Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848), C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra dự báo: "Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau" [58, tr. 613]. Tính tất yếu đó có căn nguyên sâu xa và khách quan từ quy luật quan hệ sản xuất (QHSX) phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX). QHSX dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa (TBCN) về tư liệu sản xuất bị những "lực lượng sản x
193 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1951 | Lượt tải: 7
Tóm tắt tài liệu Tích cực hóa nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân Việt Nam thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uất hiện đại nổi dậy, chống lại", do đó, nó tất yếu phải bị xóa bỏ và thay thế bằng một QHSX mới. Mâu thuẫn giữa LLSX với QHSX trong phương thức sản xuất TBCN biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân (GCCN) tiêu biểu cho LLSX tiên tiến, cách mạng, với giai cấp tư sản (GCTS) tiêu biểu cho QHSX lỗi thời. Rốt cuộc, GCCN phải lật đổ quyền thống trị của GCTS, xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu, mở đường cho LLSX phát triển. Do đó, GCCN hiện đại có sứ mệnh lịch sử (SMLS) là giải phóng mình, giải phóng xã hội và giải phóng toàn thể nhân loại khỏi ách áp bức, bóc lột, nô dịch của GCTS, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản (CNTB) và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội (CNXH). SMLS đó của GCCN và xu thế vận động của lịch sử tiến tới CNXH là không thể đảo ngược. Song, khả năng khách quan đó có thành hiện thực hay không còn tùy thuộc vào sự chín muồi các nhân tố chủ quan (NTCQ) của GCCN và phong trào công nhân, đặc biệt là đội tiên phong của nó - Đảng Cộng sản.
Thực tiễn đã chỉ ra rằng: sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu đầu thập kỷ 90 vừa qua do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng, trực tiếp là sai lầm chủ quan của các Đảng Cộng sản. Tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta từ những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80, cũng như những thành tựu mà chúng ta đạt được trong 15 năm đổi mới đều gắn với một vấn đề mấu chốt là nhận thức và vận dụng sai hay đúng lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan (ĐKKQ) và NTCQ, về vai trò ngày càng tăng của NTCQ trong hoạt động thực tiễn.
Quá độ tới CNXH bỏ qua chế độ TBCN là con đường phát triển đầy khó khăn, phức tạp và lâu dài. Xu hướng phát triển đó xuất hiện cùng với cách mạng Tháng Mười mở ra thời đại mới cho sự phát triển của các dân tộc. Song, đối với nước ta, đây lại là con đường hết sức mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Khai phá con đường ấy và giải quyết thành công những nhiệm vụ đặt ra để những lí tưởng và mục tiêu của CNXH trở thành hiện thực ở nước ta đòi hỏi không những sự nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan mà còn phải phát huy cao độ những nỗ lực sáng tạo chủ quan của chủ thể hoạt động, đặc biệt là GCCN và đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản. Đây là chủ thể lãnh đạo và cầm quyền, có sứ mệnh dẫn dắt cả dân tộc tới CNXH. Hiện nay cách mạng Việt Nam đang ở vào thời kỳ phát triển bước ngoặt mà nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước để đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Song, GCCN Việt Nam với tư cách là giai cấp lãnh đạo, là lực lượng chủ đạo và tiên phong của xã hội, trong bước ngoặt hiện nay của cách mạng Việt Nam, sẽ thực hiện như thế nào SMLS của mình?
Thực tế 15 năm đổi mới vừa qua đã đem lại cho chúng ta nhiều thành tựu to lớn đồng thời cũng phát sinh nhiều vấn đề mới phức tạp mà chúng ta không thể lường trước và lường hết. Kinh tế thị trường với tác động của những mặt trái của cơ chế thị trường đã làm xuất hiện và gia tăng tình trạng phân hoá giàu nghèo, thất nghiệp, sự lây lan những tệ nạn và tiêu cực xã hội. Những yếu kém, sơ hở trong quản lý, những lạc hậu và bất cập của cơ chế, chính sách, luật pháp, đã làm trầm trọng và gay gắt hơn những tệ nạn và tiêu cực nói trên. Thực trạng xã hội đó đang ảnh hưởng rất bất lợi tới việc thực hiện SMLS của GCCN mà trực tiếp là sự lãnh đạo và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Hiện nay, GCCN nước ta đang đứng trước một thực tế là, vốn sinh trưởng trong một xã hội nông nghiệp lạc hậu, một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, GCCN Việt Nam còn mang nặng những nhược điểm và hạn chế do lịch sử để lại. Thêm vào đó, trong quá trình đổi mới, trước tác động của cơ chế thị trường, của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu GCCN nước ta đang có sự biến chuyển nhanh và khá phức tạp, khiến cho những hạn chế, nhược điểm trên càng có điều kiện để bộc lộ, tiến triển. Trong khi những nhược điểm, hạn chế vốn có chưa được khắc phục hết thì lại tiếp tục chịu những ảnh hưởng tiêu cực của xã hội xâm nhập vào trong điều kiện kinh tế thị trường và khuynh hướng thương mại hoá đang len lỏi vào các lĩnh vực, kể cả đời sống tinh thần, các quan hệ xã hội của con người. Mặt khác, việc đẩy mạnh CNH, HĐH trong bối cảnh nền kinh tế tri thức hiện nay đã xuất hiện và xu hướng toàn cầu hoá đang gia tăng, càng làm bộc lộ rõ sự thiếu hụt những phẩm chất và năng lực mới trong bản thân GCCN. Đó là chưa kể tới một khuynh hướng tư tưởng lí luận đã xuất hiện trên thế giới và một phần nào cũng đã có ở nước ta là muốn phủ nhận vai trò SMLS của GCCN. Những người theo quan điểm này cho rằng, trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ, trong xã hội thông tin và kinh tế tri thức, vai trò dẫn đạo xã hội thuộc về trí thức chứ không còn thuộc về GCCN nữa. Việc thực hiện SMLS của GCCN Việt Nam càng khó khăn, phức tạp hơn, khi mà các loại kẻ thù đang hằng ngày, hằng giờ, tấn công vào CNXH, vào Đảng Cộng sản và GCCN bằng âm mưu "Diễn biến hòa bình".
Tình hình trên đây cho thấy, việc xây dựng và phát triển GCCN hiện đại, tăng cường chất lượng toàn diện của nó, tìm kiếm những giải pháp hữu hiệu để tích cực hóa NTCQ nhằm thực hiện SMLS của GCCN trở nên vô cùng cấp thiết và hệ trọng. Đó thực sự là một thử thách về năng lực, trí tuệ và bản lĩnh chính trị đối với GCCN và Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình hình hiện nay.
Vì lẽ đó, "Tích cực hóa nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân Việt Nam thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình" trở thành một vấn đề có tầm quan trọng chiến lược, quan hệ tới sự thành bại của cách mạng Việt Nam, tới triển vọng của CNXH và tương lai của cả dân tộc. Hơn nữa, đây cũng là vấn đề có liên quan chặt chẽ với vấn đề tích cực hóa nhân tố con người Việt Nam hiện nay mà trên phương diện lý luận và thực tiễn còn đang tồn tại những cách hiểu, cách làm khác nhau. Chính vì vậy, một đòi hỏi tất yếu đang đặt ra là, phải có những công trình nghiên cứu cơ bản, có hệ thống cả về mặt lý luận và thực tiễn, trên cơ sở đó tìm ra những phương hướng và giải pháp phù hợp nhằm tích cực hóa NTCQ của GCCN Việt Nam nói riêng, tích cực hóa nhân tố con người Việt Nam nói chung trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
GCCN ngay từ khi mới ra đời đã thu hút sự quan tâm và trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như: quản lý học, xã hội học, tâm lý học...
Cuối thế kỷ XVIII, ở phương Tây, khi cuộc cách mạng công nghiệp đặt ra yêu cầu đổi mới quản lý, một số nhà quản lý có tài như R.Owen, Ch. Babbage đã bắt đầu chú ý đến GCCN trong mối quan hệ chủ - thợ. Cuối thế kỷ XIX, lý thuyết "con người kinh tế" do F.W. Taylor đề ra và được trường phái "quản lý khoa học" tán dương. Lý thuyết này đề cao việc tận dụng một cách tối đa yếu tố con người, kỹ thuật, đất đai và tài nguyên. Hạn chế lớn nhất của nó là quá coi trọng các yếu tố máy móc, thiết bị mà hạ thấp vai trò chủ động, sáng tạo có tính chất quyết định của người công nhân có ý thức. Do đó, nó quá thiên về việc khai thác công nhân ở khía cạnh cơ bắp và kinh tế mà chưa thể phát huy được vai trò của họ với tư cách là những con người - chủ thể xây dựng và cải tạo xã hội.
Đầu thế kỷ XX, "lý thuyết con người xã hội" được trường phái "quan hệ con người" ở Mỹ đề xuất nhằm thay thế cho lý thuyết Taylor. Những người theo chủ thuyết này như D. Megregor, P. Druker không phủ nhận ý nghĩa quan trọng của những khuyến khích vật chất và những biện pháp kiểm tra, đe dọa, trừng phạt, nhưng họ chú ý nhiều hơn yếu tố tự giác và sáng tạo của người công nhân. Họ thừa nhận công nhân là một thực thể xã hội, một sinh vật có ý thức, ngoài cuộc sống kinh tế, cá nhân đơn thuần, công nhân còn có một cuộc sống tâm lý, cộng đồng xã hội. Ngoài nhu cầu cơ bản là ăn, mặc, ở, "con người xã hội" - công nhân còn có nhu cầu xã hội như giao tiếp, tâm lý, học tập, tiến thân và cống hiến cho cộng đồng, xã hội. Vì thế, theo họ, công nhân sẽ phát huy được nhiều nhất khả năng của mình nếu như những nhu cầu trên của họ được đáp ứng, nếu họ được đặt trong một môi trường mà tính người của họ được tôn trọng và đề cao. Những quan niệm này đã được các nhà quản lý theo trường phái "quan hệ con người" đem áp dụng trong thực tế. Kết quả ban đầu cho thấy, ở đâu những nhu cầu xã hội của con người được thỏa mãn, tính tự giác và chủ động của công nhân được phát huy, thì năng suất lao động sẽ cao và hiệu quả công việc sẽ được cải thiện [106, tr. 27-28]. Kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc phát huy và sử dụng nhân tố con người công nhân cho quá trình phát triển kinh tế có thể được xem là một thành công của lý thuyết "con người xã hội".
Tuy nhiên có thể nhận thấy rằng những lý thuyết nêu trên chỉ tập trung khai thác GCCN và các tầng lớp nhân dân lao động khác nhằm mang lại lợi nhuận tối đa cho giới chủ, chứ không coi họ là chủ thể quá trình phát triển kinh tế- xã hội và là mục tiêu của mọi chiến lược, chính sách. Việc nghiên cứu nhân tố con người - công nhân của các nước tư bản vì thế mang màu sắc thực dụng, mỗi nghiên cứu chỉ nêu ý nghĩa của nhân tố con người ở một công đoạn thiết kế nào đó và khó tìm ra "ngôn ngữ" chung bởi những xuất phát điểm khác nhau.
Các nhà tư tưởng XHCN trước Mác, đặc biệt là các nhà XHCN phê phán không tưởng đầu thế kỷ XIX, tuy có đứng về phía GCCN lên tiếng tố cáo sự bóc lột tàn bạo, bất công của CNTB đối với GCCN và nói lên mơ ước của những người lao động về một xã hội không còn áp bức bóc lột, song do hạn chế lịch sử, họ chỉ nhìn nhận công nhân như những người bị áp bức, bóc lột, đáng thương hại, cần được cứu vớt mà không thấy được khả năng cách mạng to lớn của GCCN trong sự nghiệp tự giải phóng mình và giải phóng nhân loại.
C.Mác và Ph.Ăngghen với tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã trở thành những người đầu tiên phát hiện ra vai trò lịch sử toàn thế giới của GCCN với tư cách là người đi đầu trong sự nghiệp xóa bỏ chế độ TBCN, xây dựng thành công xã hội XHCN và CSCN. Các ông đã luận chứng SMLS đó của GCCN là sự kết hợp biện chứng giữa ĐKKQ và NTCQ, trong đó, việc phát huy NTCQ là những điều kiện quyết định trực tiếp để GCCN thực hiện và hoàn thành SMLS của mình. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và hàng loạt các cuộc cách mạng XHCN trên thế giới dẫn đến sự ra đời của CNXH hiện thực là những bằng chứng thực tiễn sống động nhất chứng minh cho những luận điểm khoa học của C.Mác -Ph.Ăngghen về vai trò NTCQ của GCCN.
Từ thập kỷ 70 đến nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ và xu hướng toàn cầu hóa đã tác động và gây nên sự biến đổi nhiều mặt về số lượng, chất lượng, cơ cấu, thành phần GCCN. Thêm vào đó, sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu mà một trong những nguyên nhân quan trọng là do những sai lầm chủ quan của các Đảng Cộng sản đã đặt phong trào cộng sản và phong trào công nhân quốc tế trước những thử thách to lớn. Trong bối cảnh đó, đề tài về GCCN ngày càng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học xã hội trên thế giới (kể cả mácxít và ngoài mácxít).
Trong số các tác giả nghiên cứu về GCCN, có thể kể tới các nhà nghiên cứu người Pháp. Nhiều vấn đề cơ bản về GCCN được đặt lại, nhiều vấn đề mới được nêu ra và những cuộc hội thảo, tranh luận, bút chiến, thường xuyên diễn ra xung quanh những vấn đề đó. Tuy vậy, hiện giữa họ vẫn đang tồn tại những nhận thức, quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau về GCCN.
Đặc biệt cuộc Hội thảo khoa học nhân kỷ niệm 150 năm ra đời Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do tổ chức Không gian Mác của Đảng Cộng sản Pháp tổ chức tại Pari năm 1997, đã thể hiện những góc độ tiếp cận đa dạng trong nghiên cứu về GCCN.
Tiếp đó, từ 14 đến 18 tháng 9 năm 1999 tại thành phố Lin (áo) đã diễn ra Hội thảo khoa học của Hội đồng các nhà sử học quốc tế nghiên cứu về phong trào công nhân (gọi tắt là ITH) theo chủ đề "Thế kỷ XX - Thế kỷ của phong trào công nhân" với sự tham gia của các nhà khoa học thuộc nhiều châu lục. Thành viên Việt Nam của ITH đã tham luận về "Thế kỷ XX - Thế kỷ của phong trào công nhân Việt Nam với thành công của sự nghiệp đổi mới 1986 - 1999".
ở Việt Nam, trước đòi hỏi bức xúc của cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng chính trị chống lại những quan điểm phủ nhận lý luận Mác - Lênin về vị trí, vai trò của GCCN hiện đại, về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong sự nghiệp xây dựng CNXH; trước yêu cầu của thực tiễn xây dựng GCCN vững mạnh xứng đáng là lực lượng đi đầu trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, nhiều tác giả Việt Nam đã tập trung nghiên cứu về GCCN hiện đại và SMLS của nó.
Những công trình nghiên cứu đó có thể chia làm hai mảng lớn. Một là, những công trình và bài viết về GCCN ở các nước tư bản phát triển như: đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ "Những đặc điểm chủ yếu của giai cấp công nhân hiện đại và phong trào công nhân ở các nước tư bản phát triển trong giai đoạn hiện nay" do Viện Quan hệ quốc tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì, chủ nhiệm đề tài Nguyễn Đức Thùy; luận án tiến sĩ "Đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong điều kiện chủ nghĩa tư bản phát triển, đặc điểm và xu thế" của Nguyễn Thế Lực; "Về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay" của Phạm Văn Chúc, Tạp chí Cộng sản, 3/1994; "Về giai cấp công nhân hiện đại" của Hồng Long, Tạp chí Thông tin lý luận, 2/1994... Hai là, những công trình bài viết về GCCN Việt Nam như: "Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong thực tiễn hiện nay có vấn đề gì đặt ra" của Đan Tâm, Tạp chí Thông tin lý luận, 5/1992; "Giai cấp công nhân với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của Bùi Đình Bôn, Tạp chí Thông tin lý luận, 7/1994; "Vài suy nghĩ về vấn đề xây dựng giai cấp công nhân hiện nay" của Đỗ Quang Tuấn, Tạp chí Cộng sản, 5/1999; Luận án tiến sĩ "Giai cấp công nhân Việt Nam - vai trò và xu hướng biến động về cơ cấu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" của Bùi Đình Bôn; Đề tài "Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" do Viện Công nhân và Công đoàn thuộc Tổng liên đoàn lao động Việt Nam chủ trì, chủ nhiệm đề tài Nguyễn Văn Tư; đề tài KHXH-03-07 "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển giai cấp công nhân, những chính sách và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân, củng cố và tăng cường vị trí giai cấp công nhân trong xã hội" chủ nhiệm đề tài Cao Văn Lượng...
Một số tác giả đã đi sâu tìm hiểu về NTCQ của GCCN trong đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản, như công trình: "Sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng trong điều kiện cơ chế thị trường" của Nguyễn Phú Trọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; "Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước" của Nguyễn Trọng Phúc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995; "Một số vấn đề xây dựng Đảng về tổ chức trong giai đoạn hiện nay" của Lê Quang Thưởng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
Một số tác giả nghiên cứu về NTCQ của GCCN Việt Nam trong tổ chức, trong phong trào hoạt động của nó, như các công trình: "Thực trạng giai cấp công nhân và giải pháp công đoàn" của Xuân Cang - Nguyễn Thanh Tuyền, Nxb Lao động, Hà Nội, 1995; "Một số vấn đề về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam" của Văn Tạo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; "Đoàn kết và thống nhất lực lượng giai cấp công nhân trước thách thức của thời đại" của Đan Tâm, Tạp chí Cộng sản, số 20, 10/1998.
Một số tác giả lại nghiên cứu NTCQ của GCCN Việt Nam trong bản thân nó với tính cách là một giai cấp cách mạng, như: "Giai cấp công nhân Việt Nam "tự nhận thức" về giai cấp mình trong thời đại mới", của Văn Tạo, Tạp chí Lao động công đoàn, số 227, 1/2000; "Xây dựng giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa - từ lý luận đến thực tiễn" của Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Lao động công đoàn, số 228, 2/2000.
Những thành tựu nghiên cứu cũng như những giá trị khoa học nhiều mặt của các công trình đã được công bố là tài liệu quý cho chúng tôi tham khảo và kế thừa trong quá trình viết luận án này. Mặc dù vậy, vấn đề về GCCN hiện đại và SMLS của nó là một hệ đề tài rộng lớn, hơn nữa, trong tình hình hiện nay còn không ít vấn đề lý luận và thực tiễn cần được làm sáng tỏ và nghiên cứu thêm một cách sâu sắc, có hệ thống. Đặc biệt, qua các tài liệu có được, chúng tôi thấy vấn đề "Tích cực hóa nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình" chưa trở thành đối tượng nghiên cứu độc lập và trình bày một cách cơ bản, có hệ thống trong những công trình khoa học đã được công bố. Bởi vậy, tác giả luận án mong muốn có được những đóng góp thêm vào việc nghiên cứu vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
3.1. Mục đích
Dựa trên việc làm rõ hơn về lý luận và những kết quả thu được qua khảo sát hiện trạng NTCQ cũng như việc tích cực hóa NTCQ của GCCN Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm tích cực hóa NTCQ để GCCN Việt Nam thực hiện và hoàn thành tốt hơn SMLS của mình trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
3.2. Nhiệm vụ
- Trình bầy một số vấn đề lý luận về GCCN trong giai đoạn hiện nay của thời đại để khẳng định những căn cứ khách quan quy định SMLS của GCCN trong điều kiện mới.
- Phân tích quan hệ biện chứng giữa ĐKKQ và NTCQ trong sự vận dụng cụ thể vào vấn đề SMLS của giai cấp công nhân, luận án làm nổi bật vai trò của NTCQ trong việc thực hiện và hoàn thành SMLS của GCCN.
- Làm sáng tỏ SMLS của GCCN Việt Nam trong thời kỳ mới.
- Phân tích một cách tổng hợp những NTCQ có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến việc hoàn thành SMLS của GCCN Việt Nam.
- Thông qua khảo sát, đánh giá thực trạng NTCQ và việc tích cực hóa NTCQ của GCCN Việt Nam hiện nay, đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm tích cực hóa NTCQ của GCCN Việt Nam để GCCN Việt Nam đáp ứng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là vấn đề tích cực hóa NTCQ của GCCN Việt Nam trong quá trình thực hiện và hoàn thành SMLS của mình.
- Phạm vi nghiên cứu của luận án là GCCN Việt Nam trong thực tiễn đổi mới, trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay với tác động của kinh tế thị trường và quá trình thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về ĐKKQ và NTCQ trong sự vận dụng cụ thể vào GCCN và SMLS của GCCN.
Cùng với cơ sở lý luận đó, tác giả luận án đặc biệt chú trọng tới cơ sở thực tiễn của đề tài được nghiên cứu. Đó là thực tiễn đổi mới của Việt Nam từ cuối thập kỷ 80 cho tới nay với bước chuyển sang nền kinh tế thị trường, áp dụng cơ chế thị trường, thực hiện mở cửa, giao lưu và hội nhập quốc tế. Tìm hiểu tác dụng và ảnh hưởng qua lại giữa những biến đổi kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa trong đổi mới với GCCN và Đảng Cộng sản từ góc độ những NTCQ.
Luận án luôn chú trọng việc vận dụng lý luận vào nghiên cứu và tổng kết thực tiễn nhằm rút ra những vấn đề cần thiết liên quan tới việc làm sáng tỏ chủ đề luận án.
- Phương pháp nghiên cứu của luận án là sử dụng phương pháp luận luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử cùng các phương pháp đặc thù của chủ nghĩa cộng sản khoa học (CNCSKH); phương pháp tiếp cận hệ thống, kết hợp lôgíc và lịch sử, đồng thời sử dụng phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp thống kê để phân tích, tổng hợp kết quả nghiên cứu.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Hoàn thiện thêm một bước nhận thức về NTCQ của GCCN và mối quan hệ biện chứng giữa NTCQ và ĐKKQ trong quá trình thực hiện SMLS của GCCN Việt Nam ở giai đoạn hiện nay.
- Xác định một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm góp phần tích cực hóa NTCQ để GCCN Việt Nam phát huy vai trò tiên phong của mình trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Góp phần nâng cao nhận thức về NTCQ của GCCN Việt Nam, vai trò quyết định của nó trong thực hiện SMLS của giai cấp này.
Góp phần vào công tác xây dựng GCCN trong giai đoạn hiện nay, qua đó góp phần đấu tranh với những quan điểm xuyên tạc, sai lầm về GCCN và SMLS của GCCN trong thời đại ngày nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy CNCSKH (đặc biệt về chuyên đề SMLS của GCCN) ở các trường đại học, cao đẳng và các trường chính trị ở nước ta.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố của tác giả và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình
1.1. Biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1.1.1. Khái niệm "điều kiện khách quan" và "nhân tố chủ quan"
Để hiểu về khái niệm ĐKKQ và NTCQ cần phải bắt đầu từ các khái niệm cơ bản có liên quan của triết học, nhất là các khái niệm có liên quan trực tiếp như: khách quan, chủ quan, khách thể, chủ thể...
Đây là những khái niệm hết sức phức tạp về mặt triết học, tạo nên mối quan hệ hiện thực, trực tiếp, cảm tính giữa thế giới đối tượng, hoàn cảnh, môi trường tự nhiên và xã hội tồn tại độc lập ở bên ngoài ý thức của con người với bản thân con người như một chủ thể nhận thức và hành động nhằm tìm hiểu, khám phá và từng bước chiếm lĩnh thế giới đối tượng đó xuất phát từ nhu cầu tồn tại người và thực hiện hoạt động sống của mình - một hoạt động mang bản chất xã hội, biến đổi thường xuyên trong lịch sử, trên cả phương diện tính cá thể lẫn tính loài, tính tộc loại và nhân loại của nó như Mác đã xác định.
Chỉ có thể hiểu bản chất của các khái niệm khách quan và chủ quan, ĐKKQ và NTCQ nếu xem xét nó trên quan điểm thực tiễn - đời sống, quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm phát triển. Triết học duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác đưa lại một cách hiểu thấu đáo, khoa học hơn cả về vấn đề đó trên một cơ sở tiền đề là, giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học, đó là vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, cả bản thể luận lẫn nhận thức luận của nó. Vật chất quyết định ý thức, ý thức phản ánh vật chất đó không phải là sự phản ánh thụ động, máy móc, cơ giới mà là sự phản ánh tích cực, sáng tạo, có khả năng tác động trở lại, cải biến vật chất, bởi ý thức và hoạt động nhận thức là đặc trưng và sức mạnh riêng có của chủ thể người, chỉ có ở con người và xã hội loài người. Một cách lôgic và lịch sử, trong đời sống hiện thực của con người và lịch sử xã hội loài người - cái sản phẩm được tạo ra bởi hoạt động của con người, quan hệ vật chất - ý thức được biểu hiện thành quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Trên cái nền phổ quát của những lớp quan hệ này, tư duy, ý thức của con người và loài người qua các thế hệ, các thời đại lịch sử đã không ngừng nhận thức và tự nhận thức về khách quan - chủ quan, khách thể - chủ thể.
Tất cả những quan hệ và những lớp quan hệ này chỉ có thể hiểu một cách hợp lý, tức là nó có tính hiện thực, sinh động chứ không phải tư biện và giáo điều nếu soi sáng nó từ thực tiễn, đặt nó trong hoạt động thực tiễn của con người với tư cách là con người hiện thực.
Các nhà triết học Xô viết quan niệm rằng: "Trái với chủ quan, khách quan chỉ cái gì tồn tại bên ngoài ý thức con người và không phụ thuộc vào ý thức con người" [97, tr.439]. Khách quan còn được hiểu như là thực tại khách quan, hiện thực khách quan. Đó là giới tự nhiên, vật chất tồn tại ở bên ngoài và độc lập đối với ý thức con người. Chủ nghĩa duy vật cho rằng thực tại khách quan và thế giới vật chất do những quy luật của bản thân nó chi phối. Cái thế giới vật chất đó, có thể hiểu là giới tự nhiên, môi trường tự nhiên mà C. Mác gọi là môi trường tự nhiên của con người, môi trường tồn tại của con người và xã hội, nó là thân thể vô cơ của con người, nó tồn tại ở bên ngoài và độc lập với ý thức con người, được phản ánh vào ý thức con người. Thực tại khách quan, thế giới vật chất đó trong phạm vi được chủ thể người nhận thức và tác động vào để tìm hiểu những phương tiện sinh tồn, để sáng tạo ra đời sống hiện thực của mình bằng hoạt động thực tiễn còn bao hàm cả xã hội, môi trường xã hội, lịch sử và văn hoá. Nó là một tự nhiên - xã hội và một xã hội - tự nhiên vừa là cái khách quan chi phối trực tiếp cái chủ quan, vừa là cái khách quan đã biến đổi với sự in dấu của cái chủ quan, thông qua hoạt động của chủ thể là con người. Nó trở thành đối tượng hoặc khách thể cho nhận thức và hoạt động của chủ thể, nó khác với khách quan tự nó, vốn có ban đầu. Theo nghĩa đó Mác cho rằng con người không chỉ lấy trong tự nhiên những phương tiện cho sinh tồn nhục thể mà còn biến đổi tự nhiên, "làm thuê" cho tự nhiên, con người có khả năng sáng tạo ra "một thiên nhiên thứ hai" như một tác phẩm nghệ thuật của chính mình. Con người khác căn bản với con vật bởi có ý thức, nhờ đó ở trong tự nhiên, tuy bị cái khách quan chi phối, chế ước nhưng nó lao động và sản xuất. Quá trình này là quá trình con người biến cái khách quan tự nó thành cái khách quan được nhận thức, thành đối tượng, khách thể của tồn tại người và cho hoạt động người. V. I. Lê nin cũng nhấn mạnh giới tự nhiên không thoả mãn con người nên con người quyết định cải biến nó với đôi bàn tay và khối óc của mình. Vì thế từ khi có con người và hoạt động sáng tạo lịch sử của nó, thế giới khách quan, hiện thực khách quan mặc dù vẫn luôn luôn tồn tại bên ngoài con người, độc lập với ý thức con người nhưng đã dần dần trở thành cái khách quan cho chủ quan, hình thành quan hệ khách quan - chủ quan được chủ thể người chiếm lĩnh. Sự xuất hiện " cái chủ quan" và quá trình phát triển lâu dài của lịch sử làm chín muồi những năng lực và chất lượng xã hội của NTCQ thông qua hành vi và hoạt động tự biểu hiện, tự phát triển, tự khẳng định của chủ thể đã dẫn tới sự phát triển của xã hội và sự phát triển của con người theo lôgic lịch sử - tự nhiên như C. Mác nói .
Cái khách quan, từ giới tự nhiên, môi trường tự nhiên đến toàn bộ thế giới khách quan, thực tại và hiện thực khách quan tồn tại tự nó và vận động tự phát theo quy luật tự nhiên. Nhờ chủ quan của chủ thể người tác động, bằng hoạt động, nên một mặt, việc nhận thức quy luật tự nhiên đem lại khả năng chinh phục tự nhiên, con người có thể vén lên bức màn bí mật của nó bởi tự nhiên thích ẩn giấu mình, mặt khác, đối với cái khách quan xã hội thì sự vận động có quy luật của nó đã không thể tự nó mà phải thông qua vai trò của con người chủ thể. Thông qua mọi tương tác với tự nhiên và với xã hội mà con người nhận biết - khám phá - biến đổi chính mình.
Khách quan tác động vào chủ quan làm biến đổi chủ quan cũng như khách thể tác động vào chủ thể làm biến đổi chủ thể. Nhưng chủ quan và chủ thể tự mình thực hiện sự biến đổi ấy nghĩa là nó tiếp nhận và xử lý những tác động từ bên ngoài vào nó để biến đổi nó. Con người vừa hướng năng lực của mình ra bên ngoài vừa là đối tượng của chính mình để tự nhận thức, tự cải biến là vì vậy.
Từ quan niệm xuất phát về cái khách quan đó, chúng ta xem xét tiếp theo quan niệm về cái chủ quan trong mối liên hệ không tách rời với cái khách quan, cũng như chủ thể liên hệ mật thiết với đối tượng và khách thể. Trong triết học Mác, những khái niệm này đều gắn liền với Con người - một phức hợp bản thể vật chất và tinh thần. Tất cả những gì là chủ quan đều thuộc về chủ thể biểu hiện năng lực người, sức mạnh bản chất người như C. Mác nói.
Chủ thể là con người có ý thức và ý chí và đối lập với khách thể bên ngoài. Khách thể này là đối tượng nhận thức và hoạt động của chủ thể. Triết học duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác khẳng định rằng, khách thể độc lập với chủ thể, không có ý thức nào ở bên ngoài vật chất. Song chủ thể không quan sát thế giới khách quan một cách tiêu cực mà tác động vào thế giới khách quan bằng thực tiễn, cải tạo thế giới đồng thời tự cải tạo bản thân mình. Chủ nghĩa duy vật biện chứng vạch rõ mối liên hệ và tác động lẫn nhau giữa chủ thể và khách thể mà khách thể là nền tảng của sự tác động lẫn nhau đó [97, tr 192-193]. Con người với tư cách là chủ thể nhận thức và hành động có quan hệ chặt chẽ với khách thể. Đây là quan hệ tác động, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau mà qua qua đó hiện lên vai trò của khách quan, chủ quan và của chủ thể.
Nếu chủ thể là con người thì chủ quan là cái thuộc về chủ thể hoặc được sản sinh ra từ hoạt động của chủ thể.
Khác với các sự vật xung quanh thuộc hiện thực khách quan, sự tồn tại của chủ quan được biểu hiện dưới hai dạng: tri thức và xúc cảm của bản thân chủ thể. Triết học Mác cho rằng, vấn đề về mối quan hệ giữa chủ quan với khách quan, bắt nguồn từ vấn đề chủ thể và khách thể. Bản thân các phạm trù chủ quan - khách quan là tương đối, chúng luôn luôn chuyển hoá cho nhau. Dưới dạng tri thức, chủ quan không phải là một lĩnh vực nào đó hoàn toàn chủ quan, bởi vì tri thức không nói về bản thân mình mà nói về khách thể được nó tái tạo. Tri thức với tư cách là chủ quan không phản ánh thuộc tính của nó như là một lĩnh vực thực thể đặc biệt khác với hiện thực khách quan mà chỉ phản ánh những nhân tố mà bất kỳ tri thức nào cũng không thể tái tạo đầy đủ và hoàn toàn. Với ý nghĩa đó, nhận thức vận động từ chủ quan nhiều hơn đến chủ quan ít hơn. Không có một trình độ nhận thức nào là chủ quan hoặc khách quan thuần tuý, trong quá trình vận động của nhận thức, thường xuyên có sự thay thế chủ quan bằng khách quan, đồng thời cần vạch ra nội dung khách quan vốn có ở những trình độ nhận thức đã bị vượt qua. Vì vậy, cũng có thể nói, ngay trong những ảo tưởng và sai lầm cũng có nội dung và cả nguồn gốc khách quan của nó. Phân tích cơ sở xã hội lịch sử và nguồn gốc nhận thức của CNXH không tưởng trước mắt ta thấy rõ điều đó. Còn dưới dạng cảm xúc của bản thân chủ thể, chủ quan thể hiện tính không lặp lại, sự đa dạng trong thế giới chủ quan của mỗi cá nhân. Tuy nhiên chính dạng đó của chủ quan cũng không đặc trưng cho sự tồn tại chủ quan đặc biệt nào đó. Mặc dù mang tính cá thể song những xúc cảm đó được sản sinh ra từ hoạt động thực tế của chủ thể, từ sự giao tiếp của chủ thể đó với chủ thể khác. Không phải hoàn toàn ngẫu nhiên mà khi bàn đến phạm trù chủ quan trong hoạt động nhận thức của con người, V.I. Lênin tán thành Hêghen trong luận điểm ch._.o rằng, cái phong phú nhất là cái cụ thể nhất và cái chủ quan nhất [98, tr. 519].
Khái niệm chủ thể và tương quan với nó là khách thể được dùng trước hết với ý nghĩa nhận thức luận. Trong lý luận phản ánh, theo nghĩa rộng, vật chất là chủ thể của mọi sự biến đổi. Theo nghĩa hẹp, chủ thể là con người (cá nhân hoặc nhóm) tiến hành hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn. Trong tương quan với chủ thể, khách thể là đối tượng của hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn của chủ thể. Nó không phải là toàn bộ thế giới hiện thực mà chỉ là một bộ phận nhất định của thế giới đó, bộ phận tác động qua lại với chủ thể [98, tr. 520]. Chủ thể tác động tích cực vào khách thể để cải tạo. Cơ sở của sự tác động qua lại này là thực tiễn lịch sử xã hội loài người. Chủ thể hình thành và biến đổi trong quá trình tích cực cải tạo thế giới bên ngoài. Song, con người không thể hoạt động tuỳ tiện chủ quan theo ý muốn, ý chí của mình vì khách thể luôn vạch ra những giới hạn, những gianh giới trong hoạt động của chủ thể. Đó là những tính quy luật mà chủ thể phải nỗ lực phát hiện nhận thức để đề ra những mục tiêu tự giác và hành động đúng quy luật để đạt tới mục tiêu đó. Kết quả là, trong quá trình đó, cả khách thể lẫn chủ thể đều biến đổi [98, tr. 520] .
Chủ thể và tính chủ quan của chủ thể ngoài phương diện cá thể mà ngay phương diện này cũng mang tính xã hội, cũng là sản phẩm của xã hội, của lịch sử, còn được xem xét về phương diện xã hội. Vì vậy, trong triết học còn đề cập đến phạm trù chủ thể xã hội. Nó được hình dung là mặt chủ quan của các quan hệ xã hội, tức là quan hệ sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Trong hoạt động, chủ thể xã hội được xác định là con người (cá nhân), là nhóm, tầng lớp, giai cấp, thể chế, xã hội. Chủ thể xã hội được hình dung là một yếu tố trong quá trình (hay hệ thống) tương tác xã hội gồm ba yếu tố sau đây: Chủ thể, khách thể, quan hệ qua lại giữa chủ thể và khách thể. Rõ ràng là, trong tương tác xã hội đó, cùng với những yếu tố nêu trên còn cần thiết phải tính đến và không thể không tính đến cặp quan hệ khách quan - chủ quan, nó biểu hiện ra bởi quan hệ khách thể - chủ thể. Đây là những quan hệ, những phạm trù và cặp phạm trù mang tính động chứ không tĩnh; nó biến đổi chứ không bất biến. Trong tính động và sự biến đổi đó, khi nói tới vai trò ngày càng tăng lên của NTCQ cũng đồng thời là khẳng định vai trò ngày càng tăng của chủ thể người, của nhân tố con người trong quá trình phát triển xã hội. Vai trò ấy của chủ quan và của chủ thể tăng lên không phải một cách ngẫu nhiên, tự phát, tự động, mà là một xu hướng tất yếu, một quá trình lịch sử với sự chi phối của cái khách quan, của những ĐKKQ, trong sự tương tác và chuyển hoá của chủ quan và khách quan. Chỉ có thể nhận thấy vai trò của nhân tố này trong sự nhìn nhận tương quan biện chứng giữa nó với vai trò của nhân tố khác trong tính chỉnh thể, hệ thống của nó.
Con người sáng tạo ra lịch sử nhưng không phải trong những hoàn cảnh họ tùy ý lựa chọn, mà trong những hoàn cảnh nhất định đã được hình thành và đang tồn tại độc lập với ý thức của họ. Hoàn cảnh khách quan, xu thế thời đại, những quy luật, những mối quan hệ giữa chủ thể với các lực lượng xã hội khác... là những nhân tố quan trọng của ĐKKQ. Tất cả những hoàn cảnh không phụ thuộc vào ý chí và ý thức của chủ thể hành động mà trong hoàn cảnh đó con người làm nên lịch sử của mình đều thuộc về những ĐKKQ [28, tr. 2]. ĐKKQ còn được hiểu là những điều kiện về mặt vật chất, kinh tế - xã hội. Thuộc về các ĐKKQ còn là điều kiện vật chất của hành động của con người. Nói một cách khác, những điều kiện vật chất tồn tại độc lập đối với ý thức của chủ thể tạo thành cái chính trong ĐKKQ. Tuy nhiên nếu như cái vật chất bao giờ cũng có tính chất khách quan thì cái khách quan lại không phải quy tất cả về cái vật chất.
"NTCQ" là phạm trù quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc trưng cho hoạt động tích cực, có ý thức của quần chúng nhân dân, của các giai cấp, đảng phái, nhóm xã hội và của từng cá nhân nhằm biến đổi và cải tạo hiện thực xã hội [12, tr. 71]. Tất cả những gì thuộc chủ thể cùng hoạt động của chủ thể nhằm tác động vào hoàn cảnh khách quan để biến đổi nó thuộc vào phạm trù "NTCQ". Vận dụng vào đề tài luận án, NTCQ của GCCN bao gồm trình độ nhận thức, ý chí và năng lực nhận thức, năng lực hoạt động thực tiễn cùng thiết chế căn bản nhất - Đảng Cộng sản - do nó xây dựng nên và được nó sử dụng để thể hiện và thực hiện SMLS của mình. Trong NTCQ của GCCN có những đặc trưng về phẩm chất chính trị, đạo đức hình thành nên thế giới quan, lý tưởng, niềm tin, lập trường, thái độ chính trị, thái độ lao động, ý thức tổ chức kỷ luật, ý chí, tác phong ứng xử, năng lực tổ chức và hành động của giai cấp đó.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về NTCQ, song không thể bỏ qua sự phân tích đặc trưng về chất của những chủ thể của lịch sử: các tập đoàn, giai cấp, tầng lớp, các tổ chức xã hội, các dân tộc. NTCQ bao gồm trình độ nhận thức, ý chí và năng lực của chủ thể; những hành động có ý thức nhằm giải quyết những nhiệm vụ lịch sử nhất định. Nhưng "NTCQ" không phải là tất cả những hình thức hoạt động, tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội của con người và ý thức xã hội nói chung. "NTCQ" là ý thức xã hội đã trở thành sự chỉ đạo, sự kích thích hoạt động - tức là cái ý thức đã biến thành đặc điểm nhất định của hành vi, của hoạt động của chủ thể. Khi đó, NTCQ có thể hiểu là những phẩm chất nhất định của chủ thể hoạt động. Do vậy, có nhiều phẩm chất tư tưởng, tâm lý xã hội, đạo đức của các dân tộc, các giai cấp và các tổ chức của nó nằm trong nội dung của NTCQ, nhưng sẽ là sai lầm khi cho rằng toàn bộ ý thức xã hội cũng nằm trong đó. Nghĩa là không đồng nhất NTCQ với ý thức xã hội.
Khái niệm NTCQ gắn bó chặt chẽ với khái niệm nhân tố con người. Một số nhà nghiên cứu khi xem xét mối quan hệ giữa NTCQ và nhân tố con người đã cho rằng đó là hai khái niệm đồng nhất. Chẳng hạn, E.A. Utkin cho rằng: nhân tố con người rõ ràng là NTCQ. Nhưng nó chỉ có thể được xem xét và đề cập một cách đầy đủ trên cơ sở phù hợp với khả năng khách quan của nó [105, tr. 70]. Theo A.K. Uledov: khái niệm nhân tố con người và khái niệm NTCQ là những khái niệm có cùng cấp độ [12, tr. 71]. Sở dĩ như vậy vì chúng cùng là sự bao gồm nhiều phẩm chất tư tưởng, tâm lý xã hội, đạo đức và những phẩm chất khác của các tập đoàn xã hội, của dân tộc, giai cấp và tầng lớp - tức là của chủ thể hoạt động. Về vấn đề này, V.I. Lênin đã chỉ rõ: "Chỉ khi nào giai cấp vô sản và những người nông dân nghèo tỏ ra có đầy đủ tính tự giác, trình độ tư tưởng, tinh thần hy sinh và tinh thần bền bỉ, thì khi đó thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa mới được đảm bảo" [45, tr. 207-208]. Từ chỉ dẫn trên đây cho thấy, quan niệm về NTCQ của V.I. Lênin chính là tính tự giác, tính tổ chức, tính kiên quyết, bền bỉ, tinh thần hy sinh, trình độ tư tưởng của lực lượng cách mạng trong quá trình tiến hành cuộc đấu tranh của mình. G.E. Glêdécman cũng cho rằng, NTCQ trong việc phát triển xã hội - đó là "hành động có ý thức của con người, của các giai cấp, của các đảng để tạo ra lịch sử; đó là tính tổ chức, ý chí và nghị lực cần thiết của họ để giải quyết những nhiệm vụ lịch sử nhất định" [28, tr. 18].
Từ đó có thể thấy, NTCQ không hoàn toàn đồng nhất với khái niệm "nhân tố con người"; về mặt cấu trúc, khái niệm "nhân tố con người" rộng hơn, phong phú hơn. Cấu trúc của nhân tố con người gồm hai phương diện: a) chỉ hoạt động của con người; b) chỉ tổng hòa những đặc trưng về phẩm chất và năng lực của con người. NTCQ không phải là hoạt động của con người, cũng không phải là ý thức nói chung. NTCQ thuộc về phương diện thứ hai trong cấu trúc nhân tố con người, nó nhấn mạnh những đặc trưng về phẩm chất chính trị, đạo đức hình thành nên thế giới quan, lý tưởng, niềm tin, lập trường, thái độ chính trị, thái độ lao động, ý thức tổ chức kỷ luật, ý chí, tác phong ứng xử, năng lực hành động... ở con người với tư cách là chủ thể.
NTCQ được xem xét trong luận án này gắn với một chủ thể xác định- đó là GCCN, cụ thể hơn là GCCN Việt Nam. Trong quá trình thực hiện SMLS do ĐKKQ quy định, GCCN Việt Nam là chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo. GCCN chỉ làm tròn SMLS đó, khi đạt tới sự giác ngộ ý thức giai cấp - giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin; khi xây dựng được một chính đảng vững mạnh - Đảng mácxít-lêninnít chân chính trung thành với SMLS của GCCN, với lợi ích của nhân dân lao động và khi có sự đoàn kết thống nhất của phong trào công nhân. Đó là những NTCQ có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến việc GCCN Việt Nam hoàn thành SMLS của mình.
Ranh giới xác định đâu là ĐKKQ và NTCQ trên thực tế và trong hoạt động thực tiễn chỉ là tương đối, tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, tùy thuộc vào việc xác định cái gì là chủ thể của hành động, cái gì là khách thể của hành động đó. Tiêu chí chủ yếu để phân biệt ĐKKQ và NTCQ là ở chỗ, ĐKKQ hình thành, phát triển và tồn tại không phụ thuộc vào ý chí, vào ý thức của chủ thể; còn NTCQ chính là ý thức, ý chí, năng lực của chủ thể hành động mà trong không ít trường hợp, những nhân tố này chịu ảnh hưởng to lớn của ĐKKQ.
Lấy NTCQ - sự giác ngộ ý thức giai cấp, giác ngộ chủ nghĩa Mác -Lênin, năng lực tổ chức và hoạt động cách mạng của GCCN làm ví dụ để phân tích, ta thấy: phong trào công nhân có ngay từ khi CNTB mới ra đời và có quá trình phát triển khách quan từ thấp đến cao, từ tự phát trở thành tự giác. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản là một NTCQ đánh dấu bước chuyển về chất của phong trào công nhân từ tự phát thành tự giác. Để có bước chuyển đó, GCCN phải được giác ngộ về ý thức giai cấp, giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin đến một trình độ nhất định. Sự giác ngộ đó ở GCCN không thể tự nhiên mà có, trái lại, phải thông qua phát triển sản xuất công nghiệp, phát triển các tổ chức chính trị - xã hội để bảo vệ lợi ích, tuyên truyền, giáo dục công nhân bằng nhiều nội dung và hình thức cụ thể. Đương nhiên là ở mỗi người công nhân, ở GCCN mỗi nước, có quá trình giác ngộ, mức độ giác ngộ khác nhau, do còn phụ thuộc vào ý thức và ý chí của chủ thể hành động. Về vấn đề này, trong Lời tựa cuốn Chiến tranh nông dân ở Đức, Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng, một trong hai ưu thế của công nhân Đức thực sự hơn hẳn công nhân các nước khác ở châu Âu ở chỗ: họ thuộc về một dân tộc có lý luận nhất ở châu Âu và họ vẫn giữ được cái khiếu lý luận ấy mà các giai cấp gọi là "có học thức". Nhờ khiếu lý luận đó mà CNCSKH Đức đã được xây dựng nên. Đồng thời cũng nhờ đó mà CNCSKH đã thâm nhập sâu sắc vào phong trào công nhân Đức. Ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu cũng cho rằng, tư duy khoa học và trình độ học vấn rất cần thiết cho việc tiếp thu lý luận. Khi nói tới mặt ý thức của chủ thể là nói tới một tổng hợp các yếu tố: tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí...Trong đó, tri thức để hình thành năng lực trí tuệ là cốt lõi. Quá trình hình thành và phát triển của ý thức cũng là quá trình con người tìm kiếm, tích lũy tri thức về thế giới xung quanh và càng hiểu biết đúng đắn về sự vật thì ý thức về sự vật càng sâu sắc. Nhận thức ở trình độ cao nhất là trình độ lý luận.
Song, để GCCN có sự giác ngộ giai cấp - giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin thì không thể chỉ cần có tri thức, mà còn phải có tình cảm, niềm tin, bởi tri thức có biến thành tình cảm cách mạng mãnh liệt mới sâu sắc và mới biến thành sức mạnh trong hoạt động thực tiễn để GCCN hoàn thành SMLS của mình. Chỉ khi nào GCCN hiểu rõ ý nghĩa của sự giác ngộ giai cấp, khi đó họ mới có sự quyết tâm học hỏi, tiếp thu lý luận cách mạng như một nhu cầu, một sự thôi thúc từ bên trong. Thiếu nhận thức đúng đắn về vai trò của lý luận thì công tác giáo dục, tuyên truyền sẽ trở thành áp đặt, kém hiệu quả.
Sự giác ngộ về ý thức giai cấp, giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin của GCCN còn phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước mà ở đó GCCN trực tiếp thực hiện SMLS của mình và chịu trách nhiệm trước hết với dân tộc mình. Trước đây, Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh, những đặc điểm riêng về mặt xã hội - chính trị của nhân dân các nước thuộc địa phương Đông khác với các dân tộc phương Tây TBCN và Người đã đi đến kết luận: những lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản (CNCS) thâm nhập dễ dàng vào châu á hơn là ở châu Âu bắt nguồn từ đặc điểm lịch sử, tư tưởng, truyền thống của các nước châu á. Đồng thời, Người cũng nêu tấm gương sáng cho chúng ta về sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam.
Ngoài ra, sự giác ngộ về ý thức giai cấp - giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin của GCCN còn phụ thuộc rất nhiều vào ĐKKQ. Trước hết bởi vì chủ nghĩa Mác - Lênin là sản phẩm tất yếu của những ĐKKQ, kết hợp với vai trò chủ quan. Sự giác ngộ ý thức giai cấp của phong trào công nhân, gặp thuận lợi hay khó khăn phụ thuộc rất nhiều vào địa vị kinh tế - xã hội của GCCN ở những giai đoạn lịch sử khác nhau. Khi GCCN chưa giành được chính quyền, hệ tư tưởng thống trị xã hội một cách hợp pháp là hệ tư tưởng của giai cấp đang nắm tư liệu sản xuất của xã hội và tất nhiên là đang nắm nhà nước - đó là GCTS. Do vậy, việc tuyên truyền, giáo dục ý thức giai cấp, tuyên truyền giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin sẽ gặp rất nhiều khó khăn, vì nhiều khi tiến hành một cách bí mật để tránh sự kiểm soát, sự khủng bố của GCTS thống trị. Sau khi GCCN đã giành được chính quyền, họ sẽ công khai tuyên bố chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng của toàn xã hội. Nhà nước mang bản chất GCCN sẽ sử dụng nhiều hình thức, biện pháp, phương tiện để tuyên truyền rộng rãi chủ nghĩa Mác - Lênin vào mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội và sử dụng chuyên chính vô sản để thẳng tay trừng trị những kẻ đi ngược lại hệ tư tưởng của GCCN. Tuy nhiên, ngay cả khi GCCN đã nắm chính quyền, việc giáo dục ý thức giai cấp (giáo dục về chủ nghĩa Mác - Lênin) cho GCCN cũng không hẳn đã hoàn toàn thuận lợi, bởi vì công tác tư tưởng - chính trị là một công việc thường xuyên, liên tục, luôn gắn với điều kiện kinh tế - xã hội, gắn với điều kiện lịch sử cụ thể và là công việc rất phức tạp, gắn với ý thức mỗi con người.
Vào những năm 1930, bất chấp sự đàn áp, khủng bố của chính quyền thực dân phong kiến, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn được GCCN và nhân dân lao động Việt Nam tiếp nhận một cách tự nguyện và rộng rãi, mặc dù trình độ văn hóa của GCCN lúc đó rất thấp, thậm chí số đông còn đang mù chữ. Sở dĩ có được điều đó là vì sự áp bức, bóc lột tàn tệ của chế độ đế quốc, phong kiến đã gieo vào lòng mỗi người dân một sự căm thù sâu sắc, đó chính là miếng đất màu mỡ để chủ nghĩa Mác - Lênin ăn sâu, bén rễ.
Vào những năm 60 của thế kỷ XX - khi mà trên thế giới, CNXH đang đạt được những thành tựu lớn lao, khi mà ở Việt Nam GCCN vừa mới bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đã được GCCN và đông đảo nhân dân lao động tiếp thu một cách hồ hởi, học tập một cách nghiêm túc. Thế nhưng, những năm gần đây, việc giáo dục, giác ngộ ý thức giai cấp - giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin ở nước ta đang gặp nhiều khó khăn mà nguyên nhân quan trọng là do sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô (cũ) và một số nước Đông Âu, cùng những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đã gây tác động xấu đến đời sống, tâm tư, tình cảm của mọi tầng lớp trong xã hội, trong đó có GCCN, tạo miếng đất thuận lợi cho những kẻ thù địch với CNXH tiến hành "Diễn biến hòa bình", trong đó có chiến dịch xuyên tạc và bôi nhọ chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tiếp thu luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về ĐKKQ và NTCQ là cơ sở phương pháp luận để chúng ta vận dụng vào việc tích cực hóa NTCQ của GCCN Việt Nam, nhằm thúc đẩy quá trình khách quan hóa chủ quan và chủ quan hóa khách quan, làm cho việc thực hiện SMLS của GCCN ngày càng đạt hiệu quả cao hơn.
1.1.2. Quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan
Hoạt động của con người chỉ có thể đạt được hiệu quả khi nó diễn ra trong sự thống nhất giữa ĐKKQ và NTCQ. Sự thống nhất giữa ĐKKQ và NTCQ thể hiện ở chỗ, hoạt động của chủ thể được dựa trên cơ sở vật chất đã có, phản ánh và vận dụng đúng qui luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan một cách chủ động, sáng tạo với ý chí nhiệt tình cao, chứ không phải là tách rời điều kiện vật chất, thoát ly hiện thực khách quan. Kết hợp một cách đúng đắn tác động của NTCQ với ĐKKQ là một trong những bảo đảm thành công của con người trong hoạt động thực tiễn.
Quan hệ giữa ĐKKQ và NTCQ là mối quan hệ biện chứng và được phát triển về mặt lịch sử. Nó được biểu hiện như là yêu cầu tất yếu của mọi hoạt động sáng tạo, như là động lực thường xuyên của mọi sự phát triển xã hội, của công cuộc xây dựng xã hội mới. Với vai trò đó, trong phép biện chứng giữa ĐKKQ và NTCQ, ĐKKQ là mặt quyết định - nó quyết định tính chất, nội dung hoạt động, sự chín muồi của các NTCQ tương ứng. Đến lượt mình, các NTCQ đóng vai trò quan trọng trong quá trình biến đổi, khai thác các ĐKKQ trong quá trình chủ quan hóa khách quan, gắn liền các quá trình khách quan hóa chủ quan và chủ quan hóa khách quan với nhau.
Như vậy, một mặt phải thừa nhận vai trò quyết định của các ĐKKQ đối với NTCQ, không có những ĐKKQ cần thiết, thì mọi cố gắng chủ quan không thể đem lại những cải tạo có hiệu quả thực tế đối với xã hội. Con người không thể bất chấp các ĐKKQ, trái lại, chỉ có thể hành động thành công trong những giới hạn mà ĐKKQ cho phép. Mặt khác, cũng không được xem nhẹ vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo, của NTCQ đối với tiến trình lịch sử. Trong những ĐKKQ đã chín muồi (hay đã ít nhiều chín muồi), thì vai trò của NTCQ có ý nghĩa quyết định trong việc biến khả năng thành hiện thực, thúc đẩy hay kìm hãm sự tiến bộ xã hội. Bản thân ĐKKQ mới chỉ tạo những khả năng phát triển của xã hội phù hợp với quy luật. Những khả năng khách quan đó không thể thực hiện được, nếu không thông qua hoạt động của con người vì những mục đích đã định. Do vậy, sự phát triển xã hội bao giờ cũng là sự thống nhất giữa khách quan và chủ quan.
Con người muốn cho hoạt động của mình phù hợp và ngày càng phù hợp với các quy luật khách quan thì phải nhận thức, vận dụng đúng đắn những quy luật đó, phải có ý chí và có phương pháp, để tổ chức hành động. Con người phản ánh càng đầy đủ và chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo thế giới khách quan có hiệu quả. Vì vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò NTCQ để tác động cải tạo thế giới khách quan. Càng ngày con người càng nhận rõ một đặc điểm quan trọng của biện chứng giữa ĐKKQ và NTCQ là vai trò ngày càng tăng của NTCQ trong sự phát triển xã hội. Điều này được thể hiện qua các quá trình chuyển biến cách mạng thay thế các hình thái kinh tế - xã hội. Trong quá trình chuyển biến cách mạng ấy, vai trò của những tư tưởng và hành động cách mạng đúng đắn ngày càng tăng thì tiến trình lịch sử càng được rút ngắn. Vai trò của NTCQ thể hiện đặc biệt rõ rệt ở sự phát triển và vai trò ngày càng tăng của khoa học trong sự phát triển của xã hội (từ khoa học cơ bản đến khoa học kỹ thuật, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội) và ngày nay, cùng với tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lý luận càng tỏ rõ vai trò to lớn của mình. Càng ngày con người càng nhận rõ chân lý: một dân tộc muốn đứng ở đỉnh cao của khoa học, phải có tư duy lý luận. Thực tiễn đã cho thấy, sự lạc hậu của nhận thức lý luận về CNXH là một trong những nguyên nhân của những khuyết điểm, sai lầm dẫn đến khủng hoảng của CNXH hiện thực.
Tuy nhiên, sự chín muồi của ĐKKQ và NTCQ không phải bao giờ cũng diễn ra đồng đều. ĐKKQ có thể đã chín muồi, nhưng người cách mạng sáng tạo ra cuộc cách mạng đó lại có thể chưa đủ sức để thực hiện nó. Mặt khác, ĐKKQ của một cuộc cách mạng không phải bao giờ cũng được hình thành một cách tự phát, đại đa số trường hợp chúng là kết quả nỗ lực phát hiện, thúc đẩy của NTCQ.
Từ sự phân tích trên cho thấy, NTCQ nằm trong sự tương tác chặt chẽ với các ĐKKQ. Sự tăng lên thường xuyên của NTCQ - của Đảng Cộng sản, các tổ chức xã hội, hoạt động có ý thức của mỗi cá nhân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội - là tính quy luật của sự phát triển xã hội XHCN. Tích cực hóa NTCQ là điều cần thiết để thực hiện tính quy luật khách quan này.
Giá trị và ý nghĩa phương pháp luận sâu sa của việc nhận rõ đặc trưng của quan hệ tương tác này là ở chỗ: Thứ nhất, khi chú trọng tới NTCQ và chủ thể, phát hiện thấy vai trò ngày càng tăng của NTCQ trong CNXH, cần phải ý thức đầy đủ rằng sự tăng lên của vai trò ấy chỉ có tính hiện thực khi nó không tách rời với những ĐKKQ được nhận thức, được thực hiện trong hoạt động thực tiễn. Thứ hai, những ĐKKQ chi phối NTCQ bao giờ cũng thông qua và tùy thuộc vào tính chất và mức độ của những nỗ lực chủ quan của chủ thể. Những tác động chi phối đó thường đan xen cả mặt thuận và nghịch đối với sự phát triển của xã hội và chủ thể xã hội. Nói một cách khác, vắn tắt và cụ thể là, trình độ phát hiện và vận dụng quy luật của con người trong hoạt động tùy thuộc vào sự vận dụng đó đúng hay sai mà chủ thể mang NTCQ có thể thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của xã hội, qua đó kìm hãm hay thúc đẩy chính mình.
Vận dụng cơ sở lý luận triết học trên làm cơ sở để nhận thức những ĐKKQ và NTCQ quy định việc thực hiện SMLS của GCCN cho thấy SMLS của GCCN được quy định một cách khách quan do sự vận động nội tại của những mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội tư bản, do yêu cầu của sự phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp, chứ hoàn toàn không phải do ý muốn chủ quan gán ghép cho nó. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định:
Sự phát triển của đại công nghiệp đã phá sập dưới chân của giai cấp tư sản, chính ngay cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã dựng nên chế sản xuất và chiếm hữu của nó - giai cấp tư sản đã tạo ra những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau [58, tr. 613].
Nếu không có những ĐKKQ đặc biệt là nền sản xuất công nghiệp trong CNTB nêu trên thì không thể có GCCN và SMLS của GCCN. Nhưng, mặt khác, những NTCQ lại là những yếu tố có vai trò quyết định trực tiếp đến sự thành bại của GCCN trong quá trình thực hiện SMLS của mình. Thời C.Mác và Ph.Ăngghen, khi bàn về khả năng nổ ra và giành thắng lợi của cách mạng XHCN, các ông cho rằng cách mạng XHCN chỉ có thể nổ ra và giành được thắng lợi ở đồng loạt các nước TBCN phát triển. Khi nêu lên những hình thức quá độ từ CNTB lên CNXH, C. Mác và Ph. Ăngghen cũng đặc biệt đặt nhiều hy vọng vào kiểu quá độ trực tiếp lên CNXH từ trình độ phát triển cao của CNTB. Song trên thực tế, trong khi chúng ta vẫn khẳng định thời đại ngày nay, xét trên phạm vi toàn thế giới, đi lên CNXH là một tất yếu khách quan, thì tất yếu đó cho đến nay vẫn chưa trở thành hiện thực ở những nước TBCN phát triển. Điều này khẳng định thêm vai trò ngày càng tăng của NTCQ trong sự phát triển xã hội mà GCTS ngày nay đã biết ứng dụng để kéo dài thời gian tồn tại của CNTB. Song, sẽ là thiếu khoa học, nếu như chúng ta không đi tìm nguyên nhân từ phía NTCQ của GCCN. Đó là năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản không theo kịp những biến đổi của thực tiễn, dẫn đến lúng túng, chậm thích ứng; có sự phân hóa, chia rẽ trong nội bộ; uy tín trước quần chúng bị mai một; số lượng đảng viên của Đảng Cộng sản ở một số nước Tây Âu ngày càng giảm dần (xem phụ lục 3); GCCN do có sự khủng hoảng về cơ cấu, ý thức giai cấp bị hạn chế, nội bộ giai cấp chưa thống nhất, một bộ phận có sự thỏa hiệp với GCTS do sợ mất việc làm, sợ ảnh hưởng đến thu nhập...
GCCN Việt Nam trong quá trình thực hiện SMLS của mình đã có những bài học quý báu trong việc vận dụng mối quan hệ giữa ĐKKQ và NTCQ. Trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc Việt Nam, những thắng lợi mà chúng ta giành được đã trở thành kỳ tích, trở thành huyền thoại. Những điều tưởng chừng như phi lý lại trở thành có lý ở Việt Nam. Một dân tộc đất không rộng, người không đông, vũ khí thô sơ dám đương đầu với những tên đế quốc sừng sỏ, giàu có, có trình độ quân sự và vũ khí hiện đại nhất thế giới. Thế giới ví Việt Nam đánh Mỹ như "cưỡi trên lưng hổ", như "lấy trứng chọi đá". Song sự thật hiển nhiên là, Việt Nam chẳng những đã đánh thắng chủ nghĩa thực dân Pháp mà còn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Sở dĩ như vậy là vì, Đảng Cộng sản và GCCN trong hai cuộc kháng chiến đó đã khơi dậy, đã phát huy được vai trò của NTCQ của cả dân tộc: đã giác ngộ được toàn dân thấm nhuần lý tưởng "không có gì quý hơn độc lập tự do", "thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ"; đã khơi dậy được sức mạnh thần kỳ của tinh thần đoàn kết dân tộc trên dưới đồng lòng, dồn sức người, sức của, trí thông minh và lòng quả cảm, vào cuộc chiến tranh nhân dân vì lý tưởng độc lập, tự do; đã xây dựng được một Đảng cách mạng, có tinh thần tiên phong, gương mẫu, đứng mũi chịu sào, chịu đựng hy sinh gian khổ, một lòng trung thành với lợi ích của GCCN và lợi ích của dân tộc, luôn biết dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ khẳng định rằng khi ĐKKQ đã chín muồi (hay ít nhiều đã chín muồi), thì vai trò của NTCQ có ý nghĩa quyết định để biến khả năng thành hiện thực. Nhưng, trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, chúng ta cũng đã chứng kiến, có những thời kỳ do những tiêu cực từ chính GCCN, nhân dân lao động, thậm chí từ chính bộ máy nhà nước và cả những mặt hạn chế của Đảng Cộng sản cầm quyền (như tình trạng quan liêu trong tổ chức bộ máy và trong phương thức hoạt động của Đảng và Nhà nước, sự lạc hậu trong tư duy lý luận về CNXH và tình trạng yếu kém trong năng lực lãnh đạo của Đảng), nên đã tạo ra những lực cản kìm hãm việc thực hiện những nhiệm vụ xây dựng CNXH, làm cho quá trình đi đến đích XHCN ngày càng xa, càng khó khăn, phức tạp hơn. Thực tiễn cũng chứng minh rằng, một trong những nguyên nhân dẫn các nước XHCN trước đây (trong đó có Việt Nam) lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ và đưa chế độ XHCN ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu đi đến sụp đổ hoặc là do các Đảng Cộng sản đã tuyệt đối hóa quy luật "vai trò không ngừng tăng lên của nhân tố chủ quan trong chủ nghĩa xã hội", dẫn đến chủ quan duy ý chí, bất chấp quy luật trong việc đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, đặc biệt là những đường lối, chính sách kinh tế; hoặc do sự yếu kém trong việc phát hiện, nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan của thời kỳ quá độ, nhất là ở chặng đường đầu tiên.
Cần nhận thức về NTCQ theo cả hai mặt, mà hai mặt này cùng hàm nghĩa mối quan hệ giữa ĐKKQ và NTCQ. Đó là, một mặt, NTCQ có thể là những nhận thức và hành động đúng đắn, sáng tạo của một chủ thể người. Mặt khác, nó cũng có thể là những nhận thức và hành động sai lầm của các chủ thể người. (Trong đó, ở luận án này, đặc biệt lưu tâm đến bệnh chủ quan duy ý chí). Bệnh này cũng có thể do chủ thể nhận thức và hành động đã mắc sai lầm; cũng có thể và cần nhận thức được rằng những sai lầm đó do hạn chế lịch sử về năng lực, có nghĩa là những sai lầm có tính chủ quan đã, đang hoặc sẽ diễn ra và tồn tại một cách khách quan - tức đang là một sự thật. Do đó, phải "nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ, nói đúng sự thật" phải nhìn nhận một cách khách quan (như những bài học đổi mới từ Đại hội VI của Đảng ta đã chỉ rõ) thì mới có khả năng khắc phục sai lầm trong NTCQ.
Khi nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin dưới góc độ quan hệ giữa khách quan và chủ quan ta cũng có thể nhận rõ: chủ nghĩa Mác - Lênin là lí luận khoa học, trước hết nó phản ánh một cách đúng đắn về lịch sử và lô gíc của những ĐKKQ trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại, đặc biệt trong đó có sự hình thành và phát triển của CNTB, nền công nghiệp hiện đại và GCCN hiện đại. Đến lượt nó với tư cách là một bộ phận quan trọng nhất của ý thức xã hội mang tính cách mạng và khoa học - hệ tư tưởng của GCCN - chủ nghĩa Mác - Lênin lại thể hiện tính quy luật " vượt trước" để dẫn dắt GCCN và nhân dân lao động hoạt động thực tiễn đúng quy luật, nhằm tự giải phóng mình và giải phóng nhân loại. Khi đó chủ nghĩa Mác - Lênin lại với tư cách như một NTCQ hàng đầu của GCCN và Đảng của nó gắn với nhân dân lao động các dân tộc. Vì vậy, riêng ví dụ về chủ nghĩa Mác - Lênin, về vai trò lãnh đạo và quản lí thì quan hệ giữa ĐKKQ và NTCQ vừa tương đối độc lập, vừa gắn bó mật thiết và bao hàm nhau.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa ĐKKQ và NTCQ hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa chủ quan, với thái độ tuyệt đối hóa NTCQ dẫn tới duy ý chí, coi thường quy luật khách quan. Hành động bất chấp quy luật khách quan của con người có thể được chia làm hai loại:
Loại thứ nhất, bất chấp quy luật một cách có ý thức. Tức là, có khả năng nhận thức được quy luật, song do ý muốn chủ quan vì một lý do nào đó nên đã cố tình làm trái quy luật, hoặc kìm hãm quy luật phát triển.
Loại thứ hai là do sự kém hiểu biết, sự hạn chế về tri thức khoa học, nên đã hành động một cách tự phát mù quáng, trái với quy luật.
Dù ở loại nào, khi đã không tôn trọng quy luật khách quan, con người sẽ phải gánh chịu những hậu quả khó lường. Do vậy, trong hoạt động thực tiễn, sự nỗ lực chủ quan của con người chỉ có hiệu quả lâu dài và tích cực, khi nó lấy ĐKKQ làm cơ sở, khi biết vận dụng các quy luật khách quan một cách tự giác và do đó, con người mới làm chủ được quy luật, mới "thoát khỏi vương quốc của tất yếu" để bước vào "vương quốc của tự do".
Quan điểm trên đây cũng xa lạ với việc đánh giá quá cao vai trò của các ĐKKQ, mà hạ thấp vai trò của NTCQ trong việc phát triển xã hội, làm giảm tính chủ động lịch sử, tính tích cực, năng động của con người.
1.13. Vấn đề điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình trong điều kiện mới
Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế năm 1957 đã xác định: Nội dung căn bản của thời đại chúng ta là sự quá độ từ CNTB lên CNXH được mở đầu bằng Cách mạng XHCN tháng Mười Nga vĩ đại. Từ đó đến nay, tình hình thế giới đã có nhiều biến đổi: Chế độ XHCN ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu sau những thập kỷ phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu to lớn, do những sai lầm đáng tiếc, đã lâm vào khủng hoảng và sụp đổ. CNXH đang lâm vào thoái trào. CNTB sau những khủng hoảng nghiêm trọng, tuy không thể khắc phục cơ bản cuộc khủng hoảng đó, nhưng hiện nay vẫn còn khả năng tự điều chỉnh, thích nghi để tồn tại và phát triển.
Trước thực tiễn đó, GCTS và các nhà lý luận tư sản tỏ ra hết sức vui mừ._. kinh tế hàng hóa nhiều thành phần gắn với thị trường sẽ góp phần giải phóng sức sản xuất, tạo ra nhiều nguồn năng lực mới, thúc đẩy sản xuất phát triển. Trong cơ chế cũ, GCCN chủ yếu bao gồm những công nhân xí nghiệp quốc doanh, công nhân hợp tác xã thủ công nghiệp... Ngày nay, GCCN được mở rộng ở các thành phần kinh tế: quốc doanh, liên doanh, hợp tác xã thủ công, các xí nghiệp tư nhân, các xí nghiệp tư bản tư nhân, công tư hợp doanh... Về mặt số lượng, đã hình thành và phát triển nhiều loại hình công nghiệp dựa trên những thành phần kinh tế khác nhau, nên đã hình thành và phát triển đội ngũ công nhân đông đảo, đa dạng một cách nhanh chóng. Họ là những người lao động công nghiệp trực tiếp, những kỹ sư, kỹ thuật viên, cán bộ kỹ thuật thực hiện chức năng của người công nhân lành nghề, người quản lý điều hành sản xuất trực tiếp. Xét về phương diện nghề nghiệp, đội ngũ công nhân cả ở lĩnh vực công nghiệp, lẫn công nhân nông nghiệp và công nhân dịch vụ ngày càng gia tăng. Xét về trình độ, GCCN nước ta ngày càng được nâng cao trong điều kiện kinh tế thị trường. Số công nhân có trình độ văn hóa cao, được đào tạo bài bản về chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề, ngày càng phát triển để thích nghi với sự cạnh tranh của kinh tế thị trường.
Hai là, cạnh tranh trong thị trường sức lao động hiện nay, người công nhân sẽ năng động hơn, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp tốt hơn, sẽ xuất hiện ngày càng nhiều những công nhân giỏi một nghề, biết nhiều nghề, giỏi một công đoạn, biết thao tác nhiều công đoạn trong guồng máy sản xuất, để thích nghi với nền kinh tế thị trường có chứa đựng những sự rủi ro, bất trắc.
Ba là, giải quyết việc làm - một giải pháp không thể không tính đến để phát huy vai trò NTCQ của GCCN trong thực tế - tất yếu phải dựa trên cơ sở hoạt động sản xuất, kinh doanh. Chỉ với điều kiện phát triển không ngừng hoạt động sản xuất, kinh doanh mới có điều kiện tạo thêm việc làm cho công nhân và xã hội. Nền kinh tế hàng hóa với thị trường trong và ngoài nước phát triển, không ngừng mở rộng sẽ tạo điều kiện cho việc không ngừng phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh và do đó mà tạo nhiều việc làm cho xã hội. Nhà nước cần ban hành những luật lệ, quy chế cụ thể, phù hợp, để một mặt khuyến khích và thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của mọi thành phần kinh tế, trên cơ sở đó thúc đẩy LLSX phát triển, tạo ra nhiều việc làm cho công nhân và xã hội, giải phóng triệt để sức sản xuất, động viên tối đa nguồn lực bên trong và bên ngoài, nhằm thúc đẩy mạnh CNH, HĐH; mặt khác phải giữ vững được định hướng XHCN của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Mục đích tạo nhiều việc làm cho công nhân và người lao động phải được tính đến ngay từ khi xây dựng cơ cấu ngành kinh tế cũng như khi xác định cơ cấu đầu tư. Trong điều kiện kinh tế nước ta còn nghèo, vốn ít, nhu cầu giải quyết việc làm cho công nhân và người lao động rất lớn, lại đòi hỏi phải giải quyết cấp bách nên việc bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư cũng như việc lựa chọn áp dụng các biện pháp tổ chức, kỹ thuật công nghệ phải theo phương châm đạt hiệu quả kinh tế và năng suất lao động cao, nhưng vốn đầu tư ít tốn kém, tạo ra được nhiều chỗ làm việc. Cụ thể là, bên cạnh một số công trình công nghiệp nặng được lựa chọn kỹ, bảo đảm hiệu quả, phải hết sức coi trọng những ngành, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, những loại hình quy mô vừa và nhỏ được trang bị tương đối tiên tiến.
Bốn là, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần sẽ tạo điều kiện và khuyến khích công nhân phát triển kinh tế hộ gia đình trên cơ sở phát huy khả năng nghề nghiệp của công nhân. Đây là sự tác động rất tích cực của kinh tế thị trường định hướng XHCN đối với công nhân nước ta hiện nay . Một mặt nó tạo thêm vệc làm, mang lại nguồn thu nhập chính đáng để công nhân nuôi sống bản thân và gia đình; mặt khác quá trình cạnh tranh trong cơ chế thị trường bằng chính nghề nghiệp của mình, công nhân sẽ không ngừng được nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề, trình độ khoa học, công nghệ, tính tự chủ, năng động, sáng tạo, ý thức coi trọng khách hành, chất lượng sản phẩm. Trên cơ sở đó họ từng bước hình thành ý thức về "giá trị kinh tế " của bản thân thông qua lao động, hình thành lòng tự hào của người thợ - người lao động chân chính, có ích cho xã hội. Đó là những phẩm chất rất cần thiết của người công nhân Việt Nam khi bước vào thế kỷ 21.
Năm là, việc phát triển kinh tế thị trường và đẩy mạnh CNH, HĐH đòi hỏi sắp xếp lại lao động trong nước; nâng cao chất lượng người lao động nói chung, công nhân nói riêng; mở rộng phân công hợp tác lao động với nước ngoài.
Trong quá trình sắp xếp lại lao động, đội ngũ công nhân "dư dôi" hiện nay khá lớn, cùng với đó là nguồn lao động xã hội dồi dào tăng nhanh. Để giải quyết tốt việc làm cho công nhân, chủ yếu phải dựa vào việc mở mang ngành nghề, khuyến khích tự tạo việc làm, sử dụng lao động tại chỗ trên đất nước ta là chủ yếu, bên cạnh đó trong điều kiện hiện nay, mở rộng kinh tế đối ngoại là một bộ phận quan trọng để hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế mới, đồng thời cũng là hướng quan trọng để giải quyết việc làm cho công nhân và người lao động. Với đường lối "cởi mở", với những lợi thế về tài nguyên, địa lý, nguồn nhiên liệu... chúng ta có thể phát triển mạnh kinh tế đối ngoại và do vậy, sẽ tạo được nhiều việc làm cho công nhân. Đặc biệt hiện nay, việc đưa công nhân chưa có việc làm ra nước ngoài làm việc, có thể xem là một trong những hướng giải quyết việc làm có hiệu quả, đồng thời sẽ tạo động lực kích thích công nhân phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, khoa học-kỹ thuật và nghiệp vụ. Do đó, cần mở rộng xuất khẩu lao động dưới nhiều hình thức như: đưa đi lao động hợp tác ở nước ngoài, nhận gia công, làm thuê cho các xí nghiệp nước ngoài đặt trên lãnh thổ Việt Nam, liên doanh hợp tác sản xuất, gia công chế biến các mặt hàng cho nước ngoài...
Kết luận chương 3
Toàn bộ nội dung chương 3 nêu lên những quan điểm cơ bản và những giải pháp lớn gắn với hệ thống biện pháp, nội dung cụ thể, nhằm tích cực hóa NTCQ để GCCN Việt Nam hoàn thành SMLS trong thời kỳ đổi mới.
Tích cực hóa NTCQ của GCCN Việt nam đòi hỏi những giải pháp thật đồng bộ, toàn diện. Trong đó cần đặc biệt ưu tiên những giải pháp đáp ứng nhu cầu, lợi ích thiết thân, chính đáng của công nhân hiện nay nhằm trực tiếp tạo động lực tích cực hóa NTCQ của công nhân Việt nam. Tuy nhiên, những quan điểm và giải pháp đó chỉ có tính khả thi, khi nó được vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể ở từng cơ sở, phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước ở những giai đoạn lịch sử cụ thể. Trong quá trình phát triển của GCCN, những chính sách về GCCN phải thường xuyên được bổ sung cho phù hợp để có tác dụng kích thích tính cực của công nhân.
Những quan điểm chỉ đạo và những giải pháp chủ yếu để tích cực hoá NTCQ của GCCN như đã trình bày cho thấy: phát huy vai trò NTCQ không thuần tuý là phát huy mặt tinh thần, tư tưởng, đạo đức, chính trị mà là kết hợp và tổng hợp các tác động qua lại giữa vật chất và tinh thần, giữa ĐKKQ và NTCQ. Trên cơ sở phát triển kinh tế, văn hoá và xây dựng môi trường xã hội lành mạnh mà làm cho các NTCQ, các nhân tố tư tưởng và tinh thần được vật chất hoá, được khách quan hoá, trở thành một sức mạnh thực tế đem lại những biến đổi tích cực trong GCCN, làm cho GCCN thực hiện được SMLS của mình.
Đóng vai trò quyết định trong việc thực hiện mục tiêu này là Đảng và Nhà nước trong mối liên hệ không tách rời với GCCN và quần chúng nhân dân lao động đông đảo trong xã hội. Tích cực hoá NTCQ của GCCN trở thành một mắt khâu trọng yếu, một nội dung cơ bản trong tổng thể chiến lược và chính sách xây dựng GCCN Việt Nam ở thời kỳ phát triển bước ngoặt, đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay.
Kết luận
Đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, mở rộng giao lưu quốc tế là bước tiến quan trọng của Đảng Cộng sản và GCCN Việt Nam trên con đường nhận thức và thực hiện SMLS của mình nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó chính là ĐKKQ quy định việc tích cực hóa NTCQ của GCCN Việt Nam hiện nay. Nghiên cứu tích cực hóa NTCQ của GCCN Việt Nam phải trên cơ sở những tiền đề đó.
ĐKKQ nêu trên đã tác động sâu sắc, tạo ra sự biến đổi nhiều mặt của GCCN Việt Nam cả về số lượng, chất lượng, theo hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Thêm vào đó, do lịch sử để lại, NTCQ của GCCN Việt Nam hiện nay vừa có những mặt mạnh, vừa có những mặt hạn chế mà nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới. Do đó, tích cực hóa NTCQ của GCCN Việt Nam hiện nay phản ánh yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới, đồng thời phản ánh nhu cầu hoàn thiện của GCCN với tư cách là chủ thể lãnh đạo và chủ thể trực tiếp thực hiện quá trình đổi mới.
Tích cực hóa NTCQ của GCCN Việt Nam trong bối cảnh hiện nay trước hết đòi hỏi phải không ngừng bổ sung những nhận thức về GCCN cho phù hợp với những biến động phức tạp của giai cấp này. Do đó, cần tổ chức một cách công phu những công trình nghiên cứu về GCCN để làm rõ cơ sở khoa học của chiến lược xây dựng GCCN Việt Nam từ nay đến năm 2020. Trước mắt, cần ra được nghị quyết riêng về GCCN Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH. Nghị quyết phải phản ánh được những vấn đề mà thực tế xây dựng GCCN Việt Nam đang đặt ra với quá trình tích cực hóa NTCQ của giai cấp này.
Tích cực hóa NTCQ của GCCN Việt Nam về thực chất là quá trình chủ động tạo ra động lực nhằm kích thích tính năng động chủ quan của GCCN, biến những phẩm chất tự thân của giai cấp cách mạng thành sức mạnh vật chất để chuyển hóa những ĐKKQ của việc thực hiện SMLS của GCCN thành hiện thực. Đó là quá trình không chỉ nhằm khơi dậy, bồi dưỡng và phát huy nghị lực, tính tổ chức, tính tự giác và tính sáng tạo của giai cấp lãnh đạo trong tiến trình cách mạng, mà còn giúp cho việc khơi dậy ý chí, nhiệt tình cách mạng của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội vào sự nghiệp cách mạng đó.
Quá trình tích cực hóa NTCQ của GCCN Việt Nam nổi bật lên những yếu tố cơ bản, quyết định chất lượng của quá trình này: Đảng Cộng sản, Nhà nước, Công đoàn và bản thân GCCN. Những yếu tố này có quan hệ chặt chẽ với nhau, mỗi yếu tố có vai trò nhất định trong quá trình tích cực hóa NTCQ của GCCN. Trong đó, đường lối đúng đắn của Đảng về GCCN và chính sách của Nhà nước thể chế hóa đường lối, cùng với vai trò của Công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp, chính đáng của GCCN đã được thực tiễn khẳng là những nhân tố tạo nên động lực tích cực hóa NTCQ của GCCN Việt Nam hiện nay. Điều có ý nghĩa quyết định là Đảng và Nhà nước khi định ra đường lối, chủ trương, chính sách mới phải dựa trên lập trường, quan điểm GCCN, xuất phát từ lợi ích của dân tộc và của GCCN. Lợi ích cơ bản và lâu dài là độc lập dân tộc và CNXH, lợi ích trực tiếp là các lợi ích thiết thân hàng ngày như việc làm, thu nhập, đời sống ... đó chính là những động lực để tích cực hóa NTCQ của GCCN. Ngoài ra, xây dựng và thực hiện thiết chế dân chủ, nhằm phát huy được quyền làm chủ của công nhân trong các loại hình doanh nghiệp cũng là một động lực quan trọng để tích cực hóa NTCQ của GCCN Việt Nam hiện nay.
Khẳng định vai trò của Đảng, Nhà nước, Công đoàn và các đoàn thể đối với quá trình tích cực hóa NTCQ của GCCN cho thấy cần quan tâm chỉ đạo và kiểm tra chặt chẽ việc thành lập và hoạt động của các tổ chức đó trong các loại hình doanh nghiệp nhằm tập hợp, giác ngộ công nhân, góp phần chăm lo, bảo vệ quyền lợi của công nhân với tư cách là người lao động đang làm chủ đất nước. Cần chú trọng phát triển bồi dưỡng, đào tạo cán bộ xuất thân từ công nhân để bổ sung lực lượng cho cán bộ, cho Đảng, Nhà nước và các đoàn thể ở mọi cấp, mọi ngành.
Nghiên cứu về GCCN là một công việc rất phức tạp, đặc biệt trong tình hình có nhiều biến động và nhiều tác động như hiện nay. Trong giới hạn luận án này, tác giả chỉ đề cập đến phương diện NTCQ có ý nghĩa quyết định trực tiếp nhất đến việc thực hiện và hoàn thành SMLS của GCCN Việt Nam. Việc nghiên cứu những khía cạnh khác có liên quan đến đề tài sẽ là việc triển khai nghiên cứu tiếp theo sau công trình luận án này.
những công trình đã công bố của tác giả có liên quan đến luận án
Trần Thị Bích Liên, "Vấn đề sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản qua một số tác phẩm thời kỳ đầu của Mác - Ăngghen và ý nghĩa của nó trong giai đoạn hiện nay", trong sách Một số vấn đề triết học Mác - Lênin với công cuộc đổi mới, Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tr. 351-367.
Trần Thị Bích Liên (1998), "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Một nội dung trọng tâm của liên minh công, nông, trí thức ở nước ta hiện nay", Chuyên luận KH đề tài cấp Bộ Những căn cứ lý luận và thực tiễn để thực hiện tốt liên minh công, nông, trí thức ở nước ta hiện nay của Viện CNCSKH.
Trần Thị Bích Liên (1999), "Một trái tim đã đập vì giai cấp vô sản", Lao động Công đoàn, (225), tr. 3; 12.
Trần Thị Bích Liên (2001), "Tăng cường bản chất công nhân của Nhà nước ta - nhân tố bảo đảm tính nhân dân của Nhà nước", Báo chí và tuyên truyền, tr. 29-32.
danh mục tài liệu tham khảo
Đặng Danh ánh (15-12-1997), "Dạy nghề nỗi lo còn đó", Báo Nhân Dân.
Alexanor Lilor (2000), "ý nghĩa siêu quốc gia của cuộc cải cách ở Việt Nam. Tại sao chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên xô và Đông Âu sụp đổ?" Thông tin lý luận, (10), tr 54-57.
Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương (1996), Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội VIII của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (1998), Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hoàng Chí Bảo (2000), "Xây dựng giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - Từ lý luận đến thực tiễn", Lao động công đoàn, 2 (228) , tr 19-21.
Bùi Đình Bôn (1996), Giai cấp công nhân Việt Nam, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Lao động, Hà Nội,
Bùi Đình Bôn (1997), Một số vấn đề về giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Brichard (1995), phản phát triển cái giá của chủ nghĩa tự do, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Xuân Cang (22 đến 23-4-1994), Báo cáo một số kết quả nghiên cứu khoa học đề tài KX04-07, Hội thảo khoa học các nhóm chủ nhiệm đề tài thuộc chương trình KX-04.
"Cần có một hàng rào đủ hiệu lực để chặn đứng mọi tham nhũng quan liêu" (30-6-1999), Báo Lao động, (104).
Phí Văn Chỉ (2000), "Vấn đề kết nạp đảng viên trong công nhân, công đoàn", Tạp chí Cộng sản, 5 (9), tr. 48-50.
Nguyễn Như Diệm (1989), "Nhân tố con người và tích cực hóa nhân tố con người: khái niệm và vấn đề", Thông tin khoa học xã hội, (1), tr. 69-76.
P. DrucKer (1995), Xã hội hậu tư bản, Viện quản lý kinh tế Trung ương, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1-1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Lưu hành nội bộ.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban chấp hành Trung ương khóa VII, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2), Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1999) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quang Đạt (1-1-2001), "Công đoàn ngoài quốc doanh không còn lệ thuộc giới chủ", Báo Lao động.
Đề cương bài giảng Chủ nghĩa cộng sản khoa học (1999) Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Đổi mới chính sách xã hội đối với thợ thủ công (1995), Nxb Lao động, Hà Nội.
Phạm Văn Đồng (1999), "Nêu cao danh hiệu Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, 5 (10), tr. 3-5.
Giáo trình chủ nghĩa cộng sản khoa học, chương trình cao cấp (1992), tập 1, Nxb Tư tưởng văn hóa, Hà Nội.
G.E. Glêdec man, Phép biện chứng về các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản, Tài liệu dịch lưu hành, Học viện Nguyễn ái Quốc, (ký hiệu II 21).
Nguyễn Đức Hà (1999) "Công tác phát triển Đảng 1998", Tạp chí Cộng sản, 3 (5), tr. 44-45.
Nguyễn Văn Hạ (1996), Nâng cao tính tích cực xã hội của người lao động Việt Nam trong quá trình đổi mới, Luận án PTS khoa học triết học, Hà Nội.
Tiến Hải (1998) "Về hoạt động của tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp Nhà nước", Tạp chí Cộng sản, 7(14), tr. 27-29.
Trần Kim Hải (1999), "Đào tạo công nhân lành nghề, thực trạng và những vấn đề cần giải quyết", Thông tin lý luận, (4), tr. 19-22.
Vũ Hiền - Ngô Mạnh Lân (1995), Vấn đề dân tộc, giai cấp và nhân loại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Cao Hùng - Trúc Nhã (3-8-2000), "Vì sao đình công ở Bình Dương lại nóng lên?", Báo Lao động.
Phạm Văn Khánh (1996), "Tổ chức Đảng trong các liên doanh kinh tế với nước ngoài", Tạp chí Cộng sản, 10(20), tr. 45-48.
Vũ Ngọc Lân (2000), "Qua mấy vụ án kinh tế lớn nhìn nhận một số kẽ hở trong công tác quản lý cán bộ đảng viên", Tạp chí Cộng sản, (1), tr. 42-46.
V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 2, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 3, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1975), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 24, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 31, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 40, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
Hương Liên (23-3-1998), "Giải quyết mối quan hệ cung cầu lao động theo hướng nào", Báo Nhân Dân.
Trịnh Ngọc Linh (1993), "Mô hình "Kinh tế thị trường xã hội của Cộng hòa Liên bang Đức"", Tạp chí Cộng sản, (5), tr. 54-56.
Nguyễn Thế Lực (1994), Đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong điều kiện chủ nghĩa tư bản phát triển đặc điểm và xu thế, Luận án TS khoa học triết học, Hà Nội.
Cao Văn Lượng (Chủ nhiệm đề tài) (1999), Công nghiệp hóa hiện đại hóa và sự nghiệp phát triển của giai cấp công nhân, những chính sách và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân củng cố và tăng cường vị trí giai cấp công nhân trong xã hội, Báo cáo tổng quan đề tài khoa học cấp Nhà nước KX-03-07, Hà Nội.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 16, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
C.Mác - Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
Mấy vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin trong giai đoạn hiện nay, (1994), Trung tâm thông tin tư liệu, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1976), Vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1988), Về tư cách người đảng viên Cộng sản, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại hiện nay, (1996), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
Đỗ Mười (1999), "Bài học từ sự kiện Thái Bình", Tạp chí Cộng sản, 2(4), tr. 11-16.
Thu Nga (5-9-1998), "Lớp học sau giờ ba ca", Báo Hà Nội mới.
Nguyễn An Ninh (1998), "Những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tiềm năng con người và phát huy tiềm năng trí tuệ của con người", Nghiên cứu lý luận, (8), tr. 11-14.
Nguyễn Văn Nhớn (1996), ảnh hưởng của chính sách xã hội đối với việc nâng cao vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Luận án PTS triết học, Hà Nội.
Lê Khả Phiêu (1998), "Những yêu cầu và trách nhiệm trọng yếu đặt ra đối với giai cấp công nhân và giai cấp nông dân nước ta hiện nay", Tạp chí Cộng sản, 12 (23), tr. 3-7.
Lê Khả Phiêu (2000), "Học tập, rèn luyện tư tưởng và đạo đức cách mạng, thực hiện thắng lợi cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng", Tạp chí Cộng sản, 6 (11), tr. 3-10.
Lê Khả Phiêu (2000), "Để xứng đáng với lòng tin của dân", Tạp chí Cộng sản, 7 (13), tr. 3-6.
Lê Khả Phiêu (2000), "Với tinh thần cách mạng tiến công vững tin vào thắng lợi của sự nghiệp, cách mạng tiến tới Đại Hội IX của Đảng, đưa đất nước vững bước tiến vào thế kỷ XXI", Tạp chí Cộng sản, 7 (14), tr. 5-10.
Đào Duy Quát (2000), "Tìm hiểu thực trạng phong trào cộng sản và công nhân quốc tế sau khi Liên Xô tan rã và triển vọng của phong trào vào thập niên đầu thế kỷ 21", Thông tin công tác tư tưởng, (4), tr. 9-12.
Lê Minh Quân (1998), "Về sự phát triển và phát triển theo định hướng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay", Thông tin khoa học xã hội, (11), tr. 3-9.
Nguyễn Văn Sáu (1993), Phát huy nhân tố con người trong đổi mới quản lý kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Xuân Sinh (12-1-2001), "Công đoàn với công tác phòng chống ma túy trong công nhân lao động", Báo Lao động Thủ đô.
Nguyễn Văn Tài (1998), Tích cực hóa nhân tố con người của đội ngũ sĩ quan trong xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa học quân sự, Hà Nội.
Đan Tâm (1998), "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Cộng sản, 4 (7), tr. 18-20.
Đan Tâm (1998), "Đoàn kết thống nhất lực lượng giai cấp công nhân trước thách thức của thời đại", Tạp chí Cộng sản, 10 (20), tr. 16-18.
Văn Tạo (1993), Khoa học công nghệ và giai cấp công nhân Việt Nam trong sự tác động của cơ chế thị trường, Kỷ yếu Hội thảo "Thực trạng giai cấp công nhân dưới tác động của cơ chế thị trường", Trung tâm Nghiên cứu Thông tin lý luận, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hà Nội.
Văn Tạo (1997), Một số vấn đề về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Văn Tạo (2000), "Giai cấp công nhân Việt Nam "Tự nhận thức" về giai cấp mình trong thời đại mới", Lao động Công đoàn, 1 (227), tr. 16-18.
Văn Tạo (7-11-2000), "Kinh tế tri thức và công nhân tri thức", Báo Nhân Dân.
"Tình hình các Đảng cộng sản ở Tây Âu" (1990), Giáo dục lý luận, (5), tr. 36-37.
"Tình hình lao động ở các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước", (2000), Thông tin công tác tư tưởng, (3), tr. 37-38.
Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam (1999), Văn kiện Đại hội lần thứ VIII Công đoàn Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Viện Công nhân (02-01-1999), Báo cáo, Một số vấn đề xây dựng và phát huy vai trò giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Ban chỉ đạo phòng chống các tệ nạn xã hội trong công nhân lao động (1997), Sổ tay tuyên truyền phòng chống tệ nạn ma túy trong công nhân lao động, Nxb Lao động, Hà Nội.
Nguyễn Văn Tư (Chủ nhiệm đề tài) (1998), Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đề tài nghiên cứu khoa học của Viện Công nhân và Công đoàn thuộc Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam.
Từ điển Triết học (1976), Nxb Sự thật, Hà Nội.
Từ điển Bách khoa Việt Nam tập I (1995), Trung tâm biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội.
Hoàng Tùng (1999), "Kiện toàn đội tiền phong của cách mạng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội", Tạp chí Cộng sản, 5 (10), tr. 7-9.
Trịnh Quốc Tuấn (1999), "Quốc tế III - Biểu tượng đẹp đẽ tình đoàn kết Quốc tế của giai cấp công nhân và nhân dân lao động", Tạp chí Cộng sản, 3 (5), tr. 13-18.
Ngô Hữu Thảo (1996), "Đổi mới chỉnh đối Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới", Tạp chí Cộng sản 11 (22), tr. 10-14.
Hữu Thọ (1999), "Tình hình năm 1998 và những vẫn đề lớn của công tác tư tưởng năm 1999", Thông tin công tác tư tưởng, (1), tr. 1-8.
Lê Quang Thưởng (1996), Một số vấn đề xây dựng Đảng về tổ chức trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Đức Thùy (Chủ nhiệm đề tài) (1998), "Những đặc điểm chủ yếu của giai cấp công nhân hiện đại và phong trào công nhân ở các nước tư bản phát triển trong giai đoạn hiện nay", Kỷ yếu đề tài cấp bộ, Viện quan hệ quốc tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Trần Thị Thủy (2000), Nhân tố con người và những biện pháp nhằm phát huy nhân tố con người trong điều kiện đổi mới ở Việt nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ triết học.
Lưu Ngọc Trinh (1996), Chiến lược con người trong "thần kỳ" kinh tế Nhật bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
Hà Yên Trung (02-07-2000), "Đối phó với những thách thức toàn cầu", Báo Hà Nội mới.
Về việc tăng cường công tác vận động công nhân và hoạt động của công đoàn trong tình hình mới (1967), Nxb Lao động, Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Viễn (1999), "Về tình hình tư tưởng trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh", Thông tin công tác tư tưởng, (1), tr. 22-24.
Phụ lục
Phụ lục 1: Về thời gian công nhân làm việc trong các doanh nghiệp [96, tr. 23]
TT
Năm công tác
%
1
Dưới 1 năm
2,40
2
Từ 1 - 5 năm
44,69
3
Từ 6 - 10 năm
15,03
4
Từ 11 - 15 năm
11,62
5
Từ 16 -20 năm
11,02
6
Từ 21 - 25 năm
4,80
7
Từ 26 - 30 năm
3,80
8
Trên 30 năm
0,40
9
Không trả lời về năm công tác
6,21
Phụ lục 2: Việc sử dụng thời gian sau giờ làm việc ở doanh nghiệp và thời gian rỗi của công nhân [96, tr. 33]
(Đơn vị tính: %)
TT
Nội dung
Hà Nội
Thành phố Hồ Chí Minh
Thái Nguyên
Đà Nẵng
Đồng Nai
1
Xem ti vi
85,56
70,58
51,42
71,29
71,42
2
Đọc sách báo
69,07
59,66
36,19
71,29
60,00
3
Chơi thể thao
39,17
15,12
25,71
25,92
25,71
4
Nghe đài
50,51
13,44
26,66
33,33
22,85
5
Du lịch, tham quan, nghỉ mát
13,04
9,24
2,85
9,25
11,43
6
Thăm bố mẹ
42,26
26,05
31,42
27,77
20,00
7
Thăm bạn bè
58,76
26,89
37,14
37,03
30,00
8
Học thêm
23,71
26,05
8,57
34,25
51,42
9
Làm thêm
15,46
21,00
39,04
31,48
18,57
Phụ lục 3: Tình hình đảng viên của một số Đảng ở Tây Âu [91, tr. 36]
(Đơn vị tính: nghìn)
Tên Đảng cộng sản
1945
Giữa những năm 70
Giữa những năm 80
1990
Italia
2.250
1.815
1.569
1.470
Pháp
804
630
610
610
Thụy Điển
58
21
20
16
áo
155
18
12
9
Đan Mạch
75
10
10
9
Anh
45
25
1
8
Hà Lan
53
15
10
6
Bỉ
108
10
10
4
Na Uy
34
4
2
1
Phụ lục 4: Tìm hiểu công nhân quan tâm đến vấn đề nào nhất
Việc làm 58,28%
Thu nhập 43,05%
Sức khỏe 36,45%
Chăm sóc con cái 33,79%
Chống tham nhũng 27,66%
Công bằng xã hội 25,12%
Trật tự an ninh 23,63%
Gia đình hòa thuận 22,15%
Học tập nâng cao trình độ 20,47%
Văn nghệ thể thao 2,46%
Tham quan du lịch 2,11%
Tôn giáo tín ngưỡng 0,66%
Nguồn: Đánh giá thực trạng công nhân Việt Nam trong những năm đổi mới, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Viện Công nhân - Công đoàn, tr. 28.
Phụ lục 5: Các nghề công nhân làm thêm ngoài giờ
- Chăn nuôi: 30,35%
- Trồng trọt: 23,24%
- Nghề liên quan đến việc làm ở doanh nghiệp: 5,58%
- Dịch vụ, buôn bán: 4,26%
- Thủ công: 3,27%
- Nghề khác: 4,49%
- Không trả lời: 28,81%
Nguồn: Đánh giá thực trạng công nhân Việt Nam trong những năm đổi mới, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Viện Công nhân - Công đoàn, tr. 20.
Phụ lục 6: Số giờ làm thêm ngoài doanh nghiệp của công nhân
- Từ 1 đến 2 giờ: 22,00%
- Từ 3 đến 4 giờ: 19,92%
- Từ 5 đến 7 giờ: 1,82%
- Từ 7 giờ trở lên: 1,21%
- Không trả lời: 55,05%
Nguồn: Đánh giá thực trạng công nhân Việt Nam trong những năm đổi mới, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Viện Công nhân - Công đoàn, tr. 20.
Phụ lục 7: Tình hình nhà ở của công nhân [96, tr. 32]
Xây dựng được nhà riêng: 28,25%
Nhà căn hộ được phân từ thời bao cấp: 8,81%
Đảng ở nhờ, nhà tạm cấp 4 chật hẹp: 27,05%
Đang phải thuê nhà: 8,01%
Hoàn toàn chưa có nhà: 15,83%
Phụ lục 8: Tình hình hiểu biết và quyền được tham gia vào một số vấn đề có liên quan đến nghĩa vụ của công nhân tại cơ sở
Những vấn đề cơ bản
Tỷ lệ %
Biết
Không biết
Tham gia
Không tham gia
Kết quả sản xuất - kinh doanh
50,47
49,53
9,26
94,74
Nghĩa vụ của DN đối với NN
46,80
53,20
8,63
91,37
Đơn giá tiền lương
63,87
36,13
11,21
88,97
Nội quy kỷ luật lao động
83,44
16,56
18,32
81,68
Quy chế của doanh nghiệp
70,70
29,30
16,21
83,79
Thỏa ước lao động tập thể
78,44
21,56
21,13
78,87
Nguồn: Báo cáo kết quả điều tra xã hội học về thực trạng GCCN Việt Nam đến thời điểm 1999 , Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Viện Công nhân - Công đoàn, tr. 26.
Phụ lục 9: Thu nhập của công nhân
- Dưới 140.000 đồng/tháng: 4,10%
- 140.000 - 200.000 đồng/tháng: 6,09%
- 200.000 - 300.000 đồng/tháng: 12,42%
- 300.000 - 400.000 đồng/tháng: 15,70%
- 400.000 - 500.000 đồng/tháng: 16,91%
- 500.000 - 700.000 đồng/tháng: 16,56%
- 700.000 - 1.000.000 đồng/tháng: 16,21%
- Từ 1.000.000 - 2.000.000 đồng/tháng: 8,20%
- Trên 2.000.000 đồng/tháng: 0,23%
- Không trả lời: 3,55%
Nguồn: Báo cáo kết quả điều tra xã hội học về thực trạng GCCN Việt Nam đến thời điểm 1999 , Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Viện Công nhân - Công đoàn, tr. 20.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUANAN.doc