A. Tổng quan về thương mại điện tử
1.Thương mại
1.1Khái niệm
Để hiểu được vấn đề về thương mại điện tử thì chúng ta đi từ những khái niệm cơ bản. Đó là thương mại nói chung.
Trong nền kinh tế thị trường, thương mại là toàn bộ các hoạt động trao đổi, mua bán hàng hoá, dịch vụ và thu lợi nhuận. Việt Nam
Như vậy thương mại không chỉ đơn giản là quá trình mua bán, hay trao đổi hàng hoá mà nó bao gồm nhiều hoạt động liên quan đến mua bán hàng hoá.
1.2.Vai trò của thương mại
Đây là hoạt độ
35 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1674 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thương mại điện tử. Thực trạng và giải pháp để phát triển thương mại điện tử và phát triển ngân hàng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng tiếp tục quá trình sản xuất, thực hiện trong lưu thông, vì thế nó chịu chi phối chủ yếu bởi khâu sản xuất. Tuy nhiên, thương mại có một vai trò to lớn trong nền kinh tế thị trường. Nó điều chỉnh, thúc đẩy sản xuất, tác động vào quá trình phân công lao động xã hội. Thương mại gắn sản xuất với tiêu dùng, kể cả tiêu dùng cho sản xuất, tạo ra một quá trình tái sản xuất liên tục. Thương mại còn có tác động gắn hoạt động kinh tế trong nước với hoạt động kinh tế ở ngoài nước, nhờ đó góp phần mở rộng khả năng tiêu dùng và sản xuất.
Thông qua nhiệm vụ của thương mại, ta hiểu được rõ hơn về vai trò của thương mại. Có thể nêu lên những nhiệm vụ chủ yếu của thương mại như sau:
- Xác định nhu cầu thị trường của các loại hàng hoá, dịch vụ.
- Xác định và khai thác các nguồn hàng để thoả mãn các nhu cầu xã hội.
- Thực hiện quá trình cân đối nhu cầu và nguồn hàng.
- Tổ chức các mối quan hệ giao lưu thương mại. Tổ chức các kênh phân phối hợp lý.
- Quản lý hàng hoá, tiến hành mua bán thanh quyết hàng hoá.
2.Thương mại điện tử
2.1.Các khái niệm về thương mại điện tử
Thương mại điện tử (TMĐT)là bước phát triển cùng với xã hội thông tin hoá là một khái niệm mới xuất hiện vào thập kỷ 90 ở Hoa Kỳ, châu Âu và các nước phát triển khác. Hiện nay, trên thế giới chưa có định nghĩa thống nhất về thương mại điện tử, dưới đây là một số khái niệm phổ biến:
-"Thương mại điện tử là hoạt động giao dịch trên mạng thông tin"
-"Thương mại điện tử là việc ứng dụng các công cụ điện tử trong quá trình thương mại"
-"Thương mại điện tử là thực hiện điện tử hoá toàn bộ hoạt động thương mại"
-"Thương mại điện tử là chỉ thị trường mua bán hàng hoá đã được điện tử hóa"
-"Thương mại điện tử là thực hiện điện tử hoá, tự động hoá tất cả các khâu từ trước khi bán hàng đến sau khi bán hàng"
-"Thương mại điện tử chính là thực hiện giao dịch trực tiếp và không dùng giấy tờ trong toàn bộ quá trình hoạt động thương mại"
-"Thương mại điện tử là quá trình thực hiện điều tiết quy trình vật tư và nhân lực trên mạng bằng phương thức điện tử để tiến hành các hoạt động trao đổi thương mại".
-"Thương mại điện tử = Web + nghiệp vụ doanh nghiệp"
-"Thương mại điện tử = thị trường điện tử hoá + giao dịch điện tử hoá + dịch vụ điện tử hoá"
-"Thương mại điện tử là để chỉ toàn bộ quá trình sử dụng các công cụ điện tử thực hiện các hoạt động trao đổi thương nghiệp và thao tác nghiệp vụ thương nghiệp trên cơ sở máy tính và mạng thông tin"
-Dựa trên định nghĩa về thương mại truyền thống thì Thương mại điện tử (TMĐT) được định nghĩa một cách đơn giản là: sự chuyển giao giá trị qua INTERNET của một trong 4 dạng hoạt động: Mua, Bán, Đầu tư và Vay mượn.
TMĐT là cuộc cách mạng trong giao dịch, kinh doanh, nó thay đổi toàn diện phương thức sản xuất, kinh doanh, nếp sống xã hội. ở nước ta, mối quan tâm đến TMĐT đang tăng lên hàng ngày bởi TMĐT là điều kiện cần thiết và bắt buộc trong quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Những khái niệm nêu trên về thương mại điện tử xuất phát từ những góc độ khác nhau, chúng hoặc là khái quát cao hoặc là chỉ định nghĩa về một đặc trưng của thương mại điện tử. Tóm lại, thương mại điện tử là một hình thức hoạt động thương mại mới, nó thông qua việc sử dụng các công cụ của công nghệ thông tin hiện đại, lấy mạng thông tin số hoá và máy vi tính để thay thế cho quá trình sử dụng giấy làm môi trường truyền tải tin, từ đó thực hiện dịch vụ cũng như việc quản lý giao dịch, đồng thời đạt được mục tiêu lưu thông hàng hoá và tiền tệ hiệu quả cao, chi phí thấp, thông tin hoá quản lý, mạng hoá hoạt động kinh doanh.
2.2.Quá trình giao dịch
Để hiểu rõ thêm TMĐT, chúng ta xem một quá trình xử lý của một giao dịch Thương mại điện tử diễn ra như thế nào, hay còn gọi là quá trình mua hàng trực tuyến trên Internet.
-(1). Người mua hàng sử dụng trình duyệt trên WEB của một cửa hàng. (Shop) trên Internet. Căn cứ vào giá chào hàng, chất lượng, danh tiếng của mặt hàng cũng như cửa hàng, người mua hàng chọn hạng mục hàng hoá định mua (giống như việc họ đi mua hàng ở cửa hàng hoặc siêu thị).
(2).Cửa hàng yêu cầu người mua điền vào yêu cầu đặt hàng các hàng hoá cần mua với mức giá tương ứng cho từng mặt hàng. Đồng thời, người mua cũng được yêu cầu chọn phương thức chuyển hàng (kèm theo mức phí nếu có) và phương thức thanh toán (tiền điện tử hoặc thẻ tín dụng..) Sau đó, người mua phải xác nhận đơn mua hàng của mình để gửi cho người bán.
(3). Căn cứ vào yêu cầu mua hàng của người mua vừa xác nhận, người bán hàng (hay cửa hàng) yêu cầu ngân hàng xác nhận về khả năng thanh toán của người mua, dựa vào phương thức thanh toán mà người mua chọn. Ví dụ nếu thanh toán bằng thẻ tín dụng VISA CARD, ngân hàng cấp phép sẽ phải xác nhận tình trạng thẻ VISA của người mua như một giao dịch cấp phép thanh toán thẻ thông thường. Nếu ngân hàng từ chối thanh toán, yêu cầu mua hàng của người mua sẽ không được chấp nhận.
(4). Người bán hàng chuyển hàng cho người mua theo đơn mua hàng.
(5). Người bán yêu cầu ngân hàng thanh toán hoặc một tổ chức trung gian tài chính thanh toán tiền.
(6). Ngân hàng của người mua yêu cầu người mua thanh toán tiền
2.3.Lợi ích của TMĐT
2.3.1.Đối với Chính phủ
Kiểm soát dễ hơn: Thuế, phân phối thu nhập, hải quan...
Ngoài ra, nó tạo ra sự phát triển các ngành kinh tế trọng điểm đặc biệt là ngành ngân hàng. Mà ngân hàng là bà đỡ của nền kinh tế. Như vậy, TMĐT sẽ góp phần vào sự phát triển kinh tế thương mại nói riêng và đất nước nói riêng.
Song song với các lợi ích rõ rệt, TMĐT đặt ra hàng loạt các đòi hỏi phải đáp ứng và các vấn đề phải giải quyết trên tất cả các bình diện. Những đòi hỏi của TMĐT là một tổng thể của hàng chục vấn đề như: hạ tầng cơ sở công nghệ; hạ tầng về tiền tệ (hệ thống thanh toán tự động); hạ tầng cơ sở nhân lực;bảo mật, an toàn; bảo vệ sở hữu trí tuệ; bảo vệ ngời tiêu dùng; môi trường kinh tế và pháp lý....Vì thế, nó tạo ra sự hiện đại hoá trong nhiều lĩnh vực, và sự hoàn thiện những cơ sở cần thiết. Vô hình chung nó tạo ra sự phát triển của mọi lĩnh vực hiện đại như: công nghệ thông tin, phát luật..
2.3.2.Đối với doanh nghiệp
- Hợp lý hóa khâu cung cấp nguyên vật liệu, sản phẩm, bảo hành;
- Tự động hoá quá trình hợp tác, kinh doanh để nâng cao hiệu quả;
- Cải tiến quan hệ trong công ty, với đồng nghiệp, đối tác, bạn hàng;
- Giảm chi phí kinh doanh, tiếp thị, nhân công, quản lý. Thương mại điện tử là cơ sở quan trọng nhất cho việc phát triển kinh doanh điện tử.
- Tăng năng lực phục vụ khách hàng;
- Tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp;
- Mở rộng phạm vi kinh doanh: dung lượng và vượt qua vùng lãnh thổ. Thị trường là toàn cầu. Khác với phương thức kinh doanh truyền thống thương mại điện tử giúp cho doanh nghiệp có khả năng mở rộng thị trường của mình vượt ra khỏi biên giới quốc gia hay thị trường trở thành toàn cầu mà không cần phải mở các văn phòng đại diện quảng cáo giới thiệu sản phẩm của mình.
-Giảm vốn kinh doanh. Với việc sử dụng Internet để quảng cáo giới thiệu và bán sản phẩm dịch vụ, các doanh nghiệp có thể chưa cần phải đầu tư, sản xuất hàng loạt các mặt hàng để sẵn trong kho mà thông thường, họ phải làm nếu như họ có cửa hàng bán hàng cụ thể.
2.3.3Đối với người tiêu dùng
- Thuận tiện hơn;
- Tăng khả năng lựa chọn;
- Tiếp cận mặt hàng dễ dàng hơn;
- Hưởng các dịch vụ nhiều hơn.
-Tiết kiệm thời gian mua hàng.
-Thêm nhiều cơ hội trong việc lựa chọn sản phẩm vừa ý với mức giá hợp lý.
-Việc mua hàng không bị giới hạn ở phạm vi trong nước mà mở rộng trên toàn thế giới.
-Có sự đảm bảo an toàn trong thanh toán.
2.3.5. Đối với ngân hàng
Riêng đối với ngân hàng, trước hết ngân hàng là một doanh nghiệp nên có cũng có đầy đủ những lợi ích như đã nêu khi có TMĐT.
Do đặc thù riêng của ngành ngân hàng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, một lĩnh vực liên quan trực tiếp đến thanh toán và tín dụng- hai vấn đề lớn của thương mại nói chung và TMĐT nói riêng. Vì vậy mà lợi ích này càng trở nên quan trọng hơn bất cứ ngành nào khác.
2.4.Phân loại ứng dụng của thương mại điện tử.
Phạm vi ứng dụng của thương mại điện tử rất rộng, từ góc độ khác nhau có thể chia thương mại điện tử thành các loại khác nhau.
2.4.1.Phân loại theo đối tượng giao dịch của thương mại điện tử
-Thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp
Giữa doanh nghiệp cung cầu và doanh nghiệp hợp tác sử dụng mạng để trao đổi thông tin, chuyển giao các lại chứng từ, thanh toán tiền hàng, từ đó thực hiện điện tử hoá toàn bộ quá trình hoạt động thương mại. Thông qua mạng chuyên dụng hoặc mạng giá trị gia tăng trao đổi dữ liệu. Có thể nói đây là loại hình thương mại điện tử xuất hiện sớm nhất và ứng dụng điển hình nhất. Đặc biệt là hai năm lại đây, cùng với sự xuất hiện và phát triển của mạng Internet ngày càng nhiều doanh nghiệp và công ty đã bắt đầu sử dụng Intranet và Extranet để hoạt động thương mại.
-Thương mại điện tử giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng.
ứng dụng điển hình của thương mại điện tử giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng là việc mua hàng trên mạng, tức điện tử hoá việc tiêu thụ. Nó ra đời và phát triển nhanh chóng cùng với sự xuất hiện của mạng WWW. Hiện nay trên Internet đã xuất hiện các loại trung tâm thương mại, cung cấp thông tin và dịch vụ đặt mua các loại hàng tiêu dùng từ hoa tươi, sách, phần mềm đến máy vi tính, xe hơi…Người tiêu dùng có thể thông qua các máy tính nối mạng Internet tại gia đình để chọn các loại hàng hoá mình cần mà không cần phải đến chợ hoặc cửa hàng để mua.
-Thương mại điện tử giữa doanh nghiệp và chính phủ
.
Hình thức hoạt động thương mại điện tử này có thể bao quát các nghiệp vụ giữa doanh nghiệp và các tổ chức chính phủ. Ví dụ ở Hoa Kỳ, bản kê chi tiết thu mua của chính phủ có thể được thông báo trên mạng Internet, doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu mua hàng của chính phủ bằng phương thức điện tử hoá. Tuy nhiên, nay ứng dụng trên lĩnh vực này còn ít, nhưng một khi chính phủ đi đầu trong việc sử dụng kỹ thuật thương mại điện tử thì nghiệp vụ thương mại điện tử này sẽ phát triển rất nhanh.
-Thương mại điện tử giữa người tiêu dùng và chính phủ
Hiện nay loại ứng dụng thương mại điện tử này chưa xuất hiện nhưng cùng với sự phát triển của thương mại điện tử giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng, giữa doanh nghiệp và chính phủ, chính phủ sẽ có thể mở rộng thương mại điện tử đến việc chi tiêu cho phúc lợi và thu thuế. Ví dụ cơ quan quản lý và thu thuế có thể thông báo, thuế thu nhập cá nhân và kê khai, thu các loại thuế khác trên mạng. Trong giai đoạn phát triển ban đầu của thương mại điện tử như hiện nay, ứng dụng chủ yếu của nó là hoạt động giữa các doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp với người tiêu dùng. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của thương mại điện tử, thì không thể bỏ qua, tiềm lực của hoạt động thương mại điện tử giữa doanh nghiệp và chính phủ, người tiêu dùng và chính phủ.
-Thương mại điện tử trong nội bộ doanh nghiệp.
Doanh nghiệp dùng các biện pháp an toàn như bức tường lửa để cách ly mạng nội bộ (Intranet) của doanh nghiệp với mạng Internet, từ đó làm cho mạng Intranet trở thành một công cụ thương mại an toàn, hiệu quả, dùng để xử lý tự động các quy trình công tác và các thao tác nghiệp vụ, thực hiện dùng chung thông tin của kho dữ liệu trong nội bộ doanh nghiệp, cung cấp kênh thông tin và liên hệ trong nội bộ doanh nghiệp một cách nhanh chóng. ứng dụng thương nghiệp của Intranet trong doanh nghiệp có thể tăng tốc độ xử lý hoạt động thương mại của doanh nghiệp, có thể đưa ra những phản ứng nhanh nhậy hơn với sự biến động của thị trường, cung cấp dịch vụ toàn diện hơn, ưu việt hơn, hiệu quả hơn cho khách hàng.
2.4.2Phân loại theo nội dung giao dịch của thương mại điện tử
-Mua hàng điện tử và thương mại
Đây là hoạt động thương mại điện tử có nội dung là hàng hoá thật. Đối với loại hoạt động thương mại điện tử này, những thông tin tiền giao dịch như hỏi hàng, đặt hàng, thanh toán tiền hàng đều có thể thực hiện qua mạng, nhưng hàng hoá cuối cùng được đưa đến tay người mua thì phải dựa vào dịch vụ bưu điện truyền thống hoặc nhờ vào công ty vận tải để giao hàng. Mua hàng và thương mại điện tử sẽ kết hợp của giao dịch điện tử với hình thức thương mại truyền thống, giảm thiểu các khâu trung gian trong quá trình lưu thông hàng hoá, làm thay đổi lớn phương thức thương mại truyền thống.
-Dịch vụ sản phẩm thông tin trên mạng
Và đây là loại thương mại điện tử có nội dung là các sản phẩm và dịch vụ thông tin vô hình, ví dụ như đặt mua các phần mềm máy tính, sử dụng các trò giải trí trên mạng, truy cập vào kho dữ liệu, dịch vụ tư vấn thông tin trên mạng....Toàn bộ quá trình thương mại điện tử này đều có thể thực hiện qua mạng.
-Ngân hàng điện tử và dịch vụ tiền tệ
Còn đây là hoạt động cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử nhanh gọn, thuận tiện cho hai loại hình thương mại điện tử nói trên thông qua các ngân hàng trên mạng và các tổ chức tài chính liên quan. Đây là một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện thương mại điện tử với ý nghĩa đích thực, đồng thời cũng là nguyên nhân cơ bản cho việc điện tử hoá tiền tệ
3. TMĐT đối với sự phát triển trong lĩnh vực ngân hàng
3.1.Mối quan hệ giữa TMĐT và sự phát triển của ngân hàng.
Qua những tìm hiểu về thương mại điện tử ở phần trên, chúng ta thấy rằng, thương mại điện tử tạo ra sự phát triển của ngân hàng. Đó là sự tất yếu. Và ngược lại, sự phát triển của ngân hàng sẽ thúc đẩy quá trình thương mại điện tử diễn ra nhanh chóng và hoàn thiện hơn. Như các công ty khác, ngân hàng đã từng bước đẩy mạnh việc sử dụng máy tính trong kinh doanh. Tiếp cận thương mại điện tử đã đặt ra cho ngân hàng những cơ hội và những thách thức mới.
Sự tác động có tính biện chứng qua lại lẫn nhau giữa thương mại điện tử và sự phát triển của ngân hàng là do:
Thứ nhất,theo khái niệm đã nêu trên thì Thương mại điện tử (TMĐT) được định nghĩa một cách đơn giản là: sự chuyển giao giá trị qua INTERNET của một trong 4 dạng hoạt động: Mua, Bán, Đầu tư và Vay mượn.
Đây là hoạt động liên quan đến kinh doanh của một doanh nghiệp. Mà ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Như vậy, xét trên góc độ coi ngân hàng là một doanh nghiệp thì sự chuyển giao giá trị qua Internet chính là những hoạt động của doanh nghiệp đó. Nói cách khác thì thương mại điện tử chính là sự số hoá hoạt động của một doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng. Điều đó cho thấy thương mại điện tử chính là sự phát triển của ngân hàng.
Thứ hai, như đã mô tả quá trình thực hiện một giao dịch thương mại điện tử (trong mục 2.2), ngân hàng là một trong ba bên tham gia vào quá trình này và đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo khả năng thanh toán, tính hợp lệ của phương thức thanh toán mà người mua hàng xác nhận, làm trung gian giữa người mua và người bán. Thông thường, ngân hàng tham gia có hai loại:
- Ngân hàng người bán hàng (Bank's Merchant hay Acquiring Bank).
- Ngân hàng người mua hàng (Bank's Buyer).
Do yêu cầu phải xác nhận tức thời tính hợp lệ của giao dịch thương mại điện tử, ngân hàng người bán hàng phải được kết nối trên mạng với "cổng thanh toán"(Payment Gateway) và thông qua các mạng thanh toán, kết nối với ngân hàng người mua để kiểm tra tính hợp lệ của phương thức thanh toán mà người mua chọn. Ví dụ như mạng VISA International hoặc Mastercard International.. Điều đó có nghĩa là cần phải thiết lập hệ thống Payment Gateway, phát triển hệ thống phần mềm xử lý, nâng cao cơ chế quản lý và cơ cấu ngân hàng, hoàn thiện và xây dựng phương thức thanh toán. Tất cả chính là sự phát triển của ngân hàng.
Tóm lại, một lần nữa khẳng định rằng. Sự phát triển của thương mại điện tử hiện đang có tác động rất lớn tới hoạt động ngân hàng và đặt ra những yêu cầu rất cấp thiết và hiện đại hoá đối với ngành kinh tế quan trọng này. Nếu một ngân hàng không tự thay đổi, hiện đại hoá thì có thể sẽ gặp nhiều khó khăn, thất bại trong chiếm lĩnh thị trường hoặc thậm trí phải đóng cửa ngay trong một vài năm tới.
Bên cạnh đó, TMĐT cũng là một thách thức đối với sự phát triển của ngân hàng.
Một khi TMĐT được tiến hành rộng rãi thì các ngân hàng truyền thống đang đứng trước một tương lai bi cạnh tranh khốc liệt bởi việc áp dụng thương mại điện tử của các tổ chức phi tài chính như siêu thị, cửa hàng và ngay cả các nhà sản xuất cũng đã bắt đầu đưa ra các sản phẩm tài chính như thẻ mua hàng tín dụng, mua hàng trả chậm, bán bảo hiểm. Các công ty này đang có lợi thế về mạng lưới phân phối sản phẩm đến tận tay khách hàng, giá cả tín dụng cạnh tranh do bù vào lợi nhuận khách hàng mà có trong khi các thủ tục cấp tín dụng của họ cũng đơn giản và linh hoạt hơn nhiều so với hệ thống ngân hàng truyền thống.
Cũng chính vì vậy, các ngân hàng trong nước sẽ phải đối mặt với một thách thức rất lớn là phải tối ưu hoá các hoạt động nghiệp vụ, kinh doanh truyền thống đồng thời cần phải hiện đại hoá để có đứng vững và phát triển, đáp ứng yêu cầu của thương mại bện tử. Nói cách khác, việc đầu tư vào một số lĩnh vực hoạt động ngân hàng hiện đại cũng có nghĩa là thương mại điện tử. Như vậy, việc các ngân hàng trực tiếp tham gia vào lĩnh vực thương mại điện tử không những là động lực quan trọng để xúc tiến thướng mại điện tử ở Việt Nam mà còn là động lực củng cố và phát triển của bản thân các ngân hàng.
3.2. ảnh hưởng thương mại điện tử với sự phát triển ngân hàng
Phần trên, chúng ta đã phân tích mối quan hệ (cũng chính là sự tất yếu) của thương mại điện tử với sự phát triển của ngân hàng. Còn bây giờ chúng ta sẽ xem xét đến ảnh hưởng TMĐT với ngân hàng. Hay nói cách khác, TMĐT đã làm thay đổi những gì trong lĩnh vực ngân hàng.
3.2.1.Tạo ra loại hình ngân hàng mạng.
Sự tất yếu hình thành loại hình ngân hàng mạng:
Thương mại điện tử trở thành mô hình hoạt động thương nghiệp hoàn toàn mới mà từ trước tới nay chưa hề có nó. Nó đang dẫn tới một cải cách sâu sắc trong lĩnh vực mậu dịch- thương mại. Hơn nữa cải này lại lấy hoạt động và sự nghiệp chưa từng có của ngân hàng điện tử làm tiền đề. Đây bởi vì, khâu trung tâm trong thương mại điện tử là sự lưu động vốn, tức là thanh toán trên mạng. Nó hoàn toàn cần thiết dựa vào Ngân hàng điện rử để thực hiện. Nếu như không có các phương tiện chi trả điện tử phối hợp đúng lúc kịp thời thì thương mại điện tử sẽ trở thành "thương mại giả thiết". Chỉ có khả năng là tình hình hàng hoá điện tử, hợp đồng điện tử mà không có cách gì để trở thành hợp đồng chính thức trên mạng. Do đó, sự phát triển thương mại điện tử yêu cầu các ngành lưu thông tiền tệ phải phát triển đồng bộ với thương mại hoá điện tử. Ngân hàng điện tử trở thành xu thế phát triển lớn mạnh.
Ngân hàng mạng là gì?
E-Bank dịch trực tiếp là Ngân hàng điện tử hoặc còn gọi là ngân hàng mạng. Tức là giả thiết là các quầy tủ làm việc của Ngân hàng đều nằm trên mạng Internet. Ngân hàng mạng chủ yếu dùng máy tính. Mạng thông tin có thể do Ngân hàng tự xây dựng hoặc lấy mạng Inter công cộng làm môi giới chuyển tảI, dùng máy tính cá nhân, đơn vị để nhập mạng.
Hình thức của ngân hàng mạng:
Ngân hàng mạng trước mắt có hai hình thức:
+Một loại là Ngân hàng điện tử hoàn toàn mới, hoàn toàn dựa vào Internet mà phát triển. Toàn bộ giao dịch của loại ngân hàng này đều dựa vào Internet để tiến hành. Ví dụ như: Security Network Bank viết tắt là SFNB. Ngân hàng này ra đời tháng 10 năm 1995 tại nước Mỹ. Trước mắt có 450 vạn gia đình Mỹ mỗi tháng có ít nhất một lần sử dụng công năng ngân hàng mạng trên mạng Internet hoặc công năng chi trả trên tuyến. Dự kiến đến 2005, con số này sẽ lên tới 3350 vạn hộ, chiếm tới 31% tổng số gia đình Mỹ.
+Ngoài ra còn một loại hình nữa là dựa trên cơ sở ngân hàng thương mại hiện có mà phát triển, các nghiệp vụ phục vụ của ngân hàng đều vận dụng trên Internet, thiết lập các cửa phục vụ điện tử mới, tức là treo mác hệ thống ngân hàng điện tử cho các nghiệp vụ truyền thông. ở Trung Quốc, trước mắt xây dựng nghiệp vụ ngân hàng điện tử thuộc loại hình thứ 2. Chừng ấy nhân lực và phương tiện là có thể đủ để không cần ra khỏi nhà mà vẫn có thể làm tốt các loại nghiệp vụ phục vụ của ngân hàng.
Tính ưu việt của ngân hàng mạng:
Ngân hàng mạng có ưu điểm là đi sát với người sử dụng, nó tiện lợi để mọi người sử dụng tuỳ ý. Tuần 7 ngày, ngày 24 tiếng đều có thể làm việc, sử dụng ngay tại nhà, tại công sở hoặc tại bất kỳ đâu chỉ cần đăng ký địa chỉ của mình trên mạng máy tính điện tử của Ngân hàng mạng thì có thể giải quyết được các nghiệp vụ liên quan. Người sử dụng có thể không bị hạn chế bởi không gian và thời gian, chỉ cần dùng một máy PC và một đường dây điện thoại là có thể đón nhận sự phục vụ tiền tệ trên mạng suốt cả ngày.
So với ngân hàng truyền thống thì ngân hàng điện tử có ưu thế rất lớn do nó đã dùng các kỹ thuật và phần mềm nở rộ. Khách hàng của ngân hàng điện tử chỉ xem lướt nhanh qua máy công cộng, không cần ngân hàng phải, như vậy có thể tiết kiệm phí dùng bảo vệ khách hàng của ngân hàng rất lớn. Hơn nữa khiến ngân hàng chuyên tâm thiết kế các sản phẩm phục vụ và đa dạng hoá. Do đó, có thể sử dụng một cách đầy đủ các tài nguyên trên mạng Internet. Và cũng tránh cho ngân hàng khỏi phải xây dựng mạng lưới chuyên dùng thu tiền lẻ của khách hàng để giảm giá thành và phí bảo vệ.
Căn cứ thống kê của một chuyên gia nổi tiếng của công ty tư vấn nước Mỹ, khi ngân hàng thông qua các phương tiện phục vụ để hoàn thành một khoản giao dịch thì phí tổn có thể phân biệt như sau: Kinh doanh tại quầy mất =1,07 USD, điện thoại ngân hàng mất 0,54 USD, ATMO=27USD, PCO=15USD, Internet =0,1USD. So sánh tình hình trên ta có thể nhìn thấy là: phục vụ ở ngân hàng điện tử chi phí rất thấp.
Ngân hàng điện tử sẽ có thể mang lại chất lượng phục vụ cao. Và có những cải tiến lớn, nghiệp vụ phục vụ lưu thông tiền tệ sẽ được nhất thể hoá, mang tính tiện lợi cao, có thể cung cấp các loại hình phục vụ tổng hợp đối với khách hàng mà nói, chỉ cần họ có thể tiếp cận với Internet thì họ có thể sử dụng được sự phục vụ của Ngân hàng.
Ngân hàng mạng cũng có thể thực hiện tra cứu, tìm hiểu tin tức trong các loại sổ sách của ngân hàng, kịp thời phản ảnh tình hình tài vụ trong sổ sách của khách hàng tại ngân hàng, cung cấp các hình thức phục vụ thuận lợi trong giao dịch của ngân hàng, bao gồm chuyển tiền, chuyển dịch sổ sách, cho vay, mua bán cổ phiếu, giao dịch ngoại hối, giúp quản lý tốt tài sản. Hơn nữa nó còn giảm được chi phí cho khách hàng.
Ngoài các vấn đề trên ra, ngân hàng điện tử còn có thể dễ dàng tiến hành chuyển đổi các văn tự có ngôn ngữ không giống nhau. Điều đó vì ngân hàng điện tử đã tạo ra các điều kiện ưu việt để có thể tin tưởng một cách chắc chắn rằng ngân hàng điện tử sẽ có lực thúc đẩy nhất thể hoá lưu thông tiền tệ toàn cầu. Hơn nữa toàn cầu hoá hệ thống lưu thông tiền tệ sẽ lấy ngân hàng điện tử làm hình thức tồn tại cơ bản.
3.2.2.Tạo ra phương thức thanh toán hiện đại
(Điện tử hoá phương thức thanh toán)
Vấn đề quan trọng trong việc thực hiện TMĐT là thực hiện được chức năng thanh toán trên mạng đồng thời bảo đảm được an toàn và bảo mật cho các bên. Về mặt ý nghĩa thì TMĐT phải là công cụ thanh toán kiểu mới. Hiện nay phương thức thanh toán trên mạng chia làm hai loại: tiền điện tử và thẻ tín dụng.
3.2.2.1.Tiền điện tử
Tiền điện tử là khái niệm dùng để chỉ hình thức sử dụng số liệu điện tử, một loại hình thái tiền tệ sử dụng máy tính để tiến hành chuyển vốn tiền tệ. Tiền điện tử tồn tại ở dạng khác nhau trong đó thường gặp nhất là tiền mặt điện tử và thẻ thông minh.
Theo đà xuất hiện và phát triển của ngân hàng mạng cũng đã sản sinh ra một loại tiền điện tử dùng để giao dịch và chi trả trên mạng, người ta còn gọi đó là tiền mặt mạng(tiền điện tử). Hay còn gọi là tiền chữ số. Tức khi xử lý giải quyết công việc ta dùng một loại chữ số mật để thay thế tiền mặt. Bắt đầu từ tháng 2 năm 2000 ở ngân hàng Đức đã phát hành loại tiền mặt mạng thông dụng trong 24 tiếng liền. Loại tiền giả thiết này có thể dùng để chi trả trên mạng giữa các thương gia với nhau và giữa thương gia với người tiêu dùng, các loại phiếu thu chi điện tử thương mại đồng thời có thể trả lại phần tiền lẻ. Khách hàng có thể thông qua chuyên môn phần mềm để thông chi cho ngân hàng lấy tiền mặt trong quỹ tiền gửi của khách hàng đổi thành tiền mặt mạng, tức có thể chi tiêu. Tiền mặt mạng hiện nay mới chỉ dùng hạn chế ở Đức. Có chuyên gia dự đoán tới năm 2005 sẽ có khối lượng tiền tệ lưu thông trên mạng rất lớn. Lúc đó chỉ còn khoảng 9% người tiêu dùng dùng phương thức thu chi tiền tệ truyền thống. Do đó, ngân hàng mạng sẽ trở thành mô thức hoạt dộng chủ yếu của ngân hàng trong tương lai.
Quy trình:
Người sử dụng
Thương gia
Ngân hàng E-cash
Mua bán qua mạng
Gửi nhận E-cash E-cash
Ngoài ra còn có phương thức thẻ thông minh. Thẻ thông minh có một bộ vi xử lý bên trong. Người sử dụng có thể mở tài khoản tại ngân hàng sử dụng loại tiền điện tử này, nhập tiền mặt vào ngân hàng, sau đó thông qua một thiết bị thẻ đọc và viết đặc biệt, hoặc thiết bị ATM để rút tiền trong thẻ thông minh. Số tiền điện tử trong thẻ thông minh khi đã được sử dụng sẽ khấu trừ vào số tiền có trên thẻ, do vậy người sử dụng không thể nào sử dụng lại số tiền điện tử đó nữa.
3.2.2.2.Thẻ tín dụng
Thẻ tín dụng là một loại thẻ người chủ thể được phép sử dụng một hạn mức tín dụng quy định không phải trả lãi(nếu chủ thẻ hoàn trả số tiền đã sử dụng đúng kỳ hạn) để mua sắm hàng hoá, dịch vụ tại những cơ sở kinh doanh, cửa hàng khách sạn chấp nhận loại thẻ này.
ở đây, chúng ta bàn tới phương thức thanh toán chứ không đi vào tìm hiểu các loại thẻ. Thanh toán bằng thẻ tín dụng có những hình thức chính như sau:
Hình thức thanh toán qua trung gian-hệ thống FVC
Người sử dụng mở tài khoản thông qua người môi giới trên mạng, người môi giới trên mạng có được số tài khoản và số thẻ tín dụng của người sử dụng, người sử dụng dùng tài khoản để đặt hàng, người bán sẽ cung cấp tài khoản của người mua cho người môi giới, người môi giới sau khi đã kiểm tra tư cách của người bán, sẽ chuyển các thông tin của thẻ tín dụng cho ngân hàng, hoàn thành quá trình thanh toán. Quá trình thanh toán này có thể thực hiện được là dựa vào sự tin tưởng của cả người mua và bán đối với người thứ ba. Người mua mở tài khoản không thông qua mạng, các thông tin về thẻ tín dụng cũng không được chuyển qua mạng, bên thứ ba-người môi giới sử dụng email để xác nhận tư cách của người sử dụng, để tránh sự giả mạo người bán có thể yên tâm vì không có rủi ro. Mặt khác chi phí giao dịch rất thấp, thích hợp với giao dịch có kim ngạch nhỏ
Qui trình:
Số tài khoản
người sử dụng
Người sử dụng
Ngân hàng
Thương mại
Người trung gian
Số tài khoản được Được uỷ quyền
E-mail chuyển cho TG kiểm tra thương gia
Thông tin về
thẻ tín dụng
Mô hình toán đơn giản có bảo mật (Cybercash)
Khi sử dụng mô hình này, để thanh toán các khoản chi phí, số thẻ tín dụng của người thanh toán được bảo mật, kỹ thuật bảo mật được áp dụng là SSL.. Chỉ có nhà cung cấp các nghiệp vụ hoặc hệ thống xử lý thanh toán của bên thứ ba mới có thể nhận biết được các thông tin bí mật này. Cách thức thanh toán này mang lại nhiều tiện lợi cho người sử dụng vì khi mua hàng chỉ cần số thẻ tín dụng. Phương thức này cần truyền đưa một loạt thông tin bảo mật, kiểm chứng và những thông tin liên quan, chi phí giao dịch tương đối cao. Do vậy, không thích hợp với giao dịch có giá trị nhỏ.
Hệ thống xử lý thẻ tín dụng truyền thông
Server Cybercash
Server Cybercash thương gia
Túi tiền điện tử Cyercash của người sử dụng
Cybercash hiện lưu hành nhiều loại thẻ tín dụng như Visa card, Master card…
Quy trình:
Mô hình SET
Thực chất, sử dụng phương thức thanh toán SET dùng để chỉ việc truyền đưa thông tin giữa các bên giao dịch đều sử dụng SET.
Tóm lại, TMĐT đã có ảnh hưởng và tác động sâu sắc tới sự phát triển của ngân hàng từ hình thức ngân hàng và phương thức được tiến hành trong nó. Điều đó là tất yếu và đòi hỏi các ngân hàng cần phải nhìn nhận hết tầm quan trọng của vấn đề này.
B.Thương mại điện tử ở Việt Nam
1.Thực trạng thương mại điện tử ở Việt Nam
1.1.Về hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin.
1
1.1.1. Những lợi thế để phát triển TMĐT.
Công nghệ thông tin gồm hai nhánh tính toán cũng gọi là nhánh máy tính và truyền thông, trên cơ sở của một nền công nghiệp điện lực vững mạnh, là nền tảng của "kinh tế số hoá " nói chung và "thương mại điện tử " nói riêng.
Về công nghệ tính toán, người Việt Nam đã biết đến máy tính điện tử từ năm 1968 khi chiếc máy tính đầu tiên do Liên Xô viện trợ được lắp đặt tại Hà Nội. Trong những năm 1970, ở phía Nam cũng có sử dụng máy tính lớn của Mỹ. Tới cuối những năm 1970, cả nước có khoảng 40 giàn máy tính vạn năng thuộc các dòng Minsk và ES ở Hà Nội, và IBM 360 ở thành phố HCM
Đầu những năm 1980, máy vi tính bắt đầu được nhập khẩu vào Việt Nam, mở đầu một thời kỳ về máy tính. Từ năm 1995, Chính phủ đã triển khai Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin. Tới nay, máy vi tính các loại nhập vào Việt Nam đã lên tới tổng số 400 nghìn chiếc, ngaòi ra cũng có một số máy tính lớn thế hệ mới và khoảng 200 máy mini. Máy tính cá nhân lắp ráp trong nước với khối lượng 80-100 nghìn máy một năm cũng không phải là con số nhỏ, nhất là với một nước chân ướt chân ráo xâm nhập vào lĩnh vực máy tính như Việt Nam. Đó cũng là một bước khởi điểm cho thương mại điện tử hy vọng sẽ phát triển mạnh ở nước ta trong những năm tương lai.
Một số mạng máy tính (Lan, Intranet..) đã được triển khai (như mạng của Văn phòng chính phủ, mạng của Bộ Tài chính, mạng của Bộ Thương mại, mạng của Ngân hàng…).
Tới năm 1993, gần 99% máy tính nằm trong các tổ chức nhà nước, nhưng hiện nay thì tỷ lệ này giảm xuống vì nhiều doanh nhgiệp, cơ sở trường học và gia đình cũng đã sử dụng phổ biến máy tính. Tỷ lệ thì giảm nhưng số lượng máy tính thì tăng, điều đó chứng tỏ có thêm nhiều người tiếp cận với
loại hình kỹ thuật hiện đại này.
Ngành truyền thông tăng trưởng mạnh với tốc độ 70%/năm. Tổng cục Bưu chính viễn thông thiết lập một mạng toàn quốc truyền dữ liệu, đã phát triển mạng VNN nối với Internet và các mạng nội bộ của các cơ quan nhà nước và tư nhân.
1.1.2.Những hạn chế.
Công nghệ phần mềm Việt Nam ít phát triển, hoạt động phần mềm chủ yếu là dịch vụ cài đặt và hướng dẫn sử dụng, số công ty sản xuất và kinh doanh phần mềm còn ít, hi._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29952.doc