Mục lục
Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………………………..i
Phụ lục………………………………………………………………………..iii
Phụ lục I……………………………………………………………….iii
Phụ lục II………………………………………………………………vi
Mục lục minh hoạ
Hình I-1: Các bên tham gia thương mại điện tử ............................................6
Hình I-2: Doanh số thương mại điện tử toàn cầu.........................................18
Hình II-1: Mô hình B2C................................................................................40
Hình II-2: Mô
88 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thương mại điện tử cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hình thanh toán trong thương mại điện tử .............................42
Hình II-3: Những ứng dụng Internet chủ yếu trong doanh nghiệp................46
Hình II-4: Mức độ quan trọng của việc dùng Internet đối với doanh nghiệp…...47
Hình II-5: Mức độ sử dụng Internet/e-mail trung bình.................................47
Hình III-1: ứng dụng thương mại điện tử theo giai đoạn...............................63
Bảng I-1: Tốc độ và chi phí truyền gửi (Một bộ tài liệu 40 trang)...............14
Bảng I-2: Số liệu thống kê số người sử dụng Internet theo các nước............17
Bảng I-3: Doanh thu hoạt động thương mại điện tử theo các năm...............18
Bảng I-4: Doanh thu của thương mại điện tử theo hàng hoá........................19
Bảng I-5: Một số chỉ tiêu phát triển hạ tầng công nghệ kỹ thuật..................26
Bảng I-6: Số lượng thuê bao từ tháng 9/2000 đến tháng 6/2002..................26
Bảng II-1: Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ (a)..........................................33
Bảng II-2: Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ (b)..........................................33
Bảng II-3: ý kiến về vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ ...........................35
Bảng II-4: Đóng góp của doanh nghiệp vừa và nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu…36
Bảng II-5: Giá cước truy cập Internet theo cổng ISP- Truy nhập gián tiếp...55
Bảng II-6: Giá cước truy cập Internet theo cổng ISP- Truy nhập trực tiếp......55
Lời nói đầu
Bước sang thế kỷ 21, cả nhân loại đang tiến đến nền kinh tế mới mà cơ sở của nó chính là sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của phương thức kinh doanh mới: Thương mại điện tử. Tuy mới chỉ hình thành và phát triển mạnh mẽ trong vòng vài năm trở lại đây nhưng thương mại điện tử đã xâm nhập sâu vào hầu như các lĩnh vực kinh tế- xã hội, ảnh hưởng tới các hoạt động của con người, mang lại những lợi ích vô cùng to lớn. Đây không phải là hiện tượng kinh tế nhất thời mà là một xu thế tất yếu không thể đảo ngược. Thương mại điện tử đang đặt ra cơ hội bình đẳng cho tất cả các nước phát triển và đang phát triển và ứng dụng thương mại điện tử là xu thế tất yếu của các quốc gia, các doanh nghiệp và cá nhân trong nền kinh tế.
Việt Nam hiện nay tuy là nước nghèo trên thế giới, còn nhiều hạn chế về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, pháp lý, nhận thức của xã hội về thương mại điện tử chưa cao, nhưng như thế không có nghĩa là Việt Nam chưa có điều kiện phát triển thương mại điện tử hay phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam lúc này là chưa đúng lúc. Ngược lại, phát triển thương mại điện tử là con đường nhanh nhất giúp Việt Nam tham gia nhanh chóng vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Phát triển thương mại điện tử sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có điều kiện tận dụng sức mạnh của công nghệ thông tin, khuếch trương được tiềm lực kinh doanh. Trước tiềm năng to lớn này của thương mại điện tử, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam không thể không lựa chọn cho mình một cách tiếp cận và áp dụng nó một cách có hiệu quả. Xuất phát từ thực tiễn đó đề tài: “Một số giải pháp phát triển thương mại điện tử cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam” ra đời với mục đích trên cơ sở nghiên cứu về thương mại điện tử và thực trạng áp dụng thương mại điện tử của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam từ đó đưa ra những đề xuất mang tính thực tiễn, hy vọng sẽ là những gợi ý cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam khi tham gia thương mại điện tử
Nội dung đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, gồm có ba phần chính:
Chương I: Tổng quan về thương mại điện tử.
Chương II: Doanh nghiệp vừa và nhỏ với thương mại điện tử .
Chương III : Phương hướng, mục tiêu và giải pháp phát triển thương mại điện tử cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
Do khả năng và trình độ còn hạn chế nên đề tài không thể tránh khỏi những sơ sót. Rất mong nhận được sự quan tâm, chỉ bảo, trao đổi của thầy cô và các bạn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo Đào Thu Giang- khoa Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Ngoại thương - người đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình thực hiện khoá luận này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế ngoại thương mại điện tử đã cung cấp cho tôi những kiến thức quý báu của chuyên ngành kinh tế đối ngoại, phương pháp nghiên cứu khoa học và những điều kiện thuận lợi để tôi có thể hoàn thành khoá luận tốt nghiệp.
Chương I:
Tổng quan về thương mại điện tử
1. Khái niệm chung về thương mại điện tử
1.1 Thương mại điện tử là gì?
Thương mại điện tử là một lĩnh vực mới mẻ cả về tên gọi và cách tiếp cận. Trên thực tế có thể bắt gặp rất nhiều tên gọi khác nhau nhưng cùng để chỉ phương thức kinh doanh mới mẻ này như: Thương mại trực tuyến (Online Trade), thương mại điều khiển học (Cyber Trade), thương mại không giấy tờ ( Paperless Commerce)... Đặc biệt, nổi bật nhất là thương mại điện tử (Electronic Commerce), kinh doanh điện tử (Electronic Business). Gần đây, tên gọi thương mại điện tử được sử dụng nhiều rồi trở thành quy ước chung đưa vào văn bản pháp luật quốc tế, dù với các tên gọi khác nhau nhưng vẫn có thể được dùng và được hiểu cùng một nội dung. Hiện nay, trên thế giới vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về thương mại điện tử . Từ mỗi góc độ, cách tiếp cận lại có các định nghĩa khác nhau như:
- Thương mại điện tử là hoạt động giao dịch trên mạng thông tin.
- Thương mại điện tử là quá trình thực hiện giao dịch trực tiếp và không dùng giấy tờ trong toàn bộ quá trình thực hiện hoạt động thương mại.
- Theo định nghĩa của Bộ Thương mại thì : Thương mại điện tử là một yếu tố hợp thành của “nền kinh tế số hoá”, là hình thái hoạt động thương mại bằng các phương pháp điện tử, là việc trao đổi thông tin thương mại qua các phương tiện công nghệ điện tử mà nói chung là không phải in ra giấy trong bất kỳ công đoạn nào của quá trình giao dịch nên còn được gọi là “ thương mại không giấy tờ”.
Thông tin trong định nghĩa trên không chỉ là tin tức mang tính đơn thuần, mà là bất cứ gì có thể truyền tải bằng kỹ thuật điện tử, bao gồm cả thư từ, các tệp văn bản (Text-based File), cơ sở dữ liệu (DAta- Base), các bản tính (Spreadsheet), các bản vẽ thiết kế bằng máy tính điện tử (Computer Aided Design), các hình vẽ đồ hoạ, quảng cáo, hỏi hàng, hoá đơn, biểu giá, hình ảnh động, âm thanh...
Theo Đạo luật mẫu về thương mại điện tử của Uỷ Ban Liên Hợp Quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL), thuật ngữ “thương mại” (commerce) “cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề nảy sinh từ mối quan hệ mang tính chất thương mại, dù có hay không có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính chất thương mại bao gồm, nhưng không phải chỉ bao gồm, các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch thương mại nào về cung cấp và trao đổi hàng hoá và dịch vụ; thoả thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại; uỷ thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ thuật công trình; đầu tư cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thoả thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh và các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hành khách hay hàng hoá bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ.”
Các phương tiện kỹ thuật của thương mại điện tử cũng bao gồm nhiều thành phần khác nhau: từ máy điện thoại (điện thoại truyền thống, điện thoại di động, điện thoại kỹ thuật số...), máy fax (thay thế cho công cụ thư truyền thống và telex) và các phương tiện truyền thông (truyền thanh, truyền hình...), đến thiết bị thanh toán điện tử (thẻ rút tiền tự động, thẻ tín dụng, thẻ mua hàng, thẻ thông minh, tiền điện tử và các chứng từ điện tử...) và các mạng máy tính (Intranet, Extranet, Internet...). Trong số đó, thương mại điện tử trên Internet là khái niệm tương đối rộng và được nhắc đến nhiều nhất.
Như vậy, thương mại điện tử không chỉ đơn thuần là mua bán hàng hoá, dịch vụ qua hệ thống máy tính theo các cách hiểu truyền thống mà thương mại điện tử cần được tiếp cận theo cách đầy đủ hơn, bao quát một phạm vi rộng, thực hiện dưới nhiều hình thức phong phú. Theo ước tính của một số chuyên gia, đến nay có khoảng 1300 lĩnh vực ứng dụng của thương mại điện tử. Trong số 1300 lĩnh vực này thì trao đổi, buôn bán hàng hoá, dịch vụ là một lĩnh vực cơ bản nhất, rộng rãi nhất của thương mại điện tử.
1.2 Lịch sử hình thành của thương mại điện tử
Vào những năm 70, việc đưa vào sử dụng công nghệ chuyển khoản bằng điện tử EFT (Electronic Funds Transfer) đã làm thay đổi đáng kể giao dịch giữa các ngân hàng với nhau thông qua các mạng chuyên dụng có độ tin cậy cao. Theo thống kê, mỗi ngày có hơn 4000 tỷ USD được trao tay qua EFT nhờ các máy tính kết nối các ngân hàng, các công ty, các máy rút tiền tự động (ATM- Automatic Transfer Machine).
Cuối những năm 70, đầu những năm 80, thương mại điện tử bắt đầu phát triển trong nội bộ các công ty và các tập đoàn dưới dạng công nghệ thông tin điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử EDI (Electronic Data Interchange) và thư điện tử (Electronic mail). Công nghệ thông tin điện tử đã làm thúc đẩy và đẩy nhanh quá trình thương mại bằng việc sử dụng các công cụ điện tử, do đó đã làm giảm bớt các công việc giấy tờ và có nhiều khâu đã được tự động hoá. Đây là thời điểm của thương mại không giấy tờ bởi trong giao dịch thương mại một số công việc vốn bằng giấy tờ như chuyển séc, đặt hàng... cũng dần được thực hiện bằng các tiến bộ của công nghệ điện tử.
Vào giữa những năm 80, công nghệ điện tử đến với thế giới người tiêu dùng ngày một nhanh chóng dưới dạng các dịch vụ trực tuyến (Online Service) cung cấp một kiểu tương tác xã hội mới và cùng chia sẻ kiến thức với nhau. Tương tác xã hội tạo ra một khái niệm “ Cộng đồng ảo” giữa những thành viên sử dụng “Không gian máy tính” và giúp tạo ra khái niệm “Ngôi nhà chung của thế giới”.
Vào những năm 90, sự ra đời của “Võng mạc toàn cầu” (World Wide Web: www) trên mạng Internet đã tạo ra một bước ngoặt trong sự phát triển của thương mại điện tử nhờ các dịch vụ đa phương tiện. Bằng việc sử dụng các liên kết siêu văn bản (Hyperlink,Hypertext), công nghệ Web tạo ra các văn bản chứa nhiều tham chiếu tới các văn bản khác cho phép người sử dụng tự động chuyển từ một cơ sở dữ liệu này sang một cơ sở dữ liệu khác do đó có thể truy cập vào các thông tin thuộc các chủ đề khác nhau dưới các hình thức khác nhau vừa phong phú về nội dung vừa đa dạng về hình thức. Bằng cách ấy, công nghệ Web giúp thương mại điện tử có con đường kinh doanh rẻ tiền hơn đồng thời Web cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể sử dụng các công nghệ tương ứng hiện đại để cạnh tranh với các công lớn trên thị trường toàn cầu.
Như vậy, có thể nói Internet cùng Web đã tạo ra bước phát triển mới cho ngành truyền thông, chuyển từ thế giới “một mạng một dịch vụ” sang thế giới “một mạng nhiều dịch vụ” để trở thành công cụ quan trọng nhất của thương mại điện tử. Nói tới thương mại điện tử thường là nói tới Internet và Web, vì thương mại điện tử đã và đang trong tiến trình toàn cầu hoá và tối ưu hoá hiệu quả. Mà cả hai xu hướng ấy đều đòi hỏi phải sử dụng triệt để Internet và Web như các phương tiện đã được quốc tế hoá cao độ và có hiệu quả sử dụng cao.
1.3 Nội dung của thương mại điện tử
1.3.1 Các bên tham gia thương mại điện tử
Giao dịch thương mại điện tử diễn ra bên trong và giữa ba chủ thể tham gia chủ yếu là doanh nghiệp, người tiêu dùng và chính phủ (chính phủ ở đây vừa đóng vai trò thực hiện các hoạt động kinh tế vừa thực hiện các chức năng quản lý). Các giao dịch thương mại điện tử được tiến hành ở những cấp độ khác nhau cụ thể là:
Giao dịch giữa các doanh nghiệp (B2B- Business to Business).
Giao dịch bên trong doanh nghiệp (B2E- Business to Employess).
Giao dịch giữa doanh nghiệp với ngưòi tiêu dùng (B2C- Business to Customer).
Giao dịch giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng (C2C- Customer to Customer).
Giao dịch giữa chính phủ với doanh nghiệp (B2G- Business to Government)
Giao dịch giữa chính phủ với công dân ( G2C- Government to Citizent).
Giao dịch giữa chính phủ với chính phủ (G2G- Government to Government)
Trong số các chủ thể đó thì các doanh nghiệp đóng một vai trò rất quan trọng đến sự tồn tại và phát triển của thương mại điện tử vì hầu hết các giao dịch đều có sự tham gia của doanh nghiệp. Do vậy thương mại điện tử B2B, B2C, B2E là các lĩnh vực phát triển nhất và được sự quan tâm, chú ý nhiều nhất.
Doanh nghiệp
Người tiêu dùng
Chính phủ
G2C
B2C
B2G
B2B
B2E
G2G
Hình 1-1: Các bên tham gia thương mại điện tử
Giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B- Business to Business): Trong giao dịch giữa các doanh nghiêp, thương mại điện tử tập trung vào trao đổi dữ liệu, hệ thống phân phối, xuất bản tài liệu, tiếp thị trực tiếp trên Web, và các điểm bán hàng trên Internet. B2B trên Internet có thể chỉ đơn giản là một Website của nhà sản xuất cho phép các nhà phân phối đặt hàng an toàn một số ít sản phẩm. Phức tạp hơn nữa nó có thể là việc một nhà phân phối giới thiệu đến hàng nghìn khách hàng nhiều loại sản phẩm với cấu hình sản phẩm và giá riêng cho từng loại khách hàng. B2B trên nền Internet giúp cho công ty ngày càng tiếp cận với những khách hàng, nhà cung cấp nhỏ hơn, đặc biệt là cá biệt hoá đến từng mặt hàng, từng khách hàng.
Giao dịch trong nội bộ doanh nghiệp (B2E- Business to Employees): Doanh nghiệp dùng các biện pháp an toàn như bức tường lửa để cách ly mạng nội bộ (Intranet) của doanh nghiệp với mạng Internet từ đó làm cho mạng Intranet trở thành một công cụ thương mại an toàn, hiệu quả dùng để xử lý tự động các quá trình công tác, các thao tác nghiệp vụ, thực hiện dùng chung thông tin của kho dữ liệu trong nội bộ doanh nghiệp, cung cấp kênh thông tin và liên hệ trong nội bộ doanh nghiệp một cách nhanh chóng. ứng dụng thương nghiệp của Intranet trong doanh nghiệp có thể tăng tốc độ xử lý hoạt động thương mại của doanh nghiệp, có thể đưa ra những phản ứng nhanh nhậy hơn với sự biến động của thị trường, cung cấp dịch vụ toàn diện hơn, ưu việt hơn, hiệu quả hơn cho khách hàng.
Giao dịch giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng (B2C- Business to customer): Hoạt động thương mại điện tử diễn ra giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng tập trung vào các lĩnh bực bán lẻ, dịch vụ văn phòng, du lịch, chăm sóc sức khoẻ, tư vấn pháp luật hay giải trí...Người tiêu dùng có thể thông qua các máy tính nối mạng Internet tại gia đình để chọn các loại hàng hoá mà mình cần mua .
Giao dịch giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng (Customer to Customer: C2C): C2C là lĩnh vực tăng trưởng nhanh thứ ba của nền kinh tế trực tuyến, ở mô hình này, một công ty xây dựng một Website để nhằm thu nhận, lưu giữ, cung cấp trao đổi thông tin về hàng hoá, công ty, thị trường và qua Website đó, người bán, người mua có thể gặp nhau tiến hành các giao dịch đấu giá, đấu thầu.
Giao dịch giữa doanh nghiệp với các cơ quan chính phủ (Business to Government: B2G): B2G vừa là hệ thống quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp (về đóng thuế, tuân thủ pháp luật...) vừa là nơi cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp về pháp luật và chính sách đồng thời đó cũng là nơi để chính phủ thực hiện việc mua sắm trực tuyến.
Giao dịch giữa chính phủ và công dân (Government to Citizent- G2C): Hiện nay loại ứng dụng này chưa xuất hiện, nhưng cùng với sự phát triển của thương mại điện tử chính phủ sẽ có thể mở rộng thương mại điện tử cho việc chi tiêu phúc lợi và thu thuế. Trong giai đoạn đầu của thương mại điện tử hiện nay, ứng dụng chủ yếu của nó là giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thương mại điện tử thì không thể bỏ qua tiềm lực của hoạt động thương mại điện tử giữa công dân và chính phủ.
Giao dịch giữa chính phủ và chính phủ (G2G- government to Government): Với thương mại điện tử G2G, các chính phủ hoặc các cơ quan chính phủ sẽ trao đổi thông tin, chia sẻ tài nguyên và thiết lập hệ thống quản lý hành chính tự động.
Qua tìm hiểu về các giao dịch trong thương mại điện tử có thể nhận thấy rằng các chủ thể trên thị trường “ảo”- thị trường Internet cũng chính là các chủ thể trên thị trường thực. Điều khác biệt cơ bản giữa hai thị trường này là các giao dịch trên thị trường “ảo” có thể tiến hành giữa người với người (qua điện thoại, thư điện tử, fax), giữa người với máy tính điện tử (qua các mẫu điện tử hay qua Web), giữa máy tính điện tử với người (qua thư điện tử tự động) hoặc giữa máy tính điện tử với máy tính điện tử ( qua trao đổi dữ liệu dữ liệu điện tử, thẻ thông minh- smart card và mã vạch...).
1.3.2 Các yêu cầu của thương mại điện tử
Thương mại điện tử hiện nay đang trong quá trình phát triển và dần hoàn thiện. Thương mại điện tử đã và đang đặt ra những vấn đề phải giải quyết trên tất cả các bình diện: doanh nghiệp, quốc gia, quốc tế. Những đòi hỏi của thương mại điện tử là một tổng thể các vấn đề đan xen nhau trong một mối quan hệ hữu cơ bao gồm:
a. Hạ tầng cơ sở công nghệ
Thương mại điện tử là hệ quả tất yếu của sự phát triển kỹ thuật số hoá, của công nghệ thông tin mà trước hết là kỹ thuật máy tính điện tử. Do vậy, chỉ có thể tiến hành thực tế và một cách hiệu quả thương mại điện tử khi đã có đủ một hạ tầng cơ sở thông tin đầy đủ năng lực bao gồm tính toán điện tử và truyền thông điện tử.
Hạ tầng cơ sở công nghệ không chỉ có nghĩa là tính hiện hữu mà còn hàm nghĩa kinh tế sử dụng, nghĩa là chi phí trang bị các thiết bị công nghệ thông tin (điện thoại, máy tính...) và chi phí dịch vụ truyền thông (chi phí nối mạng, phí điện thoại..) phải đủ rẻ để đông đảo người sử dụng có thể tiếp cận được. Điều này có ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với các nước đang phát triển, mức sống còn thấp.
b. Hạ tầng cơ sở nhân lực, trình độ công nghệ thông tin
áp dụng thương mại điện tử tất yếu làm nảy sinh ra hai yêu cầu: thứ nhất là mọi người phải quen thuộc và có khả năng sử dụng thành thạo hoạt động trên mạng, thứ hai là phải có một đội ngũ chuyên gia tin học mạnh, thường xuyên bắt kịp với các công nghệ thông tin mới phát triển để phục vụ cho kinh tế số hoá nói chung và thương mại điện tử nói riêng, cũng như có khả năng thiết kế các công cụ phần mềm đáp ứng được nhu cầu hoạt động của nền kinh tế số hoá, tránh bị động, phụ thuộc hoàn toàn vào nước khác.
Bên cạnh đó, để sử dụng được tốt Internet/Web thì một yêu cầu đặt ra là những người tham gia đều phải biết tiếng Anh vì đây là ngôn ngữ chủ yếu sử dụng trong thương mại nói chung và thương mại điện tử nói riêng.
c. Bảo mật và an toàn
Giao dịch thương mại điện tử đòi hỏi rất cao về tính bảo mật và an toàn nhất là khi hoạt động trên Internet/Web. Trong các lĩnh vực mua bán truyền thống, người mua lo các chi tiết của thẻ điện tử của mình bị lộ, bị kẻ xấu lợi dụng rút tiền; người bán thì lo người mua không thanh toán cho các hợp đồng đã được ký kết theo kiểu điện tử qua Internet.
Trong các lĩnh vực khác, điều đáng lo ngại nhất là vấn đề an toàn và bảo mật. Điều lo sợ này là có căn cứ vì số vụ tấn công vào Internet ngày càng nhiều kể cả những mạng đã được bảo vệ nghiêm ngặt.
d. Hệ thống thanh toán tài chính
Thương mại điện tử chỉ có thể thực hiện tốt khi có một hệ thống thanh toán tài chính phát triển cho phép thực hiện thanh toán tự động, khi chưa có hệ thống này thì thương mại điện tử mới chỉ ứng dụng được phần trao đổi thông tin, buôn bán vẫn kết thúc bằng việc trả tiền trực tiếp hoặc bằng các phương tiện thanh toán truyền thống, khi ấy hiệu quả của thương mại điện tử bị giảm thấp, và không thể bù lại các chi phí trang bị công nghệ đã bỏ ra.
e. Bảo vệ sở hữu trí tuệ
Giá trị của sản phẩm ngày nay đang tập trung ở “ chất xám” kết tinh trong đó: tài sản của con người, của quốc gia đang quy dần về “ tài sản chất xám”, thông tin trở thành tài sản, và bảo vệ tài sản cuối cùng sẽ trở thành bảo vệ sở hữu trí tuệ. Vì thế việc truyền gửi các dung liệu qua mạng đặt ra vấn đề bảo vệ sở hữu chất xám và bản quỳên của các thông tin (hình thức quảng cáo, nhãn hiệu thương mại, cấu trúc cơ sở dữ liệu, các nội dung truyền gửi), và các khía cạnh khác phức tạp hơn nhiều so với bảo vệ sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế vật thể.
f. Bảo vệ người tiêu dùng
Bảo vệ người tiêu dùng là mục tiêu ngày càng được đề cao trong thương mại điện tử. Quy cách, phẩm chất hàng hoá, và các thôngtin có liên quan trong thương mại điện tử đều ở dạng số hoá, nên người mua chịu rủi ro lớn hơn so với giao dịch thương mại vật thể, đòi hỏi phải có cơ chế trung gian đảm bảo chất lượng là một khía cạnh đang nổi lên trước thực tiễn rủi ro ngày càng gia tăng trong giao dịch thương mại điện tử , nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người tiêu dùng.
g. Môi trường kinh tế và pháp lý
Trong từng nước, thương mại điện tử chỉ có thể tiến hành khi tính pháp lý của nó đựơc thừa nhận (biểu hiện cụ thể bằng sự thừa nhận pháp lý giá trị của các giao dịch điện tử, chữ ký điện tử, chữ ký số hoá, các thanh toán điện tử, các dữ liệu có xuất xứ từ các cơ quan nhà nước, bí mật đời tư, và bảo vệ pháp lý đối với mạng thông tin chống tội phạm xâm nhập), có các cơ quan xác nhận chữ ký điện tử... Ngoài ra thương mại điện tử còn đòi hỏi mọi doanh nghiệp, hàng hoá và các lao vụ đều được mã hoá thống nhất, một hệ thống thuế thích hợp để xử lý các dung liệu và các dịch vụ mua bán qua mạng; nói cách khác, đòi hỏi phải có một môi trường kinh tế đã được tiêu chuẩn hoá ở mức cao và các khía cạnh của thương mại điện tử phải được phản ánh đầy đủ trong nội luật. Trên bình diện quốc tế vấn đề pháp lý còn phức tạp hơn nữa, vì các trao đổi xuyên quốc gia còn đòi hỏi phải có sự hài hoà giữa các hệ thống luật.
h. Tác động văn hoá xã hội
Tác động văn hoá xã hội của Internet đang là một mối quan tâm quốc tế vì hàng loạt các tác động tiêu cực của nó như: các phim ảnh xấu, các hướng dẫn làm bom thư, các loại tuyên truyền kích động bạo lực... Internet đã trở thành một phương tiện thuận lợi cho các lực lượng chống đối sử dụng để tuyên truyền, kích động lật đổ chính phủ và gây rối trật tự xã hội. Do đó vấn đề kiểm soát thông tin trên Internet cũng là một vấn đề cần được các quốc gia trên thế giới quan tâm, chú ý tới.
i. Vấn đề lệ thuộc công nghệ
Không thể không thừa nhận rằng Mỹ đang khống chế toàn bộ công nghệ thông tin quốc tế, cả về phần cứng cũng như phần mềm. Mỹ đã đi đầu và có nhiều thực tiễn về kinh tế số hoá và thương mại điện tử . Một khi thương mại được số hoá thì toàn thế giới sẽ chịu sự khống chế của Mỹ và của các nước tiên tiến gần với Mỹ, điều này là không thể tránh khỏi.
Thương mại điện tử bao trùm lên một phạm vi rộng lớn các hoạt động kinh tế xã hội và hạ tầng cơ sở của nó là một tổng hoà phức hợp của rất nhiều vấn đề cho nên một chuyên gia của Trung tâm thương mại quốc tế đã khuyên Việt Nam rằng: Chớ nên nhìn nhận thương mại điện tử đơn thuần chỉ là việc sử dụng các phương tiện điện tử để thực hiện các hành vi buôn bán truyền thống mà nên hiểu rằng một khi chấp nhận và áp dụng thương mại điện tử thì toàn bộ hình thái hoạt động của một đất nước sẽ thay đổi, cả hệ thống giáo dục, cả tập quán làm việc và cả sinh hoạt hàng ngày.
1.3.3 Các ứng dụng của thương mại điện tử
Phạm vi ứng dụng của thương mại điện tử rất rộng, hiện có tới hơn 1300 lĩnh vực ứng dụng của thương mại điện tử . Sau đây là một số ứng dụng phổ biến của thương mại điện tử .
a. Mua hàng điện tử và thương mại : Đây là hoạt động của thương mại điện tử có nội dung là hàng hoá thực. Đối với loại hoạt động thương mại điện tử này, những thông tin tiền giao dịch về hỏi hàng, đặt hàng, thanh toán tiền hàng đều có thể thực hiện qua mạng nhưng hàng hoá cuối cùng được đưa đến người tiêu dùng thì lại phải dựa vào các dịch vụ bưu điện truyền thống hoặc nhờ vào những công ty vận tải để giao hàng. Mua hàng và thương mại điện tử sẽ kết hợp các phương tiện của giao dịch điện tử với hình thức thương mại truyền thống, giảm thiểu các khâu trung gian trong quá trình lưu thông hàng hóa, làm thay đổi phương thức thương mại truyền thống.
b. Ngân hàng điện tử và dịch vụ tiền tệ: là hoạt động cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử nhanh gọn, thuận tiện. Đây là một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện thương mại điện tử với ý nghĩa đích thực, đồng thời cũng là nguyên nhân cơ bản cho việc điện tử hoá tiền tệ.
c. Thanh toán điện tử: Thanh toán điện tử là một khâu hết sức quan trọng trong toàn bộ quy trình thương mại điện tử . Hoạt động thương mại điện tử chỉ được đánh giá là sơ khai nếu như giai đoạn này vẫn được thực hiện theo cách truyền thống. Hệ thống thanh toán điện tử giúp người mua và người bán thanh toán với nhau thông qua việc mua bán sản phẩm, dịch vụ trên Internet với các hình thức thanh toán khác nhau như : thẻ tín dụng, thẻ thông minh, thẻ ghi nợ. Hệ thống thanh toán sẽ sử dụng các hình thức điện tử thay thế cho các hình thức truyền thống như: sử dụng chứ ký điện tử và chứng nhận điện tử thay thế chữ ký và con dấu truyền thống. Các thông tin truyền trên hệ thống được mã hoá lại và đảm bảo tính vẹn toàn.
d. Quảng cáo và Marketing điện tử: Đây là một trong những ứng dụng phổ biến nhất của thương mại điện tử. Sở dĩ như vậy là do quảng cáo và marketing trên mạng có nhiều ưu điểm vượt trội các phương thức quảng cáo khác như: chi phí thấp hơn, đa dạng hơn, cập nhập hơn. Với một trang WEb doanh nghiệp có thể cung cấp các catalog điện tử được cập nhập hàng giờ với chi phí không lớn lắm điều này cực kỳ có ích cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.4 Tác động của thương mại điện tử
Trước xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá hiện nay, kinh doanh đang ngày càng thay đổi, nhiều chuyên gia đã khẳng định rằng bước sang thế kỷ 21, thương mại điện tử sẽ là con át chủ bài. Sở dĩ như vậy là do thương mại điện tử đã, đang và sẽ mang lại những lợi ích vô cùng to lớn cho tất cả các đối tượng tham gia đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh. Sau đây là những lợi ích chính của thương mại điện tử .
1.4.1 Lợi ích của thương mại điện tử
a. Đối với doanh nghiệp
Các doanh nghiệp được coi là động lực chủ yếu của thương mại điện tử nên đương nhiên họ chính là những người được hưởng lợi ích nhiều nhất từ thương mại điện tử. Với thương mại điện tử, các doanh nghiệp có thể nắm bắt được những thông tin phong phú, giảm chi phí, tiếp cận được các nguồn lực mới và củng cố được các quan hệ đối tác.
Trước hết, thương mại điện tử giúp cho các doanh nghiệp nắm bắt được những thông tin phong phú: Hiện nay thông tin là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành công của các doanh nghiệp. Trong thời buổi hiện nay, người nào có được những thông tin mới nhất và biết tận dụng những thông tin đó thì người ấy là người chiến thắng. Thương mại điện tử nhờ các phương tiện điện tử điển hình là Internet/Web giúp cho các doanh nghiệp nắm được những thông tin phong phú về thị trường, nhờ đó có thể xây dựng được chiến lược sản xuất và kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển của thị trường trong nước, khu vực và thị trường quốc tế.
Thêm vào đó, giảm chi phí cũng là một lợi ích to lớn mà thương mại điện tử đem lại cho các doanh nghiệp.
Giảm chi phí sản xuất: Thương mại điện tử giúp giảm chi phí sản xuất, trước hết là chi phí văn phòng. Các văn phòng không giấy tờ chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi phí tìm kiếm chuyển giao tài liệu giảm đi nhiều lần (trong đó khâu in gần như bỏ hẳn); theo số liệu của hãng general Electricity của Mỹ, tiết kiệm theo xu hướng này đạt trên 30%. Điều quan trọng hơn là các nhân viên có năng lực được giải phóng khỏi nhiều công đoạn sự vụ, có thể tập trung vào nghiên cứu phát triển, sẽ đưa đến nhiều lợi ích to lớn lâu dài
Giảm chi phí bán hàng và tiếp thị: Thương mại điện tử giúp giảm thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp thi. Bằng phương tiện Internet/Web, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất nhiều khách hàng, catalog điện tử trên Web phong phú hơn nhiều và thường xuyên cập nhật so với catalog in ấn chỉ có khuôn khổ giới hạn và luôn lỗi thời.
Giảm chi phí giao dịch: Thương mại điện tử qua Internet/Web giúp các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch. Thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax, và bằng khoảng 0,05% thời gian giao dịch qua bưu điện. Chi phí giao dịch qua Internet chỉ bằng 5% chi phí giao dịch qua Fax hay qua bưu điện chuyển phát nhanh. Chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng 10% tới 20% chi phí thanh toán theo lối thông thường.
Bảng I-1: Tốc độ và chi phí truyền gửi (một bộ tài liệu 40 trang)
Đường truyền
Thời gian
Chi phí (USD)
New York đi Tokyo
- Bưu điện
5 ngày
7.40
- Chuyển phát nhanh
24 giờ
26.25
- Fax
31 phút
28.83
- Internet
2 phút
0.10
New York đi Los Angeles
- Bưu điện
2-3 ngày
3.00
- Chuyển phát nhanh
24 giờ
15.50
- Fax
31 phút
9.36
- Internet
2 phút
0.10
Trong hai yếu tố cắt giảm này, yếu tố thời gian đóng vai trò quan trọng hơn, vì việc nhanh chóng làm cho thông tin về hàng hoá tiếp cận với người tiêu dùng mà không phải qua trung gian có ý nghĩa sống còn đối với buôn bán và cạnh tranh buôn bán. Ngoài ra, việc giao dịch nhanh chóng, sớm nắm bắt được các nhu cầu còn giúp cắt giảm số lượng và thờigian hanhg nằm lưu kho, cũng như kịp thời thay đổi phương án sản xuất bám sát được nhu cầu của thị trường.
Ngoài ra, thương mại điện tử còn giúp các doanh nghiệp thiết lập và củng cố quan hệ đối tác: Thương mại điện tử tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các thành tố tham gia vào quá trình thương mại: thông qua mạng, các chủ thể tham gia (doanh nghiệp, người tiêu dùng,chính phủ) có thể giao dịch trực tiếp và liên tục với nhau (liên lạc trực tuyến) gần như không còn khoảng cách địa lý và thời gian nữa, nhờ đó việc hợp tác được tiến hành nhanh chóng và liên tục. Các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh mới được phát hiện nhanh chóng trên bình diện quốc gia, toàn khu vực, toàn thế giới và có rất nhiều cơ hội khác để lựa chọn.
b. Đối với người tiêu dùng
Không chỉ có các doanh nghiệp là người được hưởng lợi ích từ thương mại điện tử mà người tiêu dùng cũng được hưởng lợi rất nhiều từ phương thức kinh doanh mới mẻ này. Nhờ có thương mại điện tử, với một chiếc máy tính được nối mạng, người tiêu dùng có thể ngồi tại nhà để mua sắm, tự do lựa chọn các sản phẩm với đầy đ._.ủ các thông tin cần thiết mà không phải mất thời gian đi tìm kiếm ở các cửa hàng, siêu thị.
Hơn thế nữa, trên mạng có rất nhiều loại hàng hoá, cửa hàng để người tiêu dùng tha hồ lựa chọn. Nếu không có thương mại điện tử người tiêu dùng sẽ phải đi đến các cửa hàng, như vậy vừa tốn thời gian mà cơ hội lựa chọn lại ít.
Bên cạnh đó, vì có nhiều cơ hội lựa chọn như vậy, người tiêu dùng có thể chọn cho mình một sản phẩm thích hợp nhất và có mức giá phù hợp. Việc thanh toán lại rất thuận lợi, người tiêu dùng có thể trả tại nhà bằng tièn mặt hoặc thanh toán bằng thẻ tín dụng thông qua mạng.
c. Đối với chính phủ.
Đối với quốc gia, thương mại điện tử sẽ kích thích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin là ngành có lợi nhuận cao nhất và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Nói cách khác thương mại điện tử sẽ tạo điều kiện cho việc tiếp cận với nền kinh tế số hoá. Lợi ích này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển: nếu không tiếp cận với nền kinh tế số hoá thì sau một thời gian nữa các nước đang phát triển có thể bị bỏ rơi hoàn toàn.
Ngoài ra thương mại điện tử còn tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phân phối các dịch vụ công cộng như y tế, giáo dục, thông tin, thuế...
1.4.2 Hạn chế của thương mại điện tử
Bên cạnh các lợi ích to lớn như vậy, thương mại điện tử vẫn không tránh khỏi có những hạn chế nhất định. Đó là những khó khăn, rào cản khi doanh nghiệp áp dụng thương mại điện tử.
Hiện nay, vấn đề chi phí đang là một trở ngại cho sự phát triển của thương mại điện tử . Tỉ lệ chi phí viễn thông và chi phí hoạt động thương mại cao gây ra những trở ngại rất lớn đối với việc ứng dụng phổ cập thương mại điện tử . Rủi ro về chi phí có thể tăng cao nếu người sử dụng thiếu kinh nghiệm
Thêm vào đó, khả năng xẩy ra rủi ro đối với thương mại điện tử cho các doanh nghiệp là rất lớn. Ngay đối với thương mại truyền thống, hợp đồng đã ký kết nhưng khả năng thực hiện thấp, hàng giả, hàng nhái, hàng chất lượng thấp tràn lan, tình hình chấp nhận và thanh toán còn đang là vấn để nan giải, nay áp dụng thương mại điện tử khả năng rủi ro còn cao hơn nhiều.
Ngoài ra, hiện chưa có một tiêu chuẩn quốc tế thống nhất và hoàn chỉnh cho thương mại điện tử. Đây sẽ là một trở ngại cho sự phát triển của thương mại điện tử toàn cầu. Bởi vì chưa có các tiêu chuẩn trên bình diện quốc tế nên khiến cho nhiều mạng, đường truyền, phần cứng, phần mềm còn chưa tương thích với nhau gây cản trở luồng thông tin giữa các phức hợp mạng khác nhau.
Cuối cùng, thương mại điện tử đòi hỏi phải có hệ thống máy tính hiện đại, chi phí ban đầu và chi phí duy trì lớn, đòi hỏi phải có thời gian thu hồi vốn nhanh, nhưng việc thuyết phục người tiêu dùng chuyển từ tập quán mua bán cổ truyền sang phương thức mua bán mới là điều không thể thực hiện một sớm một chiều được.
2. Khái quát về tình hình phát triển của thương mại điện tử trên thế giới
2.1 Tình hình phát triển thương mại điện tử trên phạm vi thế giới.
Tuy là một lĩnh vực mới phát triển nhưng thương mại điện tử đang phát triển nhanh chóng trên bình diện toàn cầu cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
a. Theo chiều rộng
Theo số liệu “Thương mại điện tử” – Nhà xuất bản thống kê năm 1999, năm 1992 trên thế giới mới có 31 nước nối mạng vào Internet, tới giữa năm 1997 đã có 171 nước. Số trang Web vào giữa năm 1993 là 130 trang, tới cuối năm 1998 đã lên tới 3,69 triệu. Số lĩnh vực sử dụng Internet/Web vào giữa năm 1991 là 1600, tới giữa năm 1997 là 1,3 triệu. Đến năm 1992, toàn thế giới có khoảng 3,2 triệu địa chỉ Internet chủ yếu là ở Mỹ. Tới giữa năm 1996 là 12,9 triệu địa chỉ và với khoảng 67,5 triệu người ở khắp các châu lục. Đến giữa năm 1998 đã có khoảng 36,7 triệu địa chỉ Internet và khoảng 100 triệu người sử dụng. Hàng trăm nghìn công ty và trên 1500 ngân hàng trên thế giới đang thực hiện thương mại điện tử . Theo dự báo số người sử dụng Internet trên toàn thế giới năm 2005 sẽ lên khoảng 1 tỷ người.
Bảng I-2: Số liệu thống kê số người sử dụng Internet theo các nước
Nước
Triệu người
Nước
Triệu người
Mỹ
47.00
Singapore
0.20
Nhật Bản
6.70
Niu Zi Lan
0.20
Australia
1.00
Hồng Kông
0.20
CHLB Đức
0.80
Trung Quốc
0.10
Pháp
0.80
Malaisia
0.10
Anh
0.60
Thai Lan
0.10
Đài Loan
0.60
Indonexia
0.10
Tây Ban Nha
0.50
Philipine
0.40
Italia
0.30
ấn Độ
0.40
CH Nam Phi
0.30
Các nước khác
3.00
Hàn Quốc
0.20
Isarel
0.20
Toàn thế giới
67.50
(Nguồn: Thương mại điện tử NXB Thống kê)
Tuy vậy, hiện nay thương mại điện tử chủ yếu vẫn tập trung ở các nước phát triển. Theo số liệu ước tính gần đúng thì Mỹ đang chiếm tỷ trọng trên 70% tổng doanh số thương mại điện tử trên toàn thế giới. Trong số 331 công ty lớn đứng hàng đầu về ngành kinh doanh trực tuyến thì Mỹ chiếm gần 1/2 còn lại là các nước và khu vực khác.
Doanh thu từ hoạt động thương mại điện tử tăng ngày càng nhanh và chiếm tỷ trọng khá lớn trong thương mại toàn cầu. Năm 1997, các giao dịch thương mại điện tử chỉ chiếm khoảng 0,05% tổng giá trị giao dịch thương mại trên toàn cầu thì đến năm 2000 con số này tăng lên 1,3 đến 3,3%. Tồng trị giá buôn bán toàn cầu trên Internet năm 1999 đạt 95,2 tỉ USD (so với 39,9 tỉ USD cuối năm 1998)
Hình I-2: Doanh số thương mại điện tử toàn cầu
Đơn vị: tỷ USD
Nguồn: Forrester Research, Inc. (2000), IDC-Canadian Economic Outlook, www.nua.com (2001)
Bảng I-3: Doanh thu hoạt động thương mại điện tử theo các năm
Năm
Doanh thu (tỷ USD)
1997
18
1998
31
1999
71
2000
200-250
2001
300
Nguồn: Thương mại điện tử NXB Thống kê 1999
Cùng với sự gia tăng về doanh thu thì các lĩnh vực của thương mại điện tử cũng ngày càng được mở rộng. Cuối thế kỷ XX, thương mại điện tử đã lên tới trên 1300 lĩnh vực ứng dụng. Năm 1997, số lĩnh vực sử dụng là 1,3 triệu Theo “Cục diện Kinh tế thế giới 2000 và dự báo thương mại 2001”, Bộ Thương mại Việt Nam
. Các ứng dụng hiện nay vẫn tập trung trong các lĩnh vực tài chính ngân hàng, quảng cáo, du lịch, bán lẻ trực tuyến... Hàng hoá giao dịch chủ yếu qua mạng chủ yếu là sản phẩm tin học, giải trí, du lịch, vật phẩm tiêu dùng thiết yếu. Trong các giao dịch thì giao dịch B2B chiếm ưu thế áp đảo, 171 tỷ USD so với 10 tỷ USD của B2C năm 2000.
Bảng I-4: Doanh thu của thương mại điện tử theo hàng hoá
1996
1997
1998
1999
2000
Sản phẩm tin học
140
323
701
1.228
2.105
Du lịch
126
276
572
961
1.579
Giải trí
85
194
420
733
1.251
Quần áo
46
89
163
234
322
Hoa, quà tặng
45
103
222
386
658
Thực phẩm
39
78
149
227
336
Khác
37
75
144
221
329
Tổng cộng
518
1.138
2.371
3.991
6.579
Đơn vị: triệu USD
Nguồn: Forrester Research, Inc. (2000)
b. Theo chiều sâu
Những tiến bộ kỹ thuật của công nghệ thông tin đã tạo ra các phương tiện truy cập Internet với tốc độ cao hơn rất nhiều. Công nghệ “Đường thuê bao số hoá không đồng bộ” (Asynchronous Digital Subscriber Line: ADSL), công nghệ dùng vô tuyến để truy cập Internet thông qua đường cáp (High- defination Television: HDTV) 8 Mbp/s cho phép tải chương trình trên trong 10 giây, với công nghệ tivi Internet (HDTV) dùng modem cáp 10 Mbps sẽ chỉ mất 8 giây. Các công ty, chủ yếu là ở Hoa Kỳ, đã có chương trình 5 năm 1998-2002 xây dựng một mạng liên lạc viễn thông toàn cầu thông qua các vệ tinh, cho phép cung cấp dịch vụ tới gần 2 tỷ người đang sống ở các vùng không có điện thoại trên toàn thế giới. Hệ thống cáp ở các nước đã và đang chuyển thành hệ thống lưu thông Internet hai chiều (Two-way Internet traffic) dùng cáp quang, có hộp giải mã âm thanh, hình ảnh và dữ liệu số hoá truyền gửi trực tiếp. Các tuyến cáp quang sẽ cho phép truy nhập Internet với tốc độ gấp 10 lần so với mạng cáp điện thoại hiện thời. Theo ước tính của các chuyên gia Mỹ, Internet/Web đang phát triển với tốc độ cứ 100 ngày thì lưu lượng thông tin qua Internet lại tăng lên gấp đôi.
Trên đây là bức tranh toàn cảnh về tình hình phát triển của thương mại điện tử trên phạm vi toàn cầu. Tiếp theo sẽ là tình hình phát triển của thương mại điện tử ở một số quốc gia có thương mại điện tử đang phát triển từ đó rút ra được những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
2.2 Tình hình phát triển thương mại điện tử ở một số quốc gia và một số khu vực trên thế giới.
a. Mỹ
Hiện nay, Mỹ là một trong những quốc gia có hoạt động thương mại điện tử dẫn đầu thế giới về số người sử dụng Internet cũng như lượng các giao dịch qua mạng. Theo số liệu ước tính thì Mỹ đang chiếm tỷ trọng trên 70% tổng doanh số thương mại điện tử trên toàn thế giới. Thương mại điện tử có ý nghĩa sống còn đối với nền kinh tế Mỹ vì nền kinh tế nước này đang chuyển sang nền kinh tế tri thức nên chi phí giao dịch trong nền kinh tế Mỹ chiếm 45% GDP, nhờ có thương mại điện tử mà chi phí mà giảm đi rất nhiều lần thậm chí là hàng trăm lần. Tới táng 7/1997, số lĩnh vực kinh doanh sử dụng thương mại điện tử của Mỹ đã lên tới hàng nghìn.
Số lượng các doanh nghiệp của Mỹ sử dụng thương mại điện tử cũng ngày càng tăng, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo công ty nghiên cứu thị trường Cyber Dialogue ở Mỹ, số các doanh nghiệp vừa và nhỏ nước này sử dụng thương mại điện tử tăng với tốc độ 14%/ năm, tổng số đơn đặt hàng qua mạng Internet của các doanh nghiệp này tăng khoảng 138% trong khoảng từ quý I năm 1999 đến quý I năm 2000 đạt tổng trị giá 45,2 tỉ USD.
Nhận thức được tầm quan trọng lớn lao của thương mại điện tử nên chính phủ Mỹ rất chú ý sử dụng, phát triển và hoàn thiện lĩnh vực này. Tháng 7/1997, sau 10 năm thử nghiệm và áp dụng thương mại điện tử với quy mô lớn và ở trình độ cao, chính phủ Mỹ ban bố “ Khuôn khổ cho thương mại điện tử toàn cầu” trong đó nêu ra quan điểm của Mỹ về 5 Nguyên tắc cơ bản về thương mại điện tử toàn cầu gồm:
Internet là vũ đài chịu hoàn toàn sự chi phối của thị trường, khu vực tư nhân giữ vai trò chủ yếu, tiên phong.
Chính phủ không có hạn chế không cần thiết đối với thương mại điện tử .
Nếu chính phủ cần phải tham gia thì chỉ là tạo một môi trường pháp lý giản dị và nhất quán cho thương mại điện tử , mà không phải là điều tiết nó
Chính phủ công nhận tính chất đặc thù của Internet, và không cho rằng Internet phải theo các khuôn khổ điều tiết đã được xác lập cho liên lạc, truyền thanh và truyền hình
Thương mại điện tử trên Iternet phải mang tính toàn cầu, không phân biệt đối xử giữa những người mua và người bán ở các quốc gia khác nhau.
Trong lĩnh vực pháp lý, Mĩ cũng là nước đi đầu với việc cho ra đời luật chữ ký điện tử. Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp dễ dàng đàm phán trong kinh doanh hơn.
b. Singapore
Để thúc đẩy giao dịch thương mại điện tử , Singapore tập trung vào hệ thống thanh toán điện tử, và trở thành một trong những nước đầu tiên áp dụng hệ thống thanh toán này. Tháng 12/1996, Singapore khai trương chương trình ứng dụng toàn diện các loại thẻ Internet cash, thẻ mua hàng điện tử, túi tiền điện tử. Hệ thống giao dịch điện tử an toàn mang tính quốc tế được thành lập năm 1997 và đi vào hoạt động từ đầu năm 1998.
Chính phủ Singapore hỗ trợ và vận hành Điểm nóng thương mại điện tử (Electronic Commerce Hotbed- ECH) với sự tham gia của 60 tổ chức tài chính, công nghệ và xây dựng hạ tầng thương mại điện tử . ECH lập ra Uỷ ban điều phối thương mại điện tử hoạt động trong khuôn khổ ECH. Tháng 1/1997, chính phủ lập ra tiểu ban chính sách thương mại điện tử . Tiểu ban này có trách nhiệm nghiên cứu và soạn thảo chính sách quản lý thương mại điện tử . Văn bản có tính chất bao trùm sự phát triển thương mại điện tử ở Singapore là Kế hoạch tổng thể về thương mại điện tử của Singapore. Kế hoạch này xác định mục tiêu cụ thể như sau:
Xây dựng hạ tầng cơ sở thương mại điện tử có khả năng kết nối quốc tế.
Biến Singapore trở thành một trung tâm thương mại điện tử.
Khuyến khích cacs doanh nghiệp ứng dụng thương mại điện tử như là một chiến lược kinh doanh.
Xúc tiến dân chúng sử dụng rộng rãi thương mại điện tử .
Từng bước tạo ra sự phù hợp giữa hệ thống quy định hiện hành về giao dịch kinh doanh với các quy định mới về giao dịch thương mại điện tử .
c. Malaysia
Trong khuôn khổ chương trình Tầm nhìn Malaysia năm 2020, chính phủ đã thành lập Siêu hành lang thông tin đa phương tiện. Đầu năm 1996, tiểu ban đặc biệt được thành lập dưới sự chủ trì của Bộ năng lượng, Bưu điện và Viễn thông có mục tiêu xây dựng hệ thống chính sách, quy định đáp ứng các yêu cầu của thương mại điện tử gồm Luật chữ kỹ điện tử, Luật y tế điện tử, Luật giao dịch thương mại điện tử, sửa đổi Luật bản quyền phù hợp với yêu cầu phát triển thương mại điện tử . Tháng 2/1997, Malaisia công bố chiến lược thương mại điện tử gồm những điểm chính sau:
Xây dựng hệ thống hạ tầng thông tin với công nghệ tiên tiến
Biến siêu hành lang đa phương tiện trở thành một trung tâm thương mại điện tử khu vực
Tiến tới Malaisia khôn kiểm duyệt Internet
Đưa Malaisia thành kiểu mẫu về bảo vệ sở hữu trí tuệ trong giao dịch thương mại điện tử
Không đánh thuế nhập khẩu các thiết bị, kỹ thuật phục vụ cho thương mại điện tử ít nhất trong 10 năm
Trong năm 1997, chính phủ thành lập Tiểu ban chuyên trách về thương mại điện tử do Bộ thương mại và công nghiệp chủ trì. Hệ thống thanh toán điện tử cũng đã được thiết lập do ngân hàng Negara điều hành.
d. Tổ chức Hợp tác kinh tế Thái Bình Dương (APEC)
Tháng 2/1998, Tại cuộc gặp ở Penang, các quan chức cao cấp của Apec đã thành lập một lực lượng đặc nhiệm để lo các công việc về thương mại điện tử trong Apec. Lực lượng đã vạch ra và thực hiện chương trình công tác gồm hai giai đoạn: Giai đoạn 1: tập trung vào việc nâng cao nhận thức của các thành viên về thương mại điện tử . Giai đoạn hai: Hợp tác xây dựng các cơ sở chung cho thương mại điện tử trong tổ chức. Tại cuộc gặp thượng đỉnh tháng 11/1998,APEC công bố bản “ Chương trình hành động APEC về thương mại điện tử “ nhìn nhận rằng thương mại điện tử có tiềm năng to lớn, đồng thời nhìn nhận rằng các nước thành viên đang ở các trình độ phát triển khác nhau về kinh tế, văn hoá, và cách điều hành; đề cao vai trò đầu tầu của các doanh nghiệp và đề ra lộ trình thương mại điện tử cho các nước thành viên.
Tuy nhiên bản chương trình hành động này chỉ hoàn toàn mang tính lạc quan mà không nói tới khó khăn hay nguy cơ tiềm ẩn nào của thương mại điện tử đối với các nước còn đang phát triển.
e. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN)
Các nước ASEAN bắt đầu có hoạt động tập thể về thương mại điện tử từ năm 1997, mở đầu bằng hội nghị bàn tròn ASEAN về thương mại điện tử tổ chức ở Malaisia vào tháng 10. Để xúc tiến hợp tác về thương mại điện tử , ASEAN đã lập ra “ Ban điều phối về thương mại điện tử” ( Coordinating committee on Electronic Commerce: CCEC); tháng 7/1998, tiểu ban này họp hội nghị làn thứ nhất, tháng 9/1998, họp hội nghị lần thứ 2, tại hội nghị này CCEC đã thông qua bản “ Các nguyên tắc chỉ đạo về thương mại điện tử” của các nước ASEAN. Tháng 11/2000, ASEAN ký Hiệp định khung về thương mại điện tử. Hiệp định khung e-ASEAN nêu ra các nguyên tắc chung cho cơ sở hạ tầng thông tin ASEAN, thương mại điện tử, tự do hoá các sản phẩm ICT, phát triển xã hội điện tử và đẩy mạnh các Chính phủ điện tử.
2.3 Những kinh nghiệm cho Việt Nam từ hoạt động thương mại điện tử của các nước trên thế giới
Các nước công nghiệp là những nước có điều kiện để phát triển nhanh thương mại điện tử trong khi đó đối với các nước đang phát triển thì thương mại điện tử vừa là thách thức vừa là cơ hội cần được tận dụng để tiến hành thương mại có hiệu quả. Nếu không kịp thời chuẩn bị và tham gia một cách hợp lý thì các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam sẽ thiếu điều kiện để cạnh tranh tồn tại và dần đuổi kịp các nước phát triển và như vậy các nước này sẽ bị bỏ rơi. Kinh nghiệm từ các nước cho thấy vì các đòi hỏi và các vấn đề của thương mại điện tử đều có nhiều khía cạnh phức tạp, có liên quan chặt chẽ với nhau nên để triển khai thương mại điện tử thì Việt Nam cần phải:
Hình thành một hệ thống các nguyên tắc chỉ đạo và quan điểm về hệ thống các cơ sở hạ tầng pháp lý, công nghệ, kinh tế, xã hội cho việc chấp nhận và triển khai thương mại điện tử , lấy đó làm cơ sở mang tính nguyên lý cho các chương trình và các hoạt động.
Chuẩn bị tốt về cơ sở hạ tầng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng về thông tin và pháp lý cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thương mại điện tử của các doanh nghiệp.
Xây dựng một chương trình tổng thể, tiếp đó là một chương trình hành động về thương mại điện tử để từng bước triển khai có hiệu quả và hệ thống
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, hạ tầng cơ sở thông tin cần phát triển trước tiên. Cùng với sự phát triển của cơ sở hạ tầng thông tin thì hệ thống các quy định quản lý Nhà nước đối với quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên trên Internet, quy định đối với giao dịch thương mại điện tử, hệ thống thanh toán điện tử cần có sự đầu tư ban đầu. Trong giai đoạn đầu tiên, hạ tầng cơ sở thông tin, pháp lý và thanh toán cần đảm bảo mức độ đáp ứng được nhu cầu cho các doanh nghiệp áp dụng thí điểm thương mại điện tử .
Kết thúc giai đoạn thử nghiệm, nguồn nhân lực phát triển thương mại điện tử cần được ưu tiên đầu tư đồng thời tiếp tục nâng cấp đồng bộ hạ tầng thông tin, pháp lý và thanh toán để phục vụ ứng dụng thương mại điện tử trên diện rộng.
Ngoài ra, một nhân tố hạ tầng quan trọng khác là yếu tố thể chế. Việt Nam cần có một hoặc một số tổ chức hoặc cơ quan đầu mối để hình thành quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo, chương trình tổng thể ứng dụg thương mại điện tử và chỉ đạo tập trung, phối hợp, điều hành, xúc tiến, điều chỉnh việc triển khai chương trình tổng thể đó.
3. Thực trạng phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam
Thương mại điện tử hiện là một lĩnh vực mới mẻ đối với Việt Nam. Cho đến nay quá trình phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam mới chỉ ở những bước đi ban đầu.
3.1 Thực trạng cơ sở hạ tầng cho sự phát triển thương mại điện tử
Việt Nam gia nhập mạng toàn cầu tương đối chậm, tháng 11/1997 mới chính thức hoà mạng Internet. Nếu như môi trường pháp lý là tiền đề cho phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam thì cơ sở hạ tầng thông tin là một yếu tố thúc đẩy ứng dụng thương mại điện tử trên diện rộng. Tuy cơ sở hạ tầng ở nước ta vẫn ở mức thấp nhưng cũng đã tạo điều kiện cho việc ứng dụng thương mại điện tử .
a. Hạ tầng cơ sở công nghệ
Hạ tầng cơ sở viễn thông:
Mạng viễn thông quốc tế- hạ tầng kỹ thuật thiết yếu cho thương mại điện tử của Việt Nam đã có những bước phát triển nhanh chóng với 3 tổng đài Gateway và 8 trạm mặt đất có khả năng cung cấp các kênh liên lạc trực tiếp với gần 30 nước và liên lạc gián tiếp với trên 200 nước trên thế giới. Hệ thống cáp quang Thái Lan- Việt Nam- Hồng Kông với tốc độ trên 500 Mbps đã được đem vào khai thác góp phần đáng kể vào việc nâng cao năng lực viễn thông quốc tế của Việt Nam.
Đường trục Bắc Nam với viba rộng 140Mpbs và cáp quang SDH 2,5 GMbs bước đầu đáp ứng được nhu cầu thông tin trong những năm tới. Mạng cấp I đã được trang bị thiết bị truyền dẫn Viba công nghệ số PDH và SDH tốc độ từ 2 Mpbs đến 155 Mbps và cáp quang SDH tốc độ từ 155 Mpbs đến 2,5 Gbps. Tính đến cuối năm 2000, các huyện trong cả nước đã được trang bị tổng đài điện tử. Tổng số thuê bao điện thoại cố định đạt trên 3 triệu máy. Đồng thời mạng điện thoại cố định đã được số hoá. Dịch vụ thông tin di động tiêu chuẩn GMS phát triển nhanh với 2 công ty là Vinaphone và Mobilephone đã phủ sóng trên địa bàn toàn quốc.
Hạ tầng Internet:
Để đáp ứng nhu cầu khai thác và sử dụng Internet, tổng công ty bưu chính viễn thông đã xây dựng một mạng trục trên toàn quốc là VietnamNet (VNN) và kết nối với mạng Internet. Mạng VNN được coi là cơ sở hạ tầng cho Internet tại Việt Nam và hiện nay do công ty Điện toán và truyền số liệu (VDC) quản lý và khai thác.
Với 3 nhà kinh doanh dịch vụ kết nối Internet (IXP- Internet Exchange Provider) Trước khi có Nghị định số 55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet, IXP được gọi là IAP (Internet Access Provider)
, 12 nhà cung ứng dịch vụ Internet (ISP- Internet Service Provider) và 17 nhà cung cấp thông tin lên Internet (ICP- Internet Content Provider) Tạp chí chuyên đề giải pháp cho tổ chức, doanh nghiệp (Số 23-Tháng 9 năm 2002)
, các thông tin kinh tế, thương mại, đầu tư... đã bước đầu được đưa lên mạng, trong đó phải kể đến trang vàng Internet của Việt Nam với các chuyên mục: tiềm năng và triển vọng của các tỉnh, 100 doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam... Phòng Thương mại điện tử mại và
công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã triển khai các dự án về thương mại điện tử . VCCI đã xây dựng được 2 trạm máy chủ đặt tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh và đã hoàn thành bước thứ nhất về cơ sở dữ liệu thông tin phục vụ cho các doanh nghiệp hội viên trong cả nước, bao gồm thông tin về sản phẩm, thông tin xúc tiến thương mại, đầu tư... Tình hình hoạt động của các ISP có thể thấy được thông qua tốc độ tăng trưởng thuê bao của khách hàng và thị phần Internet của mỗi công ty qua các số liệu dưới đây.
Bảng I-5: Một số chỉ tiêu phát triển hạ tầng công nghệ kỹ thuật
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
1998
1999
2000
Thuê bao điện thoại
Máy
1.756.000
2.200.000
2.800.000
Các ISP
Công ty
4
4
5
Điểm truy cập VNN/Internet
Số điểm
35
52
58
Dung lượng kênh Internet quốc tế
Mpbs
34
53
90
Dung lượng kênh Internet nội địa
Mpbs
16
24
26
Nguồn: Báo cáo định kỳ quý IV-2000, phòng kỹ thuật VDC
Tuy nhiên số lượng người dùng Internet còn hạn chế chủ yếu là vì giá cước truy nhập còn quá cao và chất lượng chưa được tốt.
Bảng I-6: Số lượng thuê bao từ tháng 9/2000- tháng 6/2002.
Tháng
VNPT
FPT
Netnam
SPT
9/2000
52.719
25.502
2.991
4.732
12/2000
60.456
29.919
8.502
5.332
3/2001
69.351
33.462
7.249
10.754
6/2001
76.726
37.050
8.524
11.543
9/2001
88.259
43.852
9.264
12.796
12/2001
94.072
50.969
9.584
11.991
3/2002
97.488
52.516
10.232
11.272
6/2002
99.073
53.475
10.413
11.417
Nguồn: Tạp chí chuyên đề giải pháp cho tổ chức, doanh nghiệp (số 23-9/2002)
Máy vi tính:
Đầu những năm 80, máy vi tính bắt đầu được nhập khẩu vào Việt Nam. Lượng nhập khẩu máy vi tính gia tăng nhanh chóng với tốc độ trung bình khoảng 50%/ năm. Theo thống kê của Ban chỉ đạo quốc gia về công nghệ thông tin, tính đến tháng 12/2001, số lượng máy tính nhập khẩu vào Việt Nam là khoảng 600.000 nghìn chiếc nếu tính cả số lắp ráp tại Việt Nam thì số lượng máy vi tính đang sử dụng hiện nay là 750.000 chiếc. Tính trung bình mức độ trang bị máy tính mới chỉ đạt khoảng 9 máy/ 1000 người dân. Công suất sử dụng nói chung là chưa cao.
b. Hạ tầng cơ sở nhân lực.
Nguồn nhân lực vẫn được coi là yếu tố quyết định đến sự thành công của việc triển khai và áp dụng thương mại điện tử . Cơ sở hạ tầng nhân lực thường được xét trên hai khía cạnh: các chuyên gia công nghệ thông tin và hiểu biết của công chúng về công nghệ thông tin nói chung và thương mại điện tử nói riêng.
Xét về các chuyên gia công nghệ thông tin thì hiện nay, theo ước tính cả nước ta có khoảng 20.000 người làm công nghệ thông tin. Trong số đó có 2000 kỹ sư phần mềm. Bên cạnh đó còn có các cán bộ đào tạo từ khoa tin học của các trường đại học chủ yếu là trường Đại học Khoa học tự nhiên và trường Đại học Bách Khoa mỗi năm ra trường trên 1000 người. Ngoài ra còn có một lực lượng đông đảo thành viên đã qua đào tạo tin học trong khi học phổ thông, đại học hoặc đào tạo tại các trường, trung tâm đào tạo tin học trong toàn quốc, số này ước tính vài vạn người. Ngoài ra còn phải kể đến đội ngũ Việt kiều làm tin học, theo thống kê chưa đầy đủ có tới 50.000 người.
Tuy nhiên lực lượng chuyên gia tin học của nước ta còn có một số nhược điểm như các trường đại học chỉ chủ yếu đào tạo cán bộ phần mềm do đó còn thiếu chuyên gia phần cứng, lực lượng cán bộ tin học đào tạo từ các trường khá phong phú nhưng chưa tận dụng được....
Xét trên phương diện hiểu biết của xã hội về công nghệ thông tin nói chung và thương mại điện tử nói riêng, đào tạo tin học và thông tin tin học rộng rãi đã làm cho tin học phổ thông không còn xa lạ với người dân. Tuy nhiên, vẫn có khoảng cách lớn giữa việc biết đến “máy tính điện tử” và các ứng dụng của công nghệ thông tin với khả năng ứng dụng thực tế các phương tiện đó, đặc biệt là ứng dụng Internet/Web. Trong cả nước hiện còn khá nhiều cá nhân và chủ doanh nghiệp chưa quen làm việc quản lý và kinh doanh trên máy tính điện tử, trên mạng máy tính và trên các thiết bị thông tin khác. ở những cơ quan và doanh nghiệp này, nhiều cán bộ, nhân viên chưa từng dùng máy tính điện tử, những người được coi là biết sử dụng máy thực tế chỉ mới làm được và chỉ làm văn bản ở mức độ thấp; trình độ ứng dụng thông tin vào mục đích quản lý và kinh doanh nói chung còn rất thấp.
Bên cạnh đó nhận thức của người Việt Nam về thương mại điện tử còn rất thấp. Người Việt Nam đã quen mua hàng trực tiếp, trực diện cảm nhận hàng hoá vì vậy nếu không nâng cao nhận thức về thương mại điện tử thì khó có thể triển khai được.
c. Hạ tầng cơ sở pháp lý.
Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy môi trường pháp lý phù hợp là nhân tố quan trọng hàng đầu cho phát triển thương mại điện tử . ở giai đoạn thí điểm phát triển thương mại điện tử, môi trường pháp lý phù hợp cho sự phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam vẫn chưa hình thành. Trong hệ thống pháp luật dân sự, kinh tế, thương mại của Việt Nam hiện nay chưa có các điều khoản quy định riêng cho thương mại điện tử. Các văn bản dưới luật như quy định của chính phủ, quy định của Thủ tướng chính phủ, các thông tư của các bộ và liên bộ có liên quan đến phát triển thương mại điện tử vẫn nằm trong giai đoạn soạn thảo. Hàng loạt các vấn đề liên quan đến thương mại điện tử như giá trị pháp lý của hợp đồng, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quyền lợi của người tiêu dùng... vẫn chưa được đề cập trong một văn bản pháp lý nào. Tuy nhiên hiện đã có một tiến bộ lớn trong thương mại điện tử ở Việt Nam đó là việc công nhận chữ ký điện tử trong thanh toán vốn. Ngày 21/3/2002, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử dùng trong thanh toán. Theo đó, các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được sử dụng chứng từ điện tử làm chứng từ kế toán để hạch toán và thanh toán vốn. Quyết định trên cũng quy định việc mã hoá bằng mật mã cho chữ ký điện tử và công nhận chữ ký điện tử như chữ ký tay trên giấy. Việc công nhận chữ ký điện tử này là bước khởi đầu cho thương mại điện tử phát triển ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc xây dựng hành lang pháp lý cho thương mại điện tử phát triển vẫn còn nhiều việc cần làm như: chế độ bảo mật, mạng thanh toán điện tử liên ngân hàng... Cho đến nay, Việt Nam mới chỉ có một số văn bản pháp lý được ban hành, và một vài sự thay đổi về thể chế liên quan đến phát triển công nghệ thông tin Việt Nam.
Về cơ cấu tổ chức, chúng ta đã có một số tổ chức chuyên về thương mại điện tử như : Ban chỉ đạo chương trình quốc gia về công nghệ thông tin để giúp chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết chính phủ số 49-CP (ngày 06/05/1994); Ban điều phối mạng Internet quốc gia (05/03/1997); tháng 12/1998, Bộ thương mại quyết định thành lập Ban thương mại điện tử trực thuộc Bộ Thương mại.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX nêu rõ: “ Phát triển nhanh thương mại điện tử. Nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động thương mại điện tử để hội nhập với khu vực và thế giới... Phát triển nhanh các loại hình dịch vụ tài chính, ngân hàng, kiểm toán, tư vấn pháp luật, dịch vụ trí tuệ, công nghệ tin học, công nghệ phần mềm...”. Trong văn kiện này, thương mại điện tử lần đầu tiên được xuất hiện tuy còn mờ nhạt nhưng cũng là một bước tiến dài về môi trường pháp lý và thể chế cho phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam.
d. Cơ sở hạ tầng dịch vụ
Hệ thống thanh toán điện tử là một nền tảng hết sức quan trọng cho thương mại điện tử. Hệ thống thanh toán điện tử ở Việt Nam vẫn đang trong quá trình phát triển đầu tiên. Tính đến năm 2000, ngân hàng nhà nước và 4 ngân hàng thương mại quốc doanh đã có hệ thống thanh toán dữ liệu điện tử riêng để đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng. Ngoài ra, các ngân hàng đã tham gia hệ thống SWIFT. Hiện nay, ngân hàng ngoại thương đã có hệ thống bán lẻ Silverlake, hệ thống quản lý thẻ, hệ thống máy rút tiền tự động. Ngân hàng công thương đang triển khai dự án “ Hạ tầng cơ sở thanh toán trong thương mại điện tử”. Cuối tháng 7/2002, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã khai trương Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. Với hệ thống thanh toán này, thời gian dài nhất để thực hiện một giao dịch không cùng ngân hàng gốc đã được rút ngắn từ trên 10 ngày (năm 1987) hoặc 2 ngày (trước khi có hệ thống) xuống còn 10 giây. Điều này khẳng định bước tiến quan trọng trong công nghệ tin học ngân hàng tại Việt Nam. Thêm vào đó sự ra đời của E-Card cũng là một đột phá mới trong thương mại điện tử ở Việt Nam. Ngày 4/6/2002, Ngân hàng thương mại cổ phần á Châu đã phát hành thẻ thanh toán và rút tiền mặt biểu tượng E- Card để đáp ứng nhu cầu chuyển tiền nhanh. Tuy nhiên, hệ thống thanh toán điện tử qua ngân hàng ở Việt Nam còn rất kém phát triển và chưa có thể đáp ứng được yêu cầu thanh toán của thương mại điện tử .
Vấn đề về bảo mật thông tin và các dịch vụ thông tin kinh tế xã hội vẫn còn rất hạn chế. Các nhà cung cấp dịch vụ thương mại điện tử chuyên nghiệp như b2vn (FPT), yes (Hội đồng Doanh nghiệp Trẻ Việt Nam), vietnamthink (Công ty Tri thức Việt Nam)... đang từng bước cung cấp các dịch vụ thương mại điện tử trọn gói góp phần nâng cao nhận thức và mở ra một kênh tiếp thị và phân phối mới cho các doanh nghiệp. Ngày 28/8/2002, công ty phát triển phần mềm VASC thuộc tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam đã chính thức cung cấp dịch vụ thử nghiệm quản lý và cấp chứng chỉ số VASC cho khách hàng. Chứng chỉ này là một tệp tin điện tử dùng trong các môi trường giao dịch trên mạng hoặc Internet để chứng thực đối tượng sử dụng, bảo đảm an toàn và bảo mật thông tin. Việc triển khai rộng rãi các ứng dụng công nghệ chứng chỉ số sẽ tạo một môi trường Internet khá an toàn cho việc triển khai các hệ thống ứng dụng thương mại điện tử.
3.2 Các hoạt động xúc tiến thương mại điện tử
Tuy hiện nay ở nước ta thương mại điện tử mới đang ở trong giai đoạn thí điểm nhưng chúng ta đã có những bước chuẩn bị khá chu đáo và tích cực cho thương mại điện tử. Bộ Thương mại đã đẩy nhanh ._.ề sản phẩm, phương thức thanh toán, đồng tiền thanh toán, đồng tiền tính giá, địa điểm giao hàng, bao bì, các loại chi phí (phí vận tải, thuế...) và các điều khoản, điều kiện khác. Như vậy sẽ làm tăng độ tin cậy cho khách hàng.
Thứ ba, thiết kế site phải linh hoạt. Các doanh nghiệp nên luôn luôn cập nhập các thông tin mới nhất lên website của mình để phản ánh vào bán hàng, chiết khấu hay cung cấp các thông tin về sản phẩm, dịch vụ sẵn có. Đó là cách tốt nhất để thu hút, chỉ dẫn sản phẩm một cách trực tiếp từ cơ sở dữ liệu cho việc cập nhật liên tục.
Thứ tư, chất lượng và hình ảnh âm thanh phải sắc nét, sống động. Đa số website của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam là các trang tĩnh, đơn giản. Các doanh nghiệp cần có những sáng kiến đổi mới để tạo được trang web với hình ảnh âm thanh vui tươi mang bản sắc riêng và những nét đặc trưng riêng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể đưa lên website hình ảnh của sản phẩm đặc trưng cho doanh nghiệp, hoặc một biểu tượng riêng của doanh nghiệp... để làm đặc sắc thêm website của mình.
Cuối cùng, tốc độ truy cập phải nhanh. Doanh nghiệp nên loại bỏ các đoạn không cần thiết, giảm hình ảnh giới thiệu sản phẩm ở kích thước vừa phải. Thiết kế theo một hệ thống định hướng cho phép khách hàng chọn sản phẩm dễ dàng và nhanh hơn.
Khi thiết kế Website doanh nghiệp cũng nên chú ý đến vấn đề chi phí. Hiện nay mức chi phí trung bình khoảng 10 triệu VND để doanh nghiệp có thể xây dựng và vận hành một hệ thống tran Web khoảng từ 10 đến 20 trang trong suốt một năm trời. Ngoài ra doanh nghiệp cần nghiên cứu quy định của Nhà nước về khai thác và sử dụng Internet để có thể tận dụng các lợi ích của Internet theo đúng quy định về pháp luật.
Đây là một số những những gợi ý mang tính chất đóng góp hy vọng các doanh nghiệp có thể tham khảo để có được bộ mặt “ảo” hoàn hảo thu hút được nhiều khách hàng đến với doanh nghiệp mình.
2.1.5 Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng.
Khách hàng là nhân tố quan trọng trong việc quyết định xem công việc kinh doanh thương mại điện tử của doanh nghiệp sẽ phát triển hay phải ngừng lại. Doanh nghiệp tiến hành kinh doanh chính là để phục vụ khách hàng mà nếu không thu hút được khách hàng đến với doanh nghiệp mình thì việc kinh doanh trên mạng của doanh nghiệp sẽ thất bại và phải dừng lại là điều tất nhiên. Thu hút khách hàng là một việc khó nhưng làm thế nào để duy trì được mối quan hệ ấy còn khó hơn. Xét trên nhiều phương diện, giao dịch với khách hàng là một trong những vấn đề phức tạp nhất mà doanh nghiệp khi tiến hành thương mại điện tử phải đối mặt.
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam việc làm thế nào để thu hút được khách hàng và giữ họ không bỏ rơi giỏ hàng khi mua hàng là điều rất quan trọng để phát triển thương mại điện tử người tiêu dùng Việt Nam hiện nay chưa quen với khái niệm thương mại điện tử và họ vẫn còn tâm lý e ngại sự không an toàn. Vậy các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải làm gì?
Trước hết, các doanh nghiệp hãy tập trung phân tích khách hàng của mình, người ta thường là các thông số nhân khẩu của Internet. Tiến hành phân đoạn trên Internet để tìm ra được phần thị trường phù hợp với các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nên giao cho bộ phận marketing làm việc này. Có như vậy doanh nghiệp mới có được một chiến lược sản phẩm, dịch vụ thích hợp để thoả mãn nhu cầu khách hàng. Đây là điều mà các doanh nghiệp Việt Nam nên làm.
Sau khi tìm được thị trường phù hợp với sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp thì việc quảng bá sản phẩm đến đông đảo quần chúng là điều vô cùng cần thiết. Doanh nghiệp có thể quảng cáo trên các phương tiện truyền thống như quảng cáo trên truyền hình, báo chí. Tuy nhiên thương mại điện tử vẫn là phương tiện tốt nhất, nó cung cấp khả năng marketing lớn hơn bao giờ hết cho doanh nghiệp. Trong đó thư điện tử được coi là một thành phần không thể thiếu được trong quá trình tiếp thị trên Internet với những lợi thế nhanh, rẻ và có mặt ở khắp mọi nơi. Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam dường như không để ý đến công dụng rất hữu ích này của thư điện tử. Họ chỉ coi thư điện tử đơn thuần chỉ để hỏi hàng, đặt hàng, chào hàng thế là hết mà không chú ý đến việc sử dụng nó như một công cụ marketing hữu ích. Nó giúp các doanh nghiệp liên lạc thường xuyên với khách hàng biết được họ cần gì, muốn gì để từ đó có thể tìm ra giải pháp thoả mãn nhu cầu của họ.
Vấn đề mà khách hàng Việt Nam lo ngại nhất hiện nay là vấn đề an toàn khi mua sắm sản phẩm. Họ thường có suy nghĩ là mua bán trên thị trường thực tế còn xảy ra các vấn đề như mua phải hàng giả, hàng chất lượng thấp huống hồ là việc mua bán trên mạng không hề được nhìn thấy sản phẩm. Vậy doanh nghiệp phải làm thế nào để tạo cảm giác an toàn cho khách hàng khi truy cập vào trang web của doanh nghiệp và tiến hành giao dịch. Để giải quyết vấn đề này trên website doanh nghiệp nên giới thiệu rõ ràng về mình như điện thoại, địa chỉ liên hệ ... Ngoài ra doanh nghiệp cần phải sử dụng nhất quán một tên miền duy nhất vì nhiều người sẽ mất niềm tin và không thực hiện các bước tiếp theo nếu tên miền thay đổi. Và để khách hàng có thể yên tâm về chất lượng sản phẩm thì doanh nghiệp nên cung cấp các thông tin chi tiết về sản phẩm của mình trên website. Chẳng hạn như một doanh nghiệp muốn bán quần áo trên mạng thì sẽ là không đủ nếu doanh nghiệp chỉ cung cấp cho khách hàng các thông tin rằng doanh nghiệp có thể cung cấp cho họ quần áo và thông tin về giá cả. Các khách hàng không chỉ cần biết có vậy mà họ còn muốn biết những thông tin về loại vải, màu sắc, kích thước... Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nnam chưa làm được điều này. Thông tin về sản phẩm mới chỉ dừng lại ở danh mục, ít có mô tả chi tiết, giá bán... Ông Matthew Berk một chuyên gia về các trang web và các giao dịch mua bán trên Internet của công ty Jupiter Media Metrix đã nói: “ Khi khách hàng muốn mua sản phẩm, họ không chỉ cần biết về giá cả mà họ còn muốn so sánh có với những sản phẩm khác. Tóm lại họ muốn biết nội dung của sản phẩm.” Nếu làm được điều này các doanh nghiệp có thể giúp khách hàng gạt bỏ những lo lắng và yên tâm mua hàng. Tuy nhiên đó chưa phải là tất cả. Chất lượng sản phẩm, dịch vụ kèm theo hoàn hảo, giá cả hợp lý thời gian nhanh nhất là điểm mấu chốt để thu hút khách hàng đến với sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và duy trì mối quan hệ lâu dài với doanh nghiệp.
Hiện nay chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng chưa tốt lắm đặc biệt là sản phẩm của các hộ gia đình. Như đã phân tích ở chương II, công nghệ sử dụng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là các công nghệ đã lỗi thời, lạc hâu, trình độ của người lao động không được cao lắm. Do vậy để đảm bảo có thể cung cấp trên mạng những sản phẩm tốt nhất cho khách hàng thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần phải đầu tư vào công nghệ mới, đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân, đồng thời phải luôn sáng tạo để có thể đưa ra các sản phẩm mới thu hút sự quan tâm chú ý của khách hàng.
Ngoài ra để duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng thì doanh nghiệp cần phải giữ mối quan hệ thường xuyên với khách hàng. Hiện tại khách hàng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh trên mạng chưa nhiều nên việc làm này là vô cùng cần thiết. Quy tắc 80/20 của Pareto đã nói rằng 80% doanh thu của doanh nghiệp là nhờ vào 20% số khách hàng của doanh nghiệp. Trong kinh doanh, khách hàng là thượng đế vì thế việc duy trì mối quan hệ với khách hàng hiện thời sẽ dễ dàng hơn nhiều so với việc tìm ra một khách hàng mới. Để tạo được mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng doanh nghiệp nên: (1) trả lời kịp thời các thắc mắc của khách hàng qua e-mail, điều đó chứng tỏ rằng doanh nghiệp quan tâm đến họ và điều này sẽ khiến họ hài lòng, (2) ngoài ra các doanh nghiệp nên chú ý đến những chi tiết dù rất nhỏ nhưng lại hết sức quan trọng. Chẳng hạn như: doanh nghiệp nên lưu lại những thông tin về đăng ký của khách hàng thậm chí trong nhiều năm để khi khách hàng quay trở lại mua hàng của doanh nghiệp thì có thể chỉ cho họ đến nơi mà họ đã mua trước đó để tiết kiệm thời gian; doanh nghiệp có thể gửi e-mail chúc mừng cho khách hàng nhân dịp sinh nhật hoặc dịp kỷ niệm nào đó. Một số các công ty của Việt Nam đã làm rất tốt việc làm này, đặc biệt là các công ty bảo hiểm. Những việc làm này tuy rất nhỏ nhặt nhưng lại giúp các doanh nghiệp có thể duy trì mối quan hệ làm ăn lâu dài với khách hàng.
Ngoài ra, khuyến mãi cũng là loại hình xúc tiến thương mại quan trọng không thể thiếu được trong đời sống kinh doanh hiện tại. Song song với chiến dịch khuyến mãi sản phẩm doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động hậu mãi như hỗ trợ khách hàng, tư vấn về sản phẩm cùng loại, đưa ra những lời khuyên bổ ích để có thể sử dụng sản phẩm, dịch vụ có hiệu quả cao nhất.
Đây là một số biện pháp có thể giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ tham khảo để làm sao có thể thu hút và giữ được khách hàng đến với doanh nghiệp mình. Khách hàng là thượng đế, có được sự ủng hộ của khách hàng thì doanh nghiệp mới có cơ hội mở rộng hoạt động kinh doanh mới mẻ này.
2.1.6 Một số biện pháp khác
Hoàn thiện tiêu chuẩn hoá công nghiệp và thương mại
Các giao dịch trong thương mại điện tử là các giao dịch số hoá đòi hỏi phải có sự thống nhất cao về dữ liệu và thông tin. Vì vậy yêu cầu đặt ra là các doanh nghiệp phải hoàn thiện tiêu chuẩn hoá về công nghiệp và thương mại để đáp ứng đòi hỏi của các khách hàng quốc tế.
Hiện nay ở Việt Nam, hệ thống tiêu chuẩn trong công nghiệp và thương mại còn thiếu và yếu. Nhiều sản phẩm chưa có tiêu chuẩn quy địn của Nhà nước và của các Bộ các ngành. Đặc biệt các tiêu chuẩn hóa phục vụ cho thương mại điện tử còn rất mới mẻ. Đây cũng là rào cản đối với thương mại điện tử và đối với việc đưa sản phẩm của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam vào thị trường quốc tế.
Bởi vậy các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần:
- Quán triệt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải được tiêu chuẩn hoá, phải được ưu tiên đặt lên hàng đầu trong tiến trình tham gia thương mại điện tử của doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp cần xây dựng và thực hiện hệ thống tiêu chuẩn hoá về cả phần cứng, phần mềm, cả hàng hoá và dịch vụ như các tiêu chuẩn về quy cách, phẩm chất, yêu cầu kỹ thuật, phương pháp thử, ghi nhãn hiệu bao gói, về yêu cầu vận chuyển, về quản trị chất lượng...
- Thực hành hệ thống quản lý chất lượng hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp như áp dụng tiêu chuẩn ISO 9000.
- Thực hiện tất cả sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp được đánh mã số, mã vạch. Chỉ đem những hàng hoá được đăng ký mẫu mã, chất lượng; có mã số mã vạch mới đưa vào thương mại điện tử .
Liên kết chặt chẽ với hệ thống ngân hàng
Doanh nghiệp có thể liên kết với các ngân hàng cùng xây dựng những chương trình thanh toán trong thương mại điện tử cho phù hợp với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp bởi trong thương mại điện tử ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng trong thanh toán. Dù dưới hình thức thanh toán truyền thống bằng L/C hay hình thức thanh toán trọn gói mới ATM hay thẻ thông minh (smart card)... thì mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp trong lĩnh vực này vẫn luôn luôn gắn kết. Vì vậy với hệ thống thanh toán chưa phát triển ở Việt nam hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không nhất thiết phải thực hiện các giao dịch tài chính thông qua các phương tiện điện tử mà vẫn có thể dùng các phương tiện truyền thống như ngân hàng.
2.2 Về phía Nhà nước và các cơ quan có chức năng
Phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam là một lĩnh vực mới mẻ và gặp rất nhiều khó khăn trên tất cả các yếu tố, các điều kiện. Thiếu thốn nhất gặp phải khi triển khai thương mại điện tử là thiếu một cơ sở hạ tầng cần thiết, thích hợp để phát triển thương mại điện tử. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ không thể và không quan tâm đến việc ứng dụng thương mại điện tử khi chưa có được cơ sở pháp lý rõ ràng, chưa có cơ chế quản lý về thương mại điện tử được thiết lập phù hợp với yêu cầu của Nhà nước. Bởi vậy muốn phát triển thương mại điện tử rộng rãi ở Việt Nam thì không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực từ phía các doanh nghiệp mà còn đòi hỏi sự giúp đỡ và hỗ trợ từ phía Nhà nước.
2.2.1 Tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thương mại điện tử.
a. Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật- thông tin cho thương mại điện tử
Một trong những rào cản ngăn trở sự phát triển của thương mại điện tử là cơ sở hạ tầng kỹ thuật thông tin để phát triển thương mại điện tử. Hiện nay cơ sở hạ tầng thông tin ở Việt Nam mới chỉ ở trong giai đoạn phát triển ban đầu và chưa đáp ứng được yêu cầu ứng dụng thương mại điện tử.
Về mạng viễn thông
Sự thành công của thương mại điện tử phụ thuộc nhiều vào mạng viễn thông hiện đại được số hoá ở mức độ cao bởi vì đây là cơ sở hạ tầng thiết yếu cho việc truyền dẫn các giao dịch điện tử. Các dịch vụ viễn thông phải mang tính phổ cập cao, không quá đắt, thuận lợi cho việc kết nối và vận hành qua lại với mạng thông tin trong khu vực và thế giới để công chúng có khả năng sử dụng chúng hàng ngày. Để đạt được yêu cầu trên đòi hỏi phải tiếp tục theo đuổi chính sách đi thẳng vào công nghệ hiện đại, đẩy mạnh việc số hoá và cáp quang hoá toàn bộ mạng viễn thông quốc gia Việt Nam cụ thể như mạng truyền dẫn và các hệ thống chuyển mạch. Mạng truyền thông quốc gia trong tương lai phải có mức độ thông minh, mềm dẻo và linh hoạt sao cho khách hàng có thể định ra và lập chương trình thực hiện các dịch vụ mà họ muốn. Cụ thể mạng truyền dẫn cần: (1) triển khai mạng vệ tinh VINASAT của Việt Nam; (2) tiếp tục xây dựng, phát triển và nâng cấp các tuyến cáp quang liên tỉnh từ Hà Nội đi các tỉnh phía Bắc, từ thành phố Hồ Chí Minh đi đến các tỉnh phía nam; (3) Nghiên cứu và áp dụng các công nghệ mới như công nghệ đường dây thuê bao số (ADSL) nhằm tăng tốc độ của đôi cáp thuê bao bảo đảm phục vụ các dịch vụ trực tuyến.
Về Internet
Internet đang được chấp nhận và sử dụng rộng rãi cho mục đích thực hiện thương mại điện tử, chính vì thế cần phải: (1) xây dựng một mạng đường trục quốc gia (IXP) băng rộng trên phạm vi toàn quốc đáp ứng nhu cầu kết nối truy cập của các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) và đảm bảo cho khách hàng trên phạm vi toàn quốc có thể sử dụng điện thoại nội hạt để truy cập Internet; (2) đầu tư cho một số hướng nghiên cứu và triển khai phục vụ trực tiếp các ứng dụng quan trọng của thương mại điện tử, xây dựng trung tâm nghiên cứu và thử nghiệm quốc gia về Internet; (3) nâng cấp các tuyến truyền dẫn đi Internet quốc tế và phát triển thêm các hướng kết nối Internet mới; (4) xây dựng mạng Internet quốc gia băng rộng tốc độ cao và truyền dẫn cáp quang.
b. Phát triển cơ sở hạ tầng nguồn nhân lực
Bên cạnh việc nâng cao nhận thức và kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan Nhà nước, các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư thì vai trò của giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực cho thương mại điện tử càng trở nên quan trọng.
Trước hết, việc tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các thông tin về thương mại điện tử, kỹ năng thương mại điện tử trên báo chí, truyền hình và trên các phương tiện thông tin đại chúng khác sẽ giúp cho mọi người thấy được xu thế phát triển thương mại điện tử trên thế giới và việc chấp nhận ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam là một tất yếu khách quan, và góp phần tạo một lực lượng đông đảo quần chúng cho thương mại điện tử .
Bên cạnh đó Chính phủ nên xây dựng ngay các chương trình phổ cập về thương mại điện tử trong các trường đại học và cao đẳng trong cả nước, đa dạng hoá các hình thức đào tạo về thương mại điện tử từ các chương trình đào tạo dài hạn của các cấp học cho đến lớp bồi dưỡng ngắn hạn cho các đối tượng xã hội.
Ngoài ra Chính phủ nên tiếp tục mở rộng hơn nữa các khoá học, các cuộc hội thảo, hội chợ... để đưa thương mại điện tử đến các cán bộ hoạt động thương mại, các doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Có thể nói nâng cao nhận thức về thương mại điện tử và đào tạo nguồn nhân lực là công tác cần được thực hiện liên tục và lâu dài, đòi hỏi sự tham gia tích cực không chỉ của Chính phủ mà còn của các doanh nghiệp, và của cộng đồng. Trong lĩnh vực thương mại nói chung và thương mại điện tử nói riêng, yếu tố con người đóng vai trò then chốt, là nhân tố quan trọng quyết định sự thành công, vì vậy giáo dục con người nâng cao nhận thức của họ về thương mại điện tử là quốc sách hàng đầu của mỗi quốc gia.
c. Tạo lập cơ sở hạ tầng pháp lý
Một trong những vấn đề cần được thực hiện khi đưa thương mại điện tử vào hoạt động đó là phải tạo ra được một sự công nhận về mặt pháp lý cho nó bởi đây là tất cả những cơ sở về mặt pháp lý đảm bảo cho hoạt động của thương mại điện tử được thực hiện một cách thông suốt và thống nhất.
Thiết lập khung pháp lý thống nhất cho thương mại điện tử: sẽ tạo điều kiện cho các giao dịch thương mại điện tử được tiến hành được thuận lợi hơn. Để có được một môi trường pháp lý cho thương mại điện tử chúng ta cần tham khảo, học hỏi kinh nghiệm của các nước đã có thương mại điện tử phát triển mạnh, ngoài ra các quy định về vấn đề này cần phải có sự hoà nhập, phù hợp với pháp luật quốc tế. Những văn bản pháp lý quan trọng nên được xem xét và tham khảo là Luật mẫu của Uncitral (Uỷ ban của Liên hợp quốc về Luật thương mại điện tử ), luật mẫu về thương mại điện tử 1996 (Model law on Electronic commerce)
Khi xây dựng khung pháp lý cho thương mại điện tử cần phải xem xét đến các nguyên tắc cơ bản sau: (1) Tận dụng những lợi ích của thương mại điện tử bằng một môi trường pháp lý linh hoạt và rõ ràng, tránh cứng nhắc và phiền hà về thủ tục; (2) Cân bằng giữa lợi ích của Nhà nước và lợi ích phát triển của thương mại điện tử; và (3) Bảo vệ lợi ích, tạo niềm tin và sự an toàn cho người tiêu dùng thực hiện giao dịch trên mạng.
Căn cứ vào yêu cầu và khả năng trước mắt chúng ta cần xây dựng các văn bản pháp luật về thương mại điện tử bao gồm: pháp lệnh về thương mại điện tử, trước mắt có thể xây dựng Nghị định về thương mại điện tử. Đây là đạo luật chung bao gồm những vấn đề cốt lõi nhất của thương mại điện tử ; các văn bản quy phạm pháp luật về mật mã, về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng...
Bên cạnh đó chính phủ cũng nên đẩy mạnh việc tiêu chuẩn hoá trong công nghiệp, thương mại và các yếu tố của thương mại điện tử sao cho vừa phải phù hợp với các tiêu chuẩn của quốc gia vừa phải phù hợp với tiêu chuẩn hiện đại của quốc tế. Vấn đề cần làm trước mắt là các cơ quan chính phủ, các bộ , các ngành và các doanh nghiệp cần phối hợp với nhau để bàn bạc, thống nhất để đưa ra các tiêu chuẩn chung về vấn đề an toàn cho các giao dịch trực tuyến và thanh toán điện tử. Ngoài ra, Bộ Thương mại cũng nên sớm đưa ra các tiêu chuẩn về chứng thực quốc gia và mã hoá hàng hoá, sản phẩm để sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể cạnh tranh được với các sản phẩm của nước ngoài.
d. Phát triển hệ thống dịch vụ thương mại điện tử
Thương mại điện tử chỉ thực sự phát huy được khả năng của mình khi có một hệ thống thanh toán điện tử hay ít nhất thì cũng có hệ thống thanh toán tài chính tự động. Bởi vậy việc thiết lập một hệ thống thanh toán an toàn với các phương thức thanh toán điện tử là điều vô cùng cần thiết.
Trước mắt, chính phủ nên nghĩ đến việc phát triển phương thức thanh toán bằng thẻ thanh toán điện tử. Mặc dù phải đương đầu với không ít khó khăn về thu nhập, thói quen thanh toán dùng tiền mặt, sự tự giác của người dân và môi trường thanh toán của ngân hàng, nhưng với thời gian và nỗ lực chắc chắn sẽ thành công. Các biện pháp để phát triển phương thức thanh toán điện tử là:
- Tăng cường chính sách tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng để giúp người dân dần làm quen với phương thức này. Xúc tiến chương trình tìm hiểu về thẻ thanh toán quốc tế dưới nhiều hình thức thích hợp. Có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngân hàng và ngành giáo dục nhằm tạo cho mỗi người dân ý thức được trách nhiệm bảo vệ các thiết bị thanh toán tự động.
- Khuyến khích các doanh nghiệp đưa việc sử dụng thẻ đến các nhân viên; có sự đầu tư hỗ trợ cho các ngân hàng phát hành thẻ thanh toán.
- Mở rộng đối tượng dùng thẻ; không chỉ hạn chế với người nước ngoài mà còn áp dụng với các điểm bán lẻ, các siêu thị.
Tuy nhiên phương tiện thanh toán phi tiền mặt đòi hỏi phải được giải quyết một số vấn đề như cơ sở pháp lý về chứng từ điện tử và phương tiện hạch toán điện tử cho việc thực hiện các kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng. Bên cạnh đó các ngân hàng cũng cần chú trọng đến các vấn đề về bảo mật và đào tạo đội ngũ nhân viên có đủ chuyên môn nghiệp vụ trong lĩnh vực thanh toán điện tử .
Hiện nay vấn đề bảo mật và an toàn mạng đang là một trở ngại lớn khiến nhiều người còn e dè lo ngại khi tham gia thương mại điện tử . Một khi người sử dụng Internet không tin tưởng rằng các dữ liệu và thông tin của họ là an toàn với các truy cập và sửa đổi dữ liêụ trái phép thì họ sẽ không sử dụng phương tiện Internet như là phương tiện phục vụ thương mại nữa. Yêu cầu về hệ thống bảo mật với cơ sở hạ tầng thông tin toàn cầu gồm:
- Các mạng viễn thông phải đảm bảo an toàn và tin cậy.
- Phải có phương tiện hữu hiệu để bảo vệ các hệ thống thông tin nối với hệ thống viễn thông hiện có.
- Cần có những biện pháp hiệu quả để xác nhận và đảm bảo tính bảo mật của dữ liệu điện tử để tránh được những truy cập trái phép.
- Đào tạo nâng cao trình độ cho những người sử dụng cơ sở hạ tầng thông tin toàn cầu để họ hiểu và sử dụng những biện pháp bảo mật đối với hệ thống dữ liệu của họ.
Để đảm bảo được mục tiêu đó thì cần phải có một tập hợp các công nghệ mã hoá, điều khiển bảo mật, các dịch vụ xác nhận, chứng thực, hệ thống an toàn thông tin... Do vậy việc làm cần thiết hiện nay là phải có các chiến lược về mã hoá, phải có các cơ quan giám sát để bảo vệ an toàn thông tin cho các cơ quan, tổ chức, các doanh nghiệp và cá nhân.
2.2.2 Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ
a. Các chính sách hỗ trợ và đầu tư
Việc tạo lập một môi trường thuận lợi cho thương mại điện tử cũng là tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có một nền tảng cơ bản để ứng dụng thương mại điện tử . Tuy nhiên các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn kém lợi thế hơn các khu vực khác nên chính phủ cũng cần có những chính sách cụ thể đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ để hỗ trợ hơn nữa cho khu vực này.
Thực tế cho thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát triển thương mại điện tử như; chi phí cho nâng cấp cơ sở hạ tầng và chi phí truy cập mạng khá cao; nhân viên thiếu kiến thức và kỹ năng kỹ thuật, hạn chế về ngoại ngữ; thanh toán điện tử không đảm bảo bí mật và an toàn. Để giúp các doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn trên, chính phủ nên có những biện pháp cụ thể để hỗ trợ cho họ. Chẳng hạn như: (1) đối với vấn đề chi phí truy cập mạng, chính phủ có thể tạo điều kiện cho việc truy cập Internet thấp hơn thông qua tự do hoá viễn thông, giảm giá dịch vụ. Ngoài ra chính phủ có thể hỗ trợ về giá cước cho các doanh nghiệp trong một khung giá riêng; (2) nhân viên của doanh nghiệp thiếu kiến thức, kỹ năng kỹ thuật, hạn chế về ngoại ngữ, chính phủ nên tổ chức nhiều hơn nữa các khoá học dể các doanh nghiệp có thể tham gia với chi phí đào tạo thấp, khuyến khích các chương trình đào tạo quốc tế; (3) về nhận thức của doanh nghiệp đối với thương mại điện tử còn hạn chế, chính phủ cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến về cơ hội và thách thức của thương mại điện tử trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng, cung cấp thêm phí đào tạo cho các doanh nghiệp, tổ chức thêm nhiều các cuộc hội thảo hơn nữa về thương mại điện tử dành cho các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, chính phủ có thể phối hợp với các tổ chức khác như tổ chức phi chính phủ, cộng đồng các doanh nghiệp để cùng thảo luận, đề ra các chính sách, giải pháp cho việc thực hiện thương mại điện tử ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ, như thế các giải pháp, chính sách sẽ cụ thể hơn, quy mô hơn và đầy đủ hơn.
b . Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động xúc tiến thương mại điện tử
Chính phủ ta đang có kế hoạch xây dựng chính phủ điện tử e- government để đáp ứng nhu cầu phát triển thương mại điện tử , đây là điều nên làm vì nó đem lại những lợi ích rất thiết thực như: thuế thấp, phát triển được hình thức kinh doanh rõ ràng hơn với sự hỗ trợ của chính phủ, độ tin cậy cao, phát triển sự hợp tác và cố vấn giữa chính phủ và doanh nghiệp. E- government tạo điều kiện thuận lợi rất nhiều cho các doanh nghiệp tham gia thương mại điện tử . Các đối tác kinh doanh có thể tìm thấy những lời đề nghị đặt hàng và chào hàng trên các websites của chính phủ. Các nhà cung cấp cũng có thể đưa ra danh mục hàng kèm theo bảng giá, phương thức thanh toán, gửi Catalogue và giá cả hợp đồng của họ đến với khách hàng có nhu cầu. Đối với khách hàng uy tín của doanh nghiệp rất được họ quan tâm. Chính danh tiếng cũng như uy tín của Nhà nước sẽ tạo cho những khách hàng cảm giác yên tâm khi làm ăn với các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ được đăng tải trên trang web của Nhà nước.
Các chương trình thử nghiệm cấp quốc gia, cấp ngành về thương mại điện tử cũng nên được phát huy để tạo điều kiện ứng dụng thương mại điện tử trên một quy mô rộng hơn. Giữa năm 1999, Chính phủ giao cho Bộ thương mại chủ trì Dự án quốc gia “Kỹ thuật thương mại điện tử “. Dự án này được phân thành nhiều tiểu dự án trong số các dự án đó, dự án Thử nghiệm các dạng hoạt động của thương mại điện tử do Hội tin học Việt Nam xúc tiến với số vốn 150 triệu đồng. Tiểu dự án này sẽ cho phép trên 40 doanh nghiệp về thương mại, dịch vụ thử nghiệm áp dụng thương mại điện tử. Những doanh nghiệp này sẽ được hỗ trợ miễn phí xây dựng Website, quảng cáo trên Internet miễn phí trong vòng 46 tháng. Sau khi chương trình thử nghiệm này kết thúc, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có được các kết luận về khả năng ứng dụng thương mại điện tử và tìm ra được các mô hình thích hợp cho việc ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam.
Qua việc triển khai thành công chương trình này, Chính phủ, các Bộ, các Ngành có liên quan có thể phát động các chương trình thử nghiệm khác cho các ngành khác nhau, với quy mô khác nhau, trên các thị trường khác nhau để thúc đẩy nhanh việc ứng dụng thương mại điện tử. Hơn thế nữa cũng cần có các chương trình thử nghiệm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn chưa hiểu rõ lắm về thương mại điện tử để họ có thể trực tiếp tham gia thực hành việc ứng dụng phương thức kinh doanh đầy mới mẻ này. Một khi các chương trình thử nghiệm được tiến hành thành công, các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ vững tin hơn và từ kinh nghiệm rút ra từ chương trình thử nghiệm đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ tìm ra cho mình một hướng đi đúng đắn nhất để có thể triển khai thương mại điện tử cho doanh nghiệp mình.
Nói tóm lại, để các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam có thể áp dụng rộng rãi thương mại điện tử thì đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực từ rất nhiều phía. Đối với các doanh nghiệp, điều trước mắt họ cần làm là chủ động tham gia vào thương mại điện tử lập kế hoạch đào tạo đội ngũ nhân viên có trình độ, năng lực, xây dựng và phát triển các điều kiện cần thiết về mọi mặt cho việc triển khai thương mại điện tử .
Tuy nhiên chỉ có sự cố gắng của riêng các doanh nghiệp thôi thì chưa đủ, các doanh nghiệp cũng cần có sự quan tâm từ phía chính phủ và các tổ chức khác để có thể xây dựng một môi trường thuận lợi cho thương mại điện tử và các chính sách hữu ích cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ .
Kết luận
Hiện nay cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, hoạt động thương mại điện tử cũng phát triển với tốc độ nhanh chóng. Tại các nước phát triển thương mại điện tử được coi là sự lựa chọn không thể thay thế trong chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, là phương thức kinh doanh hiệu quả mà các doanh nghiệp sử dụng trong nền kinh tế vốn cạnh tranh rất gay gắt.
Tại Việt Nam, các cơ sở ban đầu cho thương mại điện tử đã được hình thành nhưng mới đang ở trong giai đoạn thử nghiệm và nhận thức. Tuy nhiên không vì thế mà các doanh nghiệp kể cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam lại nằm ngoài xu thế chung này của thế giới. Trong thương mại điện tử, các doanh nghiệp là người trực tiếp kinh doanh nên đóng vai trò tiên phong còn Nhà nước chỉ mang tính hỗ trợ. Do đó chủ động tham gia thương mại điện tử, tự mình nâng cao nhận thức, lập kế hoạch đào tạo đội ngũ nhân viên có trình độ, hoàn thiện hơn nữa cơ sở hạ tầng công nghệ, tìm được cho mình một mô hình kinh doanh hợp lý chính là chìa khoá dẫn đến thành công cho các doanh nghiệp khi tham gia thương mại điện tử.
Trong khuôn khổ một khoá luận tốt nghiệp, khoá luận đã phân tích và khái quát những vấn đề cơ bản về thương mại điện tử như: nội dung, lợi ích, các yêu cầu đòi hỏi của quá trình thực hiện và phát triển thương mại điện tử ở các doanh nghiệp. Thông qua đó làm rõ phát triển thương mại điện tử là một tất yếu khách quan đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Dựa vào cơ sở lý luận và phương pháp luận ở trên, khoá luận đã đi sâu vào tìm hiểu, phân tích và đánh giá tổng quan về tình hình phát triển thương mại điện tử của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, về những khó khăn, thách thức mà các doanh nghiệp gặp phải để từ đó đưa ra một số giải pháp và đề xuất phát triển thương mại điện tử trên cả tầm vi mô và vĩ mô. Bên cạnh việc đưa ra một loạt các giải pháp về phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khoá luận cũng đã mạnh dạn đưa ra những kiến nghị về phía chính phủ và các tổ chức để hoàn thiện hơn nữa một môi trường thuận lợi cho thương mại điện tử và các chính sách thiết thực dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tuy nhiên do còn thiếu những kiến thức về lĩnh vực công nghệ thông tin nên khoá luận chưa đưa ra được các biện pháp cụ thể hơn trong việc xây dựng hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin tiên tiến nhằm phát triển hoạt động thương mại điện tử ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Bên cạnh đó khoá luận cũng còn có những tồn tại về kiến thức và phương pháp thực hiện. Rất mong nhận được thêm sự đóng góp của thầy cô và các bạn để khoá luận có thể hoàn thiện hơn.
Hy vọng rằng với những cố gắng và nỗ lực của bản thân cùng với sự quan tâm giúp đỡ của Chính phủ và các tổ chức các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ khắc phục được những khó khăn, tận dụng được những lợi thế của mình để thực hiện và phát triển hiệu quả thương mại điện tử .
._.