LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ngày nay du lịch được xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có việt Nam. Du lịch phát triển tạo ra nhiều công ăn việc làm, mang lại thu nhập cao cho nền kinh tế, giảm các tác động rủi ro đến môi trường sinh thái, đồng thời còn là cầu nối hữu hiệu cho sự giao lưu giữa các nền văn hoá, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng tình hữu nghị, hoà bình, đoàn kết và hiểu biết giữa các quốc gia, dân tộc
113 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2018 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Tiềm năng du lịch hồ Dầu Tiếng - Tỉnh Tây Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trên toàn thế giới.
Ở nước ta, ngành du lịch từ lâu cũng đã được Đảng và Nhà nước quan tâm và đặc mục tiêu phát triển cao. Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đề ra mục tiêu: “Phát triển nhanh du lịch, dịch vụ và từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch - thương mại có tầm cỡ trong khu vực”. Nghị quyết 45/CP năm 1993 của Chính phủ cũng đã nêu rõ: “Làm cho ngành du lịch nước ta sớm đuổi kịp ngành du lịch của các nước phát triển ở trong khu vực và trên thế giới, đưa du lịch nước ta trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước”. Đây là chủ trương đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển chung của khu vực và thế giới, vừa gắn được với điều kiện thực tế, tiềm năng, khả năng và yêu cầu bức thiết của sự phát triển đất nước. Do vậy đòi hỏi các ngành liên quan, đặc biệt là ngành du lịch các tỉnh, thành phố phải có quy hoạch, xây dựng chiến lược cho phát triển du lịch.
Để góp phần tạo cơ sở cho sự phát triển du lịch ở Việt Nam, thì việc nghiên cứu đánh giá tiềm năng và định hướng chiến lược phát triển các ngành du lịch ở nước ta đóng vai trò vô cùng quan trọng và cần thiết. Điều này không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong công tác quy hoạch và phát triển các loại hình du lịch ở các khu vực giàu tiềm năng, phát triển các điểm - tuyến du lịch trên phạm vi cả nước phù hợp với đặc điểm tài nguyên, kinh tế xã hội, văn hoá, phong tục tập quán và góp phần hạn chế những tác động tiêu cực tiềm ẩn mà du lịch mang đến cho môi trường tự nhiên, văn hoá, xã hội mà nhiều nước trên thế giới đã phải trả giá trong quá trình xây dựng và phát triển du lịch. Vì vậy Tôi lựa chọn đề tài:
“TIỀM NĂNG DU LỊCH HỒ DẦU TIẾNG – TỈNH TÂY NINH”.
2. Tên đề tài:
“TIỀM NĂNG DU LỊCH HỒ DẦU TIẾNG - TỈNH TÂY NINH”.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu về tiềm năng du lịch của Hồ Dầu Tiếng - Tỉnh Tây Ninh.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu, đánh giá tiềm năng và đề xuất định hướng, giải pháp phát triển các loại hình du lịch tại Hồ Dầu Tiếng.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra khảo sát, thu thập tài liệu, số liệu.
- Phương pháp thống kê số liệu.
- Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu, số liệu.
CHƯƠNG 1
BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DU LỊCH
1. Hiện trạng và xu thế phát triển du lịch thế giới:
1.1. Du lịch thế giới:
Thế kỷ XXI, tình hình thế giới sẽ có những biến đổi sâu sắc với những bước nhảy vọt chưa từng thấy về khoa học và công nghệ, toàn cầu hoá là một xu thế khách quan và tất yếu. Trong bối cảnh đó, nhu cầu du lịch tăng mạnh, du lịch thế giới phát triển với xu hướng chuyển dần sang khu vực Đông Á- Thái Bình Dương, và khu vực Đông Nam Á. Theo số liệu thống kê của tổ chức du lịch thế giới (UNWTO) năm 2000 tổng số khách du lịch trên toàn thế giới là 688 triệu lượt khách, năm 2009 là 898 triệu lượt khách, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2000 - 2009 là 3,88%. Trong đó khu vực châu Á - Thái Bình Dương vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng cao so với phần còn lại của thế giới, tăng trưởng bình quân khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong giai đoạn 2000- 2009 là 7,51%.
Tuy nhiên cũng trong những năm đầu thế kỷ XXI, du lịch thế giới đã cho thấy sự phát triển chững lại. Tăng trưởng khách du lịch tại tất cả các khu vực trên thế giới đều thấp hơn so với những năm 90 của thế kỷ trước. Tình hình thế giới từ năm 2000 đến nay có những diễn biến không thuận lợi cho sự phát triển của ngành du lịch: chiến tranh, xung đột sắc tộc, tôn giáo tràn lan và dịch bệnh hoành hành ở một số nơi trên thế giới, thiên tai và tấn công khủng bố diễn ra phức tạp và trên quy mô lớn, giá cả năng lượng tăng đột biến,… Đặc biệt là các cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính trên bình diện rộng, bắt đầu từ năm 2007 và hậu quả còn kéo dài với mức độ ảnh hưởng và phạm vi ngày càng lan rộng, có tác động sâu sắc đến mọi mặc của thế giới. Trên phương diện ngành du lịch, khủng hoảng đã có những tác động tiêu cực thể hiện trên các khía cạnh:
Tại các thị trường cung cấp nguồn khách du lịch truyền thống như Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản hầu hết đều có dấu hiệu suy thoái kinh tế hoặc đã rơi vào suy thoái kinh tế khiến cho sản xuất đình trệ, tỉ lệ thất nghiệp gia tăng, thu nhập của người dân giảm sút. Từ đó người dân buộc phải cắt giảm, thắt chặt chi tiêu, tập trung vào các nhu cầu và mặt hàng thiết yếu. Do đó nhu cầu du lịch và lượng người đi du lịch đã giảm xuống rõ rệt.
Do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, du khách đã lựa chọn đi bằng đường sắt, đường bộ hơn là đường hàng không, các điểm và tuyến du lịch nội địa, trong vùng có cự ly ngắn được ưa chuộng hơn, và phù hợp hơn với du khách trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế chung.
Tại các điểm đến du lịch, khách du lịch thường có xu hướng lựa chọn những nơi lưu trú có thứ hạng thấp, chi phí rẻ và thời gian lưu trú được rút ngắn lại. Nhìn chung chi tiêu của du khách cho các dịch vụ bổ trợ, các sản phẩm du lịch đều bị tiết giảm.
Bảng 1.1: Hiện trạng khách du lịch quốc tế trên thế giới phân bố theo khu vực
Đvị tính: 1000 lượt khách
stt
Khu vực
2000
2005
2007
2009
TTBQ GIAI ĐOẠN
2000-2005
2005-2009
2000-2009
1
Châu Phi
28.284
37.312
40.900
44.200
5,7%
8,84%
6,59%
2
Châu Mỹ
128.164
125.739
136.000
142.100
-0,38%
6,31%
1,49%
3
Châu Á- Thái Bình Dương
111.372
145.491
167.400
184.900
5,49%
12,73%
7,51%
3.1
Đông Bắc Á
58.276
79.412
94.100
104.200
6,38%
14,55%
8,66%
3.2
Đông Nam Á
37.763
48.309
53.900
60.400
5,05%
11,82%
6,94%
3.3
Châu Đại Dương
14.739
24.700
26.600
32.300
12,64%
14,35%
11,86%
3.4
Nam Á
4.797
9.900
11.200
13.400
15,40%
16,34%
15,81%
4
Châu Âu
232.486
347.400
376.900
433.400
8,42%
11,69%
9,31%
5
Trung Đông
17.567
28.600
29.900
43.200
9,42%
22,90%
13,72%
Tổng cộng
687.897
789.093
842.000
898.000
2,78%
6,68%
3,38%
(Nguồn: UNWTO, 2009)
Về doanh thu, năm 2000 doanh thu ngành du lịch đạt 481,56 tỷ USD; năm 2005 đạt 681,5 tỷ USD; năm 2009 đạt 864 tỷ USD; tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 8,73%.
Bảng 1.2: Hiện trạng doanh thu du lịch thế giới.
stt
Khu vực
2000
2005
2007
2009
TTBQ GIAI ĐOẠN
2000-2005
2005-2009
2000-2009
1
Châu Phi
10.503
21.300
24.600
28.300
15,43%
15,27%
15,21%
2
Châu Mỹ
130.797
145.300
154.100
171.100
2,02%
8,52%
3,91%
3
Châu Á- Thái Bình Dương
90.207
138.900
156.500
188.900
9,31%
16,62%
11,14%
Trong đó:
3.1
Đông Bắc Á
44.460
71.200
75.200
89.200
9,76%
11,93%
10,46%
3.2
Đông Nam Á
26.210
33.100
43.600
54.000
4,97%
27,73%
10,88%
3.3
Châu Đại Dương
14.739
24.700
26.600
32.300
12,64%
14,35%
11,86%
3.4
Nam Á
4.797
9.900
11.200
13.400
15,40%
16,34%
15,81%
4
Châu Âu
232.486
347.400
376.900
433.400
8,42%
11,69%
9,31%
5
Trung Đông
15.567
28.600
29.900
43.200
9,42%
22,90%
13,72%
Tổng cộng
481.560
681.500
742.000
864.900
7,23%
12,65%
8,73%
(Nguồn: UNWTO, 2009)
1.2. Du lịch khu vực ASEAN:
Khu vực ASEAN với những lợi thế về thiên nhiên nhiệt đới cùng với một nền văn hoá truyền thống đa dạng, đang vươn lên trở thành những điểm đến hấp dẫn nhất khu vực Đông Á - Thái Bình Dương và cả thế giới. Trong giai đoạn 2000 – 2009, du lịch ASEAN đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 6,94%/năm, từ 38 triệu lượt khách (năm 2000) lên 60,4 triệu lượt khách (năm 2009), chiếm 6,12% tổng số khách du lịch trên toàn thế giới. Trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, hiện nay các nước ASEAN chiếm đến 33% số lượng khách quốc tế và 24% thu nhập từ các hoạt động du lịch của khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Xu hướng này còn tiếp tục tăng trưởng trong tương lai, theo dự báo của WTO, cả năm 2010 lượng khách quốc tế đến khu vực Đông Nam Á là 72 triệu lượt, với mức tăng trưởng bình quân đạt khoảng 6 – 7%/năm, so với mức 1 – 2% của thời kỳ 1998 – 2000 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính trong khu vực. Trong đó các nước ở khu vực ASEAN như Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Singapore là những điểm đến hấp dẫn nhất trong khu vực, trong đó Thái Lan và Malaysia đã lọt vào danh mục hai mươi điểm đến thu hút được nhiều du khách nhất trên thế giới.
1.3. Xu thế phát triển trong tương lai:
Xu hướng phát triển của du lịch thế giới trong giai đoạn từ nay đến 2012 và các năm tiếp theo chịu ảnh hưởng không nhỏ từ những hệ luỵ của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ các năm 2008, 2009. Theo dự báo của các chuyên gia kinh tế hàng đầu thế giới thì du lịch thế giới sẽ suy giảm trong giai đoạn từ 2009 – 2011 và sớm nhất là đến cuối 2011 mới bắt đầu có dấu hiệu hồi phục, năm 2010 có sự suy giảm trong lượng khách du lịch trên thế giới, tốt độ tăng trưởng được dự báo sẽ giảm từ 1 – 3%/năm.
Dưới tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu, xu thế phổ biến của du lịch thế giới sẽ là ưu tiên lựa chọn những điểm đến có chi phí thấp. Các điểm đến có đặc tính gần gũi về khoảng cách địa lý, đang trong giai đoạn đầu phát triển, có nhiều chính sách khuyến mãi, giảm giá…sẽ có lợi thế lớn trong cạnh tranh thu hút khách du lịch.
2. Hiện trạng và xu thế phát triển của du lịch Việt Nam:
2.1. Hiện trạng:
Những năm đầu của thập kỷ 90 - thời kỳ đầu của quá trình đổi mới, tốc độ tăng trưởng của khách du lịch quốc tế vào Việt Nam tăng nhanh. Thời kỳ này Việt Nam được biết đến như là một điểm đến du lịch mới lạ và hấp dẫn ở khu vực Đông Nam Á, thu hút ngày càng nhiều khách đến du lịch với nhiều thành phần và mục đích khác nhau.
Năm 1990 Việt Nam đón được 250.000 du khách quốc tế, nhưng đến năm 1995 đã đón được trên 1,3 triệu lượt khách quốc tế (giai đoạn 1990 – 1995 tăng bình quân 40,3%). Đây là giai đoạn Việt Nam có tốc độ tăng trưởng khách du lịch quốc tế vào loại hàng đầu trong khu vực và trên thế giới, khoảng cách về khả năng thu hút du khách quốc tế giữa Việt Nam và các nước trong khu vực dần dần được thu ngắn lại.
Bước sang những năm tiếp theo từ 1996 – 1997, mặc dù số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam vẫn tăng, nhưng sự tăng trưởng hàng năm đã bắt đầu giảm sút. Năm 1996 Việt Nam đón được 1.607.155 khách, đến năm 1997 chỉ đón được 1.715.637 khách, trung bình tăng 12,4%/năm. Nguyên nhân cơ bản tình trạng về thị trường du khách trong giai đoạn này là:
- Thị trường Việt Nam dần trở nên quen thuộc với đa số khách du lịch quốc tế, sự hấp dẫn của một điểm du lịch mới lạ đã giảm dần.
- Các sản phẩm du lịch của Việt Nam chưa đổi mới và nâng cao chất lượng kịp thời nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của du khách, giá cả các sản phẩm du lịch chưa phù hợp và tương xứng với chất lượng nên phần nào đã hạn chế lượng khách du lịch quốc tế quay trở lại Việt Nam.
- Hoạt động xúc tiến, tuyên truyền quảng bá cho ngành du lịch Việt Nam còn nhiều bất cập và hạn chế đối với các thị trường truyền thống và thị trường tiềm năng.
Theo các thống kê hiện nay cho thấy số lượng khách du lịch nội địa ngày càng tăng lên do mức sống người ngày càng được cải thiện. Bên cạnh đó thì số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam cũng không ngừng tăng cao. Điển hình là vào năm 2003 mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề của đại dịch SARS nhưng Việt Nam vẫn đón được 2,2 triệu khách du lịch quốc tế, nộp ngân sách nhà nước hơn 20.000 tỷ đồng.
Trong giai đoạn 2000 – 2005, du lịch Việt Nam vẫn phát triển khá mạnh mẽ, lượng khách, thu nhập và GDP du lịch tăng tốc với tốc độ tăng trưởng khá cao hàng năm, tỷ trọng dịch vụ trong tổng thu nhập quốc dân tăng lên, tạo tiền đề đưa ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của cả nước.
Bảng 1.3: Hiện trạng khách du lịch đến Việt Nam theo thị trường
Đơn vị tính: 1.000 lượt khách
stt
Chỉ tiêu
2000
2005
2007
2009
TTBQ GIAI ĐOẠN
2000-2005
2005-2009
2000-2009
Tổng cộng
2.140,10
3.467,76
3.583,49
4.171,564
10,13%
9,68%
10%
1
Trung Quốc
492,00
752,58
516,29
558,719
8,87%
-13,84%
1,83%
2
Mỹ
95,80
333,57
385,65
412,301
28,34%
11,18%
23,18%
3
Nhật Bản
142,90
320,61
383,90
411,557
17,54%
13,30%
16,31%
4
Đài Loan
210,00
317,21
274,66
314,026
8,60%
-0,50%
5,92%
5
Hàn Quốc
-
286,32
421,74
475,535
-
28,87%
-
6
Úc
-
145,36
172,52
227,300
-
25,05%
-
7
Pháp
88,20
126,40
132,30
182,501
7,46%
20,16%
10,95%
8
Campuchia
-
186,54
154,96
150,655
-
-10,13%
-
9
Anh
53,90
80,88
84,26
105,918
8,46%
14,44%
10,13%
10
Đức
-
-
76,75
95,740
-
-
-
11
Thái Lan
20,80
84,10
123,80
160,747
32,24%
38,25%
33,93%
12
Các nuớc khác
1.036,50
834,19
856,65
1.076,565
-4,25%
13,60%
0,54%
Nguồn: TCDL Việt Nam, 2009
Các hoạt động du lịch đã thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch, thúc đẩy các ngành kinh tế, xã hội phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế của từng vùng và cả nước, tạo ra nhiều công ăn việc làm, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, góp phần xoá đói giảm nghèo, tạo động lực để phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
2.2. Cơ hội phát triển của du lịch Việt Nam:
Thế kỷ XXI tình hình thế giới sẽ có nhiều biến đổi sâu sắc với những bước nhảy vọt chưa từng thấy trong nhiều lĩnh vực. Toàn cầu hoá là xu hướng tất yếu khách quan. Trong bối cảnh đó, nhu cầu du lịch tăng mạnh, du lịch thế giới phát triển với xu thế chuyển dần sang khu vực Đông Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á.
Chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế toàn diện và sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho các ngành kinh tế đối ngoại (trong đó có du lịch) phát triển. Ngành du lịch tiếp tục được tập trung phát triển đúng với vai trò, vị trí là một ngành kinh tế quan trọng và dần tiến tới là ngành mũi nhọn của nền kinh tế của đất nước.
Đất nước, con người Việt Nam kiên cường bất khuất, Việt Nam có một nền chính trị ổn định, an ninh đảm bảo, là điểm du lịch còn tương đối mới trên bản đồ du lịch thế giới, cộng với tiềm năng phong phú và đa dạng về du lịch sẽ là điều kiện vô cùng thuận lợi và đặc biệt quan trọng để phát triển ngành du lịch.
Hệ thống pháp luật nước ta đang dần hoàn thiện. Hiện nay, Luật du lịch đã được Quốc Hội thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ năm 2006, là một cơ sở tiền đề quan trọng phục vụ cho quá trình xây dựng và phát triển ngành du lịch.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của nước ta đang và sẽ tiếp tục được đầu tư xây dựng mới và nâng cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác tiềm năng du lịch to lớn trên khắp các vùng miền của đất nước, tăng khả năng giao lưu giữa các vùng và phát triển mạnh mẽ hơn nữa các điểm, tuyến tham quan du lịch. Đời sống nhân dân được cải thiện, dẫn đến nhu cầu du lịch - đặc biệt là nhu cầu du lịch nội địa tăng nhanh.
Việt Nam được gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã và đang tạo ra những vận hội mới cho phát triển du lịch của nước ta.
Vị thế của Việt Nam là một điểm đến an toàn cho du khách trên toàn thế giới một lần nữa tiếp tục được khẳng định và nâng cao sau khi Việt Nam đã tổ chức thành công hội nghị APEC tại Hà Nội.
2.3. Những khó khăn, thách thức chung của ngành du lịch Việt Nam:
Tác động từ các cuộc khủng hoảng kinh tế trên quy mô lớn toàn cầu đã gây ra những khó khăn không nhỏ cho ngành du lịch Việt Nam khi lượng khách du lịch giảm xuống đáng kể, xu hướng cắt giảm chi phí trong các tour du lịch đang trở thành xu thế phổ biến. Dự kiến trong giai đoạn từ 2010 – 2011 số lượng du khách đến Việt Nam sẽ giảm khoảng từ 1 – 4%.
Cạnh tranh du lịch trong khu vực và thế giới ngày càng gay gắt, trong khi năng lực cạnh tranh của ngành du lịch Việt Nam nói chung còn rất hạn chế, đây là một trong những yếu điểm cần nhanh chóng khắc phục triệt để.
Du lịch Việt Nam đang ở vào thời kỳ đầu phát triển, từ xuất phát điểm quá thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Kinh nghiệm quản lý kinh doanh và trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, lao động hoạt động trong ngành còn nhiều hạn chế. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ các hoạt động du lịch còn nhiều yếu kém, bất cập và thiếu đồng bộ.
Tài nguyên du lịch, cảnh quan và môi trường đang có sự suy thoái rõ rệt do khai thác, sử dụng bất hợp lý và những tác động ngày càng bất thường của thiên nhiên như bão, lụt, động đất,…
Vốn đầu tư cho xây dựng, phát triển du lịch còn rất thiếu, trong khi sự đầu tư còn chưa đồng bộ, hiệu quả kém đang là thách thức không nhỏ đối với sự phát triển của ngành du lịch nước nhà.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội, mức sống của người dân ở nước ta nhìn chung còn thấp kém, ảnh hưởng rất nhiều đến mối quan hệ cung cầu đối với ngành du lịch.
Hệ thống cơ sở hạ tầng còn yếu kém, chưa đáp ứng một cách đầy đủ yêu cầu phát triển ngày càng cao của ngành du lịch.
Nhận thức của xã hội về ngành du lịch vẫn còn nhiều bất cập.
Hệ thống các chính sách, quy định pháp luật liên quan đến phát triển du lịch còn thiếu đồng bộ, chưa tạo điều kiện thông thoáng so với yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa quản lý và phát triển.
Gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là một lợi thế không thể phủ nhận nhưng cũng đem lại vô vàng những thách thức thực sự khi mà các doanh nghiệp hoạt động du lịch trong nước sẽ phải cạnh tranh bình đẳng với nhiều đối thủ mạnh, có tiềm lực và kinh nghiệm trên thế giới.
CHƯƠNG 2
HIỆN TRẠNG, TIỀM NĂNG VÀ ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN CỦA DU LỊCH TỈNH TÂY NINH
1. Hiện trạng phát triển du lịch tỉnh Tây Ninh:
Theo thống kê của Cục thống kê tỉnh Tây Ninh thì hoạt động du lịch năm 2009 vừa qua đã có những hướng chuyển biến rõ rệt với mức tăng tưởng cao.
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh khách sạn, nhà hàng và dịch vụ lữ hành năm 2009
Stt
ĐVT
Năm 2009
I
HOẠT ĐỘNG KHÁCH SẠN
-
Doanh thu
Triệu đồng
44.041
-
Lượt khách phục vụ
Lượt khách
210.415
-
Ngày khách phục vụ
Ngày khách
97.067
II
HOẠT ĐỘNG NHÀ HÀNG
-
Doanh thu
Triệu đồng
1.413.419
III
HOẠT ĐỘNG DU LỊCH LỮ HÀNH
-
Doanh thu
Triệu đồng
38.990
-
Lượt khách du lịch theo tour
Lượt khách
24.411
-
Ngày khách du lịch theo tour
Ngày khách
26.507
Nguồn: Cục thống kê Tây Ninh, 2009
Với con số thống kê số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam gần 3,43 triệu lượt khách, trong đó TP. HCM đã chiếm khoảng 70%. Đây được xem là một lợi thế vô cùng lớn cho phát triển du lịch các vùng phụ cận như Tây Ninh.
1.1. Hiện trạng du khách:
Theo thống kê của Cục thống kê tỉnh Tây Ninh thì Tây Ninh là một trong những tỉnh đón nhiều du khách nội địa nhất. Ước tính năm 2000 số lượng khách lưu trú là 31.456 lượt người, trong đó lượng khách người Việt Nam khoảng 30.643 lượt người và khách Quốc tế khoảng 813 lượt người; năm 2008 lên đến 355.780 lượt người, trong đó lượng khách Việt Nam khoảng 352.593 lượt người và lượng khách Quốc tế khoảng 3.187 lượt người. Tỷ trọng khách Quốc tế tăng theo từng năm, tuy nhiên vẫn còn chiếm một tỷ lệ tương đối thấp trong tổng số lượt khách du lịch đến Tây Ninh hàng năm.
Nhìn chung số lượng khách du lịch đến Tây Ninh tăng theo thống kê khách lưu trú, có thể xem đó là tín hiệu tốt cho sự phát triển du lịch ở khía cạnh kinh tế, bởi khách du lịch thuần tuý có mức chi tiêu cao và lưu trú dài ngày hơn so với các nhóm khách du lịch khác (trừ khách du lịch thương mại).
Bảng 2.2: Số khách lưu trú và số ngày lưu trú trong các năm
2000
2002
2004
2006
2008
2009
Số khách lưu trú (người)
31.456
59.960
34.410
369.865
355.780
218.413
Người Việt Nam
30.643
57.647
32.679
366.117
352.593
2.7.305
Người nước ngoài
813
2.313
2.345
3.748
3.187
3.106
Số ngày lưu trú (ngày)
29.803
78.662
55.350
171.046
266.141
297.066
Người Việt Nam
29.037
74.737
50.372
165.325
261.021
297.670
Người nước ngoài
766
3.925
4.978
5.721
5.120
4.397
Nguồn: Sở VH, TT và DL Tây Ninh, 2009
Qua các số liệu phân tích có thể nhận thấy rằng trong khoảng 5 năm trở lại đây, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam với mục đích tham quan du lịch thuần tuý tăng nhanh. Thị phần của các nhóm khách khác có xu thế giảm. Đây có thể xem là một trong những tín hiệu tốt cho sự phát triển du lịch bền vững ở khía cạnh kinh tế.
1.2. Doanh thu từ du lịch:
Doanh thu từ ngành du lịch tỉnh Tây Ninh chủ yếu là doanh thu từ lượng khách du lịch nội địa (khoảng 98%), doanh thu từ lượng khách du lịch quốc tế của tỉnh chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng doanh thu của ngành.
Trong tổng số doanh thu từ ngành du lịch của tỉnh Tây Ninh thì doanh thu từ dịch vụ ăn uống và bán các mặt hàng chiếm tỷ trọng đến 80%, còn doanh thu từ dịch vụ lưu trú chỉ chiếm 20%. Do đó, tỉnh Tây Ninh trong tương lai cần đầu tư mạnh hơn nữa cho dịch vụ lưu trú phục vụ du lịch, nhằm khai thác hiệu quả hơn nữa nguồn thu từ ngành dịch vụ quan trọng này.
Như vậy, mặc dù tỉnh Tây Ninh có nhiều tiềm năng phát triển dịch vụ du lịch, nhưng trong mấy năm gần đây xu hướng phát triển chung đang trên đà chậm lại. Đặc biệt là số lượng khách quốc tế giảm nhanh. Một trong số nhiều những nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy giảm nêu trên là sự đầu tư để phát triển ngành du lịch của tỉnh còn nhiều hạn chế và bất cập, hiệu quả đầu tư còn thấp, đầu tư còn dàn trải dẫn đến chưa phát huy hết tiềm năng du lịch vốn có của tỉnh nhà với rất nhiều những ưu điểm đặc thù mà vùng có như Hồ Dầu Tiếng. Vấn đề phát triển cảnh quan, môi trường sinh thái còn chưa tốt, nên lượng khách nước ngoài quay lại tỉnh còn quá ít, phần lớn không vì mục đích du lịch. Hơn nữa, ảnh hưởng từ hậu quả của các cuộc khủng hoảng kinh tế ở khu vực và thế giới trong thời gian qua ít nhiều đã làm suy giảm số lượng du khách vào nước ta nói chung và Tây Ninh nói riêng. Mặc dù vậy, số lượng khách du lịch nội địa đến tỉnh Tây Ninh tăng lên nhanh. Điều này nhìn chung đã gợi mở ra một hướng khai thác mới nhắm vào khách du lịch và lữ hành nội địa, vì một khi mức sống người dân tăng cao thì nhu cầu du lịch giải trí cũng vì thế mà tăng cao.
Bảng 2.3: Số Đơn vị kinh doanh du lịch nhà hàng, khách sạn qua các năm ở tỉnh Tây Ninh
2000
2001
2002
2003
2005
2007
2009
Du lịch
1
1
2
2
6
7
5
Khách sạn, nhà hàng
1.290
3.652
4.180
4.260
7.495
8.874
10.946
Nguồn: Sở TT, VH & Du lịch Tây Ninh, 2009
Kể từ năm 2003, số đơn vị kinh doanh du lịch, nhà hàng, khách sạn phục vụ hoạt động du lịch đã tăng nhanh đột biến, chỉ tính riêng trong năm 2005, số lượng các dịch vụ nhà hàng, khách sạn đã tăng gần gấp đôi so với năm 2003, đây có thể xem là một dấu hiệu đáng mừng và là cột mốc quan trọng đánh dấu cho bước phát triển khởi sắc mới của ngành du lịch tỉnh Tây Ninh.
1.3. Số người kinh doanh du lịch, khách sạn và nhà hàng trên địa bàn:
Hầu hết các dịch vụ kinh doanh phục vụ du lịch trên địa bàn tỉnh Tây Ninh đều do doanh nghiệp tư nhân và hộ cá thể quản lý khai thác. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi để người dân có thể phát huy sức lực và nguồn vốn để cải thiện đời sống, làm giàu cho chính bản thân và đóng góp cho xã hội.
Bảng 2.4: Số lượng người tham gia kinh doanh du lịch, nhà hàng, khách sạn theo các năm
2000
2001
2002
2003
2005
2007
2009
Du lịch
191
120
84
90
179
248
106
Khách sạn, nhà hàng
5.314
14.296
8.309
8.500
14.564
18.929
22.754
Nguồn: Sở VH, TT& DL Tây Ninh, 2009
1.4. Doanh thu từ ngành du lịch:
Với số lượng khách du lịch, lữ hành nội địa đến Tây Ninh chiếm đa số nên doanh thu của ngành cũng chủ yếu từ từ đối tượng khách này (khoảng 98%), doanh thu từ lượng khách quốc tế không đáng kể.
Bảng 2.5: Tổng doanh thu từ du lịch trên địa bàn tỉnh Tây Ninh
TT
2000
2002
2003
2005
2007
2009
1
Phân theo thành phần kinh tế
901.373
1.143.495
Tập thể
-
-
-
-
-
-
Tư nhân
-
17.392
3.485
4.344
4.493
11.601
Cá thể
-
594.550
583.600
567.852
857.693
1.116.680
hỗn hợp
-
-
-
-
-
-
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư
-
-
-
-
-
-
2
Phân loại theo doanh thu
Doanh thu dịch vụ
12.069
35.778
28.706
37.931
47.428
28.314
- Thuê phòng
2.755
5.948
5.665
12.700
15.425
19.995
- Lữ hành
-
29.830
23.041
25.231
32.399
8.319
Vận chuyển khách
75
-
-
-
-
-
Thu khác
9.239
-
-
-
-
-
Doanh thu bán hàng
64.698
320
680
740
-
-
Doanh thu ăn uống
3.587
582.905
582.298
564.175
853.549
1.115.181
Nguồn: Thống kê Sở VH, TT & DL Tây Ninh, 2009
Có thể nhận thấy rằng, trong tổng doanh thu của ngành du lịch tỉnh Tây Ninh thì doanh thu từ các dịch vụ ăn uống và bán hàng chiếm đa số (đến khoảng 95%), còn doanh thu từ các dịch vụ khác (lưu trú, vận chuyển khách,…) chỉ chiếm khoảng 5%. Trong tương lai khi khu du lịch Hồ Dầu Tiếng được đầu tư và đi vào hoạt động khai thác thì số lượng khách du lịch lưu trú lại trên địa bàn tỉnh Tây Ninh sẽ nhiều hơn và số ngày lưu trú sẽ được kéo dài hơn. Đây có thể sẽ là nguồn thu nhập chính cho ngành du lịch của tỉnh. Do đó, một yêu cầu cấp thiết cần đặt ra là cần phải đầu tư mạnh mẽ hơn nữa cho loại hình dịch vụ lưu trú phục vụ du lịch, nhằm khai thác tối đa hiệu quả từ nguồn thu này.
1.5. Đánh giá hiện trạng du lịch tỉnh Tây Ninh:
Ngành du lịch của tỉnh Tây Ninh đã có lịch sử phát triển hơn một thập kỷ. Trên cơ sở phân tích hiện trạng khách du lịch và doanh thu, có thể đánh giá việc phát triển du lịch của tỉnh nhìn chung còn chậm, hiệu quả kinh tế mang lại còn thấp và chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của tỉnh. Đặc biệt là số lượng khách quốc tế đến với Tây Ninh giảm nhanh. Một trong nhiều nguyên nhân giải thích cho tình trạng nêu trên là sự đầu tư để phát triển ngành du lịch còn thiếu và bất hợp lý, công tác quản lý còn yếu kém và nhiều bất cập, chưa tận dụng hết khả năng vốn có cũng như phát huy tối đa các đặc trưng độc đáo mang tính vùng miền để phục vụ phát triển du lịch. Vấn đề xây dựng, phát triển và bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái chưa tốt. Bên cạnh đó, sức hấp dẫn từ các dịch vụ còn nhiều hạn chế, các hoạt động giới thiệu tuyên truyền, quảng bá cho ngành du lịch của tỉnh vừa thiếu vừa yếu cũng góp phần vào sự phát triển trì trệ của ngành du lịch nói chung.
Mặc dù vậy, nhưng cho đến nay thì ngành du lịch tỉnh Tây Ninh vẫn chưa tìm ra được những hình thức, nội dung và các sản phẩm du lịch độc đáo, mang bản sắc riêng và có tính đặc trưng để qua đó có thể thu hút khách du lịch nhằm mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội cao.
Vì vậy, việc đánh giá tiềm năng, định hướng phát triển các loại hình du lịch, khai thác triệt để tiềm năng du lịch vốn có của Hồ Dầu Tiếng sẽ là bước đi quan trọng, cần thiết để làm cơ sở cho mục tiêu thu hút khách du lịch trở lại với Tây Ninh.
2. Tiềm năng phát triển:
2.1. Vị trí địa lý kinh tế và lợi thế phát triển du lịch:
Tây Ninh là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, một trung tâm kinh tế năng động và phát triển mạnh mẽ nhất của Việt Nam. So với các tỉnh cùng nằm trong vùng kinh tế trọng điểm, Tây Ninh có những lợi thế so sánh nhất định để phát triển du lịch dịch vụ.
Thứ nhất, Tây Ninh cách TP. HCM khoảng 99 km, là thị trường có nhu cầu lớn về nghỉ ngơi giải trí, du lịch sinh thái. Ngoài ra vị trí tiếp giáp với TP. HCM cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tại Tây Ninh có thể sử dụng các công trình hạ tầng kỹ thuật như cảng biển, sân bay,…hiện có của TP. HCM.
Thứ hai, Tây Ninh có lợi thế rất lớn trong việc thông thương và kết nối tour tuyến du lịch với Campuchia và các nước ASEAN khác. Tây Ninh có đường biên giới quốc gia dài 240 km, giáp với ba tỉnh của Campuchia. Với 14 cửa khẩu (bao gồm 2 cửa khẩu quốc tế, 4 cửa khẩu chính và 8 cửa khẩu phụ) thông thương sang Campuchia. Trong đó hai cửa khẩu quốc tế là Mộc Bài ở phía Nam và Xa Mát ở phía Bắc của tỉnh, là những nguồn cung cấp du khách quốc tế quan trọng cho tỉnh. Đặc biệt là với hai cửa khẩu quốc tế là Mộc Bài và Xa Mát, Tây Ninh có hai cửa ngõ thuận lợi nhất của khu vực để kết nối với Campuchia, Thái Lan và xa hơn nữa có thể là Ấn Độ. Cửa khẩu Mộc Bài là cửa khẩu thuận lợi nhất để đến Thủ đô Phnôm Phenh của Campuchia khi chỉ cách khoảng 150 km, còn cửa khẩu Xa Mát rất thuận lợi để kết nối với khu di tích nổi tiếng Angkor – Di sản văn hoá thế giới được UNESCO công nhận khi chỉ cách khoảng 300 km. Như vậy hai cửa khẩu này có thể giúp du khách từ Tây Ninh có thể đi lại một cách thuận lợi theo đường bộ đến Phnôm Phênh, khu di tích Angkor, biển hồ Tonle Sap và xa hơn nữa là đến với Thái Lan, Ấn Độ. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển loại hình du lịch Caravan – loại hình du lịch đang được ưu chuộng hiện nay.
Trong tương lai, Tây Ninh sẽ trở thành một trong những cửa ngõ quan trọng trong việc phát triển các mối quan hệ về kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và các nước trong khối ASEAN, cũng như các nước vùng Trung Á thông qua tuyến đường bộ xuyên Á.
2.2. Điều kiện và tài nguyên du lịch tự nhiên:
2.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên:
Điều kiện tự nhiên của Tây Ninh khá thích hợp cho việc phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân với các đặc điểm chính:
Khí hậu ôn hoà, chia làm hai mùa là mùa khô từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau và mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11. Lượng mưa trung bình cả năm từ 1.800 mm – 2.200 mm, độ ẩm trung bình trong năm vào khoảng 70 – 80 %, chế độ bức xạ dồi dào, nhiệt độ cao và ổn định, ít chịu ảnh hượng của bão và các hiện tượng thời tiết bất lợi.
Địa hình tương đối bằng phẳng, độ dốc không lớn, nhìn chung giảm dần độ cao từ phía Đông Bắc xuống Tây Nam. Tây Ninh có núi Bà Đen, cao nhất cùng Đông Nam Bộ (986 m) tạo thành thắng cảnh nổi tiếng của cả khu vực.
Hệ sinh thái của của Tây Ninh mang nhiều đặc tính sinh thái của rừng nhiệt đới miền Đông Nam Bộ với hệ động vật rừng tương đối đa dạng, tập trung chủ yếu ở khu vực Vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát.
Tây Ninh tương đối nhiều mưa, đó là nguồn nước khá dồi dào để nuôi sống hệ thống sông ngòi trong tỉnh, tạo ra dòng chảy trung bình từ 20 – 30 l/s/km2. Lượng nước trong năm của sông ngòi thay đổi theo mùa rõ rệt. Mùa lũ ứng với mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9, chiếm tới 85% tổng lượng nước của cả năm, lũ lớn nhất thường là vào tháng 9.
Với tổng chiều dài sông suối khoảng 469 km, Tây Ninh có mật độ mạng lưới sông ngòi tương đối thấp so với các nơi khác (trung bình 0,31 km/km2). Hai con sông lớn nhất của tỉnh là sông Vàm Cỏ Đông và sông Sài Gòn, hai sông này chịu ảnh hưởng của thuỷ triều từ Biển Đông với chế độ bán nhật triều, thượng lưu sông Sài Gòn là hồ thuỷ lợi Dầu Tiếng.
2.2.2. Tài nguyên du lịch tự nhiên:
2.2.2.1. Núi Bà Đen:
Hình 2.1: Núi Bà Đen
Núi Bà Đen nằm ở phía Đông Bắc thị xã Tây Ninh, là khu vực có thắng cảnh đẹp, khí hậu mát mẻ trong lành, cùng với đó là rất nhiều di tích văn hoá n._.hư Chùa chiền, Hang động. Các Lễ hội diễn ra và dịp đầu năm âm lịch đã thu hút được một lượng lớn khách du lịch trong tỉnh cũng như các khu vực khác đổ về. Hiện nay, các Lễ hội này hàng năm thu hút được khoảng 1,5 triệu lượt khách tham quan, chiếm khoảng 90% tổng lượng khách du lịch của tỉnh. Trong quần thể Núi Bà Đen có rất nhiều di tích có giá trị, trong đó Thiên Ma Lãnh là một trong những khu vực có giá trị lớn nhất về du lịch và nghỉ dưỡng, du lịch cuối tuần. Khu vực Thiên Ma Lãnh là một thung lũng được tạo thành bởi 3 ngọn núi lớn của núi Bà Đen, đây là khu vực có môi trường trong lành, khí hậu mát mẻ dễ chịu, là điều kiện vô cùng thuận lợi để phát triển các loại hình như du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm,…
Hiện nay, tỉnh Tây Ninh đã có Quy hoạch chi tiết khu du lịch Thiên Ma Lãnh: gồm 96 ha, với 80 ha rừng và 16 ha đất nông nghiệp vòng theo chân núi Bà Đen. Theo Quy hoạch dự án, các hạng mục sẽ được xây dựng và phát triển bao gồm: khu du lịch cộng đồng với diện tích 0,3 ha; khu đón tiếp du khách, khu quản lý và khu biệt thự nghỉ dưỡng 15 ha; khu du lịch dịch vụ sinh thái, thể thao với diện tích 33 ha và khu vui chơi giải trí nghỉ dưỡng với diện tích 45 ha.
2.2.2.2. Hồ Dầu Tiếng:
Hồ Dầu Tiếng nằm trên địa bàn huyện Dương Minh Châu, cách thị xã Tây Ninh khoảng 20Km về hướng Đông Bắc và cách TP. HCM khoảng 70 km về phía Bắc. Đây là hồ nước nhân tạo lớn nhất khu vực miền Nam với diện tích 27.000 ha mặt nước, 4.560 ha đất bán ngập, dung tích 1,5 tỷ m3 nước, mực nước dao động trung bình từ 17 – 24 m, là điều kiện vô cùng thuận lợi để hình thành và phát triển các khu du lịch nghỉ dưỡng, giải trí, thể thao, công viên rừng, khu săn bắn, câu cá, bãi tắm, du thuyền và các môn thể thao dưới nước.
2.2.2.3. Vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát:
Hình 2.2: Cò Quắm
Hình 2.1: Núi Bà Đen
Nằm ở khu vực phía bắc của tỉnh Tây Ninh, giáp với biên giới Campuchia, thuộc địa phận 3 xã Tân Lập, Hoà Hiệp và Tân Bình của huyện Tân Biên, cách thị xã Tây Ninh khoảng 30 km về phía Bắc. Đây là khu vực chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ, khu vực Tây Nguyên và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đặc trưng nổi bật của vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát là cảnh quan với hệ sinh thái rừng nhiệt đới, các trảng thực vật cây họ Dầu rụng lá vào mùa khô, ngập nước vào mùa mưa, tạo nên một vùng đất ngập nước theo mùa khá độc đáo; là nơi cư trú của hơn 130 loài chim nước, tiêu biểu là loại chim Quắm cánh xanh, cò Quắm lớn,… Đặc biệt, tại đây có tới 6 loài chim quý hiếm, đã được ghi vào sách đỏ Việt Nam.
2.2.2.4. Sông Vàm Cỏ Đông:
Sông Vàm Cỏ Đông là dòng sông lớn nhất khu vực Đông Nam Bộ, với lòng sông rộng, lưu vực hai bên bờ sông bằng phẳng là điều kiện vô cùng thuận lợi để xây dựng mô hình các trang trại miệt vườn phục vụ nhu cầu du lịch giải trí sinh thái cuối tuần như ẩm thực sông nước, câu cá thư giãn của khách du lịch cuối tuần trong tỉnh và các vùng phụ cận, đặc biệt là nguồn khách du lịch từ TP. HCM.
Ngoài ra, phát triển loại hình du lịch sinh thái sông nước trên sông Vàm Cỏ Đông còn có khả năng thu hút một lượng khách du lịch không nhỏ theo tuyến đường sông vào mùa Lễ hội núi Bà Đen, đồng thời hình thành một tour du lịch sông nước hấp dẫn, góp phần đa dạng hoá các sản phẩm du lịch của tỉnh Tây Ninh.
Ngoài các điểm du lịch chủ yếu nêu trên, tiềm năng du lịch của tỉnh Tây Ninh còn rất lớn nhưng vẫn chưa được khai thác như: tiềm năng du lịch sinh thái ở khu vực Trảng Bàng, du lịch sinh thái ở khu vực Mộc Bài,…
2.2.2.5. Rạch Trưởng Chừa – Trảng Bàng:
Xây dựng khu nghỉ dưỡng, công viên sinh thái, thương mại dịch vụ, cắm trại kết hợp du lịch sinh thái, du lịch văn hoá (địa đạo văn hoá, ẩm thực địa phương) nhằm phục vụ nhu cầu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng cuối tuần của khu công nghiệp Trảng Bàng và khách du lịch từ Bình Dương, TP. HCM.
2.3. Tài nguyên du lịch nhân văn:
2.3.1. Di tích lịch sử - văn hoá:
Nếu tính các di tích lịch sử - văn hoá được Nhà nước xếp hạng so với nhiều tỉnh khác, Tây Ninh không có nhiều, tuy nhiên các di tích với quy mô nhỏ hơn thì khá phong phú. Có thể chia thành các nhóm sau:
2.3.1.1. Các di tích gắn với tôn giáo:
Hình 2.3: Toà thánh Tây Ninh
Ở Tây Ninh có nhiều tôn giáo khác nhau nhưng nổi bật nhất vẫn là đạo Cao Đài. Số lượng người theo đạo Cao Đài chiếm đông nhất. Ngoài ra còn có đạo Thiên Chúa, đạo Phật, đạo Tin Lành, đạo Hồi,… về số lượng nơi thờ tự, chiếm số lượng nhiều nhất là đạo Phật (81 Chùa) và đạo Cao Đài (57 Thánh Thất), đạo Thiên Chúa (25 Nhà thờ). Các tôn giáo khác có số lượng thờ tự ít hơn nhiều. Mỗi tôn giáo có một kiểu kiến trúc riêng làm cho các nơi thờ tự rất đa dạng. Đây có thể xem là một lợi thế của Tây Ninh trong việc thu hút khách du lịch thập phương.
Nổi bật lên trong số các công trình kiến trúc tôn giáo của tỉnh Tây Ninh là Toà Thánh Tây Ninh, một công trình kiến trúc lớn có sự kết hợp giữa kiến trúc phương Tây và kiến trúc phương Đông tạo thành một kiến trúc độc đáo, đặc sắc.
Cùng với Toà thánh Tây Ninh, các ngôi chùa ở núi Bà Đen là những công trình kiến trúc được xây dựng kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên của thắng cảnh núi Bà Đen với sự kết hợp khéo léo, tài tình của bàn tay con người, tất cả tạo thành một quần thể di tích có giá trị văn hoá cao.
2.3.1.2. Các di tích gắn với các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc:
Hình 2.4: Trung Ương Cục Miền Nam
Tây Ninh là một trong những địa phương giàu truyền thống cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nơi đây từng là căn cứ của Trung Ương Cục Miền Nam, là thủ đô của Chính phủ cách mạng lâm thời. Khu di tích lịch sử căn cứ cách mạng Trung Ương Cục Miền Nam đã được xếp hạng , thuộc huyện Tân Biên và một phần huyện Tân Châu, với diện tích trên 70.000 m2 với nhiều công trình khác nhau. Bao gồm hệ thống giao thông hào, hầm trú ẩn chữ A, hội trường ngầm và công sự chiến đấu bao quanh khu làm việc. Hệ thống rừng nguyên sinh hiện có là địa điểm lý tưởng để du lịch cắm trại, học tập, nghiên cứu hệ sinh thái của rừng miền Đông.
Ngoài khu di tích căn cứ Trung Ương Cục miền Nam đã được xếp hạng, tỉnh Tây Ninh còn có một số còn có một số di tích khác như căn cứ Bời Lời (căn cứ tỉnh Uỷ Tây Ninh và Sài Gòn – Gia Định), chiến khu Dương Minh Châu, địa đạo An Thới và nhiều di tích khác.
Các di tích lịch sử cách mạng này là tiềm năng lớn để phát triển các loại hình du lịch về nguồn, có tác dụng tôn vinh những giá trị lịch sử, thành quả đấu tranh của nhiều thế hệ đi trước, đồng thời có tác dụng to lớn trong việc giáo dục các thế hệ trẻ về lòng yêu nước, truyền thống cách mạng và sự biết ơn đối với những người đã có công trong các cuộc kháng chiến cứu nước.
2.3.1.3. Các di chỉ khảo cổ:
Ngoài hai nhóm nêu trên còn có một vài di chỉ khảo cổ (An Thạnh, Bến Cầu), tháp Bình Thạnh – một trong số ít những tháp còn lại ở Nam Bộ tiêu biểu cho nền văn hoá Óc Eo.
Về chất lượng di tích, mỗi di tích đều có sắc thái và dấu ấn lịch sử riêng biệt. Các di tích phần nhiều là các là các công trình nghệ thuật đặc sắc với kiến trúc độc đáo.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, một số các di tích nhất là các di tích gắn liền với phong trào cách mạng đã không còn giữ nguyên vẹn. Tuy nhiên hiện nay việc phục chế và tôn tạo các di tích này đang được thực hiện nhằm tái tạo và gìn giữ các giá trị vô giá của dân tộc.
2.3.2. Các lễ hội:
Các Lễ hội ở Tây Ninh là Lễ hội gắn liền với các tín ngưỡng tôn giáo. Các ngày Lễ hội có khả năng thu hút khách du lịch đến tham quan, nghiên cứu.
Lễ hội nổi tiếng và hấp dẫn, thu hút được số lượng lớn khách du lịch (khoảng 1,5 triệu du khách) đến từ khắp nơi là Lễ hội Núi Bà vào dịp tháng Giêng Âm lịch hằng năm. Đây là một trong số các Lễ hội lớn nhất của khu vực phía Nam và cả nước.
Ngoài ra các Lễ hội của đạo Cao Đài như Lễ hội Đấng Chí Tôn (ngày 8 – 9 tháng 1), lễ hội Thượng Ngươn (ngày 15 tháng 1), Phật Mẫu (ngày 15 tháng 6), Trung Ngươn (ngày 15 tháng 8), Hạ Ngươn (ngày 15 tháng 10)… cũng là những dịp sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng và tâm linh.
Các Lễ hội này là những sự kiện văn hoá đầy màu sắc và mang đặc trưng văn hoá dân tộc, có giá trị hấp dẫn đối với khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế.
2.3.3. Các tài nguyên nhân văn khác:
Các đặc trưng văn hoá dân tộc thiểu số cũng được coi là một trong những tài nguyên nhân văn có thể phục vụ cho mục đích khai thác du lịch. Mỗi dân tộc có những phong tục, tập quán riêng có thể hấp dẫn đối với khách du lịch. Ngoài người Kinh chiếm đa số, Tây Ninh còn có nhiều dân tộc thiểu số khác như Hoa, Khơme, Chàm, Mường, Tày, Nùng, Thái, Xinh Mun, Phù Lá, Bana và một số dân tộc thiểu số khác.
Bên cạnh đó, các loại tài nguyên nhân văn khác như các làng nghề truyền thống, nền văn hoá truyền khẩu, các món ăn đặc sản của địa phương cũng là các yếu tố có thể khai thác phục vụ các hoạt động du lịch.
2.4. Du lịch thương mại cửa khẩu:
Với 240 km đường biên giới với Campuchia, trong đó có 14 cửa khẩu, đặc biệt là hai cửa khẩu quốc tế Mộc Bài và Xa Mát là những cửa ngõ thuận lợi nhất đến Phnom Phenh, Angkor Vat và xa hơn là các nước Thái Lan và các nước trong khối ASEAN.
Hiện nay, các cửa khẩu của Tây Ninh mới chỉ phát triển chủ yếu với vai trò thương mại, song trong thời gian tới khi tuyến đường xuyên Á hoàn thành đồng thời với việc đơn giản hoá các thủ tục nhập cảnh, thuận tiện hơn thì đây sẽ là cửa ngõ quan trọng ở khu vực Đông Nam Bộ để đón khách du lịch vào Việt Nam và đưa khách từ thị trường trong nước đến các nước trong khu vực.
2.5. Đánh giá về tài nguyên du lịch:
Đánh giá vị trí, tài nguyên du lịch Tây Ninh trong tình hình mới:
Từ năm 1995, tỉnh Tây Ninh đã xây dựng quy hoạch về du lịch, trong đó đã xác định, đánh giá về các tiềm năng thế mạnh du lịch của tỉnh. Tuy nhiên trong tình hình mới hiện nay, cần phải có những đánh giá lại trên quan điểm tổng hợp, phù hợp hơn với điều kiện hiện trạng, làm cơ sở để xây dựng các định hướng phát triển du lịch phù hợp với khu vực và thế giới.
Thứ nhất, Tây Ninh có vị trí quan trọng và rất thuận lợi để để khai thác du lịch quốc tế từ các thị trường như Campuchia, Thái Lan và các nước khác trong khu vực ASEAN.
Thứ hai, Tây Ninh có vai trò là cửa ngõ đi vào phía Tây của Việt Nam và TP. HCM thông qua tuyến đường xuyên Á. Đây được xem là điều kiện thuận lợi để Tây Ninh phát triển mạnh các loại hình du lịch cuối tuần, du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng và du lịch quốc tế (du lịch khu vực ASEAN và du lịch Châu Á) đối với thị trường TP. HCM.
Thứ ba, tiềm năng du lịch của Tây Ninh tuy không thật nhiều nhưng khá độc đáo, có nhiều nét đặc sắc và có giá trị lớn như khu du lịch núi Bà Đen với một trong những Lễ hội lớn và thu hút nhất Việt Nam; hồ Dầu Tiếng; Vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát; Toà thánh Cao Đài Tây Ninh; di tích Trung Ương Cục miền Nam.
Thứ tư, tiềm năng du lịch sông nước ở khu vực sông Vàm Cỏ Đông và sông Sài Gòn cũng là tiềm năng có giá trị lớn, có khả năng khai thác để đa dạng hoá các sản phẩm và tăng tính hấp dẫn của ngành du lịch.
CHƯƠNG 3
TIỀM NĂNG DU LỊCH HỒ DẦU TIẾNG
1. Giới thiệu khái quát hồ Dầu Tiếng:
1.1. Các chỉ tiêu thiết kế kỹ thuật:
Hình 3.1: Vị trí hồ Dầu Tiếng
Căn cứ theo Quyết định số 498-TTg ngày 12 tháng 10 năm 1993 của Thủ tướng Chính phủ:
- Cấp công trình: công trình cấp I
(theo TCVN-08-76);
- Tần suất đảm bảo chống lũ:
P = 0,1%;
- Lưu lượng xả lũ thiết kế:
QP=0,1% = 2.800 m3 /s;
- Tần suất đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp: P = 75%;
- Diện tích lưu vực F = 2.700 km2;
- Diện tích mặt hồ ứng với mực nước dâng bình thường: Fhbt = 270 km2 ;
- Diện tích mặt hồ ứng với mực nước chết: Fhc = 110 km2;
- Chế độ điều tiết: nhiều năm;
1.2. Công trình đầu mối:
1.2.1. Hồ Chứa:
- Mực nước dâng bình thường: hbt = +24,4 m;
- Mực nước lũ thiết kế: hltk = +25,1 m;
- Mực nước chết: Hc = +17,0 m;
- Tổng dung tích: W = 1,58 tỷ m3;
- Dung tích hữu ích: Whd = 1,11 tỷ m3;
- Dung tích ứng với mực nước chết: Wc = 0,47 tỷ m3;
1.2.2. Đập chính:
Hình 3.2: Cửa dẫn lũ
Những chỉ tiêu cơ bản của đập chính;
- Hình thức kết cấu: đập đất đồng chất;
- Cao trình đỉnh đập: +28,0 m;
- Tường chắc sóng: bê tông cốt thép cao 1m;
- Chiều rộng mặt đập: +8,0 m;
- Chiều dài đập: 1.100 m;
- Mái đập thượng lưu: M1 = 3,5; 4,0; 1,5.
- Mái đập hạ lưu: M2 = 3,5; 4,5; 2,5.
- Đập có hai cơ rộng 4m ở cao trình: +19,5 m và +12,5 m;
- Bảo vệ mái thượng lưu từ cao trình +19,5 m trở lên bằng tấm lát bê tông, từ cao trình +19,5 m trở xuống lát bằng đá;
- Bảo vệ mái hạ lưu bằng trồng cỏ và rảnh tiêu thoát nước;
1.2.3. Đập phụ:
Những chỉ tiêu cơ bản của đập phụ:
- Hình thức kết cấu: đập đất đồng chất;
- Cao trình đỉnh đập: +27,0 m;
- Tường chắn sóng: bằng đá cao 1 m;
- Chiều rộng mặt đập: 5,0 m;
- Chiều dài đập: 27.200 m;
- Mái đập thượng lưu: M1 = 3,5;
- Mái đập hạ lưu: M2 = 2,5; 3,5;
- Bảo vệ mái thượng lưu bằng lát đá;
- Bảo vệ mái hạ lưu bằng trồng cỏ và rảnh tiêu thoát nước;
1.2.4. Đập tràn xả lũ:
Những chỉ tiêu chính:
- Hình thức kết cấu: Kiểu tràn sâu, có 6 cửa thoát nước, mỗi cửa rộng 10 m, cao 6 m có tường ngực;
- Ngưỡng tràn kiểu đập tràn, đỉnh rộng, cao trình đỉnh tràn: +14 m;
- Tiêu năng bằng máng phun, cửa hình cung bằng thép, có phai sửa chữa, đóng mở bằng hệ thống pittông thuỷ lực.
- Sau tràn là dẫn lũ ra sông Sài Gòn với chiều dài 1.000 m;
1.2.5. Cống số 1:
Cống số 1 đặt ở thềm bên phải sông Sài Gòn với hình thức kết cấu cống ngầm dưới đập đất, có 3 cửa hình chữ nhật. Mỗi cửa rộng 3 m, cao 4 m bằng bê thông cốt thép, ngưỡng cống ở cao trình +13 m, cửa lấy nước kiểu phẳng. Chế độ thuỷ lực chảy trong cống không có áp, lưu lượng qua cống ứng với mực nước dâng bình thường + 24,4 m là 93 m3/s.
1.2.6. Cống số 2:
Cống số 2 đặt ở bờ phải vách suối Đá với hình thức kết cấu kiểu cống ngầm dưới đập đất (đập phụ), có 3 cửa hình chữ nhật, mỗi cửa có chiều rộng 3 m, cao 4 m bằng bê tông cốt thép. Cao trình ngưỡng cống +13 m. Cửa lấy nước kiểu phẳng. Chế độ thuỷ lực chảy trong ống không áp, lưu lượng qua cống ứng với mực nước dâng bình thường +24,4 m là 93 m3/s.
1.2.7. Cống số 3:
Lấy nước vào kênh Tân Hưng, có một cửa xả 3 * 3 m, cao trình ngưỡng cống +17,75m, lưư lượng thiết kế QTK = 12,8 m3/s.
1.3. Hệ thống kênh:
1.3.1. Hệ thống kênh Đông:
Hình 3.3: Kênh Đông
Gồm 1 kênh chính và 44 kênh cấp I. Ngoài ra còn có các kênh cấp 2, 3, 4 và các trạm bơm lấy nước từ kênh để phục vụ tưới cho các vùng cục bộ. Hệ thống kênh Đông có nhiệm vụ tưới cho 41.000 ha và cung cấp nước phục vụ sinh hoạt trong vùng.
Kênh chính Đông dài 45,416 km, cao trình mực nước đầu kênh +16,5 m, cao trình mực nước cuối kênh là +8,8 m.
Lưu lượng đầu kênh: Qtk = 64,54 m3/s;
Chiều rộng đáy kênh đoạn đầu: Hk = 25 m;
Chiều sâu cột nước thiết kế: Htk = 3,79 m;
Độ dốc đáy kênh: thay đổi từ 0,4x 10-4 đến 0,9 x 10-4;
Chiều rộng bờ kênh chính: 6 m;
Tổng chiều dài kênh cấp I là: 210 km;
Tổng chiều dài kênh cấp II là: 675 km;
1.3.2. Hệ thống kênh Tây:
Gồm 1 kênh chính và 22 kênh cấp I. Ngoài ra còn có hệ thống kênh cấp 2, 3, 4 và các trạm bơm lấy nước từ kênh phục vụ tưới cho các vùng cục bộ. Hệ thống kênh Tây có nhiệm vụ tưới cho 41.689 ha và cung cấp nước sinh hoạt cho vùng.
Kênh Tây dài: 38,750 km;
Cao trình mực nước đầu kênh: +16,5 m;
Cao trình mực nước cuối kênh: 13,47 m;
Lưu lượng đầu kênh chính: Qtk = 71,9 m3 /s;
Chiều rộng đáy kênh đoạn đầu: BK = 25 m;
Chiều sâu mực nước đầu kênh: Htk = 3,0 m;
Độ dốc đáy kênh: thay đổi từ 0,5x 10-4 đến 0,9x 10-4;
Chiều rộng bờ kênh: 6 m;
Tổng chiều dài kênh cấp I: 145 km;
Tổng chiều dài kênh cấp II là: 466 km;
1.3.3. Hệ thống kênh Tân Hưng:
Có tổng chiều dài 20 km, có nhiệm vụ cấp nước tưới cho 10.701 ha. Ngoài ra còn có nhiệm vụ cấp nước cho nhà máy đường Boubors với công suất 8.000 tấn/ ngày.
1.4. Nhiệm vụ của hồ thuỷ lợi Dầu Tiếng:
1.4.1. Nhiệm vụ trước mắt:
1.4.1.1. Cấp nước tự chảy cho 64.830 ha, trong đó bao gồm:
- Tỉnh Tây Ninh: 52.800 ha;
- TP. HCM (huyện Củ Chi): 12.000 ha;
1.4.1.2. Cấp nước tạo nguồn ổ định cho vùng hạ du: 40.100 ha (Tây Ninh: 16.640 ha; Long An: 21.500 ha; Bình Dương: 2.000 ha);
1.4.1.3. Xả nước vào sông Sài Gòn vào mùa kiệt, giữ nguyên tình hình như khi chưa có hồ;
1.4.1.4. Cấp nước cho các nhà máy cấp nước của TP. HCM từ tháng 1 đến tháng 7 hàng năm, với lưu lượng cấp Qc = 7,3 m3/s;
1.4.1.5. Tạo nguồn mở rộng các dự án vùng hạ du bằng 25.000 ha, trong đó:
- Khu Bến Cầu – Tây Ninh = 5.000 ha;
- Khu Lộc Giang, Hiệp Hoà – Long An = 5.000 ha;
- Khu Hóc Môn, Bắc Bình Chánh, Bến Mương, Láng The – TP. HCM = 15.000 ha;
1.4.1.6. Cấp nước cho khu tưới Tân Hưng: 10.701 ha;
1.4.1.7. Cấp nước cho nhà máy đường Boubors, với lưu lượng Q = 1m3/s;
1.4.2. Nhiệm vụ lâu dài:
1.4.2.1. Cấp nước tưới trực tiếp cho 93.390 ha, trong đó bao gồm:
- Tây Ninh: 78.830 ha;
- TP. HCM : 14.560 ha, cấp cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt.
Hình 3.4: Mạng lưới dự kiến lấy nước từ hồ Dầu Tiếng cấp nước sinh hoạt TP.HCM
1.4.2.2. Tạo nguồn cho 40.140 ha, bao gồm: tỉnh Tây Ninh: 16.640 ha; Long An: 21.500 ha; Bình Dương: 2.000 ha;
1.4.2.3. Bảo đảm nước tưới cho toàn bộ diện tích sản xuất Đông Xuân và Hè Thu cho các vùng dọc theo sông Sài Gòn, kết hợp với nguồn từ sông Bé sang.
2. Vị trí địa lý hồ Dầu Tiếng:
Hình 3.5: Hồ Dầu Tiếng
Hồ Dầu Tiếng có hình chữ V, cao dần về phía Bắc, phía thượng nguồn sông Tha La và sông Sài Gòn, hồ rộng 27.000 ha. Trong đó, diện tích đất không ngập nước là 1.429 ha, đất bán ngập nước là 4.460 ha, hồ có dung tích chứa nước là 1,58 tỷ m3.
Hai bên nhánh của hồ về phía hướng Tây Bắc là núi Bà Đen, phía Đông Bắc là dãy núi Cậu (trên địa phận tỉnh Bình Dương) là dãy núi cao nhất vùng Nam Bộ. Hồ Dầu Tiếng có toạ độ địa lý như sau:
- Từ 11018’ 52” đến 11036’ 15” vĩ Bắc.
- Từ 106010’ 49” đến 106029 ’ 07” kinh Đông.
- Tâm hồ: Vĩ độ 11027’ 01” Bắc, Kinh độ 106018’ 40” Đông.
Hồ Dầu Tiếng cách thị xã Tây Ninh 20 km về phía Đông Bắc, và cách TP. HCM 100 km về phía Bắc. Hồ nằm trên địa bàn các huyện Dương Minh Châu, Tân Châu (tỉnh Tây Ninh và huyện Dầu Tiếng (tỉnh Bình Dương).
3. Đặc điểm khí hậu:
Khu vực hồ Dầu Tiếng có chế độ thời tiết mang những nét đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa: nóng, ẩm, mưa nhiều theo mùa, không có mùa đông lạnh, không có bão và ít chịu tác động của các hiện tường thiên nhiên tiêu cực. Thời tiết chia làm hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Khí hậu ở đây trong lành, mát mẻ, rất thuận lợi cho các hoạt động du lịch thư giãn, giải trí của du khách.
- Chế độ nhiệt: nhiệt độ không khí trung bình cả năm là: 27 oC, nhiệt độ cao tuyệt đối được xác định là: 39 oC, nhiệt độ thấp tuyệt đối là: 15 oC.
Chế độ nhiệt chung của tỉnh Tây Ninh tương đối cao, vì vậy hồ Dầu Tiếng được đánh giá là có nhiều lợi thế trong việc xây dựng và phát triển các loại hình du lịch sinh thái kết hợp với nghỉ ngơi và dưỡng bệnh.
- Lượng bốc hơi: Lượng bốc hơi trung bình năm: 1.489 mm, cao nhất vào mùa khô là: 950 mm, thấp nhất là: 540 mm vào mùa mưa.
- Chế độ gió: Hướng gió thịnh hành là Đông Bắc và Tây Nam, tốc độ gió trung bình được xác định là 1,6 m/s thổi điều hoà, ít có biến động qua các tháng, không có bão nhưng vào mùa mưa thì thường có giông với sức gió trung bình đạt cấp 6, cấp 7 nên cũng gây ra ít nhiều những ảnh hưởng đến đời sống và các hoạt động sản xuất của nhân dân trong vùng.
- Lượng mưa: Lượng mưa trung bình năm: 1.990 mm, số ngày mưa cả năm trung bình từ 152 – 155 ngày, lượng mưa cao nhất được xác định vào khoảng: 2.346 mm.
Chế độ mưa ảnh hưởng theo mùa đã ảnh hưởng đến các hoạt động du lịch trong vùng, từ đó tác động hình thành nên mùa du lịch: mùa khô có nhiều thuận lợi cho các hoạt động du lịch nhưng vào mùa mưa thì gây nên nhiều bất lợi, đây là đặc điểm cần được lưu ý trong quá trình xây dựng định hướng phát triển du lịch, nhằm tìm ra những giải pháp hợp lý nhất để tổ chức các hoạt động kinh doanh du lịch ở đây.
- Độ ẩm không khí: Độ ẩm không khí trung bình cả năm: 79%, độ ẩm không khí thấp nhất 42% vào mùa khô.
Độ ẩm của không khí khu vực bình quân trong năm là 79% như trên, là tương đối cao do chịu sự tác động của nước mặt hồ Dầu Tiếng đã làm cho thời tiết dễ chịu hơn vào những tháng mùa khô. Tuy nhiên, vào các tháng mùa mưa độ ẩm tương đối cao hơn mùa khô từ 10 – 12%, tạo ra một bầu không khí ẩm ướt, vì vậy cần chú ý khi xây dựng các khu du lịch nghỉ dưỡng phải có độ thông thoáng cao.
Nhìn chung điều kiện khí hậu nơi đây vô cùng thuận lợi cho sự phát triển của các loài động thực vật, là tiền đề quan trọng tạo nên sự đa dạng phong phú của các loài động thực vật và tạo cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp thuận lợi cho các hoạt động du lịch. Vào mùa mưa nước lớn hạn chế các hoạt động du lịch nhưng có thể có các loại hình du lịch khác thích hợp thay thế. Bên cạnh đó cần cẩn trọng với các hoạt động vì sức gió, sóng trên hồ trong những buổi chiều là mặt hạn chế.
4. Tiềm năng nước mặt:
Hình 3.6: Nước mặt hồ Dầu Tiếng
Hình 3.3: Vị trí hồ Dầu Tiếng
Hồ Dầu Tiếng được xây dựng tại khu vực thượng nguồn của sông Sài Gòn với dung tích chứa khoảng 1,58 tỷ m3 nước. Nguồn nước trong hồ là lượng nước được dự trữ lại trong mùa mưa do sông Sài Gòn và sông Tha La dồn xuống cùng với vùng lưu vực phía Bắc của hồ. Do lượng nước tập trung vào mùa mưa tương đối lớn nên mực nước trong hồ có sự chênh lệch giữa hai mùa khá lớn.
Tiềm năng về nguồn nước của hồ Dầu Tiếng đáp ứng cho việc tưới trong sản xuất nông nghiệp thông qua hai hệ thống kênh chính: kênh Đông và kênh Tây, đã cung cấp nước tưới cho khoảng trên 100 ngàn ha đất canh tác của tỉnh Tây Ninh và các tỉnh lân cận như TP. HCM và Long An. Ngoài ra, hồ Dầu Tiếng còn cung cấp lượng nước phục vụ cho sinh hoạt khoảng 1,5 triệu m3. Đồng thời hồ còn có tác dụng rất lớn là xả nước để đẩy mặn cho vùng hạ lưu sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ Đông; nâng cao mực nước ngầm, làm thay đổi cơ bản chế độ nước mặt, điều tiết chế độ nhiệt ẩm và góp phần thúc đẩy một số quá trình chuyển hoá vật chất trong đất cho các khu vực lân cận và vùng hạ lưu rộng lớn. Bên cạnh đó, đây cũng là một trong những khu vực quan trọng cho phát triển ngành ngư nghiệp.
Tiềm năng của nước hồ tạo ra một vùng cảnh quan môi trường sinh thái hấp dẫn, vừa có tác dụng điều hoà khí hậu cho vùng và là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các loại hình du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, các môn thể thao dưới nước, …
Mực nước của hồ dao động vào hai mùa khác nhau và có sự chênh lệch lớn, tao ra vùng đất bán ngập. Vì vậy hàng năm lượng phù sa khá lớn bồi tụ tại khu vực này làm cho đất đai màu mỡ phì nhiêu, rất thuận lợi cho việc trồng và phát triển các loại cây ăn trái phục vụ cho khách du lịch.
Theo kết quả nghiên cứu, đánh giá và phân tích của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Tây Ninh đã cho thấy, nước trong hồ Dầu Tiếng những năm gần đây đang ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng, nguyên nhân được xác định là do các hoạt động khai thác cát bừa bãi trên các sông, trong lòng hồ, việc phát triển tràn lan hoạt động nuôi cá bè trong hồ, xả nước thải chưa qua xử lý vào hồ và vùng đất bán ngập,… đã gây ra hiện tượng ô nhiễm nguồn nước nêu trên. Tuy nhiên, tình trạng trên sẽ sớm được khắc phục khi hiện nay UBND tỉnh Tây Ninh đã chỉ đạo các cơ quan chức năng địa phương tích cực kiểm tra, xử lý nhằm ngăn chặn và tiến đến chấm dứt triệt để tình trạng khai thác cát, nuôi cá bè, xả nước thải vào trong lòng hồ, vì thế tình hình đã phần nào được cải thiện. Đồng thời để tăng hiệu quả trong việc bảo vệ nguồn nước trong hồ nhằm phục vụ tốt nhất cho hoạt động sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt, tỉnh Tây Ninh cũng đã xây dựng các khung hình phạt nghiêm khắc đối với các hành vi xâm hại đến nguồn nước trong hồ, triển khai việc thả cá giống vào hồ hàng năm, tăng cường nuôi cá tự nhiên trong hồ.
Tuy nhiên trong tương lai, khi có thể có nhiều dự án du lịch được xây dựng và phát triển tại đây, rất có thể sẽ lại làm ảnh hưởng đến nguồn nước mặt trong hồ cũng như nguồn nước ngầm của khu vực. Vì thế khi thực hiện các dự án sẽ phải thực hiện thật tốt công tác đánh giá tác động môi trường và cần có các phương án xử lý nước thải thật tốt nhằm hạn chế đến mức tối đa những tác động tiêu cực của các dự án đối với môi trường nước trong hồ.
5. Tiềm năng nguồn lợi thuỷ sản trong hồ:
Hình 3.7: Đánh bắt cá trên hồ Dầu Tiếng
Hình 3.3: Vị trí hồ Dầu Tiếng
Hồ Dầu Tiếng tạo nên một nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên khá phong phú cho tỉnh Tây Ninh nói riêng và các vùng lân cận nói chung. Hàng năm cung cấp hàng nghìn tấn thuỷ sản cho nhân dân, giải quyết việc làm và đời sống cho hàng nghìn lao động, nhất là các lao động nghèo, không có đất đai, phương tiện sản xuất. Bên cạnh đó đây còn là nơi quan trọng để xây dựng và phát triển ngành ngư nghiệp của tỉnh Tây Ninh. Tuy nhiên, do công tác quản lý bảo vệ không được thực hiện tốt, đã dẫn đến tình trạng cạn kiệt dần nguồn lợi thuỷ sản ở đây. Theo các thống kê đã được thực hiện, thì trong giai đoạn những năm từ 1986 đến 1990, sản lượng cá thu hoạch bình quân hàng năm trong hồ Dầu Tiếng đạt khoảng 3.000 tấn, nhưng đến giai đoạn suốt từ các năm 1991 đến năm 2005 thì sản lượng cá hàng năm đánh bắt được chỉ còn khoảng 400 tấn. Nguyên nhân của sự sút giảm mạnh về nguồn lợi thuỷ sản trong hồ được xác định là do hiện tượng đánh bắt khai thác bừa bãi, sử dụng các công cụ phương tiện đánh bắt có tính huỷ diệt hàng loạt như: hoá chất, xung điện, thuốc nổ, lưới cào kèm xung điện, lưới cá cơm, lưới bén mắt nhỏ, vó đèn đêm, dến (một loại công cụ được làm từ lưới cá cơm như màng chống muỗi),…
Về sự đa dạng các chủng loại cá trong hồ, theo kết quả điều tra của Chi cục quản lý nguồn lợi thuỷ sản tỉnh Tây Ninh thì trong hồ có khoảng hơn 54 loài cá, trong đó có hơn 10 loài cá có giá trị kinh tế cao như: cá Thát Lát, Lươn đồng, cá Lăng (có 3 loài), cá Lóc, cá Rô đồng, cá Chạch (2 loài), cá Cơm,... Ngoài ra, hồ còn có 9 loài cá có giá trị làm cá cảnh như: cá Thái Hổ, cá Hồng Vẹn, cá Lòng Tong Sọc, cá Ngựa Nam, cá Ngũ Vân, cá Chốt Cờ, cá Sơn Xiêm, cá Bãi Trầu, cá Chạch Bông.
Nhằm mục đích khôi phục và phát triển nguồn lợi thuỷ sản trong hồ Dầu Tiếng, từ năm 2005 cho đến nay UBND tỉnh Tây Ninh có chủ trương và đã thực hiện 5 lần thả cá giống vào trong hồ, số lượng khoảng gần 7 triệu con với nhiều chủng loại cá khác nhau. Trong đó có nhiều loài cá quý hiếm như: cá Tra Dầu, cá Hô, cá Lăng Nha, cá Thác Lác Cườm,… Kết quả mang lại từ việc thả cá giống vào hồ được đánh giá tốt, khi rất nhiều loài cá được thả vào thích nghi và phát triển khá tốt với môi trường tự nhiên trong hồ, kết quả từ các cuộc khảo sát cho thấy nguồn cá giống được thả nuôi đến khi đánh bắt rất có giá trị kinh tế như: cá Mè nặng tới 9 kg, cá Rô Phi nặng 2,5 kg, đây có thể xem là một bằng chứng nữa cho thấy sự thích nghi tốt của các loài cá giống được thả nuôi trong hồ. Hơn nữa, việc thả cá giống đã làm cho sản lượng cá trong hồ tăng lên nhanh chóng, ước tính trong năm 2009 sản lượng cá đánh bắt được trong lòng hồ đã đạt tới 1.000 tấn, trong đó các loại cá có giá trịnh kinh tế cao - chủ yếu là các loài cá thả nuôi chiếm khoảng 30% tổng sản lượng đánh bắt.
Theo tính toán của các chuyên gia về ngành thuỷ sản của tỉnh Tây Ninh, nếu đầu tư mỗi năm khoảng 1 tỷ đồng, thả từ 1,5 đến 2 triệu con cá giống vào hồ, trong đó tăng cường thả các loại cá quý hiếm, có giá trị cao như: cá Chép, Lăng Nha, Bống Tượng, Thát Lát Cườm, cá Tra Dầu, cá Hộ,… đồng thời thực hiện tốt công tác bảo vệ, khai thác hợp lý trong vòng ba năm, thì sản lượng cá trong hồ Dầu Tiếng sẽ dễ dàng tăng lên mức 3.000 tấn/năm. Trong thời gian gần đây, theo kết quả nghiên cứu của Chi cục bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản tỉnh Tây Ninh thì trong hồ Dầu Tiếng đã có xuất hiện thêm các loài cá mới như cá Chốt Sọc, cá Măng, cá Heo (lớn cỡ hai ngón tay) và một số lượng nhỏ cá Nóc Hổ (còn được gọi là cá Nóc béo) với chất lượng thịt rất thơm ngon nhưng không có độc tố như cá Nóc biển. Điều này đã chứng tỏ rằng, môi trường tự nhiên trong khu vực hồ Dầu Tiếng đã và tiếp tục được cải thiện, hứa hẹn sẽ phát triển thêm nhiều chủng loại thuỷ sản mới có giá trị, đa dạng, góp phần nâng cao sự đa dạng về chủng loại, sản lượng, đồng thời góp phần nâng cao mức sống cho người dân trong khu vực.
Tuy nhiên, cùng với việc phục hồi tốt của nguồn lợi thuỷ sản trong hồ Dầu Tiếng trong thời gian qua, một vấn đề được đặt ra là song song với các chính sách cần thiết như tiếp tục thả cá giống thì cũng cần xây dựng một cơ chế quản lý, bảo vệ, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên thuỷ sản trong hồ một cách có hiệu quả nhất, nhằm phục vụ cuộc sống người dân đồng thời đảm bảo sự phát triển bền vững của nguồn lợi thuỷ sản ở đây. Như vậy, có thể xem xét việc thành lập một cơ quan chuyên trách, với đầy đủ khả năng, quyền hạn và một khung pháp lý đủ mạnh cho việc quản lý, bảo vệ và khai thác nguồn lợi thuỷ sản trong hồ.
Với nguồn lợi thuỷ sản khá đa dạng về chủng loại và nhiều về số lượng như trên. Hiện nay vùng hồ Dầu Tiếng là trọng điểm của ngành ngư nghiệp tỉnh Tây Ninh, với gần 1.000 phương tiện khai thác và khoảng hơn 1.000 lao động tham gia đánh bắt thuỷ sản trong hồ, nhiều gia đình đã sống bằng nghề khai thác thuỷ sản trong lòng hồ.
Ngoài ra, với lợi thế về tiềm năng thuỷ sản như trên, thì hồ Dầu Tiếng được xem là một điều kiện lý tưởng để xây dựng và phát triển mạnh hoạt động du lịch câu cá phục vụ thư giãn, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí.
Hình 3.8: Rừng thứ sinh
6. Tiềm năng về rừng:
6.1. Tiềm năng về rừng tự nhiên:
Phần lớn diện tích rừng tự nhiên tại khu vực hồ Dầu Tiếng là rừng thứ sinh, đã từng bị phá hoại do các cuộc chiến tranh và nạn chặt phá rừng bừa bãi trước đây. Kiểu rừng phổ biến nhất là rừng cây lá rộng hỗn giao thân gỗ và tre nứa. Ở Bà Chiêm (huyên Tân Châu) còn sót lại khoảng 100 ha rừng phòng hộ đầu nguồn của hồ Dầu Tiếng. Thành phần loài chiếm ưu thế bào gồm: các loài Chiếc (Barringtonia cochinchinensis); Quao (Dolichandrone sp); Ngái (Ficus microcarpa); Cám (Parinari annamensis); Bồ An (Colona auriculata); Cù Đen (Croton dongnaiensis); Bình Linh (Vitex pubescens); Săng Mã Nguyên (Carallia brachiata),… với nhiều tầng cao ưu thế sinh thái khoảng 10 – 12m, xen lẫn trong phần rừng đôi chỗ là trảng cây lùm bụi như các cây họ Sim Mua (Myrtaceae), Tre Le (Bambus sp) và nhiều loài cỏ dại, bên dưới các tán cây rừng còn có nhiều dây leo dày đặc. Thảm thực v._. ngoài đều được hưởng các chính sách đãi ngộ ngang nhau khi tham gia đầu tư vào khu du lịch hồ Dầu Tiếng:
Tiền thuê đất: Áp dụng khung giá đất thuộc xã miền núi có mức cho thuê tối thiểu là 0,01 USD/năm và mức tối đa là 0,06 USD/năm. Cụ thể như sau:
Đơn giá cho thuê đất: 100 USD/ha/năm.
Đơn giá cho thuê mặt nước: 75 USD/ha/năm (khung 75 – 525USD/ha/năm).
Riêng đối với công trình kiến trúc xây dựng trên mặt nước, đơn giá cho thuê được áp dụng như cho thuê đất.
Được miễn tiền thuê đất phải trả trong 10 năm kể từ khi hoàn thành việc xây dựng cơ bản và đưa công trình vào sử dụng.
Thuế thu nhập doanh nghiệp:
Áp dụng mức thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong suốt thời gian nhà đầu tư thực hiện dự án.
Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm kể từ khi các nhà đầu tư có lãi và 50% trong 4 năm tiếp theo.
1.2. Phương án 2: Thành lập công ty đầu tư hạ tầng:
Thành lập công ty đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng cơ sở cho khu du lịch hồ Dầu Tiếng theo đúng quy hoạch, định hướng phát triển du lịch. Công ty chịu trách nhiệm đầu tư vốn để xây dựng, sau đó quản lý và tính toán cho thuê đất trong đó có tính đến chi phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng theo từng khu chức năng.
Chính sách thuế áp dụng cho các nhà đầu tư vẫn theo phương án 1.
1.3. Phương án thành lập Ban QLDA khu du lịch hồ Dầu Tiếng:
1.3.1. Sự cần thiết phải thành lập Ban QLDA khu du lịch hồ Dầu Tiếng:
Qua thực tế quản lý và hoạt động kêu gọi thu hút đầu tư kinh doanh vào hoạt động du lịch hồ Dầu Tiếng trong thời gian qua, có thể nhận thấy rõ ràng là không mang lại hiệu quả. Nguyên nhân sơ bộ có thể được xác định là do thiếu sự quan tâm đúng mức của các cấp lãnh đạo cũng như thiếu một cơ quan chuyên trách.
Ở đây cũng chưa có được sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp có liên quan trong việc khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch to lớn của khu vực hồ. Tuy đã có một số cơ quan đã được giao quản lý một số mảng như: rừng, mặt nước, đất đai nhưng cũng chỉ chú trọng đến từng khía cạnh do mình quản lý.
Công tác quảng bá, kêu gọi đầu tư chưa được thực hiện đúng mức, có hiệu quả do còn thiếu một cơ quan đầu mối, thiếu quy hoạch chi tiết và các dự án có tính khả thi cao. Nhiều doanh nghiệp còn rất thiếu thông tin về khu vực này để có thể nghiên cứu, xem xét đi đến quyết định đầu tư.
Đây là khu vực hầu như hoàn toàn mới, chưa có một công trình nào có tính quy mô được đầu tư từ trước đấn nay, hồ Dầu Tiếng vẫn do công ty khai thác thuỷ lợi hồ Dầu Tiếng (trực thuộc Bộ NN & PTNT) quản lý, vận hành khai thác, cũng đã có một số lượng khách du lịch (hầu như chỉ là khách nội địa) tham quan. Tuy nhiên số lượng ngày càng giảm nhanh do nhiều yếu tố khác nhau.
Mặt khác, quy hoạch phát triển khu du lịch hồ Dầu Tiếng có diện tích khá lớn (27.000 ha), có thể xây dựng và phát triển nhiều sản phẩm du lịch khác nhau trong những phân khu chức năng. Vì vậy cần phải có nhiều nhà đầu tư tham gia vào từng lĩnh vực nhất định. Bên cạnh đó, việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như giao thông, cấp thoát nước, điện,… đòi hỏi nguồn vốn lớn và có thể kéo dài trong nhiều năm.
Một nguyên nhân khác nữa xuất phát từ định hướng phát triển khu du lịch hồ Dầu Tiếng thành khu du lịch sinh thái. Như vậy cần xây dựng và phát triển khu du lịch theo đúng các tôn chỉ về du lịch sinh thái. Thông thường trong quá trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các vấn đề về xã hội - bảo vệ môi trường sẽ phát sinh nhưng có thể dự báo và giải quyết được. Tuy nhiên khi đã đi vào hoạt động khai thác, thì các vấn đề xã hội - bảo vệ môi trường càng khó lường và giải quyết cũng phức tạp hơn nếu thiếu đi một cơ quan chuyên trách theo sát tình hình. Hơn nữa các hoạt động khác của một khu du lịch sinh thái như tập huấn, giáo dục môi trường, bảo vệ cảnh quan – tài nguyên du lịch, quản lý các hoạt động du lịch theo định hướng sinh thái bền vững,… đều rất cần đến một hệ thống quản lý chuyên nghiệp, nắm bắt rõ tình hình.
Tất cả các thực tế khách quan nêu trên đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải có một cơ quan quản lý chuyên trách, có nghiệp vụ chuyên môn và nắm bắt rõ tình hình của khu du lịch. Do vậy, sự ra đời của Ban QLDA khu du lịch hồ Dầu Tiếng có thể xem là một tất yếu khách quan để giải quyết các vấn đề nêu trên. Như vậy mô hình quản lý theo phương châm “một nhà quản lý, nhiều nhà đầu tư” được xem là thích hợp nhất trong bối cảnh yêu cầu phát triển mới của khu du lịch hồ Dầu Tiếng.
1.3.2. Chức năng nhiệm vụ của Ban QLDA khu du lịch hồ Dầu Tiếng:
Trực tiếp quản lý, bảo vệ diện tích rừng và đất đai trong khu du lịch theo quy định của nhà nước (riêng diện tích mặt nước do phải phục vụ mục đính chính là thuỷ lợi, nên vẫn phải do công ty khai thác thuỷ lợi quản lý, Ban QLDA có thể thuê lại mặt nước để phục vụ khai thác du lịch).
Quản lý, giám sát toàn bộ các hoạt động trong khu du lịch, tham mưu, đề xuất cho UBND tỉnh Tây Ninh và các cơ quan chức năng của tỉnh kịp thời giải quyết các vấn đề có liên quan đến hoạt động du lịch. Quản lý và kiểm tra việc sử dụng đất đai trong khu du lịch theo quy hoạch.
Hướng dẫn các tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh trong khu du lịch tuân thủ các quy định về đất đai, xây dựng, bảo vệ tài nguyên môi trường, hoạt động kinh doanh và các quy định khác của pháp luật. Bố trí, sắp xếp hợp lý các hoạt động kinh doanh, dịch vụ trong khu du lịch.
Phối hợp với Sở Tài chính và các cơ quan chức năng khác trong việc xây dựng các mức phí, lệ phí tại khu du lịch để trình các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và ban hành để thu phí, lệ phí trong khu du lịch, đồng thời sử dụng các nguồn thu khác theo đúng quy định.
Thực hiện các hình thức kêu gọi, xúc tiến thương mại đầu tư, huy động nguồn vốn từ các thành phần kinh tế vào mục tiêu phát triển du lịch. Lập các dự án khả thi ở các phân khu chức năng trình phê duyệt để huy động nguồn vốn. Thực hiện các hình thức tuyên truyền quảng bá nhằm thu hút du khách.
Quản lý điện, chiếu sáng, bãi xe, bến thuyền và các khu dịch vụ công cộng khác được giao.
Phối hợp kiểm tra và đề xuất xử lý vi phạm hành chính tại khu du lịch theo quy định hiện hành. Tham gia với các ngành chức năng tỉnh, UBND tỉnh Tây Ninh xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm tại khu du lịch.
Kiểm tra, hướng dẫn, nhắc nhỡ các đơn vị kinh doanh du lịch, dịch vụ chấp hành tốt các quy định của pháp luật và quy chế của khu du lịch.
Phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc giữ gìn trật tự trị an trong khu du lịch, bảo đảm an ninh cho các nhà đầu tư và du khách.
Thực hiện các báo cáo định kỳ về tình hình thực hiện quy hoạch, quản lý xây dựng, thực hiện dự án và tình hình hoạt động kinh doanh của khu du lịch với các cơ quan thẩm quyền.
Phối hợp với các chuyên gia hoặc lập ban chuyên trách về vấn đề giáo dục môi trường để tổ chức các buổi tập huấn về môi trường sinh thái cho người dân, nhân viên, cán bộ quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch đồng thời cải thiện ý thức người dân trong việc bảo vệ môi trường.
Xây dựng các nguyên tắc chỉ đạo áp dụng trong khu du lịch sinh thái hồ Dầu Tiếng với sự tham gia của người dân, nhà đầu tư, công ty khai thác thuỷ lợi, đồng thời tuyên truyền các nguyên tắc đó với du khách trong khu du lịch.
Là cơ quan chuyên trách vấn đề truyền thông, quảng bá hình ảnh của khu du lịch sinh thái hồ Dầu Tiếng với trong nước và quốc tế. Sự quản lý nghiêm minh và tuân thủ tuyệt đối các nguyên tắc du lịch sinh thái sẽ tạo ra được danh tiếng đáng kể trên thị trường du lịch, và sẽ trở thành một mô hình tiêu biểu cho thành công của du lịch sinh thái trên toàn quốc. Với đầy đủ thông tin và quyền hạn, Ban QLDA khu du lịch hồ Dầu Tiếng sẽ cung cấp cho các nhà chuyên môn du lịch sinh thái, nhà kinh doanh lữ hành, khách tham quan nhưng thông tin cần thiết khi họ thích đầu tư, tham quan, nghiên cứu.
1.3.3. Mối quan hệ giữa Ban QLDA khu du lịch hồ Dầu Tiếng và các Sở Ngành:
Ban QLDA khu du lịch hồ Dầu Tiếng được ra đời trên cơ sở đặc thù về yêu cầu quản lý đối với khu vực này. Do đó, trong quá trình hoạt động cần có mối quan hệ, phối hợp giữa Ban QLDA và các Sở, Ngành chức năng, một mối quan hệ xuyên suốt lâu dài phải là ưu tiên hàng đầu trong tiêu chí tồn tại và hoạt động của Ban QLDA.
Đối với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:
Hướng dẫn cho Ban QLDA chế độ bảo vệ rừng, bảo vệ đất nông lâm nghiệp, quản lý – khái thác hợp lý mặt nước hồ Dầu Tiếng, khai thác các lợi ích kinh tế từ rừng để phục vụ mục tiêu phát triển du lịch.
Phối hợp kiểm tra, xử lý các vi phạm về bảo vệ rừng, đất đai và mặt nước hồ.
Đối với Sở Thể Thao Văn hoá và Du lịch:
Hướng dẫn cho Ban QLDA về các nghiệp vụ chuyên ngành du lịch trong toàn khu. Phối hợp kiểm tra, giám sát việc triển khai đầu tư theo quy hoạch chung.
Phối hợp kiểm tra, xử lý các sai phạm trên lĩnh vực du lịch, các tiêu chuẩn về khách sạn,…
Đối với các Sở, Ban ngành chức năng khác:
Phối hợp, hướng dẫn cho Ban QLDA các hoạt động trên từng lĩnh vực chuyên môn của mình như: địa chính, môi trường, an ninh, thủ tục cấp phép,…
Kiểm tra, xử lý các sai phạm trên từng lĩnh vực chuyên môn.
CHƯƠNG 9
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG ĐẾN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÀ CẢNH QUAN MÔI TRƯỜNG
Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và môi trường cảnh quan sinh thái của khu vực dự án sẽ luôn phải chịu những tác động của các hoạt động du lịch ở đây khi chúng được đưa vào khai thác. Những tác động này có thể sẽ là tích cực, song cũng có thể có nhiều các tác động tiêu cực đối với trạng thái tài nguyên môi trường và cảnh quan nếu như không có sự tính toán và các giải pháp, phương án phù hợp hoặc không quản lý chặt chẽ đúng theo các định hướng phát triển du lịch đã được đề ra từ đầu.
Hoạt động của ngành kinh tế du lịch là hoạt động khai thác các tiềm năng phục vụ du lịch gồm: Tiềm năng tự nhiên, tiềm năng kinh tế - xã hội. Vì vậy hoạt động du lịch có tác động đến hầu hết các dạng tài nguyên và môi trường cũng giống như nhiều ngành kinh tế khác. Tuy nhiên hoạt động du lịch còn mang tính đặc thù là tạo ra nguồn tài nguyên du lịch nhân tạo, hình thành các môi trường du lịch do con người điều khiển hoàn toàn.
Tác động của các hoạt động du lịch đến cảnh quan sinh thái và kinh tế - xã hội theo hai mặt:
Một là, mặt tác động tích cực tạo ra hiệu quả tốt đối với việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và phục hồi cảnh quan, đồng thời tạo ra cơ sở cho sự phát triển môi trường bền vững.
Hai là, mặt tác động tiêu cực gây nên thiệt hại về tài nguyên và suy thoái môi trường, cảnh quan.
1. Tổng quan:
1.1. Khái niệm về du lịch sinh thái bền vững:
1.1.1. Cơ sở của phát triển bền vững trong du lịch sinh thái:
Giảm đến mức thấp nhất khả năng làm khánh kiệt môi trường: đất, nước ngọt, các thuỷ vực, khoáng sản,… đảm bảo sử dụng lâu dài các dạng tài nguyên không thể tái tạo lại được bằng cách tái chế, tránh lãng phí, sử dụng ít hơn và dần tiến tới thay thế hoàn toàn các dạng tài nguyên này. Như vậy, cần phải sử dụng các dạng tài nguyên theo nguyên tắc “nhu cầu sử dụng chúng không vượt quá khả năng bù đắp (tái tạo) tài nguyên đó”.
Bảo tồn tính đa dạng sinh học, bảo tồn tính di truyền của các loài động thực vật nuôi trồng cũng như hoang dã. Đảm bảo việc sử dụng lâu bền bằng cách quản lý phương thức và mức độ sử dụng, làm cho các nguồn tài nguyên đó vẫn còn có khả năng hồi phục.
Duy trì các hệ sinh thái thiết yếu, đảm bảo cho cuộc sống cộng đồng và nên nhớ rằng khả năng chịu đựng của các hệ sinh thái trên trái đất là có giới hạn.
Nếu có điều kiện thì nên duy trì các hệ sinh thái tự nhiên. Hoạt động trong khả năng chịu đựng của trái đất. Phục hồi lại môi trường đã bị suy thoái, gìn giữ sự cân bằng của các hệ sinh thái.
1.1.2. Du lịch sinh thái bền vững:
Khái niệm phát triển bền vững (Sustainable Development) ra đời khá muộn màng, lần đầu tiên xuất hiện trong báo cáo “Tương lai của chúng ta” của Uỷ ban môi trường và phát triển của Ngân hàng thế giới (WB) là năm 1987.
Trong phát triển bền vững, điều cần chú ý nhất là thoả mãn các nhu cầu hiện tại và không làm tổn hại đến sự thoả mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai, đảm bảo sử dụng đúng mức và ổn định các nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường sống. Như vậy, phát triển bền vững không chỉ là phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội một cách bền vững nhờ khoa học công nghệ tiên tiến mà còn phải đảm bảo những điều kiện môi trường thiết yếu cho con người đang tồn tại và cho các thế hệ sẽ tồn tại (những người đang sống và những người sẽ sống).
“Du lịch sinh thái bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi đó vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên và phát triển du lịch trong tương lai”. Du lịch bền vững đưa ra kế hoạch quản lí các nguồn tài nguyên nhằm thoả mãn các nhu cầu về kinh tế, xã hội và thẩm mỹ của con người, mặt khác vẫn duy trì được sự trọn vẹn về mặt xã hội, sự đa dạng về sinh học, sự phát triển của các hệ sinh thái và các hệ thống hỗ trợ cho con người.
Phát triển du lịch sinh thái bền vững không những đóng góp tích cực cho sự phát triển bền vững mà còn làm giảm tối thiểu các tác động của khách du lịch đến văn hoá và môi trường, đảm bảo cho địa phương được hưởng nguồn lợi tài nguyên do du lịch mang lại và cần chú trọng đến những đóng góp tài chính cho việc bảo tồn thiên nhiên. Phát triển du lịch sinh thái bền vững cần có sự cân bằng giữa các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường trong khuôn khổ các nguyên tắc và các giá trị đạo đức (Allen K., 1993).
Theo đánh giá của các chuyên gia nghiên cứu về du lịch, muốn cho ngành du lịch thật sự có thể phát triển bền vững, cần phải dựa vào 3 yếu tố:
Thứ nhất là, thị trường thế giới về những điểm du lịch mới và các sản phẩm du lịch ngày càng gia tăng;
Thứ hai là, phát triển phải chú trọng việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên;
Thứ 3 là, du lịch trực tiếp mang lại nhiều lợi ích về kinh tế và cải thiện điều kiện phục lợi cho các cộng đồng.
Trong nền công nghiệp du lịch đương đại, cả ba nhân tố trên gắn bó chặt chẽ với nhau, để cho người ta nhận biết như một ngành du lịch sinh thái, bảo đảm môi trường và cảnh quan cho mọi điểm du lịch. Chính vì vậy, các chuyên gia du lịch đã khẳng định “cần chú ý sự tập trung vào du lịch bền vững cùng với vai trò của nó trong sự phát triển cộng đồng và bảo tồn là vô cùng quan trọng”. Vì nếu chỉ phát triển riêng du lịch không thôi thì không phải là sự phát triển bền vững, vấn đề đặt ra là sự phát triển bền vững ấy như thế nào và phát triển cho ai?
Như chúng ta đã biết, du lịch dựa trên cơ sở khai thác các lợi thế từ tự nhiên là hình thức phát triển nhanh nhất thế giới. Trong bối cảnh hiện nay, những quốc gia nào kết hợp giữa phát triển du lịch, bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo vệ quyền lợi của cộng đồng địa phương sẽ là những quốc gia thu được nhiều lợi nhuận nhất từ các hoạt động du lịch. Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá và nền văn hoá dân tộc đa dạng, hội đủ những điều kiện cần thiết để phát triển du lịch; song song với quá trình phát triển thì cần phải luôn luôn đề cao, nhấn mạnh đến yếu tố bền vững theo nguyên tắc phù hợp với du lịch sinh thái, tức là phát triển du lịch theo hướng đẩy mạnh việc gìn giữ môi trường tự nhiên với đảm bảo lợi ích cộng đồng dân cư trong vùng.
1.2. Các nguyên tắc du lịch sinh thái bền vững:
1.2.1. Cơ sở của các nguyên tắc du lịch sinh thái:
Với mục tiêu đáp ứng nhu cầu của du khách, giảm thiểu các tác động lên môi trường sinh thái và đem lại phúc lợi (sinh thái, kinh tế, xã hội) cho cộng đồng địa phương, du lịch sinh thái lấy một số cơ sở sau để phát triển:
Tìm hiểu và bảo vệ các giá trị thiên nhiên, văn hoá;
Giáo dục môi trường;
Phải có tổ chức về nghiệp vụ du lịch, hạn chế tới mức thấp nhất các thiệt hại đối với môi trường.
Phải hỗ trợ cho công tác bảo vệ môi trường.
1.2.2. Nguyên tắc du lịch sinh thái bền vững:
Du lịch sinh thái nên khởi đầu với sự giúp đỡ của những thông tin cơ bản nhưng đa dạng của cộng đồng và cộng đồng nên duy trì việc kiểm soát sự phát triển của du lịch.
Sử dụng và bảo vệ tài nguyên một cách bền vững: bao gồm cả tài nguyên thiên nhiên, xã hội, văn hoá. Việc sử dụng bền vững tài nguyên là nền tảng cơ bản nhất của việc phát triển du lịch sinh thái bền vững.
Chương trình giáo dục, huấn luyện để cải thiện, quản lý di sản và các tài nguyên thiên nhiên nên được thành lập và duy trì. Giảm tiêu thụ, giảm chất thải một cách triệt để nhằm năng cao chất lượng môi trường.
Duy trì tính đa dạng về tài nguyên thiên nhiên, văn hoá,… (chủng loài thực vật, động vật, bản sắc văn hoá dân tộc,…).
Lồng ghép các chiến lược phát triển du lịch của địa phương với quốc gia.
Phải hỗ trợ về kinh tế cho địa phương, tránh gây thiệt hại cho các hệ sinh thái ở đây.
Phải thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương. Điều này không chỉ mang lại lợi ích cho cộng đồng, cho môi trường sinh thái mà còn nhằm tăng cường khả năng đáp ứng các thị hiếu cho du khách.
Phải biết tư vấn các nhóm quyền lợi của công chúng. Tư vấn giữa công nghiệp du lịch và cộng đồng địa phương, các tổ chức và cơ quan nhằm đảm bảo cho sự hợp tác lâu dài cũng như giải quyết các xung đột có thể nảy sinh.
Đào tạo cán bộ, nhân viên phục vụ cho các hoạt động kinh doanh du lịch nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch.
Nghiên cứu hỗ trợ cho du lịch. Phải cung cấp cho du khách những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm nhằm nâng cao sự tôn trọng của du khách đối với môi trường tự nhiên, xã hội và văn hoá du lịch, qua đó góp phần thoả mãn các nhu cầu của du khách.
2. Tác động đến kinh tế - xã hội:
2.1. Tác động tích cực:
Làm tăng giá trị đất đai: do thay đổi mục đích sử dụng đất. Khi kinh tế địa phương phát triển, ngành du lịch - dịch vụ phát triển kéo theo nhu cầu về các loại lương thực, cây cảnh,… Từ cầu dẫn đấn cung, các hoạt động khai thác sử dụng đất thay đổi theo hướng tăng thu nhập và đáp ứng nhu cầu thị trường khiến cho giá trị của đất tăng lên.
Thay đổi cơ cấu hạ tầng: thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất, trong đó việc xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch phát triển.
Tạo thêm nhiều việc làm và nâng cao trình độ lao động: xuất phát từ nhu cầu lao động tại các khu du lịch mới mở, đồng thời từ các hoạt động đào tạo - phần không thể thiếu trong một khu du lịch sinh thái. Các hoạt động này giúp cho địa phương thay đổi dần về nhận thức xã hội, trình độ nhân lực, nhận thức bảo vệ môi trường.
Phát triển và giao lưu văn hoá: du lịch vừa bảo tồn nền văn hoá truyền thống trong khi lại có điều kiện cho người dân tiếp xúc với du khách để cho cả hai cùng trao đổi, hiểu biết về văn hoá, âm nhạc, nghệ thuật và ẩm thực, tăng cường hiểu biết lẫn nhau. Từ đó các rào cản về văn hoá, âm nhạc, ngôn ngữ, tôn giáo, sắc tộc,…dần bị xoá bỏ. Tạo ra những khả năng mới, tiếp xúc những tư tưởng mới, lối sống của các nền văn hoá mới.
Cải thiện chất lượng y tế: việc thiết kế vận hành hệ thống xử lý nước thải, rác thải trong khu du lịch sẽ giúp ích cho địa phương thêm nhiều kinh nghiệm để phát triển hệ thống này trong các cộng đồng dân cư. Sự sạch sẽ trong đời sống hàng ngày sẽ tạo ra môi trường tốt, đồng thời giúp người dân có ý thức hơn trong việc giữ gìn vệ sinh.
Giáo dục và bảo tồn thiên nhiên: thông qua quá trình hoạt động, sẽ có nhiều hoạt động giáo dục và đào tạo về nghiệp vụ du lịch, về bảo vệ thiên nhiên và bảo vệ môi trường cảnh quan. Các hoạt đồng này mang lại luồng tư tưởng mới và phù hợp hơn với xu thế phát triển. Đem lại những hiệu quả tốt đối với các cộng đồng dân cư quanh hồ Dầu Tiếng.
Tăng mức thu nhập cho người dân từ các nguồn thu nhập: tham gia phục vụ du lịch, hoạt động kinh doanh du lịch và các nguồn khác từ sự phát triển này.
Gián tiếp giúp phát triển kinh tế, xã hội của các vùng khác trong tỉnh.
2.2. Tác động tiêu cực:
Gia tăng mật độ dân cư: hoạt động phát triển du lịch sẽ ảnh hưởng đến không gian sống của các cộng đồng địa phương. Sự phát triển của du lịch có tác dụng di chuyển và di cư lực lượng lao động. Nhập cư là hiện tượng phổ biến tại các khu du lịch.
Phân hoá xã hội: làm tăng sự phân hoá xã hội trong cộng đồng về thu nhập, một số người sẽ có thu nhập cao vượt trội. Sự gắn bó cộng đồng bị thay đổi và sự ràng buộc trong nội bộ cộng đồng bị rạn nứt, có thể dẫn đến nảy sinh các vấn đề trong xã hội.
Tác động lên nếp sinh hoạt truyền thống: các loại hình hoạt động du lịch có thể gây ra sức ép lên các sinh hoạt truyền thống của địa phương. Các tác động tiêu cực còn có thể nhìn thấy qua việc thay đổi các hệ thống giá trị trong xã hội, lối sống và quan hệ gia đình. Các lễ nghi truyền thống, các hành vi đạo đức, tổ chức cộng đồng có thể bị mất dần sự thiêng liêng và bị thương mại hoá. Sự thay đổi kiến trúc truyền thống để thu hút du khách qua việc tạo “nền văn hoá tiêu biểu” và một trong số trường hợp có thể biến các lễ hội thành các buổi trình diễn cho du khách xem.
Hoạt động du lịch có tác động làm sống lại những nghề thủ công, nhưng cũng có thể khuyến khích người thợ thủ công trong quá trình khuếch trương mở rộng sản xuất, làm thay đổi kiểu cách mẫu mã, phương thức sản xuất truyền thống nhằm đáp ứng du khách.
Giao thông quá tải: vào các mùa du lịch trọng điểm có thể sẽ gây tắc nghẽn giao thông, gây tiếng ồn, ô nhiễm không khí, quá tải các dịch vụ giao thông.
Tăng sức ép lên tài nguyên: ảnh hưởng nhiều mặt của các ngành dịch vụ, vận tải, ăn uống, nhu cầu nguyên nhiên liệu của các ngành làm gia tăng sức ép lên tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
3. Tác động đến môi trường sinh thái cảnh quan:
3.1. Tác động tích cực:
- Mang lại một diện mạo mới cho khu vực hồ Dầu Tiếng: gia tăng danh tiếng cho hồ Dầu Tiếng, quảng bá hình ảnh du lịch cho hồ Dầu Tiếng nói riêng và quần thể các khu du lịch của tỉnh Tây Ninh nói chung trên thị trường du lịch trong nước và quốc tế.
- Cảnh quan thiên nhiên sẽ được lưu tâm và quản lý tốt hơn để phục vụ các hoạt động phát triển du lịch vì lợi ích chung của cộng đồng địa phương và các nhà đầu tư.
- Có không gian tốt với đầy đủ cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật phục vụ các hoạt động văn hoá – xã hội của tỉnh Tây Ninh.
- Là mô hình điển hình về xây dựng và phát triển khu sinh thái hồ.
3.2. Tác động tiêu cực:
- Trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật sẽ thải vào môi trường một lượng lớn chất thải từ vật liệu xây dựng, đất đá, chất phát sinh từ nạo vét, khí thải ô tô phục vụ các hoạt đông vận tải – thi công,… tất cả các hoạt động này cần phải được quản lý chặt chẽ, đảm bảo mọi việc xảy ra đều nằm trong tầm kiểm soát để tránh gây ô nhiễm nguồn nước hồ.
- Làm xoá mòn đất đai: từ quá trình xây dựng, nếu không được tổ chức, quản lý chặt chẽ theo các nguyên tắc quy hoạch và hoạt động, sẽ dễ gây ra hiện tượng xoá mòn cục bộ, đây thật sự là một vấn đề cần được lưu ý và quản lý nghiêm ngặt.
- Mất tài nguyên rừng: sẽ có một số diện tích rừng bị mất do việc phát triển xây dựng hạ tầng kỹ thuật, khách sạn và các công trình phục vụ du lịch. Cần phải hết sức thận trọng trong việc quy hoạch mặt bằng, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại có thể xảy ra đối với diện tích rừng - đặc biệt là rừng phòng hộ đầu nguồn.
- Ô nhiễm môi trường phát sinh từ chất thải ở các nơi chứa: việc phát triển du lịch kéo dài có thể làm gia tăng lượng chất thải phát sinh ở đây, chủ yếu là chất thải sinh hoạt từ các nhà hàng, khách sạn, các điểm tham quan. Do đó, ngay từ đầu khi quy hoạch và khi chất thuận cho phép các nhà đầu tư xây dựng phải yêu cầu đầu tư vào hệ thống xử lý chất thải, nước thải, các hoạt động thu gom, đồng thời phải thường xuyên giám sát trong suốt quá trình hoạt động.
4. Phương án giảm thiểu các tác động tiêu cực đến kinh tế - xã hội:
4.1. Phát triển du lịch bền vững:
Phát triển du lịch sinh thái bền vững phải đảm bảo phát triển câng bằng cả ba mục tiêu liên quan.
Mục tiêu xã hội: nâng cao sức khoẻ, trình độ văn hoá cộng đồng;
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế;
Mục tiêu bảo vệ tài nguyên, môi trường.
4.2. Phát triển bền vững kinh tế:
- Cân đối giữa nhu cầu và tiềm năng: phát triển du lịch cân đối, không vượt quá mức cầu của thị trường cũng như không vượt quá sức chứa của khu du lịch.
- Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương nhằm chia sẻ lợi ích kinh tế và tạo ra cho họ ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá, vì lúc này các cộng đồng địa phương cũng là những người được hưởng lợi từ các nguồn tài nguyên đó.
- Thực hiện đánh giá tác động môi trường và phân tích hiệu quả đầu tư định kỳ.
- Các chi phí hoạt động du lịch phải tính đến chi phí môi trường: đảm bảo rằng các chi phí này cũng tương xứng và có hiệu quả trong công tác bảo vệ tài nguyên môi trường.
- Đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng bá du lịch trên các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, truyền hình, Internet,… để khách du lịch truyền thống và khách tiềm năng có cơ hội tiếp cận, nắm bắt thông tin và tạo ra sự hào hứng ở tất cả các đối tượng khách.
4.3. Phát triển bền vững về tài nguyên:
Bảo đảm về sức chứa trong khu du lịch:
Bảng 9.1: Quy định về sức chứa cho các loại hình du lịch
sức chứa
Đơn vị
Du lịch tham quan
Du lịch
nghỉ dưỡng
Du lịch thể thao mạo hiểm
Du lịch
sinh thái
Diện tích
mặt nước cho 1
du khách
M2/ người
-
15 - 20
-
-
Picnic
người/ ha
40 - 100
-
-
40 - 100
Vui chơi giải
trí ngoài trời
M2/ người
100
100
-
-
Đi bộ
trong rừng
người/ km
10
-
10
10
Nguồn: Bộ Tài nguyên & Môi trường, 2003
Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nguồn tài nguyên nước.
Thực hiện các buổi giáo dục nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường cho tập thể nhân viên và cộng đồng cư dân địa phương.
Đầu tư một phần ngân sách thu được từ các hoạt động du lịch cho công tác tôn tạo và bảo vệ môi trường.
4.4. Phát triển bền vững văn hoá – xã hội:
- Nghiên cứu và phát triển hơn nữa các nguồn tài nguyên văn hoá sao cho bản sắc văn hoá địa phương ngày càng được tôn tạo và phát triển.
- Sử dụng một phần các nguồn thu từ du lịch cho việc tôn tạo và phát triển văn hoá.
- Tăng cường công tác bảo vệ an ninh, trật tự, triệt để loại bỏ các hoạt động mang tính chất tội phạm, cướp giật, ăn xin,…
- Ngoài ra, công tác bảo đảm an ninh - quốc phòng với vị trí là điểm phòng thủ đầu nguồn của hồ Dầu Tiếng cũng là một vấn đề cần phải hết sức quan tâm trong quá trình quy hoạch, thực hiện và vận hành khai thác các dự án.
KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Qua khảo sát thực tế tại khu vực hồ Dầu Tiếng, có thể đưa ra các kết luận như sau:
Việc quy hoạch, phát triển du lịch – đặc biệt là định hướng phát triển du lịch sinh thái tại khu vực hồ Dầu Tiếng là bước đi phù hợp với tình hình thực tế, làm cơ sở quan trọng cho việc thu hút các hoạt động đầu tư, triển khai xây dựng khu vực hồ Dầu Tiếng trở thành một trung tâm du lịch sinh thái lớn của khu vực Nam Bộ và cả nước. Đây là việc làm hết sức cấp bách và cần thiết nhằm đánh thức tiềm năng du lịch sẵn có tại địa phương làm bàn đạp cho phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời phải đảm bảo việc phát triển du lịch sinh thái bền vững, sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như các đặc trưng văn hoá đặc sắc của địa phương.
Khu du lịch sinh thái hồ Dầu Tiếng sau khi đã được đầu tư xây dựng và đi vào hoạt động khai thác, sẽ là một trong những chiếc cầu nối quan trọng giữa tỉnh Tây Ninh với các khu vực trong cả nước và thế giới, là nhân tố góp phần quan trọng trong việc tiếp thị, giới thiệu những thế mạnh về đầu tư, kinh tế cũng như những bản sắc văn hoá đặc trưng của Tây Ninh với bạn bè thập phương. Là lá cờ đầu trong định hướng xây dựng và phát triển ngành du lịch thành nền kinh tế mũi nhọn của tỉnh Tây Ninh và cả nước.
Để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường du lịch trong nước và quốc tế, cần phải xây dựng và phát triển khu du lịch hồ Dầu Tiếng thành một khu du lịch mang nhiều nét đặc thù so với các khu du lịch khác trong nước, trong đó đặc biệt chú trọng đến loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng kết hợp hội nghị - hội thảo và dịch vụ vui chơi giải trí chất lượng cao. Cơ sở hạ tầng và các dịch vụ tiện nghi, hoàn hảo và hướng đến phục vụ cho các đối tượng du khách có khả năng chi trả cao. Trong suốt quá trình phát triển phải đảm bảo việc tôn tạo và bảo vệ môi trường sinh thái.
KIẾN NGHỊ
Để nhanh chóng phát triển khu vực hồ Dầu Tiếng thành một khu du lịch có khả năng cạnh tranh, thu hút du khách, đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh:
Khẩn trương lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch chi tiết “Phát triển du lịch sinh thái hồ Dầu Tiếng”. Dự án chi tiết sau khi được phê duyệt là cơ sở để các nhà đầu tư được cấp phép đầu tư tại khu du lịch. Các nhà đầu tư thì phải quy hoạch chi tiết từng phân khu hoặc nhiều phân khu thuộc phạm vi diện tích được giao, trình UBND tỉnh Tây Ninh xem xét, phê duyệt
Ban hành Quyết định thành lập Ban QLDA khu du lịch hồ Dầu Tiếng và giao cho toàn bộ diện tích từng và đất đai trong khu quy hoạch phát triển du lịch cho Ban QLDA.
Nhanh chóng triển khai việc khảo sát, thiết kế và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ cho phát triển khu du lịch như: đường giao thông, cầu, điện nước,… tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư.
Thực hiện di dời, tái định cư ổn định cho các hộ dân trong khu vực để bàn giao mặt bằng trống cho các nhà đầu tư triển khai xây dựng.
Xúc tiến, kêu gọi các nhà đầu tư, xây dựng kế hoạch đấu thầu để tổ chức đấu thầu nhằm sớm đưa khu du lịch vào hoạt động khai thác.
Phê duyệt các chính sách ưu đãi đầu tư đối với các nhà đầu tư vào khu du lịch hồ Dầu Tiếng.
Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư để đẩy nhanh tốc độ xây dựng hoàn thành khu du lịch.
Chỉ đạo các cấp chính quyền địa phương, các ngành chức năng có liên quan phối hợp quản lý, bảo vệ tốt tài nguyên du lịch, môi trường, cảnh quan thiên nhiên vùng hồ Dầu Tiếng.
Nghiên cứu, đánh giá tính khả thi của chủ trương đổi đất lấy hạ tầng tại khu quy hoạch làng biệt thự trong khu du lịch.
Chuyển một phần rừng đặc dụng thuộc khu du lịch sang mục đích rừng phòng hộ hoặc rừng môi trường đô thị.
Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng phương án cân bằng nước hồ Dầu Tiếng, thực hiện các giải pháp để nâng cấp các công trình đầu mối và quy hoạch nguồn nước bổ sung cho hệ thống thuỷ lợi. Quy hoạch chế độ tưới hợp lý cho vùng,… trên cơ sở tính đến sử dụng nước từ hồ Dầu Tiếng để bổ sung cho nguồn nước sinh hoạt và cần nâng cao hơn nữa cao trình mực nước của hồ trong mùa khô.
._.