thái Nguyên.Cũng trong năm 2006, Nguyễn Văn Chiến viết Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch Thái Nguyên. Trong đó đã đề cập đến những tiềm năng và thực trạng du lịch Thái Nguyên đến trước năm 2006 dưới góc độ kinh tế. Đặc biệt năm 2008 Phạm Mỹ Đức sinh viên khoa Địa lý trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên làm khoá luận tốt nghiệp với đề tài Tiềm năng, hiện trạng và định hướng phát triển du lịch tỉnh Thái Nguyên, đã phân tích, đánh giá tiềm năng tự nhiên, kinh tế - xã hội và nhân văn dưới góc độ kinh tế có liên quan đến hoạt động du lịch của Thái Nguyên, đánh giá hiện trạng du lịch của tỉnh qua năm du lịch Quốc gia tổ chức tại Thái Nguyên, tìm hiểu định hướng và đưa ra một số kiến nghị góp phần thúc đẩy du lịch Thái Nguyên phát triển theo hướng bền vững. Những công trình nghiên cứu trên đã trực tiếp, hoặc gián tiếp đề cập tới vấn đề du lịch Thái Nguyên. Ngoài ra còn có một số bài báo, tạp chí, thông tin khoa học cũng nghiên cứu các vấn đề đề tài quan tâm. Song, cho đến nay, vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu riêng và trình bày một cách hệ thống về sự phát triển của du lịch Thái Nguyên với những tiềm năng du lịch về lịch sử, văn hoá và danh thắng vốn có. Mặc dù vậy, chúng tôi đánh giá rất cao những công trình trên và coi đó là nguồn tài liệu quý, giúp chúng tôi trong quá trình tìm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 hiểu về “Tiềm năng du lịch Thái Nguyên - Nhìn từ góc độ lịch sử, văn hoá (1995 – 2007)”. 3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Luận văn đề cập tới các di tích lịch sử, văn hoá và danh thắng chính ở Thái Nguyên gắn với vấn đề du lịch hiện nay. Quá trình phát triển của ngành du lịch Thái Nguyên từ 1995 đến 2007. Những giải pháp nhằm phát triển du lịch Thái Nguyên dựa trên thế mạnh du lịch lịch sử, du lịch văn hoá. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Không gian: Địa bàn tỉnh Thái Nguyên. - Thời gian: Từ 1995 đến 2007.Tuy nhiên, để làm rõ vấn đề, luận văn có đề cập đến một số vấn đề của du lịch Thái Nguyên trước năm 1995. 3.3. Nhiệm vụ của đề tài Trên cơ sở tìm hiểu những di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh ở Thái Nguyên, luận văn đi sâu tìm hiểu tiềm năng du lịch Thái Nguyên, đồng thời nêu lên thực trạng và đề ra những giải pháp nhằm phát triển du lịch Thái Nguyên trong tương lai. 4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Nguồn tài liệu Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi khai thác triệt để các nguồn sử liệu viết về du lịch Thái Nguyên từ năm 1995 đến nay, đặc biệt chú trọng đến những tài liệu sau: - Những bài nói, bài viết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, giáo sư Trần Quốc Vượng, nhà sử học Dương Trung Quốc. - Các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, Sở Thương mại và Du lịch Thái Nguyên từ năm 1995 đến 2007 - Báo cáo tổng kết các năm của Sở Thương mại và Du lịch Thái Nguyên từ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 1995 đến 2007. - Hệ thống niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên phần về Thương mại và Du lịch từ 1995 đến 2007. - Ngoài ra luận văn còn sử dụng công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã được công bố, tạp chí “Xưa và nay”, tạp chí “Nghiên cứu lịch sử”, kỷ yếu các hội thảo khoa học, các sách đã xuất bản, các đề tài nghiên cứu của sinh viên các khoá… 4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgíc là chủ yếu. Các phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp cũng được sử dụng để làm sáng tỏ nội dung của đề tài. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát, điền dã… 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN - Luận văn trình bày một cách cơ bản và hệ thống các di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên và vị trí, vai trò của nó với vấn đề du lịch hiện nay. - Luận văn đã chỉ ra thực trạng tình hình du lịch ở Thái Nguyên, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm khai thác tiềm năng du lịch của Thái Nguyên dựa trên thế mạnh du lịch lịch sử, du lịch văn hoá, du lịch danh thắng. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy và học tập lịch sử địa phương của các trường chuyên nghiệp và phổ thông trên địa bàn tỉnh. Luận văn góp phần vào việc giáo dục lòng tự hào về quê hương, đất nước cho các thế hệ. 6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Thái Nguyên trong lịch sử dân tộc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 Chương 2: Tiềm năng du lịch Thái Nguyên - Nhìn từ góc độ lịch sử, văn hoá. Chương 3: Một vài giải pháp nhằm phát huy tiềm năng du lịch Thái Nguyên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 CHƢƠNG 1. THÁI NGUYÊN TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC 1.1. VÀI NÉT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ Xà HỘI Thái Nguyên là một tỉnh miền núi, thuộc vùng trung du miền núi Đông Bắc, có diện tích tự nhiên 3.541,67 km2, điểm cực Bắc là thượng nguồn Khuổi Tát, thuộc xã Linh Thông, huyện Định Hoá. Điểm cực Nam là cầu Đa Phúc, huyện Phổ Yên. Điểm cực Tây là vùng núi phía Bắc Đèo Khế, thuộc xã Yên Lãng, huyện Đại Từ. Điểm cực Đông là vùng núi đá vôi xã Phương Giao, huyện Võ Nhai [59, tr.22]. Phía Bắc của Thái Nguyên giáp với tỉnh Bắc Kạn; phía Đông giáp các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang; phía Nam giáp Hà Nội; phía Tây giáp các tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang. Với vị trí địa lý như vậy, Thái Nguyên trở thành điểm tiếp giáp, là cầu nối giữa đồng bằng châu thổ sông Hồng với các tỉnh miền núi phía Bắc (Tuyên Quang, Bắc Kạn, Lạng Sơn). Thái Nguyên có 3 quốc lộ: Quốc lộ số 3 chạy suốt theo chiều dài tỉnh, từ phía Nam (cầu Đa Phúc, Phổ Yên) lên phía Bắc (cầu Ổ Gà, Phú Lương) qua Bắc Kạn lên Cao Bằng. Quốc lộ 1B từ cầu Gia Bẩy (thành phố Thái Nguyên) qua 2 huyện Đồng Hỷ, Võ Nhai lên Lạng Sơn. Quốc lộ 19 chạy từ Hiệp Hoà (Bắc Giang) sang Thái Nguyên. Ngoài ra Thái Nguyên còn có 2 đường sắt Hà Nội - Quan Triều - Núi Hồng và Lưu Xá (Thái Nguyên). Kép (Bắc Giang), Uông Bí (Quảng Ninh), cùng nhiều tuyến giao thông nội tỉnh, liên tỉnh thuận tiện như: Đường 13A từ Bờ Đậu (Phú Lương) qua Đại Từ, vượt Đèo Khế sang Tuyên Quang … với hệ thống giao thông thuận lợi như vậy có thể giúp du khách đến với Thái Nguyên dễ dàng, để từ Thái Nguyên, du khách toả đi khắp những di tích rải rác trên 6 tỉnh Việt Bắc xưa để tìm lại cội nguồn sức mạnh của dân tộc thế kỉ XX. Sự kết hợp giữa hoàn lưu gió mùa với yếu tố địa hình tạo cho tự nhiên ở Thái Nguyên phân hoá thành 3 vùng rõ nét: Vùng phía Tây và Tây Bắc tỉnh, bao Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 gồm huyện Đại Từ, Định Hoá và các xã miền tây huyện Phú Lương, đây là khu vực miền núi, có tài nguyên rừng phong phú. Vùng núi phía Đông, gồm có các huyện Đồng Hỷ, Võ Nhai, địa hình không cao lắm, chỉ khoảng 500 - 600m nhưng rất phức tạp và hiểm trở, được cấu tạo từ núi đá vôi - địa hình Caxtơ tạo thành nhiều hang động với cảnh quan thiên nhiên đẹp, đồng thời có thể dùng làm nơi ẩn náu trong thời kỳ có chiến tranh như các hang động của Võ Nhai, Đồng Hỷ. Theo hướng Đông Nam, vùng có địa hình thấp dưới 100m gồm phía Nam huyện Phú Lương, phía Tây huyện Đồng Hỷ, Thành phố Thái Nguyên, các huyện Phú Bình, Phổ Yên, và thị xã Sông Công, đây là vùng đồi trung du xen với đồng bằng phù sa sông Cầu và sông Công, có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội. Nhìn chung, địa hình Thái Nguyên chủ yếu là đồi núi, diện tích đồi núi cao trên 100m chiếm 2/3 diện tích đất đai toàn tỉnh. Vùng có độ cao dưới 100m chiếm 2/3 diện tích toàn tỉnh. Đất nông nghiệp chiếm 221,6% tổng diện tích, đất đồi rừng chiếm chiếm 47,1%. Với điều kiện tự nhiên đó, ta thấy Thái Nguyên có nhiều tiềm năng cho phát triển du lịch thám hiểm, du lịch sinh thái (vì khách du lịch thường ưa thích những nơi có phong cảnh đẹp và đa dạng, những vùng có nhiều đồi núi và thường tránh những nơi bằng phẳng mà họ cho là tẻ nhạt không thích hợp với du lịch). Thái Nguyên có nhiều sông, suối phân bố tương đối đều trên địa bàn tỉnh, trong đó lớn nhất là sông Cầu và sông Công. Sông Cầu bắt nguồn từ huyện Chợ Đồn (Bắc Kạn) chảy xuống địa bàn Thái Nguyên suốt từ Bắc tới Nam qua các huyện Phú Lương, Võ Nhai, Đồng Hỷ, Thành phố Thái Nguyên, Phú Bình và Phổ Yên. Sông Công bắt nguồn từ xã Điềm Mặc (Định Hoá) chảy theo hướng bắc - nam qua Đại Từ, một phần thành phố Thái Nguyên xuống huyện Phổ Yên, hợp lưu với sông Cầu ở xã Thuận Thành (Phổ Yên). Thái Nguyên không có hồ tự nhiên nhưng lại có nhiều hồ nhân tạo, trong đó quan trọng nhất là Hồ Núi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 Cốc, được xây dựng năm 1973 với diện tích 25km2, dung tích khoảng 2.000m2 nước, đủ cung cấp cho 12.000 ha ruộng đất của Phú Bình, Phổ Yên. Ngày nay hồ Núi Cốc không chỉ có giá trị phục vụ sản xuất nông nghiệp, mà còn là khu vực đầy tiềm năng cho phát triển du lịch sinh thái, du lịch tham quan nghỉ dưỡng cuối tuần. Ngoài ra, Thái Nguyên còn có hàng trăm con sông, suối nhỏ khác phân bố trên khắp địa bàn tỉnh. Hệ thống sông ngòi ở Thái Nguyên có tác dụng giao thông không lớn, nhưng lại là nguồn cung cấp nước quan trọng cho sinh hoạt và kinh tế của nhân dân trong tỉnh, đồng thời còn tạo ra những cảnh quan thiên nhiên kì thú, là những danh thắng đẹp, nơi dừng chân của du khách trong và ngoài nước như suối Mỏ Gà, thác Mưa Rơi (Võ Nhai), Thác Khuôn Tát (Định Hoá)… Theo sách Đại nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn “Ở Thái Nguyên vào cuối mùa xuân mới hơi nóng, đến mùa hè nóng lắm, đầu thu lạnh dần, đến mùa đông thì rét lắm.Vì địa thế núi cao nên rét nhiều, nóng ít” [41, tr.162,163]. Với khí hậu tương đối mát mẻ, Thái Nguyên có điều kiện phát triển du lịch quanh năm, như: Du lịch lễ hội vào mùa xuân, du lịch thám hiểm vào mùa đông, du lịch tham quan nghỉ dưỡng vào mùa hè… Đất Thái Nguyên chủ yếu là đất Feralit đỏ vàng, ngoài ra còn có đất đá vôi được hình thành chủ yếu ở các huyện Võ Nhai, Đồng Hỷ, đất đầm lầy trong các thung lũng và đất ruộng lúa… Do đó Thái Nguyên có tiềm năng phát triển nền kinh tế nông, lâm nghiệp đa dạng. Trong lòng đất có nhiều khoáng sản quý như: “Vàng ở huyện Võ Nhai có mỏ Kim Hỷ, mỏ Thuần Mang, mỏ Bảo Nang. Sắt có ở các huyện Phổ Yên, Đồng Hỷ, Phú Lương … Huyện Định Hoá có bạc, đồng, chì, vàng…” [41] Trong lịch sử, ở Thái Nguyên, các tộc “Người Kinh, người Thổ ở lẫn nhau, tiếng nói líu lo; mặc áo mầu xanh thẫm; chỗ thì làm nhà sàn dựa vào núi, gặp ngày sinh thì ăn uống linh đình; giá thú thì nặng về của cải” [41, tr. 163,164] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 (Bảng 1.1). Bảng 1.1. Bảng thống kê các dân tộc sinh sống trên địa bàn Thái Nguyên (Theo kết quả điều tra dân số năm 1979) Số TT Dân tộc Số dân Tỷ lệ (%) 1. Kinh 789.903 75,23 2. Tày 106.238 10,15 3. Nùng 54.628 5,22 4. Sán Dìu 37.365 3,57 5. Sán Chay 29.229 2,79 6. Dao 21.818 2,08 7. Hmông 4.831 0,46 8. Hoa 2.573 0,24 9. Mường 969 0,09 10. Thái 465 0,04 11. Ngái 422 0,04 [Nguồn: 59, tr.470] Thái Nguyên là mảnh đất hội tụ nét văn hoá đa dạng, nhiều màu sắc, tạo nên bản sắc văn hoá riêng, ấn tượng và đẹp đẽ. Vì thế, giáo sư Trần Quốc Vượng đã khẳng định “Hội tụ và tiếp xúc” [17, tr.597] là đặc điểm của văn hoá Thái Nguyên. Thái Nguyên là ngôi nhà chung sống của các dân tộc anh em: Kinh, Tày, Nùng, Dao, H’Mông… (bảng 1.1) Mỗi thành phần dân tộc có phong tục, tập quán, có trình độ sản xuất, tiếng nói riêng, nhưng do cùng sống trên một địa bàn nên các dân tộc ở Thái Nguyên có những nét tương đồng về văn hoá. Đó chính là “Văn hoá hội tụ” của Thái Nguyên. Bên cạnh đó, người dân bản địa ở Thái Nguyên không nhiều như ở các tỉnh khác, song qua các thời kì lịch sử, thành phần dân tộc và dân số Thái Nguyên đã gia tăng, chỉ tính riêng trong thời kì kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954, với vị trí là căn cứ địa, là thủ đô kháng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 chiến của cả nước, Thái Nguyên đã đón tiếp trên 21.000 đồng bào các tỉnh bạn đến tản cư [10, tr.18]. Ngày nay Thái Nguyên đã có điều kiện để phát triển về kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế… Trong suốt quá trình bảo vệ và xây dựng đất nước, Thái Nguyên là địa điểm gặp gỡ, hội tụ của những nền văn hoá khác nhau. Tất cả đã làm nên sức mạnh của văn hoá “Tiếp xúc” của Thái Nguyên. Ở Thái Nguyên, dân tộc Kinh (hay còn gọi dân tộc Việt) chiếm 75,23% dân số. Đây là dân tộc mang nguồn gốc bản địa, chiếm số lượng đông nhất. Dân tộc Kinh gồm nhiều bộ phận hợp thành: Dân bản địa, dân được tuyển mộ vào làm công trong các mỏ đồn điền, người di cư từ các vùng đồng bằng lên. Địa bàn cư trú của người Kinh rộng khắp toàn tỉnh nhưng tập trung đông nhất ở thành phố và các vùng giao thông tương đối thuận tiện (Bảng 1.1, 1.2) Bảng 1.2.Tỷ trọng kết cấu các dân tộc theo đơn vị hành chính trong tỉnh Đơn vị tính: % Dân tộc TP. Thái Nguyên TX. Sông Công Định Hoá Phú Lương Võ Nhai Đại Từ Đồng Hỷ Phú Bình Phổ Yên Kinh Tày Nùng Dao Sán Dìu Các dân tộc khác 90,07 4,49 2,18 0,15 1,52 0,65 98,52 4,49 0,88 0,21 0,10 0,10 37,92 46,63 3,02 1,97 0,02 10,42 54,17 25,06 4,07 4,03 3,28 8,96 78,37 7,80 6,61 2,14 1,29 3,75 39,14 22,23 19,80 12,30 0,01 6,49 63,74 2,53 13,15 4,34 12,77 3,44 93,99 1,18 2,97 0,01 1,51 0,31 93,02 0,54 0,32 0,23 0,54 5,32 [Nguồn: 59, tr.107 ] Người Kinh có kinh nghiệm sản xuất và tiếp thu nhanh các tiến bộ khoa học kĩ thuật. Tổ chức xã hội của người Kinh cũng rất chặt chẽ, từ thành thị đến nông thôn, mang nét đặc thù tiêu biểu của cơ cấu xã hội Việt Nam. Xuất phát từ đặc điểm cư trú, người Kinh có truyền thống trồng lúa nước, làm nông nghiệp và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 các nghề thủ công. Cộng đồng người Kinh ở Thái Nguyên được hình thành từ sớm, ổn định qua nhiều thế kỷ đã giúp người Kinh ở các vùng quê vẫn giữ được sắc thái văn hoá của người Kinh miền xuôi, ví dụ như cưới xin vẫn tuân thủ theo trình tự: Dạm ngõ, ăn hỏi, cưới… Dân tộc Tày chiếm 10,15% dân số (Bảng 1.1). Người Tày tiếp thu yếu tố ngôn ngữ, văn hoá của các dân tộc khác để phát triển ngôn ngữ của mình ngày càng phong phú. Đặc biệt người Tày có quan hệ gần gũi với người Nùng, Cao Lan, Sán Chí, bởi vì họ có sự tương đồng về ngôn ngữ, văn hoá. Địa bàn cư trú của người Tày rộng khắp trong toàn tỉnh, song chủ yếu ở các huyện miền núi, vùng cao như: Định Hoá, Phú Lương, Đại Từ, Võ Nhai (Bảng 1.2). Ngoài việc trồng lúa, người Tày còn trồng rất nhiều ngô, khoai, sắn để nâng cao đời sống. Người Tày còn có các nghề thủ công truyền thống như đan lát, dệt vải. Vào mùa xuân từ mùng 1 tháng giêng trở đi, người Tày ở Thái Nguyên thường tổ chức lễ hội Lồng Tồng (lễ hội xuống đồng), với mục đích cầu cho mùa màng tốt tươi, trời đất yên hoà, người an vật thịnh. Trong lễ hội thường có các trò chơi dân gian như ném còn, đánh du, đánh quay... Cũng trong lễ hội Lồng Tồng hoặc trong các chợ phiên, thanh niên nam nữ thường biểu lộ tình cảm của mình qua những điệu hát Lượn, Phong slư. Bên cạnh đó người Tày ở Thái Nguyên còn có những điệu hát then, thơ lẩu, các điệu vũ, điệu múa võ thuật chủ yếu diễn ra trong sinh hoạt tín ngưỡng hoặc hội hè, đình đám… Dân tộc Nùng ở Thái Nguyên chiếm 5,22% dân số toàn tỉnh (Bảng 1.2), người Nùng có nhiều chi tộc: Nùng Phàn Sình, Nùng Cháo, Nùng Inh. Phạm vi cư trú của người Nùng gần như người Tày, ở tất cả các huyện, thị trong tỉnh, nhưng nhiều nhất là ở Đồng Hỷ, Võ Nhai, Đại Từ. Người Nùng sống chủ yếu bằng trồng trọt và chăn nuôi. Người Nùng ở Thái Nguyên cũng có lễ cấp sắc, nhưng không bắt buộc. Lễ cấp sắc của người Nùng ở xã Động Đạt - Phú Lương có hai bậc là tiểu tao và đại tao. Tiểu tao làm một đêm, lễ vật gồm có: Một thủ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 lợn, một đến hai chai rượu, khách mời là anh em trong họ, người được cấp sắc phải ngồi trong màn đọc sách trong 49 ngày, kiêng không đến chỗ bẩn thỉu. Lễ đại tao làm trong một ngày, một đêm, lễ vật gồm có: Một con lợn, mười con gà, mười chai rượu, ba thầy cúng, người được cấp sắc mặc áo cà sa mới. Về mặt xã hội, những người đã qua lễ cấp sắc được tôn trọng hơn. Ngoài ra việc cấp sắc còn mang ý nghĩa làm “Danh giá cửa nhà”… Dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên chiếm 2,79% dân số toàn tỉnh, chủ yếu sống ở Đồng Hỷ, Phổ Yên, Phú Lương (Bảng 1.1, 1.2). Cũng giống như các dân tộc Tày, Nùng, Dao… sinh sống trên đất Thái Nguyên, người Sán Dìu đã biết dựa vào thiên nhiên, khai thác tự nhiên để duy trì cuộc sống của mình. Nguồn sống chính của đại đa số các gia đình người Sán Dìu ở Thái Nguyên là trồng các loại cây lương thực, chủ yếu là lúa. Ngoài ra chăn nuôi, thủ công nghiệp của người Sán Dìu cũng khá phát triển. Người Sán Dìu thường chỉ làm lễ cấp sắc cho người đã có vợ (có nơi còn cấp sắc cho cả phụ nữ là vợ thầy cúng hoặc những người không có con). Lễ cấp sắc của người Sán Dìu khác với người Nùng, có ba cấp: Cấp thứ nhất là pháp sư, người được cấp sắc có quyền hạn thấp, chỉ được cầu khấn, trả lễ thông thường, được thay tên đệm, gọi theo tên mới. Sau đó muốn được cấp sắc ở cấp cao hơn, thì phải lấy điệp tử do Phan chủ thay mặt Thiên Đình cấp cho các đệ tử qua lễ Đại phàn. Cấp thứ hai là Chức sư, được cấp ấn chức sư và được khắc họ tên của thầy vào ấn. Cấp thứ ba là Thứ gia tổng xuyến, chức này phải có thời gian hành pháp lâu năm. Một trong những địa phương còn giữ gìn gần như nguyên vẹn lễ cấp sắc của người Sán Dìu là làng Thông Nhãn, xã Linh Sơn, huyện Đồng Hỷ. Ngoài ra, người Sán Dìu còn giữ được nhiều phong tục, tập quán cổ truyền như: Lễ cưới hỏi diễn ra theo trình tự: Xin lá số, lễ xem mặt, lễ ăn hỏi, lễ sang bạc, lễ chọn ngày cưới, lễ báo ngày cưới… Tang ma theo các nghi lễ: Lễ tắm rửa cho người chết, lễ khâm liệm, lễ nhập quan, lễ mở đường cho người chết, lễ trao nhà táng… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 Dân tộc Sán Chay chiếm 2,79% dân số trong toàn tỉnh, chủ yếu sống ở các huyện Phú Lương, Định Hoá, Đại Từ (Bảng 1.1, 1.2). Trong số các loại cây lương thực người Sán Chay canh tác thì lúa, ngô, sắn là những loại cây chủ đạo. Những gia đình tương đối khá giả có thể trồng bông, dệt vải. Tập quán cưới xin của người Sán Chay đơn giản hơn người Sán Dìu, chỉ gồm lễ dạm hỏi, lễ cưới và đón dâu, trong lễ cưới cũng có hát sình ca hoặc sọng cô ( là kiểu hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái). Các trò chơi dân gian giải trí của người Sán Chay là đánh cầu, đánh quay, trồng chuối, vặn rau cải… Một số nơi còn tổ chức hội Óc pò (ra/chơi núi). Người Dao ở Thái Nguyên chiếm 2,08% dân số toàn tỉnh, thuộc 3 nhóm: Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt, Dao Lô Gang, sống chủ yếu ở các huyện: Đại Từ, Võ Nhai, Định Hoá, Phổ yên (Bảng 1.1, 1.2). Dân tộc Dao có truyền thống du canh, du cư, sống bằng canh tác nương rẫy, ngoài ra họ còn chăn nuôi, làm các nghề thủ công như đan lát, dệt, làm giấy, làm đồ trang sức… Lễ cấp sắc của người Dao rất phong phú, liên quan đến nhiều lĩnh vực văn hoá như: Thế giới tâm ._.linh, văn học nghệ thuật, tập quán sinh hoạt và giáo dục… Nếu tiếp tục duy trì theo tập quán cổ truyền sẽ góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn và phát huy các đặc trưng văn hoá truyền thống của tộc người Dao ở Thái Nguyên. Dân tộc Hmông chiếm 0, 46% dân số toàn tỉnh, sống rải rác ở các huyện, thị trong toàn tỉnh, nhưng nhiều nhất là ở các huyện: Võ Nhai, Đồng Hỷ, Phú Lương (Bảng 1.1, 1.2). Cây lương thực chính của người Hmông là ngô, khoai, sắn. Người Hmông có rất nhiều làn điệu dân ca, trong đó nổi tiếng là các làn điệu mộ nha (đi làm dâu), cú nhe ca (yêu nhau), mọ ha rưng (đi rừng)… Đi liền với các làn điệu dân ca là các loại nhạc cụ khèn, kèn, sáo. Những điệu múa khèn, thổi khèn lá của người đàn ông Hmông không chỉ làm say mê các dân tộc trong nước mà còn cuốn hút cả du khách nước ngoài. Người Hmông có nhiều trò chơi dân gian như pá mò ma (tung còn), tàu xí (đánh khăng), xi pá rối (đánh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 ngón tay)… Dân tộc Hoa chiếm 0,24% dân số toàn tỉnh, cư trú phân tán trong một số huyện, thị như: Định Hoá, Đồng Hỷ, Phú Bình (Bảng 1.1, 1.2). Họ sống bằng nhiều ngành nghề khác nhau, như nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, thủ công nghiệp… Trong những ngày lễ tết, ngày hội… người Hoa thường hát sơn ca, múa sư tử, múa quyền thuật, đấu vật, đánh đu… Ngoài ra ở Thái Nguyên còn có các dân tộc Mường, Thái, Ngái… chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số dân (Bảng 1.1, 1.2). Như vậy, Thái Nguyên là địa bàn sinh sống của nhiều dân tộc, mỗi dân tộc đều có những sắc thái văn hoá riêng, giống như những gam màu tạo nên một bức tranh văn hoá hết sức đặc sắc, riêng biệt mà không nơi nào có được. Sự giao lưu văn hoá là một hiện tượng mang tính phổ biến và quen thuộc ở các quốc gia đa dân tộc. Song ở Thái Nguyên, sự giao lưu đó không diễn ra lẻ tẻ, rời rạc mà là một sự tiếp thu, bồi đắp của cả quá trình lâu dài, mang tính hệ thống, tạo nên những chuyển biến cơ bản trong việc hình thành và phát triển một truyền thống văn hoá phong phú và đặc sắc, thể hiện qua các lễ hội truyền thống như: Hội đền Đuổm - Phú Lương, hội chùa Hang - Đồng Hỷ, hội Lồng Tồng - Định Hoá… cùng với nếp văn hoá nhà sàn và cách sống quần cư theo làng bản. 1.2. ĐỊA DANH THÁI NGUYÊN QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ Theo sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, đời các Vua Hùng, nước Văn Lang chia làm 15 bộ. “Thái Nguyên thuộc đất bộ Vũ Định, Đông và Bắc giáp Cao, Lạng; Tây và Nam giáp Kinh - Bắc; có 2 lộ phủ, 9 huyện, 2 châu và 336 làng xã. Đây là nơi phên giậu thứ 2 về phương Bắc”[63, tr.238]. Thái Nguyên lúc đó nằm dưới sự cai quan của chế độ lạc tướng. Khoảng đầu công nguyên, chế độ lạc tướng chấm dứt, bộ chuyển thành huyện, Vũ Định vẫn giữ tên cũ. Dưới thời đô hộ của nhà Triệu (phong kiến phương Bắc), Thái Nguyên nằm trong quận Giao Chỉ. Đời nhà Hán, Thái Nguyên nằm trong huyện Long Biên thuộc quận Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 Giao Chỉ. Đến đời Đường, Thái Nguyên là đất châu Long và châu Vũ Nga, thuộc An Nam Đô hộ phủ. Dưới thời Đinh, Tiền Lê (thế kỷ X), nước ta chia làm 10 đạo. Khi Lý Thái Tổ lên ngôi, rời kinh đô từ Hoa Lư ra Thăng Long đã đổi 10 đạo thành 24 lộ, các vùng xa xôi hẻo lánh như Thái Nguyên nằm trong các châu biên viễn. Đầu năm 1226, nhà Trần đổi châu thành lộ, vùng đất Thái Nguyên thuộc Như Nguyệt Giang lộ. Năm 1397, nhà Trần đổi châu Thái Nguyên thành trấn Thái Nguyên, “Đại thể trấn Thái Nguyên tương đương với tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn và nửa tỉnh Cao Bằng ngày nay” [2, tr.119]. Thời thuộc Minh (1407-1427), vào năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407) trấn Thái Nguyên được đổi thành phủ Thái Nguyên; năm 1426, phủ Thái Nguyên đổi thành Thái Nguyên Thừa chính ty. Năm 1428, Lê Thái Tổ chia đất nước thành 5 đạo: Tây Đạo, Đông Đạo, Bắc Đạo, Nam Đạo và Hải Tây Đạo. Thái Nguyên thuộc Bắc Đạo. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), Lê Thánh Tông định lại bản đồ cả nước, từ 5 đạo được chia nhỏ thành 12 đạo Thừa Tuyên. Thái Nguyên là một trong 12 đạo Thừa Tuyên đó và được gọi là Thái Nguyên Thừa Tuyên. Năm Quang Thuận thứ 10 (1469) nhà Lê đổi Thái Nguyên Thừa Tuyên thành Ninh Sóc Thừa Tuyên. Đến đời Hồng Đức (1483), Ninh Sóc Thừa Tuyên được đổi thành xứ Thái Nguyên; năm 1533, xứ Thái Nguyên được đổi thành trấn Thái Nguyên. Từ thời Lê Trung Hưng (1533-1789), đến hết thời Nguyễn Gia Long, Thái Nguyên vẫn gọi là trấn. Dưới thời Gia Long, Thái Nguyên thuộc tổng trấn Bắc Thành. Năm 1831, 1832, Minh Mệnh chia cả nước thành 30 tỉnh và một phủ Thừa Thiên, trấn Thái Nguyên được đổi thành tỉnh Thái Nguyên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 Dưới thời Pháp thuộc từ tháng 10-1890 đến tháng 9-1892, tỉnh Thái Nguyên bị xóa bỏ, phân tán vào các địa bàn khác nhau đặt dưới quyền quản lí của chính quyền quân sự Pháp. Ngày 11-4-1900, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Bắc Kạn trên cơ sở toàn bộ phủ Thông Hoá của Thái Nguyên. Ngày 21/4/1965, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà quyết định hợp nhất tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái. Ngày 29/12/1978, Quốc hội khoá VI quyết định tách 2 huyện Ngân Sơn và Chợ Rã khỏi Bắc Thái chuyển về tỉnh Cao Bằng. Tháng 4/1985 thị xã Sông Công được thành lập trên cơ sở một số xã phía Bắc của huyện Phổ Yên và một xã phía Nam của huyện Đồng Hỷ theo quyết định số 113/QĐ-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Ngày 1/1/1997, tỉnh Bắc Thái tách thành 2 tỉnh: Thái Nguyên và Bắc Kạn. Tỉnh Thái Nguyên ngày nay có một thành phố, một thị xã và 7 huyện: Thành phố Thái Nguyên, thị Sông Công, các huyện Phú Bình, Phổ Yên,Võ Nhai, Đại Từ, Phú Lương, Đồng Hỷ, Định Hoá. Dân số trên 1,1 triệu người với 9 dân tộc anh em cùng chung sống [59, tr.11]. 1.3. TRUYỀN THỐNG CHỐNG NGOẠI XÂM Là trung tâm của vùng chiến lược phía Bắc sông Hồng, với địa hình sông núi hiểm trở nên trong lịch sử, các dân tộc Thái Nguyên phải thường xuyên đối mặt với các thế lực ngoại bang và cả các tầng lớp phản nghịch trong nước. Từ xa xưa, Thái Nguyên đã từng được coi là “phên giậu” phía Bắc của kinh thành Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, là điểm xuất phát triển khai chống giặc ngoại xâm ở miền biên giới, vì vậy nhân dân các dân tộc Thái Nguyên sớm có bản lĩnh kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm và chống bất công xã hội. Ngay từ trước công nguyên, người dân Thái Nguyên đã tham gia vào cuộc kháng chiến đầu tiên của dân tộc chống quân Tần xâm lược, bản sắc phong ở Đền Giá (Phổ Yên) có ghi: “Một người dân làng Giá có công đánh giặc Ân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 được phong là Mạnh Điền Đại Vương” [59, tr.15]. Trong hơn 1000 năm Bắc thuộc, nhiều cuộc khởi nghĩa với những quy mô lớn nhỏ, trên những địa bàn khác nhau luôn luôn bùng nổ nhằm chống lại ách đô hộ của kẻ thù. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, khởi nghĩa Bà Triệu, khởi nghĩa Phùng Hưng…[59, tr.136]. Trong cuộc kháng chiến chống Tống lần I (981), nhân dân Thái Nguyên lại sát cánh cùng với nhân dân cả nước, dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn đánh tan quân xâm lược Tống. Trong cuộc kháng chiến chống Tống lần II (1076-1077), phần đất phía Nam của Thái Nguyên từng là nơi diễn ra những trận đánh ác liệt giữa quân nhà Lý với giặc Tống. Biết bao người con ưu tú của Thái Nguyên đã đổ xương máu, hi sinh cả tuổi thanh xuân để giữ gìn độc lập cho dân tộc. Tiêu biểu là Dương Tự Minh, người trực tiếp tham gia chiến đấu góp phần đánh tan quân xâm lược Tống trên phòng tuyến sông Cầu. Đến thế kỉ XIII, nhân dân Thái Nguyên góp phần cùng với triều Trần, 3 lần kháng chiến chống Mông - Nguyên thắng lợi. Khi nhà Minh xâm lược và nô dịch nước ta, phong trào giải phóng dân tộc ở Thái Nguyên cũng bùng lên mạnh mẽ. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa của Trần Nguyên Khoáng, Nguyễn Đa Bí diễn ra vào năm 1408, tiếp theo là những cuộc nổi dậy của Chu Sư Nhan, Bùi Quý Thăng, Nguyễn Khắc Chẩn, Nguyễn Trừ, ông Lão … Đến năm 1410 hình thành phong trào “Áo đỏ” ( hay còn gọi là nghĩa binh hồng y). Nghĩa quân lợi dụng địa hình hiểm trở của núi rừng chặn đánh địch rất hiệu quả. Từ Thái Nguyên phong trào lan rộng ra khắp vùng Việt Bắc, Tây Bắc và cả miền rừng núi Thanh Hoá - Nghệ An - Hà Tĩnh: “Nghĩa quân chiến đấu rất anh dũng phát triển phong trào ra khắp vùng Việt Bắc và còn lan rộng sang Tây Bắc và đến núi Thanh Nghệ, suốt 17 năm ròng rã gây cho giặc nhiều tổn thất nặng nề” [38, tr.239]. Ngày 7/2/1418, Lê Lợi cùng nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa tại Lam Sơn - Thọ Xuân - Thanh Hoá đã thu hút nhiều hào kiệt quy tụ, trong đó có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 Lưu Nhân Chú (con trai Lưu Trung - một gia đình nhiều đời làm quan nhỏ ở vùng An Thuật - Huyện Đại Từ - Thái Nguyên). Năm 1884, sau khi về cơ bản đánh chiếm xong các tỉnh Nam Kì và đồng bằng Bắc Kì, thực dân Pháp mở rộng đánh chiếm các tỉnh thượng du Bắc Kì, trong đó có Thái Nguyên, nhưng ở đây quân Pháp đã vấp phải sự kháng cự mãnh liệt của nhân dân Thái Nguyên, phải đến những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XIX, thực dân Pháp mới hoàn thành việc đánh chiếm tỉnh Thái Nguyên. Nhưng chưa kịp thiết lập và cải cách bộ máy thống trị đến các làng, các tổng, thì phong trào đấu tranh của nhân dân Thái Nguyên lại một lần nữa diễn ra mạnh mẽ, chống lại chính sách cai trị của thực dân Pháp. Tiêu biểu là phong trào chống Pháp do Mã Sinh Long (Mã Mang) lãnh đạo. Cùng thời gian đó, nghĩa quân Yên Thế từ Bắc Giang tràn sang Thái Nguyên, nhân dân Phú Bình, Phổ Yên, Đại Từ, Võ Nhai… đã hăng hái tiếp tế lương thực, thực phẩm và dẫn đường cho nghĩa quân, nhiều người tình nguyện đứng vào hàng ngũ nghĩa quân đánh Pháp. Cuối 1892, binh lính người Việt trong Quân đội Pháp đóng ở đồn Hùng Sơn (Đại Từ) dưới sự chỉ huy của Cai Bát đã nổi dậy làm binh biến, được nhân dân các vùng hưởng ứng mạnh mẽ. Đặc biệt, một sự kiện vang dội cả nước, làm chấn động nước Pháp, ảnh hưởng tới tận các xứ thuộc địa khác trên thế giới đã nổ ra vào đêm 30 rạng 31/8/1917 tại thị xã Thái Nguyên, đó là khởi nghĩa Thái Nguyên do Đội Cấn và Lương Ngọc Quyến lãnh đạo. Nghĩa quân gồm binh lính yêu nước, tù chính trị và các tầng lớp nhân dân khác đã giết giám binh, chiếm toà công sứ, trại lính khố xanh, phá nhà lao, làm chủ tỉnh thành Thái Nguyên. Lần đầu tiên trong lịch sử cận đại Việt Nam, một cuộc khởi nghĩa chống Pháp đã làm chủ được tỉnh lỵ (mặc dù chỉ trong một thời gian ngắn), đặt quốc hiệu là Đại Hùng, thành lập quân đội riêng là Quang phục quân, định ra tôn chỉ: Đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập dân tộc. Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên tuy cuối cùng thất bại, nhưng ảnh hưởng của nó, tên tuổi của Đội Cấn, Lương Ngọc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 Quyến đã thực sự là những dấu son chói lọi trong trang sử hào hùng của vùng đất Thái Nguyên nói riêng và của cả nước nói chung. Từ 1939 đến trước cách mạng Tháng 8 năm 1945, đồng chí Trường Chinh, đồng chí Hoàng Quốc Việt, Lê Thanh Nghị, và nhiều đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng, Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kì thường xuyên qua lại, hoạt động, phát triển lực lượng cách mạng ở Thái Nguyên. Vùng Tiên Phong (Phổ Yên), Kha Sơn (Phú Bình) được Trung ương chọn và xây dựng thành An toàn khu II (ATK II). Tháng 9/1941, lực lượng tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam - đội Cứu Quốc Quân II ra đời tại rừng Khuôn Mánh (Tràng Xá, Võ Nhai). Năm 1944, chiến khu Nguyễn Huệ được hình thành ở Yên Lãng - Đại Từ, nhằm xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, chuẩn bị cho cách mạng Tháng 8 năm 1945. Ngày 15/5/1945 tại Định Biên Thượng - Định Hoá, đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân. Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, cả dân tộc chưa kịp hưởng niềm vui độc lập đã phải bước vào một cuộc chiến đấu mới, chống lại sự tái chiếm của thực dân Pháp để bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ thành quả cách mạng tháng Tám… Do có vị trí chiến lược quan trọng “Tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ”, lại nằm sát với Tân Trào - Tuyên Quang - thủ đô của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, Thái Nguyên có đủ điều kiện “Thiên thời, địa lợi, nhân hoà”, (đồng bào các dân tộc Thái Nguyên có truyền thống yêu nước, một lòng, một dạ đi theo Đảng, theo cách mạng, hết lòng che chở, đùm bọc cán bộ…) nên Định Hoá - Thái Nguyên được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng chọn làm An Toàn Khu Trung ương (ATK). ATK Định Hoá - Thái Nguyên trở thành nơi chỉ đạo và chỉ huy kháng chiến chống Pháp của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tư lệnh và các cơ quan, các Tổng cục. Các quyết sách lớn của Đảng, Chính phủ phần lớn đều ra đời từ đây. Ví dụ: Hạ quyết tâm tiêu diệt địch tiến công lên Việt Bắc, quyết định Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 mở các chiến dịch nhỏ ở Đông Bắc và Tây Bắc, hạ quyết tâm mở chiến dịch giải phóng đường Biên giới, quyết định mở các chiến dịch: Trung Du, Đường số 18, Hà Nam Ninh, Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954… Các sắc lệnh, quyết định, thông tư như: Phong quân hàm cho một loạt tướng lĩnh trong Quân đội Quốc gia và dân quân Việt Nam, thành lập Đảng uỷ Mặt trận và Bộ chỉ huy chiến dịch Biên giới… đều ra đời trong thời gian các cơ quan lãnh đạo cao nhất của ta có mặt tại Định Hoá … Cũng từ ATK Định Hoá, Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh thường xuyên nhận được tin tức về tình hình kháng chiến, kiến quốc ở các địa phương để từ đó có những chủ trương, biện pháp chỉ đạo kịp thời. ATK Định Hoá cũng là một trong những nơi nhân dân được hưởng chế độ dân chủ mới đầu tiên trong cả nước, được chia ruộng đất, được giảm tô, giảm tức, văn hoá, giáo dục, y tế được quan tâm … Các hoạt động ngoại giao của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà non trẻ cũng diễn ra chủ yếu trên đất Thái Nguyên. Bác gặp Paul-Mus, đại diện Cao uỷ Pháp ở thị xã Thái Nguyên. Đoàn đại biểu của Đảng cộng sản Pháp do Léo Figuères dẫn đầu, các đoàn cố vấn Trung Quốc, đoàn điện ảnh Liên Xô (cũ) và nhà đạo diễn nổi tiếng Karmen, nhiều nhà ngoại giao, nhà báo quốc tế… được Bác Hồ tiếp tại Định Hoá. Các đồng chí lãnh đạo Đảng các nước bạn như chủ tịch Xuphanuvông, đồng chí Cay Xỏn - Tổng Bí thư Đảng nhân dân cách mạng Lào, đồng chí Sơn Ngọc Minh - Tổng Bí thư Đảng nhân dân cách mạng Cam-pu-chia… trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp đã ở và làm việc nhiều ngày trên đất Đại Từ - Thái Nguyên. Có thể nói, phần lớn các cuộc họp của ban Thường vụ Trung ương Đảng để quyết định những vấn đề hệ trọng, có lên quan đến vận mệnh quốc gia, có liên quan đến các vấn đề về quốc kế dân sinh nói chung, đều diễn ra trên đất Định Hoá - Thái Nguyên. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, Thái Nguyên đã đáp ứng trọn vẹn yêu cầu của Đảng, bảo vệ an toàn tới mức tuyệt đối các cơ quan lãnh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 đạo của Đảng, Nhà nước trong kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954. Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hoà bình được lập lại trên một nửa đất nước, Thái Nguyên lại đi tiên phong trên mặt trận chống phong kiến, hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, tạo ra những nhân tố cơ bản về giá trị tinh thần và lực lượng vật chất. Đồng thời, Thái Nguyên cùng với cả miền Bắc, có nhiệm vụ của một hậu phương lớn, chi viện cho cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam để thống nhất đất nước. Từ năm 1954 trở đi, thị xã Thái Nguyên không chỉ là nơi trao đổi hàng hoá của nhân dân trong tỉnh, mà còn là nơi cung cấp nhiều nguồn hàng cho các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, đồng thời cũng là nơi trung chuyển hàng hoá giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm… Do đó, sản xuất công, thương nghiệp của Thái Nguyên đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế, tài chính của chiến khu Việt Bắc. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Thái Nguyên là thành phố công nghiệp luyện kim và cơ sở sản xuất cơ khí lớn nhất miền Bắc, nằm sâu trong nội địa, là hậu phương của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Khi cảng biển Hải Phòng bị đế quốc Mỹ phong toả, Thái Nguyên trở thành cảng nổi của miền Bắc, tiếp nhận hàng viện trợ (lương thực, nhiên liệu, vũ khí, đạn dược…) của bạn bè quốc tế cho nhân dân ta đánh Mỹ. Do có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về quân sự, nên mỗi khi kẻ thù xâm lược nước ta, chúng đều có âm mưu chiếm giữ hoặc đánh phá ác liệt vị trí then chốt này bằng cả thủ đoạn quân sự tàn bạo cùng những âm mưu thâm độc về chính trị, kinh tế. Trong hai lần chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, nhân dân Thái Nguyên vừa phải đẩy mạnh sản xuất, tiếp tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của tỉnh nhà, vừa phải chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, lại vừa phải tăng cường sự chi viện cho chiến trường miền Nam. Với những nhiệm vụ nặng nề như vậy, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 nhân dân các dân tộc Thái Nguyên phát huy truyền thống của quê hương căn cứ địa cách mạng, thủ đô kháng chiến đã hoàn thành xuất sắc cả 3 nhiệm vụ to lớn ấy, góp phần cùng nhân dân cả nước làm nên Đại thắng Mùa xuân 1975. Từ sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước đến nay, Thái Nguyên vẫn được coi là khu vực có vị trí chiến lược về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá của vùng Việt Bắc cũng như của cả nước. Thái Nguyên vẫn là địa bàn xung yếu của khu vực Bắc Bộ, là cửa ngõ phía Bắc của thủ đô Hà Nội, có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước. Tiểu kết chƣơng 1 Từ những nét khái quát về vị trí địa lý, tình hình dân cư và truyền thống chống ngoại xâm của Thái Nguyên, ta thấy: Đây là vùng đất tương đối thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội, vì vậy Thái Nguyên là địa bàn sinh sống của nhiều dân tộc anh em, tạo nên một bức tranh văn hoá độc đáo. Đồng thời, với địa thế “Tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ”, từng là “phên giậu” che chở cho kinh thành Thăng Long xưa, là cửa ngõ của vùng đại ngàn Việt Bắc, hàng nghìn năm qua, Thái Nguyên đã trở thành căn cứ địa vững chắc trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc. Với một bề dày lịch sử, văn hoá, danh thắng và tiềm năng kinh tế, tri thức lớn, Thái Nguyên trở thành một vùng đất nhiều tiềm năng cho du lịch văn hoá, du lịch lịch sử, du lịch sinh thái, du lịch lễ hội - tâm linh và du lịch tham quan, nghỉ dưỡng cuối tuần… Những tiềm năng đó đan xen, hoà quyện vào nhau nếu được khai thác tốt sẽ hình thành những tour, tuyến du lịch hấp dẫn đối với du khách, đem lại một nguồn lợi nhuận không nhỏ cho nền kinh tế địa phương. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 CHƢƠNG 2. TIỀM NĂNG DU LỊCH THÁI NGUYÊN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LỊCH SỬ, VĂN HOÁ Với địa thế “giao lưu và hội tụ”, Thái Nguyên nằm ở trung tâm vùng Việt Bắc, có vị trí thuận lợi gần như là đầu mối trung tâm toả đi các tỉnh Việt Bắc chiến khu xưa. Từng là thủ phủ của Khu Tự trị phía Bắc, nơi ra đời của khu công nghiệp gang thép đầu tiên của Tổ quốc, đồng thời, là nơi quy tụ của 6 trường đại học là thành viên của Đại học Thái Nguyên, nơi tồn tại của gần 20 trường Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, và Dạy nghề. Tỉnh Thái Nguyên đã trở thành trung tâm giáo dục, nơi đào tạo nguồn cán bộ khoa học kĩ thuật cho các tỉnh trung du miền núi Việt Bắc và Tây Bắc. Thái Nguyên được mệnh danh là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, từ ngàn xưa những chứng tích về nền văn hoá cổ nhất vùng Đông Nam Á được khẳng định bởi di chỉ khảo cổ học tại Thần Sa, Võ Nhai. Thái Nguyên là quê hương của người anh hùng dân tộc Dương Tự Minh - Người có công dẹp yên bờ cõi phía Bắc trong nhiều năm. Thái Nguyên còn là nơi có di tích núi Văn, núi Võ gắn liền với danh tiếng nghĩa quân Lam Sơn - Lưu Nhân Chú, người đã góp phần không nhỏ vào chiến thắng Ải Chi Lăng. Về với Thái Nguyên cũng chính là về với cội nguồn vinh quang của ATK Trung ương, vẫn còn đây với bao địa danh nổi tiếng: Phú Đình, Điềm Mặc, Tỉn Keo, Khuôn Tát,… Nơi Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Trung ương Đảng, Chính phủ đã sống, làm việc và lãnh đạo cách mạng trong kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954. Một nền văn hoá sâu bền, đậm đà bản sắc dân tộc trải theo chiều dài lịch sử còn in hằn trong những nét chạm khắc tinh xảo ở đình Phương Độ, đình Hộ Lệnh, đình Xuân La (Phú Bình), hay những vần thơ trên đá ở Chùa Hang (Đồng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 Hỷ). Bản sắc dân tộc của các dân tộc quần cư ở Thái Nguyên cũng được phản ánh sâu đậm qua các điệu hát Sli, hát Lượn, lễ hội Lồng Tồng… Địa hình 2/3 núi non cũng tạo nét đặc sắc cho Thái Nguyên, với núi rừng hùng vĩ, nhiều hang động, thác ghềnh đẹp như tranh bên những dòng sông thơ mộng, hiền hoà cùng hàng loạt đầm hồ rộng mênh mông đã trở thành những điểm đến hấp dẫn với du khách đó là: Hang Phượng Hoàng lung linh kì vĩ, suối Mỏ Gà róc rách thuyết tình yêu, chùa Hang sừng sững muôn vàn nhũ đá kì dị, con sông Cầu như nét vẽ của thiên nhiên làm cho thành phố Thép thêm thơ mộng, Hồ Núi Cốc, Hồ Bảo Linh, Thác Mưa Rơi… tất cả đã tạo nên vẻ đẹp hài hoà giữa thiên nhiên và con người. Trên miền đất hội tụ này du khách còn được chứng kiến nhiều nét văn hoá đa dạng, phong phú: Từ kiến trúc, ẩm thực đến y phục và cả phong tục tập quán về thờ cúng, ma chay, cưới hỏi… của từng dân tộc. Những sinh hoạt văn nghệ dân gian cũng thật phong phú với hát Then bằng cây đàn tính của dân tộc Tày, Nùng, hát “Gầu phềnh” (hát giao duyên), “Gầu xống” (hát cưới xin), “Gầu tú ở” (hát cúng ma)… của người Mông. Hát “sọng cô” của người Sán Dìu, hát “sình ca” của người Sán Chay… Và những điệu vũ dân gian truyền thống, uyển chuyển, nhịp nhàng nhưng khoẻ khoắn và hết sức độc đáo của từng dân tộc. Có nhiều nhà nghiên cứu về du lịch đã tìm hiểu du lịch Thái Nguyên với tư cách là một trong những điểm du lịch quan trọng của tiểu vùng du lịch Đông Bắc. Những nghiên cứu đó đều thống nhất ở nhận định cho rằng: Điểm nhấn của du lịch Thái Nguyên nói chung, là sự kết hợp giữa nhiều loại hình du lịch hết sức phong phú. Đặc điểm riêng của du lịch Thái Nguyên khác đối với các điểm du lịch khác là chi phí thấp, thích hợp cho những đoàn có số lượng lớn (sinh viên, cán bộ hưu trí... ) và có nhiều hình thức để du khách lựa chọn, đó là: Du lịch văn hoá, du lịch lễ hội - tâm linh, du lịch lịch sử, du lịch tham quan nghỉ dưỡng cuối tuần… Những loại hình du lịch đó có ở khắp các huyện, thị trong toàn tỉnh: Thành phố Thái Nguyên, Đại Từ, Phú Lương, Định Hoá, Đồng Hỷ, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 Võ Nhai, Phổ Yên, Phú Bình, đưa Thái Nguyên trở thành một vùng đất đầy tiềm năng cho phát triển du lịch. 2.1. THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN Là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh, nằm trải dọc bên bờ sông Cầu. Thành phố Thái Nguyên được xác định là trung tâm du lịch của tỉnh với đầy đủ các loại hình sản phẩm du lịch. Các điểm tham quan chính sẽ là: Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam: Đây là một địa chỉ du lịch văn hoá độc đáo của Thái Nguyên. Bảo tàng toạ lạc giữa trung tâm thành phố, trên một vùng đất rộng, phía sau là một khu vườn, nhiều cây cối cổ thụ tạo phong cảnh râm mát. Trước đây, Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam là một bảo tàng tổng hợp về truyền thống văn hoá và cách mạng của Việt Bắc, sau này, khi không còn Khu Tự trị nữa, bảo tàng được chuyển đổi chức năng thành một bảo tàng dân tộc học. Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam hiện đang lưu giữ và trưng bày hơn 10.000 tài liệu, hiện vật của 54 dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Ngoài gian đại sảnh, bảo tàng có 5 phòng trưng bày chính giới thiệu văn hoá của 54 dân tộc Việt Nam chia theo 5 nhóm ngôn ngữ: Việt - Mường, Tày - Thái, Hmông - Dao, Môn - Khơ me, Hán - Hoa. Cho dù ở Hà Nội đã có bảo tàng Quốc gia về dân tộc học đang ngày càng hấp dẫn du khách, nhưng để hiểu được cái đặc sắc của nền văn hoá một quốc gia đa dân tộc thì không đâu bằng ở Thái Nguyên. Sắc thái phong phú, độc đáo của nền văn hoá các dân tộc đã tạo ra cho bảo tàng này một sự hấp dẫn hiếm có và trở thành một địa chỉ du lịch văn hoá độc đáo mà không nơi nào có được. Chính vì vậy, mỗi năm, bảo tàng đón từ 40.000 đến 50.000 lượt khách tham quan. Thăm bảo tàng, ta dễ dàng cảm nhận được những nét đại cương về tộc người, về văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần và đời sống xã hội của 54 dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, làm thoả lòng mong muốn tìm hiểu, khám phá của du khách. Ngày nay xu hướng mở cửa, hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ, làm cho Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 nền văn hoá truyền thống có nguy cơ bị mai một. Việc nghiên cứu, sưu tầm, lưu giữ và phát huy truyền thống văn hoá dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt đối với thế hệ trẻ là điều hết sức cần thiết. Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam đã góp phần tích cực trong công cuộc chấn hưng nền văn hoá dân tộc. Bên cạnh loại hình du lịch văn hoá, đến với khu du lịch trung tâm thành phố Thái Nguyên, du khách còn được tham gia loại hình du lịch lịch sử với đền thờ Đội Cấn thuộc phường Hoàng Văn Thụ. Đội Cấn tên thật là Trịnh Văn Đạt, quê huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc) [10, tr.44]. Ông cùng với Lương Ngọc Quyến lãnh đạo binh lính Thái Nguyên khởi nghĩa chống lại ách thống trị của thực dân Pháp vào đêm 30 rạng ngày 31/8/1917. Đây là cuộc khởi nghĩa lớn nhất trong thời cận đại lịch sử Việt Nam. Nghĩa quân làm chủ được tỉnh lỵ Thái Nguyên, đề ra khẩu hiệu: Nam binh phục quốc, tuyên bố Thái Nguyên độc lập và đặt quốc hiệu là Đại Hùng, ra cương lĩnh đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập tự do cho đất nước [10, tr.46,47]. Cuộc khởi nghĩa đã làm rung động nước Pháp và ảnh hưởng tới tận các xứ thuộc địa xa xôi của Pháp. Khởi nghĩa Thái Nguyên và tên tuổi của Đội Cấn, Lương Ngọc Quyến là những nét son trong trang sử hào hùng của Thái Nguyên nói riêng, lịch sử dân tộc nói chung. Đền thờ ông được nhân dân địa phương lập trên một quả đồi, với kiến trúc truyền thống của đền chùa Việt Nam theo kiểu chữ đinh hình chuôi vồ, có tiền đường và hậu cung. Chân bậc thang, cạnh lối đi lên đền là một bia lớn ghi thân thế, sự nghiệp của Đội Cấn, trước cửa đền là một bia đá ghi lời hịch của những người lãnh đạo khởi nghĩa. Du lịch lễ hội - Tâm linh của thành phố Thái Nguyên là chùa Phủ Liễn (tên chữ là Phù Chân Tự). Chùa được xây dựng từ đầu thế kỷ XIX tại trung tâm phường Hoàng Văn Thụ, theo lối kiến trúc cổ, có Tam bảo, Điện mẫu, nhà tổ, tháp cổ, có tiếng là rất linh thiêng. Hàng tháng, vào dịp mùng một và rằm, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 các phật tử khắp nơi về đây dâng hương cúng Phật. Lễ hội chùa được tổ chức vào 12/1 âm lịch hàng năm với các nội dung: Cầu phúc, cầu tài, các trò chơi chọi gà, đánh đu, cờ tướng, bình đọc thơ văn... Không giống như các khu du lịch khác trong tỉnh, khu du lịch Trung tâm thành phố Thái Nguyên rất phù hợp cho loại hình du lịch vui chơi giải trí - nghỉ dưỡng cuối tuần với các khách sạn cao cấp như: Khách Sạn Dạ Hương (3 sao) số 50 Lương Ngọc Quyến - Phường Quang Trung, khách sạn Thái Nguyên (2 sao) số 02 đường Hoàng Văn Thụ, khách sạn Đông Á (2 sao), tổ 30B - phường Hoàng Văn Thụ… hoặc các khách sạn bình dân, phù hợp với nhiều đối tượng du khách như: Khách sạn Hữu Nghị 937 Dương Tự Minh, Khách sạn Minh Cầu tổ 12 - phường Phan Đình Phùng… Nếu quan tâm đến mua sắm, buổi tối, du khách có thể bách bộ hay chọn một cuốc xe, một chuyến taxi để dạo một vòng quanh thành phố, ghé vào một cửa hiệu nào đó để lựa chọn cho mình một món đồ ưng ý trong các siêu thị như: Siêu thị Khắc Vượng (trên đường Hoàng Văn Thụ), siêu thị Minh Cầu (trên đường Minh Cầu)… Một hoạt động vui chơi giải trí rất sôi động vào buổi tối đó là các quán cà phê, giải khát. Nếu muốn ngắm dòng sông Cầu thơ mộng về đêm, giao lưu ca nhạc, hay thể hiện giọng hát của chính mình, du khách có thể đến với quán cà phê Trung Nguyên 351, đường Bắc Kạn. Nếu muốn ngắm toàn cảnh thành phố về đêm, du khách có thể lựa chọn cho mình khá nhiều điểm lý tưởng như: Cà phê giải khát tầng 8 khách sạn Đông Á, tầng 10 khách sạn Dạ Hương… Rời trung tâm thành phố Thái Nguyên chừng 10 km theo đường Đán - Hồ Núi Cốc, du khách sẽ bắt gặp ngay trước mắt một mầu xanh ngút ngàn của núi rừng, của những đồi chè đang đơm lộc biếc. Chè Tân Cương có hương thơm tự nhiên, đậm đà bởi vị ngọt chát mà chỉ có đất trời Tân Cương mới tạo ra được, là thức uống nổi tiếng khắp các vùng trong cả nước. Đến với khu du lịch sinh thái làng nghề chè truyền thống Tân Cương, du khách sẽ được tận mắt ngắm nhìn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 những vạt chè xanh mơn mởn trải dài, du khách còn có thể được trực tiếp hái chè, sao chè và tìm hiểu từ khâu chăm sóc đến khâu chế biến thành phẩm. Ngoài ra ở Thái Nguyên còn có nhiều điểm là di tích lịch sử, văn hoá, tín ngưỡng, nếu được đưa vào quy hoạch, sẽ trở thành những khu du lịch hấp dẫn đối với du khách như: Nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên (phường Cam Giá), địa điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm trường thiếu nhi Rẻo cao khu tự trị Việt Bắc (phường Quang Vinh), chùa Hồng Long Tự, đền Xương Rồng (phường Phan Đình Phùng)… 2.2. ĐẠI TỪ Ra khỏi làng nghề chè truyền thống Tân Cương, con đường quanh co uốn lượn mở ra trước mắt du khách một mầu xanh tinh khiết của núi rừng, Hồ Núi Cốc hiện ra với sóng nước bồng bềnh và không gian mát mẻ. Với một hệ thống nhà nghỉ đầy đủ tiện nghi, ẩn mình trong xanh mát bóng rừng và một loạt các công trình vui chơi giải trí, hấp dẫn như: “Chuyện tình ba cây thông”, “Huyền thoại cung”, “Công viên cổ tích”… Hồ núi Cốc đã thực sự chinh phục du khách gần xa. Đó là một vùng trời nước mênh mông, cả một d._.t động Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 81 của các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế khác, phải đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, tăng cường quảng bá được tiềm năng thương mại và du lịch trên phạm vi rộng. Đồng thời ngành du lịch phải thay đổi tư duy trong lĩnh vực du lịch về quan điểm phát triển du lịch, về quy hoach du lịch, về đầu tư du lịch, về xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 82 KẾT LUẬN Khác với nhiều khu du lịch sinh thái khác trong cả nước, tài nguyên du lịch sinh thái của Thái Nguyên không chỉ đơn thuần một dạng. Đây là nơi “chụm đầu” của cả bốn rặng núi cánh cung đá vôi miền Đông Bắc, nên Võ Nhai, Định Hoá, Đại Từ… giống như “một vùng Hạ Long trên sóng lúa”! Các trái núi đá vôi lại được những tán rừng nguyên sinh che phủ nên cảnh quan càng trở nên huyền bí, kỳ thú, mang nhiều nét hoang sơ với những địa danh nổi tiếng như: Hang Phượng Hoàng, suối Mỏ Gà, động Người xưa, thác Mưa rơi (Võ Nhai), hang Chùa hay Thác Khuôn Tát (Định Hoá) … Không những thế, Thái Nguyên lại còn có cả sườn phía đông dãy núi Tam Đảo đồ sộ, nơi có rừng quốc gia Tam Đảo rộng lớn, tạo nên những tiềm năng du lịch sinh thái, du lịch thám hiểm, du lịch thể thao… hấp dẫn. Gần sát với chân dãy núi Tam Đảo là một khu du lịch “sơn thuỷ hữu tình” hồ Núi Cốc nổi tiếng… Kề với những vùng núi cao là san sát những khu đồi thấp đã trở thành những đồi chè búp xanh non mơn mởn và những đồi cây ăn quả sum suê hoa trái… Thái Nguyên còn có cả những cánh đồng chạy dài ven bãi sông hay những thung lũng lúa vàng men theo chân núi xanh rì, ở đó thấp thoáng những nhà sàn mái lá và dưới khe suối róc rách có những cọn nước ngày đêm cần mẫn quay vòng chuyển dòng nước mát cho những cánh đồng cao. Theo các nhà địa chất học, ở Thái Nguyên hình thành cả 4 nhóm với 15 kiểu cảnh quan hình thái địa hình, điều đó làm du khách từ phương xa tới luôn bị bất ngờ trước những cảnh sắc thiên nhiên khác nhau. Sự đa dạng về hình thái địa hình, đa dạng về sinh thái là điểm lợi thế của Thái Nguyên so với các điểm du lịch khác. Lợi thế nổi bật nhất của du lịch Thái Nguyên là về tài nguyên du lịch nhân văn. Theo số liệu thống kê của Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch, Thái Nguyên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 83 có tới 780 di tích được kiểm kê, trong đó có 12 di tích khảo cổ, 479 di tích lịch sử, 16 di tích kiến trúc nghệ thuật, 225 di tích tín ngưỡng, 40 di tích danh thắng. Đến nay đã có 36 di tích được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia, 53 di tích được xếp hạng di tích lịch sử, văn hoá cấp tỉnh, nhiều di tích đang được đề nghị xếp hạng. Tiêu biểu là khu di tích khảo cổ học Thần Sa (Võ Nhai), di tích Đền Đuổm (Phú Lương), khu di tích núi Văn, núi Võ (Đại Từ)… Trên đất Thái Nguyên có biết bao di tích liên quan đến Chủ tịch Hồ Chí Minh như Khuôn Tát, Tỉn keo, Nạ Tra (Định Hoá), BảnVang, Đồng Quán (Võ Nhai)… Có biết bao nhân vật lịch sử gắn với các di tích ở Thái Nguyên như Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng… Có biết bao cơ quan, đoàn thể có di tích như cội nguồn của mình: Hội liên hiệp phụ nữ xóm Bản Quyền, Cục Điện ảnh Bản Bắc, Cục Quân nhu Thôn Đậu, Tổng cục Chính trị Đồng Rằm, Bộ Tổng tham mưu Đồng Đan… Ta hãy thử hình dung, biết bao con người đã từng có mặt tại những địa danh nổi tiếng đó của Thái Nguyên cùng hậu duệ muôn đời của họ, có biết bao cơ quan với lớp lớp thế hệ con cháu muốn biết cội nguồn của mình, bên cạnh nhu cầu du lịch ngày càng phát triển thì việc hành hương về cội nguồn lịch sử là một nhu cầu không nhỏ, biết khai thác tiềm năng ấy, du lịch sẽ trở thành một nguồn lực hiện thực không chỉ tính được bằng tiền bạc mà cao hơn cả đó những sức mạnh tạo nên phẩm cách con người. Thái Nguyên vừa là cái nôi, vừa là điểm hội tụ nền văn hoá đặc sắc của các dân tộc cư trú trong vùng Việt Bắc, lại vừa là nơi giao lưu hội nhập với nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc khác trong vùng đồng bằng Bắc Bộ. Điều đó đã tạo nên nhiều lợi thế về tài nguyên du lịch văn hoá. Với những lợi thế về tài nguyên du lịch nói trên, Thái Nguyên có thể tạo được sức hút đối với nhiều du khách, đáp ứng được nhu cầu về sự lựa chọn, hưởng thụ nhiều loại sản phẩm du lịch khác nhau của du khách bốn phương … Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84 Nếu Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế hay Quảng Nam, Đà Lạt… tự nhận là những địa phương giầu tiềm năng du lịch bởi có thể kể ngay đến những địa danh luôn có sẵn trong các tour du lịch trong nước và Quốc tế như: Hạ Long, Mỹ Sơn, Đền Hùng, Quốc tử giám, Yên Tử… Thì nhìn vào thực trạng du lịch Thái Nguyên chúng ta phải buồn lòng nhận ra rằng: Du lịch Thái Nguyên còn quá khiêm tốn! Nhưng như cách diễn đạt “không có người phụ nữ xấu, chỉ có người phụ nữ không biết làm đẹp” [31, tr.17] , giống như một cô gái, Thái Nguyên chưa biết làm đẹp cho mình, hay nói một các khác, dường như Thái Nguyên chưa ý thức được hết những tiềm năng du lịch của mình. Hoặc nói như nhà sử học Dương Trung Quốc “Du lịch Thái Nguyên còn giống một ai đó ngủ trong rừng nhưng đừng chờ ai đánh thức” [31, tr.19] Trong thời gian qua, sự phát triển của du lịch Thái Nguyên vẫn chưa tương xứng với tiềm năng về điều kiện tự nhiên, văn hoá, lịch sử và vị trí địa lý. Tại Thái Nguyên, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho kinh doanh du lịch chưa đồng bộ, bên cạnh đó Thái Nguyên cũng chưa có loại hình kinh doanh lữ hành quốc tế, còn loại hình kinh doanh lữ hành - Đặc trưng chủ yếu của hoạt động du lịch vẫn ở dạng được chăng hay chớ, thiếu một hoạch định mang tính chiến lược lâu dài và một cách làm bài bản. Hiện nay ở Thái Nguyên mới chỉ có một số ít doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này như: Dạ Hương, Đông Á, Sao Phương Đông… Trong khi đó, điều kiện ở Thái Nguyên cho phép có thể mở ra nhiều loại hình du lịch khác như du lịch sinh thái, du lịch thám hiểm hoặc du lịch lịch sử, văn hoá… Nhưng thực tế ngành du lịch Thái Nguyên vẫn duy trì hoạt động du lịch một cách đơn điệu, thiếu nhạy bén. Nguồn lợi to lớn mà ngành “công nghiệp không khói” mang lại là điều không thể phủ nhận. Trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, trong thời gian qua, tỉnh Thái Nguyên đã nghiêm túc đánh giá lại thực trạng của công tác du lịch và đề ra quyết tâm đến năm 2015 du lịch Thái Nguyên sẽ phát triển trở thành ngành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85 kinh tế quan trọng của tỉnh và trở thành trung tâm du lịch của vùng Việt Bắc. Bước đầu tỉnh đã xác định đầu tư, khai thác, phát huy tốt nguồn lực và tiềm năng du lịch của các địa phương trong toàn tỉnh, nâng cao chất lượng, xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch mới, phong phú, độc đáo, mang sắc thái riêng của từng địa phương về văn hoá, lịch sử cách mạng và về sinh thái thiên nhiên để thu hút khách du lịch. Đồng thời, tỉnh còn triển khai thi công các dự án xây dựng hạ tầng du lịch như: Đường giao thông, hệ thống điện, nước, sử lý rác thải… nhằm tạo ra diện mạo mới cho du lịch Thái Nguyên. Đặc biệt tỉnh Thái Nguyên sẽ tập trung đầu tư, hoàn chỉnh dự án trùng tu, tôn tạo khu du lịch ATK Phú Đình ( Định Hoá) và một số khu du lịch vành đai thuộc các huyện Đồng Hỷ, Võ Nhai… Mở rộng quan hệ với các tỉnh bạn để xây dựng thêm một số tour du lịch trong và ngoài nước… Tuy nhiên đây mới chỉ là bước khởi đầu, muốn thực sự phát huy được tiềm năng, thế mạnh của du lịch địa phương, đưa ngành “công nghiệp không khói” trở thành ngành kinh tế quan trọng, tỉnh Thái Nguyên phải có hoạch định chiến lược đồng bộ cả về vốn đầu tư, nhân lực, cùng những chính sách hỗ trợ, khuyến khích đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch phù hợp. Nhưng quan trọng hơn cả là ngành du lịch Thái Nguyên phải thay đổi tư duy trong lĩnh vực kinh doanh du lịch, chủ động tìm con đường đi cho riêng mình để từ đó bứt phá đi lên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. 198 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới (2002), Nxb Thế giới. 2. Đào Duy Anh (1994), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hoá. 3. Nguyễn Thị Kim Anh (1999), ATK - Tiềm năng du lịch về cuội nguồn, khoá luận tốt nghiệp khoa Địa lý, Đại học Thái Nguyên, Trường Đại học Sư phạm. 4. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương (1970), Cách mạng tháng Tám 1945, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 5. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1975), Lịch sử Cứu quốc quân, Nxb Việt Bắc. 6. Ban tuyên giáo tỉnh Thái Nguyên (1977), Hồ Chí Minh với việc xây dựng ATK Định Hoá trong căn cứ địa Việt Bắc (1947-1954), Kỷ yếu hội thảo khoa học. 7. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Thái (1978), Bác Hồ về với Bắc Thái, Nxb Công ty Văn hoá Thông tin Bắc Thái. 8. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Thái (1980), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Thái, tập 1 (1930-1954). 9. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương (1981), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Sơ thảo, tập 1 (1920-1954), Nxb Sự Thật, Hà Nội. 10. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, tập 1 (1936-1965). 11. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2005), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, tập 2 (1965-2000). 12. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Thái (2007), Bác Hồ với Thái Nguyên - Thái Nguyên với Bác Hồ, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 13. Bảo tàng Thái Nguyên (2003), Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Thái nguyên, Nxb Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Thái Nguyên. 14. Bộ văn hoá thông tin (2003), Sổ tay văn hoá thông tin vùng dân tộc thiểu số và miền núi, Nxb Bộ Văn hoá Thông tin Hà Nội. 15. Nguyễn Văn Chiến (2006), Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch Thái Nguyên, Sở Thương mại và Du lịch Thái Nguyên. 16. Chu Quang Chứ (2001), Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và văn hoá Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 17. Công ty cổ phần kinh tế đối ngoại (2005), Thái Nguyên thế và lực mới trong thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia. 18. Cục thống kê Bắc Thái (1985), Số liệu thống kê 1976-1984 tỉnh Bắc Thái, Nxb Thống kê, Hà Nội. 19. Cục thống kê Bắc Thái (1991), Số liệu thống kê kinh tế, xã hội tỉnh Bắc Thái 1986-1990, Nxb Thống kê, Hà Nội. 20. Cục thống kê Thái Nguyên (1997), Niên giám thống kê Thái Nguyên 1990- 1996, Nxb Thống kê, Hà Nội. 21. Cục thống kê Thái Nguyên (2001), Niên giám thống kê Thái Nguyên 1996- 2000, Nxb Thống kê, Hà Nội. 22. Cục Thống kê Thái Nguyên (2006), Niên giám thống kê Thái Nguyên 2005, Nxb Thống kê, Hà Nội. 23. Cục thống kê Bắc Thái (2008), Niên giám thống kê Thái Nguyên 2007, Nxb Thống kê, Hà Nội. 24. Ngô Thị Kim Doan (2004), Đình chùa nổi tiếng Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 25. Trần Bá Đệ (2002), Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88 26. Trần Bá Đệ chủ biên (2002), Một số chuyên đề lịch sử Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 27. Lê Thanh Đức (2001), Đình làng miền Bắc, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 28. Phạm Mỹ Đức (2008), Tiềm năng, hiện trạng, định hướng phát triển du lịch Thái Nguyên, Khoá luận tốt nghiệp khoa Địa lý, Đại học Thái Nguyên, Trường Đại học Sư phạm. 29. Echinard (1934), Lịch sử chính trị và quân sự tỉnh Thái Nguyên, Tài liệu lưu trữ tại Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thái Nguyên. 30. Võ Nguyên Giáp (Hữu Mai thể hiện) (2001), Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Nxb Quân đội nhân dân. 31. Hội khoa học Lịch sử Việt Nam (2001), Tạp chí Xưa và nay, số 105 - tháng 12-2001. 32. Nguyễn Văn Huyên (1996), Địa lý hành chính vùng Kinh Bắc, Nxb Văn hoá, Hà Nội. 33. Ngô Huy Huỳnh (1962), Lịch sử kiến trúc Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 34. Nguyễn Hữu Khánh (1998), Đất và người Thái Nguyên, Nxb Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Thái Nguyên 35. Hoàng Ngọc La (1995), Căn cứ địa Việt Bắc (1940-1945), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 36. Hoàng Ngọc La (2002), Văn hoá dân gian Tày, Nxb Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Thái Nguyên. 37. Trịnh Trúc Lâm (1998), Địa lý tỉnh Thái Nguyên, Nxb Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Khoa học Công nghệ Môi trường, tỉnh Thái Nguyên. 38. Lịch sử Việt Nam (1971), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 39. Nguyễn Xuân Minh, Nguyễn Xuân Hùng (1997), Lịch sử ATK Định Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89 40. Đỗ Văn Ninh (2002), Từ điển văn hoá Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Hà Nội. 41. Quốc sử quán triều Nguyễn (1992), Đại nam nhất thống chí, tập IV, Nxb Thuận Hoá, Huế. 42. Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật bảo vệ môi trường. 43. Sở Thương mại và Du lịch Thái Nguyên (1998), Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Thái Nguyên đến năm 2010. 44. Sở Thương Mại và Du lịch Thái Nguyên (2002), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2001, phương hướng, nhiệm vụ năm 2002 của ngành Du lịch Thái Nguyên. 45. Sở Thương Mại và Du lịch Thái Nguyên (2003), Báo cáo tổng kết công tác Thương mại và Du lịch năm 2002, phương hướng, nhiệm vụ của ngành Thương Mại và Du lịch năm 2003. 46. Sở Thương Mại và Du lịch Thái Nguyên (2003), Du lịch 6 tỉnh Việt Bắc với vùng du lịch Bắc Bộ, Kỷ yếu hội thảo khoa học. 47. Sở Thương Mại và Du lịch Thái Nguyên (2004), Báo cáo đánh giá hoạt động Du lịch Thái Nguyên năm 2003, phương hướng nhiệm vụ năm 2004. 48. Sở Thương mại và Du lịch Thái Nguyên (2005), Báo cáo đánh giá hoạt động Du lịch Thái Nguyên năm 2004, mục tiêu kế hoạch năm 2005. 49. Sở Thương Mại và Du lịch Thái Nguyên (2006), Báo cáo công tác Du lịch Thái Nguyên năm 2006, phương hướng nhiệm vụ năm 2007. 50. Sở Thương Mại và Du lịch Thái Nguyên (2006), Quy hoạch phát triển Du lịch Thái Nguyên điều chỉnh bổ xung đến năm 2010, định hướng đến năm 2015 và tầm nhìn chiến lược đến năm 2020. 51. Sở Thương mại và Du lịch Thái Nguyên (2007), Tài nguyên du lịch Thái Nguyên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90 52. Sở Thương Mại và Du lịch Thái Nguyên (2009), Sổ tay du lịch Thái Nguyên. 53. Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Thái Nguyên (2001), Núi Đuổm và Dương Tự Minh. 54. Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Thái Nguyên (2003), Thái Nguyên Đất và người. 55. Hà Văn Tấn - Nguyễn Văn Cự (2002), Đình làng Việt Nam, Nxb thành phố Hồ Chí Minh. 56. Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Hà Nội. 57. Đồng Khắc Thọ (2003), Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Thái Nguyên, Nxb Sở Văn hoá Thông tin, Thái Nguyên. 58. Trần Mạnh Thường (1999), Đình chùa lăng tẩm nổi tiếng Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội 59. Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2009), Địa chí Thái Nguyên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 60. Tổng cục du lịch (2000), Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Việt Nam thời kỳ 1995-2000. 61. Tổng cục du lịch, Bộ tài nguyên và môi trường (2003) Quy chế bảo vệ môi trường. 62. Tổng cục du lịch (2006), Hội thảo cộng đồng dân cư với nhiệm vụ bảo vệ môi trường cho phát triển du lịch bền vững. Sở Thương mại và Du lịch Thái Nguyên 63. Nguyễn Trãi (1960), Dư địa chí, Nxb Sử học, Hà Nội. 64. Trịnh Cao Tưởng (1989), Kiến trúc đình làng, Nxb Viện khảo cổ học, Hà Nội 65. UBND tỉnh Thái Nguyên (2006), Báo cáo công tác chuẩn bị tổ chức năm du lịch Thái Nguyên 2007. 66. UBND tỉnh Thái Nguyên (2006), Đề án chi tiết tổ chức tổ chức năm du lịch Thái Nguyên 2007 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91 67. UBND tỉnh Thái Nguyên (2006), Kế hoạch chi tiết tổ chức năm du lịch Thái Nguyên. 68. UBND tỉnh Thái Nguyên (2007), Báo cáo tổng kết năm du lịch Quốc gia 2007 tại Thái Nguyên. 69. Viện khoa học xã hội và nhân văn - Viện sử học (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 70. Viện nghiên cứu Hán Nôm (1981), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 71. Trần Quốc Vượng (1976), Mùa xuân và phong tục Việt Nam, Nxb Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 PHỤ LỤC Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ, VĂN HOÁ VÀ DANH LAM THẮNG CẢNH XẾP HẠNG CẤP QUỐC GIA CỦA THÁI NGUYÊN STT Tên di tích Số quyết định, thời gian 1. Di tích khảo cổ học thời đại đồ đá cũ, xã Thần Sa, huyện Võ Nhai. Số 147/VH-QĐ ngày 24/12/1982. 2. Di tích lịch sử và thắng cảnh Đền Đuổm, xã Động Đạt, huyện Phú Lương. Số 774-QĐ/BT ngày 21/6/1993. 3. Di tích lịch sử Núi Văn, Núi Võ, xã Ký Phú, Văn Yên, huyện Đại Từ. Số 10- VHTT/QĐ ngày 9/2/1981. 4. Di tích lịch sử và nghệ thuật đền Lục Giáp, xã Đắc Sơn, huyện Phổ Yên. Số 2619-QĐ/BT ngày 21/6/1993. 5. Di tích lịch sử: Một số địa điểm của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917, thành phố Thái Nguyên. Số 2619-QĐ/Bt 27/8/1997. 6. Di tích lịch sử nơi thành lập cơ sở Đảng cộng sản đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên năm 1936, tại xã La Bằng, huyện Đại Từ. Số 05/1999-QĐ- BVHTT ngày 12/12/1994. 7. Di tích lịch sử địa điểm thành lập đội Cứu quốc quân II ngày 15/9/1941 tại rừng Khuôn Mánh, xã Tràng Xá, huyện Võ Nhai. Số 3211-QĐ/BT ngày 12/12/1994. 8. Di tích lịch sử địa điểm Căng Bá Vân, xã Bình Sơn, huyện Phổ Yên (nay là thị xã Sông Công) Số 3211-QĐ/BT ngày 12/12/1994 9. Di tích lịch sử cách mạng xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên. Số 2539-QĐ/BT ngày 27/12/1990. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94 10. Cụm di tích lịch sử Kha Sơn, xã Kha Sơn, huyện Phú Bình. Số 985-QĐ/VH ngày 7/5/1997. 11. Di tích lịch sử nhà tù Chợ Chu, thị trấn Chợ Chu, huyện Định Hoá. Số 253-QĐ/BVHTT ngày 25/12/1998. 12. Di tích lịch sử địa điểm thành lập cơ quan chỉ huy chiến khu Nguyễn Huệ, xã Yên Lãng, huyện Đại Từ. Số 05/1999- QĐ/BVHTT ngày 12/2/1999. 13. Di tích lịch sử nơi thành lập Việt Nam giải phóng quân, xã Định Biên, huyện Định Hoá. Số 1034-QĐ/VH ngày 12/8/1993. 14. Di tích lịch sử một số địa điểm của An Toàn Khu (ATK) Trung ương, nơi ở và làm việc của Bác Hồ, Trung ương Đảng và Chính phủ. Số 10-VHTT/QĐ ngày 9/2/1981. 15. Di tích lịch sử địa điểm công bố ngày thương binh liệt sĩ toàn quốc (27/7/1947), xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ. Số 2205-QĐ/VH ngày 17/7/1997. 16. Di tích lịch sử địa điểm cơ quan Bộ Tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam (1949-1954), xã Bảo Linh, huyện Định Hoá. Số 43/1999-BVHTT ngày 12/7/1999. 17. Di tích lịch sử địa điểm lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm khu công nghiệp gang Thép Thái Nguyên, phường Cam Giá thành phố Thái Nguyên. Số 62/2003- QĐ/BVHTT ngày 27/11/2003. 18. Di tích lịch sử địa điểm thành lập hội nhà báo Việt Nam, xã Điềm Mặc, huyện Định Hoá. Số 74/2004-QĐ- BVHTT ngày 15/12/2004. 19. Di tích lịch sử địa điểm đại hội chiến sỹ thi đua toàn quốc lần thứ nhất (1952), xã Hợp Thành, huyện Phú Lương. Số 98/2004/QĐ- BVHTT ngày 25/12/2004. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 20. Di tích lịch sử địa điểm xưởng quân giới, nơi chế tạo thành công súng Bazôka (1947), thị trấn Giang Tiên, huyện Phú Lương. Số 98/2004/QĐ- BVHTT ngày15/12/2004. 21. Di tích lịch sử Đình đông, xã Tân Đức, huyện Phú Bình. Số 04/2006/QĐ- BVHTT ngày 17/1/2006 22. Di tích lịch sử nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc tại đồi Khau Tý (1947), xã Điềm Mặc, huyện Định Hoá. Số 92/2006/QĐ- BVTT ngày 15/11/2006 23. Di tích lịch sử nơi thành lập Uỷ Ban hoà bình Việt Nam, xã Điềm Mặc, huyện Định Hoá. Số 91/2006/QĐ- BVHTT ngày 15/11/2006. 24. Di tích lịch sử nơi ở và làm việc của cơ quan Uỷ ban kiểm tra Trung ương, xã Điềm Mặc, huyện Định Hoá. Số 09/2006/QĐ- BVHTT ngày 17/9/2007. 25. Di tích lịch sử đồi Thành Trúc - nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc (1954), xã Bản Ngoại, huyện Đại Từ. Số 72/2006/QĐ- BVHTT ngày 28/9/2006. 26. Di tích lịch sử nơi báo Quân đội Nhân dân ra số đầu tiên (1950), xã định Biên, huyện Định Hoá. Số 91/2007/QĐ- BVHTTDL ngày 28/10/2007. 27. Di tích lịch sử đồi Pụ Đồn nơi phong quân hàm cấp tướng cho một loạt các tướng lĩnh Việt Nam. Số 1949/2009/QĐ- BVHTTDL ngày 26/5/2009 28. Di tích kiến trúc, nghệ thuật đình Phương Độ, xã Xuân Phương, huyện Phú Bình. Số 774QĐ/BT ngày 21/6/1993. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 29. Di tích kiến trúc, nghệ thuật đình Hộ Lệnh, xã Điềm Thuỵ, huyện Phú Bình. Số 04/2001- QĐ/BVHTT ngày 19/1/2001 30. Di tích kiến trúc nghệ thuật đình Xuân La, xã Xuân Phương huyện Phú Bình. Số 53/2001/QĐ- BVHTT ngày 28/12/2001. 31. Di tích kiến trúc nghệ thuật chùa Úc Kỳ, xã Úc Kỳ, huyện Phú Bình. Số 98/2004/QĐ- BVHTT ngày 15/12/2004 32. Di tích kiến trúc nghệ thuật chùa Ha, xã Nhã Lộng, huyện Phú Bình. Số 98/2004/QĐ- BVHTT ngày 15/12/2004 33. Di tích lịch sử và danh thắng hang Phượng Hoàng, hang và suối Mỏ Gà, xã Phú Thượng, huyện Võ Nhai. Số 3211QĐ/BT ngày 12/12/1994. 34. Di tích thắng cảnh động Linh Sơn, xã Linh sơn, huyện Đồng Hỷ. Số 07/1999- QĐ/BVTT ngày 26/2/1999. 35. Di tích thắng cảnh chùa Hang, thị trấn Chùa Hang, huyện Đồng Hỷ. Số 08/1999- QĐ/BVHTT ngày 26/2/1999. 36. Di tích thắng cảnh thác Khuôn Tát, xã Phú Đình, huyện Định Hoá. Số 53/2001/QĐ Nguồn: [Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch Thái Nguyên] Tổng số 36. Trong đó: - Di tích lịch sử: 2 -Di tích khảo cổ: 1 - Di tích kiến trúc nghệ thuật: 5- Danh lam thắng cảnh: 4 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 DANH MỤC DI TÍCH LỊCH SỬ, VĂN HOÁ VÀ DANH THẮNG XẾP HẠNG CẤP TỈNH STT Tên di tích đã xếp hạng Số quyết định, thời gian 1. Di tích lịch sử và thắng cảnh chùa Hang, thị trấn Chợ Chu, huyện Định Hoá. Số 181/UB-QĐ ngày 31/3/1994. 2. Di tích lịch sử chùa Phú Mỹ, xã Lương Phú, huyện Phú Bình. Số 1718/UB-QĐ ngày 22/7/2004. 3. Di tích lịch sử địa điểm khai sinh ngành Điện ảnh và Nhiếp ảnh cách mạng Việt Nam, xã Điềm Mặc, huyện Định Hoá. Số 1720/QĐ-UB ngày 22/7/2004. 4. Di tích lịch sử và nghệ thuật đền Giá, xã Đông Cao, huyện Phổ Yên. Số 2777/QĐ-UB ngày 12/11/2004. 5. Di tích lịch sử địa điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm trường thiếu nhi Rẻo cao khu tự trị Việt Bắc. Số 2779/QĐ-UB ngày 12/11/2004. 6. Di tích lịch sử, văn hoá chùa Đồi Cao, xã Tân Hương, huyện Phổ Yên. Số 2775/QĐ-UB ngày 12/11/2004. 7. Di tích lịch sử, văn hoá đình Thù Lâm, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên. Số 2774/QĐ-UB ngày 12/11/2004. 8. Di tích lịch sử, văn hoá đền Đồng Thụ, xã Thuận Thành, huyện Phổ Yên. Số 2774/QĐ-UB ngày 12/11/2004. 9. Di tích lịch sử, văn hoá đền Đan Hà, xã Thành Công, huyện Phổ Yên. Số 2773/QĐ-UB ngày 12/11/2004. 10. Di tích lịch sử, văn hoá đền, chùa Na Thức, xã Phú Lạc, huyện Đại Từ. Số 2502/QĐ-UB ngày 8/11/2006. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 11. Di tích kiến trúc nghệ thuật chùa Tây Phúc, xã Tân Phú, huyện Phổ Yên. Số 1719/QĐ-UB ngày 22/7/2004. 12. Di tích kiến trúc nghệ thuật đình và chùa Úc Sơn, thị trấn Hương Sơn, huyện Phú Bình. Số 175/QĐ-UB ngày 27/1/2005. 13. Di tích lịch sử văn hoá đình và chùa Phi Long, xã Tân Đức, huyện Phú Bình. Số 176/QĐ-UB ngày 27/1/2005. 14. Di tích lịch sử văn hoá đình, đền và chùa Cầu Muối, xã Tân Thành, huyện Phú Bình. Số 177/QĐ-UB ngày 27/1/2005. 15. Di tích lịch sử nền ngôi nhà 8 mái làng Luông, xã Bình Thành, huyện Định Hoá, nơi đặt trường Đảng Nguyễn Ái Quốc trong kháng chiến chống Pháp. Số 100/QĐ-UB ngày 16/4/1980. 16. Di tích lịch sử Bãi Đu (nay thuộc thị trấn Đu), huyện Phú Lương, nơi khai sinh Đại đoàn Quân Tiên phong (308). Số 100/QĐ-UB ngày 16/4/1980. 17. Di tích lịch sử nơi chiếc máy bay thứ 1.000 của Mỹ bị đơn vị pháo 210 bắn rơi trên miền Bắc tại xã Tức Tranh, huyện Phú Lương. Số 100/QĐ-UB ngày 16/4/1980. 18. Di tích lịch sử văn hoá đình Phù Hương, xã Tân Hương, huyện Phổ Yên. Số 08/QĐ-UB ngày 4/1/2007. 19. Di tích lịch sử văn hoá đền, đình Đồng Tâm, xã Đồng Bẩm, huyện Đồng Hỷ. Số 07/QĐ-UB ngày 4/1/2007. 20. Di tích lịch sử trận địa pháo cao xạ 100 ly, xóm Quang Vinh, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Thái Nguyên. Số 100/QĐ-UB ngày 16/4/1980 21. Di tích lịch sử đình và chùa Lũ Yên, xã Đào Xá, huyện Phú Bình. Số 200/QĐ-UBND ngày 25/1/2006. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 22. Di tích lịch sử kè Lũ Yên, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đến kiểm tra chống hạn (1958) Số 201/QĐ-UBND ngày 25/1/2006. 23. Di tích lịch sử văn hoá đình Giã Thù và chùa Di, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên. Số 202QĐ-UBND ngày25/1/2006. 24. Di tích lịch sử địa điểm thành lập đội Cứu quốc quân Phạm Hồng Thái và chùa Thiên Tây Trúc, xã Quân Chu, huyện Đại Từ Số 202/QĐ-UBND này 25/1/2006. 25. Di tích lịch sử văn hoá đình Phúc Duyên, xã Tân Hương, huyện Phổ Yên. 202/QĐ-UBND ngày 25/1/2006. 26. Di tích lịch sử văn hoá chùa Hồng Long, phường Phan Đình Phùng, thành phố Thái Nguyên. Số 2499/QĐ-UBND ngày8/11/2006. 27. Di tích lịch sử chùa Bá Xuyên, phường Lương Sơn, thị xã Sông Công. Số 10/QĐ-UBND ngày 4/1/2007. 28. Di tích lịch sử cơ quan Nông vận và Hội nông dân cứu quốc Việt Nam, xã Điềm Mặc, huyện Định Hoá. Số 11/QĐ-UBND ngày 4/1/2007. 29. Di tích lịch sử nơi ở của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Tân Long, xã Cổ Lũng, huyện Phú Lương. Số 5/QĐ-UBND ngày4/1/2007. 30. Di tích lịch sử địa điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm trường chính trị tỉnh Thái Nguyên. Số 06/QĐ-UBND ngày 4/1/2007. 31. Di tích lịch sử khu lưu niệm Tiến sĩ Nguyễn Cấu, xã Tân Hương, huyện Phổ Yên. Số 2500/QĐ-UBND ngày 8/11/2006. 32. Di tích lịch sử văn hoá đình Bảo Nang, xã Tân Lợi, huyện Đồng Hỷ. Số 09/QĐ-UBND ngày 4/1/2007. 33. Di tích lịch sử địa điểm thành lập chi bộ Đảng, Số 370/QĐ-UBND Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 xã Phú Thượng, huyện Võ Nhai. ngày 28/2/2007. 34. Di tích lịch sử văn hoá đình Cù Vân và đền Bãi Chè, xã Cù Vân, huyện Đại Từ. Số 251/QĐ-UBND ngày1/2/2008. 35. Di tích lịch sử văn hoá đền Gốc Sấu, thành phố Thái Nguyên. Số 70/QĐ-UBND ngày14/1/2008. 36. Di tích lịch sử đền Long Giàn, huyện Đồng Hỷ. Số 69/QĐ-UBND ngày 14/1/2008. 37. Di tích lịch sử văn hoá đình, chùa làng Quyên Hoá, xã Bảo Lý, huyện Phú Bình. Số 2309/QĐ-UBND ngày20/9/2008. 38. Di tích lịch sử đình chùa Đại Lễ, huyện Phú Bình. Số 2466/QĐ-UBND ngày 13/10/2008. 39. Di tích lịch sử văn hoá đình chùa An Châu, huyện Phú Bình. Số 2462/qĐ-UBND ngày13/10/2008. 40. Di tích lịch sử địa điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm công ty nhiệt điện Cao Ngạn, thành phố Thái Nguyên. Số 2463/QĐ-UBND ngày 13/10/2008. 41. Di tích lịch sử văn hoá đình chùa Trung Đài, xã Phù Vân, huyện Đại Từ. Số 2461/QĐ-UBND ngày 13/10/2008. 42. Di tích lịch sử địa điểm thanh niên xung phong Lưu Xá. Số 2460/QĐ-UBND ngày 13/10/2008. 43. Di tích lịch sử văn hoá đền Mẫu, phường Phố Cò, thị xã Sông Công. Số 2783/QĐ-UBND ngày 16/11/2008. 44. Di tích lịch sử Bác Hồ về thăm trường Lương Ngọc Quyến, thành phố Thái Nguyên. Số 3342/QĐ-UBND ngày 24/12/2008. 45. Di tích lịch sử văn hoá đình, Số 178/QĐ-UBND Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 chùa Triều Dương, huyện Phú Bình ngày 21/1/2009 46. Di tích lịch sử văn hoá đình Lộng, huyện Phú Bình. Số 177/QĐ-UBND ngày 21/1/2009 47. Di tích lịch sử văn hoá đình chùa Xuân Trù, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên. Số 237/QĐ-UBND ngày 3/2/2009. 48. Di tích lịch sử văn hoá đình Thanh Giang, xã Đắc Sơn, huyện Phổ Yên. Số 263/QĐ-UBND ngày 3/2/2009. 49. Di tích lịch sử địa điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm tổ Đảng, xã Dân Tiến, huyện Võ Nhai. Số 239/QĐ-UBND ngày 3/2/2009. 50. Di tích lịch sử địa điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở làng Vang, xã Liên Minh, huyện Võ Nhai. Số 238/QĐ-UBND ngày 3/2/2009. 51. Di tích lịch sử đền Hích, huyện Đồng Hỷ. Số 369/QĐ-UBND ngày 28/2/2007. 52. Di tích lịch sử đền Lũa, xã Tân Đức huyện Phú Bình. Số 635/QĐ-UBND ngày 30/3/2009. 53. Di tích lịch sử văn hoá đền Trình, thị trấn Giang Tiên, huyện Phú Lương. Số 2465/QĐ-UBND ngày 13/10/2008. Nguồn: [Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch Thái Nguyên] Tổng số di tích: 53 Trong đó: - Di tích lịch sử: 24 -Thắng cảnh: 1 - Di tích kiến trúc nghệ thuật: 3 -Di tích lịch sử văn hoá: 25 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 b¶n ®å hµnh chÝnh tØnh th¸i nguyªn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 b¶n ®å du lÞch tØnh th¸i nguyªn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 khu di chØ kh¶o cæ häc thÇn sa nói v¨n - nói vâ ®¹i tõ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 h ang ph•îng hoµng h å nói cèc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 ®Òn ®uæm - phó l•¬ng ®Òn lôc gi¸p- pHỔ yªn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 107 rõng khu«n m¸nh Th¸c khu«n t¸t Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 108 ®Òn thê ®éi cÊn Ngµy 6/12/1953 t¹i tØn keo - phó ®×nh - ®Þnh ho¸. Hå Chñ tÞch chñ to¹ héi nghÞ bé chÝnh trÞ quyÕt ®Þnh më chiÕn dÞch ®iÖn biªn phñ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 109 l¸n lµm viÖc cña b¸c hå t¹i khu«n t¸t - phó ®×nh ®Þnh ho¸ B¶o tµng v¨n ho¸ c¸c d©n téc viÖt nam Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 110 nhµ t•ëng niÖm b¸c hå t¹i atk - ®Þnh ho¸ nhµ t•ëng niÖm b¸c hå trong ngµy héi lång tång - ®Þnh ho¸ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 111 Chïm ¶nh khai m¹c n¨m du lÞch quèc gia vÒ thñ ®« giã ngµn chiÕn khu viÖt b¾c ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9527.pdf