Trang 1
MỞ ĐẦU
1. Tầm quan trọng của nghiên cứu :
Có 3 lý do chính chọn nghiên cứu đề tài : “ Thương hiệu Sacombank
trong nền kinh tế hội nhập. Thực trạng và giải pháp”.
Thứ nhất, lĩnh vực tài chính - ngân hàng là một trong những lĩnh vực
sôi động nhất sau khi Việt Nam chính thức là thành viên WTO. Ngành ngân
hàng được đánh giá là một định chế tài chính cực kỳ quan trọng, đóng vai trò
khẳng định mức độ văn minh của hoạt động kinh tế và chất lượng cuộc sống
cộng đồng. Hơn bất kỳ ng
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1359 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Thương hiệu Sacombank trong nền kinh tế hội nhập. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành nghề nào khác, uy tín chính là yếu tố sống còn
của ngân hàng do đó ngân hàng là lĩnh vực cần phải đầu tư xây dựng thương
hiệu mạnh mẽ. Muốn vậy, ngân hàng rất cần tạo dựng cho mình một thương
hiệu mạnh, tin cậy. Những thuận lợi của lĩnh vực ngân hàng sẽ còn được duy
trì trong bao lâu khi thị trường sắp đến sẽ có mặt những tên tuổi lớn như
ANZ, Citi bank, Maybank, HSBC, v.v sẽ cạnh tranh cùng chung một luật chơi
WTO tại Việt Nam?
Thứ hai, Ngân hàng là dòng máu của nền kinh tế. Nếu hoạt động ngân
hàng sung mãn thì sẽ phân bổ vốn hiệu quả cho phát triển đầu tư, kinh doanh,
dịch vụ, phát triển kinh tế có chất lượng và bền vững...Nếu ngành ngân hàng
bộc lộ mất khả năng thanh khoản sẽ ảnh hưởng chung đến toàn hệ thống và
làm giảm nhịp điệu tăng trưởng của nền kinh tế. Vì thế, chính phủ Việt Nam
luôn mong muốn có được một hệ thống ngân hàng mạnh, hàng đầu và có quy
mô hoạt động không bó hẹp trong ranh giới quốc gia mà phải mở rộng phạm
vi trên toàn thế giới. Để góp phần nâng cao hình ảnh thương hiệu quốc gia,
các ngân hàng Việt Nam phải nghĩ đến chuyện trở thành ngân hàng có thương
hiệu mạnh toàn cầu.
Thứ ba, thương hiệu không chỉ là một cái tên, một biểu tượng, một hình
vẽ hoặc tổng hợp của tất cả các yếu tố kể trên, mà nó đóng vai trò rất quan
Trang 2
trọng việc tạo nên tính cạnh tranh cho các ngân hàng trong xu thế hội nhập.
Từ ba lý do chính trên, đề tài nghiên cứu đưa ra những vấn đề liên quan
đến thương hiệu ngân hàng mà đối tượng nghiên cứu cụ thể ở đây là thương
hiệu Sacombank nhằm giúp cho các ngân hàng TMCP Việt Nam nói chung và
Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín ( Sacombank) nói riêng có cái nhìn tổng thể,
khách quan về thực trạng thương hiệu của mình trên thị trường. Đồng thời, đề
tài cũng đưa ra một số giải pháp nhằm giúp Sacombank hoàn thiện hơn trong
công cuộc xây dựng và phát triển thương hiệu một cách toàn diện và hiệu quả.
2. Mục tiêu nghiên cứu : Mục tiêu của luận văn là nhằm đưa ra yếu tố cơ
bản, quan trọng để tạo thương hiệu ngân hàng mạnh, thực trạng thương hiệu
Sacombank trong giai đoạn hiện nay, từ đó tìm ra giải pháp nhằm xây dựng
thương hiệu Sacombank ngày càng phát triển cả về lượng lẫn với chất trong
thị trường trong nước, dần vươn tầm ra khu vực và thế giới.
3. Giới hạn nghiên cứu : Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thương hiệu
ngân hàng và thương hiệu Sacombank được đặt trong bối cảnh nền kinh tế thị
trường hội nhập của Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu : Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận
chung về thương hiệu và thương hiệu ngân hàng. Đồng thời, luận văn đã sử
dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp điều
tra, thống kê, phương pháp phân tích, so sánh kết hợp lý luận khoa học với
thực tiễn nhằm đánh giá thực trạng thương hiệu Sacombank, những nhân tố
tác động đến thương hiệu để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm xây dựng và
phát triển thương hiệu Sacombank có thể vươn tầm ra khu vực và thế giới.
5. Kết cấu luận văn:
Luận văn gồm 3 chương được trình bày như sau:
– Mở đầu.
– Chương 1 : Lý luận chung về thương hiệu và thương hiệu ngân hàng
Trang 3
– Chương 2 : Thực trạng xây dựng thương hiệu tại Ngân hàng TMCP Sài
Gòn Thương Tín ( Sacombank)
– Chương 3 : Giải pháp nhằm xây dựng thương hiệu Sacombank thành
thương hiệu mạnh ở Việt Nam và trên thế giới
– Kết luận
Trang 4
CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ THƯƠNG HIỆU
VÀ THƯƠNG HIỆU NGÂN HÀNG
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THƯƠNG HIỆU
1.1.1. Khái niệm thương hiệu
Bất kỳ doanh nghiệp nào khi ra đời dù lớn hay nhỏ đều phải có tên gọi
hay xa hơn nữa là có biểu tượng, biểu ngữ, đó chính là thương hiệu của doanh
nghiệp. Đồng thời, khi đi vào hoạt động doanh nghiệp phải đặt tên cho những
sản phẩm, dịch vụ của mình, đó là nhãn hiệu hàng hoá.
Một doanh nghiệp trong quá trình hoạt động và phát triển có thể tạo ra
được một hoặc nhiều nhãn hiệu có thương hiệu trên thị trường. Do đó, chúng
ta cần phân biệt rõ giữa khái niệm thương hiệu và khái niệm nhãn hiệu.
Theo hiệp hội Marketing Hoa Kỳ : “ Nhãn hiệu chính là một cái tên, từ
ngữ, ký hiệu, biểu tượng hoặc hình vẽ kiểu thiết kế,..., hoặc tập hợp của các
yếu tố trên nhằm xác định và phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một người
bán hoặc nhóm người bán với hàng hóa và dịch vụ của các đối thủ cạnh
tranh”.
Khái niệm thương hiệu có nghĩa rộng hơn nhãn hiệu và nó chính là nội
dung bên trong của nhãn hiệu hay nói cách khác nhãn hiệu là hình thức, là sự
biểu hiện bên ngoài của thương hiệu. Ngoài ra, thương hiệu còn có nhiệm vụ,
tầm nhìn chiến lược để nâng cao giá trị của doanh nghiệp thông qua việc nâng
cao giá trị thương hiệu. Một nhãn hiệu hàng hóa có thể dùng để thể hiện một
thương hiệu nào đó, nhưng thương hiệu không phải chỉ được thể hiện bằng
nhãn hiệu hàng hóa. Thương hiệu được hiểu là một dạng tài sản phi vật chất.
Do đó, việc đầu tiên trong quá trình tạo dựng thương hiệu là lựa chọn và thiết
kế cho sản phẩm hoặc dịch vụ một tên gọi, logo, biểu tượng, màu sắc, kiểu
dáng thiết kế, bao bì và các yếu tố phân biệt khác trên sản phẩm; thị hiếu và
hành vi tiêu dùng của khách hàng mục tiêu và các yếu tố khác như pháp luật,
Trang 5
văn hóa, tín ngưỡng... Chúng ta có thể gọi các thành phần khác nhau đó của
một thương hiệu là các yếu tố của thương hiệu.
Theo định nghĩa của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO): “ Thương
hiệu là một dấu hiệu ( hữu hình và vô hình) đặc biệt để nhận biết một sản
phẩm hàng hoá hay một dịch vụ nào đó được sản xuất hay được cung cấp bởi
một cá nhân hay một tổ chức”.
Đối với pháp luật Việt Nam không có khái niệm thương hiệu mà chỉ có
khái niệm nhãn hiệu. Tại Điều 4 - Khoản 16 - Luật Sở hữu Trí tuệ 2005 định
nghĩa : “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ
chức, cá nhân khác nhau”.
1.1.2. Các thành phần của thương hiệu
Một thương hiệu có thể được cấu tạo bởi hai phần :
1.1.2.1. Phần phát âm được: là những yếu tố có thể đọc được,
tác động vào thính giác của người nghe như tên doanh nghiệp, tên sản phẩm,
câu khẩu hiệu, đoạn nhạc hát đặc trưng và các yếu tố phát âm được khác.
1.1.2.2. Phần không phát âm được: là những yếu tố không đọc
được mà chỉ có thể cảm nhận được bằng thị giác như hình vẽ, biểu tượng,
màu sắc, kiểu dáng thiết kế và các yếu tố nhận biết khác.
Các yếu tố thương hiệu của một sản phẩm hoặc dịch vụ có thể được
pháp luật bảo hộ dưới dạng là các đối tượng của sở hữu trí tuệ như: nhãn hiệu
hàng hóa, tên thương mại, tên gọi xuất xứ hàng hóa, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng
công nghiệp và bản quyền.
1.1.3. Giá trị thương hiệu
Trên quan điểm khách hàng, thương hiệu xuất phát từ sự thừa nhận của
khách hàng về một sản phẩm, dịch vụ. Khi muốn ăn nhanh, chúng ta nghĩ
ngay đến thức ăn nhanh Kentucky. Khi nói đến ngân hàng, chúng ta nghĩ
ngay đến HSBC. Những thương hiệu khi tạo dựng được những giá trị như
trên đó chính là giá trị thương hiệu. Quả thật, giá trị vô hình này rất xứng
Trang 6
đáng để được tính thành tiền làm tăng thêm giá trị tài sản của doanh nghiệp.
Không phải ngẫu nhiên khi mà một nhà sáng lập thương hiệu nổi tiếng đã nói:
" Nếu ai đó lấy hết tài sản, máy móc, thiết bị, mạng lưới phân phối, v.v nghĩa
là lấy đi tất cả những phần hữu hình và chỉ chừa lại duy nhất cái tên. Thì ông
ta tin rằng sẽ có thể gầy dựng lại triều đại trong một thời gian ngắn".
Sự phát triển mạnh mẽ của thương hiệu vào những thập niên cuối của
thế kỷ XX, trong bất kỳ cuộc giao dịch về mua bán, sáp nhập công ty ở Mỹ và
các nước phương Tây thì ngoài phần giá trị tài sản hiện hữu có thể nhìn thấy
(tangible asset) và tính toán được giá trị như nhà xưởng, máy móc, thiết bị,
nguyên vật liệu, hàng tồn kho,... các bên còn đồng ý thanh toán cho nhau
phần giá trị không hiện diện trong tài sản có thể nhìn thấy được của doanh
nghiệp, tài sản vô hình ( intangible asset). Một phần trong giá trị cộng thêm
đó, chính là giá trị của thương hiệu.
Giá trị thương hiệu gồm có bốn yếu tố cấu thành:
− Sự trung thành của khách hàng đối với thương hiệu ( brand loyalty).
− Việc khách hàng nhận ra thương hiệu một cách mau chóng ( brand
awareness)
− Chất lượng sản phẩm hay dịch vụ cung cấp trong nhận thức của khách
hàng ( perceived quality)
− Những liên tưởng của khách hàng khi nghe hoặc nhìn thấy thương hiệu
(brand association).
Như vậy, Giá trị thương hiệu không phải là giá trị tiền mặt của thương hiệu.
1.1.4. Các phương pháp định giá thương hiệu
1.1.4.1. Mục đích của việc định giá thương hiệu
Ngày nay, khi mà khoảng cách giữa giá trị thị trường và giá trị số sách
của doanh nghiệp ngày càng lớn thì sự quan tâm đến giá trị của tài sản vô
hình là thương hiệu ngày càng gia tăng. Việc định giá thương hiệu không chỉ
nhằm phục vụ cho các mục đích như bán, mua, sáp nhập hoặc hợp tác chiến
Trang 7
lược, mà còn phục vụ cho các mục đích trong nội bộ doanh nghiệp.
1.1.4.2. Các phương pháp định giá thương hiệu
Ngày nay, có thể nói rằng phần lớn giá trị doanh nghiệp là nằm ở tài
sản vô hình hay còn gọi là tài sản thương hiệu. Mối quan tâm của các cấp
quản lý đối với loại tài sản này đã gia tăng một cách đáng kể. Do đó, trong
lịch sử đã có nhiều công trình nghiên cứu ước lượng mức độ đóng góp của
thương hiệu vào giá trị doanh nghiệp. Một nghiên cứu của Interbrand ( Công
ty tư vấn thương hiệu nổi tiếng của Mỹ) kết hợp với J.P Morgan ( John
Pierpont Morgan) đã kết luận rằng thương hiệu đóng góp vào khoảng 1/3 giá
trị cho cổ đông. Công trình nghiên cứu cũng tiết lộ rằng thương hiệu tạo ra
một giá trị đáng kể cho người tiêu dùng, doanh nghiệp hoặc cả hai.
Định giá thương hiệu là một nghệ thuật, chứ không phải là một khoa
học chính xác. Có rất nhiều phương pháp được sử dụng để đánh giá giá trị của
thương hiệu và mỗi phương pháp cho một đáp số khác nhau nhưng phổ biến
vẫn là phương pháp ước lượng tài sản thương hiệu thông qua nghiên cứu hành
vi tiêu dùng hoặc sử dụng các chỉ số tài chính. Tuy nhiên, nếu chỉ sử dụng
một trong hai cách trên, việc đánh giá giá trị của thương hiệu không thể trọn
vẹn và chính xác vì thiếu một trong hai yếu tố hoặc là của tài chính, hoặc là
của marketing. Điều đó buộc người ta phải nghĩ ra một cách có thể kết hợp cả
hai ưu điểm trên, gọi là phương pháp kinh tế. Vì vậy, ta có thể nói hiện nay có
3 nhóm phương pháp định giá thương hiệu chính như sau :
• Những phương pháp dựa vào nghiên cứu tiêu dùng
Hiện nay có nhiều mô hình dùng nghiên cứu tiêu dùng để định giá tài
sản thương hiệu. Những mô hình này không áp giá trị tài chính lên thương
hiệu, mà đo lường những hành vi và thái độ của người tiêu dùng có tác động
đến hiệu quả kinh tế của thương hiệu. Những mô hình này sử dụng nhiều số
đo khác nhau về cảm nhận của người tiêu dùng như mức độ nhận biết, hiểu
rõ, quen thuộc về sản phẩm, những đặc điểm hình ảnh cụ thể, những yếu tố
Trang 8
cân nhắc khi mua sắm, sở thích, mức độ thỏa mãn và giới thiệu với người
khác.
Bằng phân tích thống kê, các mô hình này đánh giá tác động tổng hợp
đối với hành vi mua sắm của người tiêu dùng, từ đó ước tính giá trị tài chính
của thương hiệu. Tuy nhiên, những phương pháp này không phân biệt tác
động của những yếu tố quan trọng như nghiên cứu và phát triển, và thiết kế
đối với thương hiệu. Do đó, chúng không thể hiện được mối liên hệ giữa
những chỉ số marketing cụ thể với hiệu quả tài chính của thương hiệu.
Một thương hiệu có thể đạt kết quả rất cao với những chỉ số này nhưng
vẫn không tạo được giá trị tài chính. Hiểu được những yếu tố đó sẽ rất có ích
cho việc đánh giá những hành vi mua sắm quyết định thành bại của một
thương hiệu. Nhưng nếu không được tích hợp vào một mô hình kinh tế, chúng
sẽ chưa đủ để đánh giá giá trị kinh tế của thương hiệu.
• Phương pháp thuần túy tài chính
− Phương pháp dựa vào chi phí : Phương pháp này định nghĩa giá trị thương
hiệu là tổng hợp của tất cả những chi phí đã gánh chịu trong quá khứ, hay
chi phí thay thế cần có để đưa thương hiệu đến trạng thái hiện tại; tức là
tổng của những chi phí phát triển, tiếp thị, quảng cáo, truyền thông...
Nhưng phương pháp này thất bại vì tiền của đổ ra đầu tư cho thương hiệu
chưa chắc tạo ra giá trị gia tăng từ thương hiệu.
− Phương pháp so sánh : Một phương pháp khác để định giá thương hiệu là
dựa vào những yếu tố có thể so sánh được. Nhưng phương pháp này không
thực tế lắm vì theo định nghĩa, mỗi thương hiệu phải có sự khác biệt với
các thương hiệu khác, nên khó mà so sánh được.
− Phương pháp dùng giá chênh lệch : Theo phương pháp này, giá trị thương
hiệu được tính là giá trị ròng hiện tại của các mức chênh lệch giá trong
tương lai giữa một sản phẩm có thương hiệu và một sản phẩm chung
chung hoặc không có thương hiệu. Tuy nhiên, mục đích chính của nhiều
Trang 9
thương hiệu không nhất thiết phải là bán được giá cao hơn, mà là bảo đảm
thu hút được mức cầu cao nhất trong tương lai.
• Phương pháp định giá kinh tế
Hầu hết những phương pháp nêu trên thiếu thành tố tài chính hoặc tiếp
thị để có thể đánh giá trọn vẹn và xác đáng giá trị kinh tế của thương hiệu.
Phương pháp dựa vào lợi ích kinh tế ( được đưa ra vào năm 1988) kết hợp các
số đo tài sản thương hiệu hoặc những chỉ số tài chính, và đã trở thành phương
pháp định giá thương hiệu được công nhận rộng rãi nhất; nó đã được dùng
trong hơn 3.500 trường hợp định giá thương hiệu trên thế giới.
Phương pháp này dựa vào những nguyên tắc căn bản của marketing
(hiệu quả của thương hiệu và hiệu quả của doanh nghiệp có tương quan với
nhau) và tài chính ( tính giá trị ròng hiện tại của những lợi ích tương lai của
thương hiệu) :
− Ở khía cạnh marketing, thương hiệu giúp khơi dậy nhu cầu cần mua ở
người tiêu dùng và thu hút được lòng trung thành của người tiêu dùng
trong dài hạn. Đồng thời, nhu cầu của người tiêu dùng thể hiện qua doanh
thu dựa trên số lượng mua, giá cả và mức độ thường xuyên. Do đó, người
ta có thể ước tính được lợi nhuận ròng mà thương hiệu đó tạo ra trong hoạt
động kinh doanh, rồi trừ đi chi phí sở hữu những tài sản hữu hình, để tính
giá trị kinh tế gia tăng nhờ những yếu tố vô hình.
− Ở khía cạnh tài chính, giá trị thương hiệu chính là giá trị qui về hiện tại
của thu nhập mong đợi trong tương lai có được nhờ thương hiệu. Vì vậy,
bước tiếp theo là loại bỏ những khoản lợi nhuận mà thương hiệu đạt được
nhờ những yếu tố vô hình khác như vị trí địa lý, giao thông thuận tiện, các
ưu đãi thuộc về chính sách chính trị...Sau khi sàng lọc những biến số đó,
cuối cùng là chúng ta phân tích sức mạnh của thương hiệu đó để ước tính
mức độ rủi ro của những lợi nhuận tương lai của thương hiệu. Để tính sức
mạnh của thương hiệu, Interbrand xem xét bảy yếu tố, trong đó có khả
Trang 10
năng dẫn đầu thị trường, tính ổn định và khả năng vượt qua các biên giới
địa lý và văn hóa. Phần phân tích rủi ro này sẽ cho ra tỷ lệ chiết khấu thích
hợp để tính giá trị hiện tại ròng của các lợi nhuận tương lai của thương
hiệu.
Phương pháp này giúp tính ra giá trị của thương hiệu không chỉ phù
hợp với các nguyên lí tài chính hiện nay mà còn có thể dùng nó để so sánh với
tất cả tài sản khác của doanh nghiệp. Vì vậy giờ đây nó được đề cập và chấp
nhận rộng rãi nhất. Thương hiệu được định giá bằng cách xác định thu nhập
trong tương lai có thể kiếm được nhờ thương hiệu, sau đó qui số tiền này về
giá trị hiện tại bằng cách sử dụng lãi suất chiết khấu ( lãi suất chiết khấu phản
ánh mức độ rủi ro của số tiền lãi trong tương lai).
1.1.5. Như thế nào là thương hiệu mạnh
1.1.5.1. Các tiêu chí để đánh giá thương hiệu mạnh
• Theo Interbrand model - phương pháp định giá thương hiệu của Công ty
tư vấn thương hiệu Interbrand thì thế mạnh của thương hiệu được đo lường
tổng thể dựa trên 7 yếu tố sau :
− Leadership: khả năng thương hiệu chi phối thị trường.
− Stability: tính ổn định của thương hiệu
− Market: sự hấp dẫn và khả năng mở rộng của thị trường.
− Geographic: tính hấp dẫn và sự duy trì thương hiệu khi tập trung vào các
qui mô thị trường khác nhau như địa phương, cả nước, quốc tế.
− Trend: khả năng thương hiệu duy trì tính cập nhật, tính tương thích đối với
khách hàng.
− Support: các nỗ lực ( lượng, chất) để củng cố thương hiệu.
− Protection: sự bảo vệ có được do luật pháp, bằng sáng chế, nhãn hiệu
thưong mại, luật bản quyền....
Trang 11
• Theo Thương hiệu mạnh Việt Nam ( giải thưởng thường niên do Thời
báo Kinh tế Việt Nam phối hợp cùng Cục Xúc tiến thương mại thuộc Bộ
Thương mại tổ chức) thì 7 tiêu chí đánh giá thương hiệu mạnh gồm có :
− Bảo vệ thương hiệu
− Chất lượng sản phẩm - dịch vụ
− Kết quả hoạt động kinh doanh
− Năng lực lãnh đạo của Ban điều hành
− Nguồn nhân lực
− Năng lực đổi mới
− Tính bền vững, ổn định của doanh nghiệp
1.1.5.2. Lợi ích của thương hiệu mạnh
• Một thương hiệu mạnh có thể làm tăng dòng tiền : Khách hàng biết giá
trị của thương hiệu và sẵn sàng trả tiền cho nó. Một thương hiệu mạnh có
thể làm tăng dòng tiền của doanh nghiệp bằng cách chiếm lĩnh thị phần.
Đồng thời, nó cũng làm cho sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp được bán
với giá cao hơn mức giá thông thường mà khách hàng sẵn sàng chấp nhận.
• Một thương hiệu mạnh có thể đẩy nhanh tốc độ quay vòng của dòng
tiền : Những doanh nghiệp có thương hiệu mạnh có thể tung ra những sản
phẩm, dịch vụ mới nhanh hơn những doanh nghiệp có thương hiệu yếu, do
mức độ tín nhiệm hiện có của thương hiệu khiến cho khách hàng dễ chấp
nhận. Thậm chí có bằng chứng cho thấy một thương hiệu mạnh có thể kích
thích sự đổi mới, đóng vai trò như một “ đầu tàu” hướng dẫn hoạt động
nghiên cứu và triển khai của ngành, lĩnh vực đó, điều này đã góp phần đẩy
nhanh tốc độ thu hồi vốn đầu tư vào việc phát triển sản phẩm.
• Một thương hiệu mạnh có thể kéo dài vòng đời sản phẩm : Nhiều
thương hiệu có sức sống thật sự, chúng nổi tiếng trong một thời gian dài và
thậm chí vẫn theo kịp thời đại. Ví dụ như bia Heineken được chào đời từ
năm 1873 hay Cocacola cũng đã nổi tiếng từ năm 1887. Những thương
Trang 12
hiệu lớn và nổi tiếng cho người ta sự đảm bảo: họ cảm thấy yên tâm với
những thương hiệu này. Đây cũng là lý do phần nào lý giải tại sao những
thương hiệu mạnh có chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Và việc duy trì
được một thương hiệu không phải chuyện dễ dàng, doanh nghiệp cần phải
có chiến lược đầu tư phát triển thương hiệu tốt để nó trở thành “ con gà đẻ
trứng vàng”.
• Một thương hiệu mạnh có thể giảm bớt rủi ro đối với dòng tiền : Bảo
vệ dòng tiền của một doanh nghiệp tránh khỏi những rủi ro thường có
trong kinh doanh là một vấn đề khiến cho giám đốc tài chính của các
doanh nghiệp phải đau đầu. Những thương hiệu mạnh đã chứng tỏ khả
năng giảm bớt rủi ro đối với doanh nghiệp. Trong những thời kỳ thương
trường hỗn loạn, thương hiệu mạnh có thể là nguồn gốc của sự ổn định.
Một thương hiệu mạnh có thể tạo ra rào chắn ngăn chặn sự thâm nhập của
đối thủ cạnh tranh, nhờ đó giảm bớt nguy cơ cạnh tranh đối với dòng tiền.
1.2. THƯƠNG HIỆU NGÂN HÀNG
Các NHTM có tính chất khác biệt, đặc thù so với các doanh nghiệp
thuộc các ngành nghề khác ở chỗ là hoạt động kinh doanh tiền tệ, cung cấp
các dịch vụ tài chính, ngân hàng. Tuy nhiên, cũng có điểm chung giữa ngân
hàng và doanh nghiệp là đều hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, nâng cao giá trị
vốn cổ phần thông qua kết quả hoạt động và nâng cao giá trị thương hiệu.
1.2.1. Khái niệm Thương hiệu ngân hàng
Thương hiệu ngân hàng chính là tên giao dịch của ngân hàng đó, được
gắn liền với uy tín, chất lượng dịch vụ tài chính, tạo hình ảnh gây dấu ấn sâu
đậm với khách hàng và phân biệt với các ngân hàng khác.
1.2.2. Lợi ích của thương hiệu đối với ngân hàng.
1.2.2.1. Mang lại tính nhận biết và tạo sự trung thành
Một ngân hàng có thương hiệu sẽ dễ dàng được khách hàng nhận diện
trong hàng loạt các nhà cung cấp dịch vụ tài chính là các ngân hàng khác. Sự
Trang 13
nhận biết này giúp các ngân hàng tiết kiệm chi phí thời gian trong việc tiếp
cận với khách hàng khi đưa sản phẩm, dịch vụ mới ra thị trường mục tiêu của
mình. Ngoài ra, khách hàng có xu hướng trung thành hơn với một ngân hàng
có thương hiệu tốt so với ngân hàng có thương hiệu kém hơn. Một khi khách
hàng đã trung thành với thương hiệu cụ thể thì họ có thể chấp nhận “ trả” giá
cao hơn so với thương hiệu khác và sẵn lòng giới thiệu cho người khác về
thương hiệu mà họ trung thành.
1.2.2.2. Tạo hình ảnh tốt về ngân hàng và tạo tính tin cậy
Một thương hiệu mạnh sẽ tạo cảm giác cho khách hàng tiềm năng về
một ngân hàng lớn, vững mạnh. Một thương hiệu tốt, có hiệu quả sẽ giúp cho
ngân hàng có vẻ lớn hơn so với thực tế. Hình ảnh về qui mô hoạt động của
ngân hàng rất quan trọng trong trường hợp khách hàng muốn có sự đảm bảo
rằng ngân hàng mà họ dự định thiết lập mối quan hệ tiền gửi, tiền vay, dịch
vụ tài chính khác sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển trong tương lai.
Ngoài ra, thương hiệu còn giúp ngân hàng nâng cao hình ảnh về chất
lượng: một sản phẩm có thương hiệu tốt thì có vẻ có chất lượng cao hơn so
với sản phẩm cùng loại của một thương hiệu chưa được phổ biến, hay thừa
nhận. Điều này đã được minh chứng ở các sản phẩm phi tài chính thì hoàn
toàn có thể áp dụng với các sản phẩm tài chính do các ngân hàng cung cấp.
Sản phẩm của một ngân hàng có thương hiệu tốt có thể đem lại cảm giác cho
khách hàng rằng các sản phẩm, dịch vụ do ngân hàng này cung cấp sẽ có chất
lượng cao hơn so với các ngân hàng khác.
Ngân hàng có thương hiệu tốt cũng đem lại cho khách hàng hiện tại và
tiềm năng của ngân hàng về hình ảnh ngân hàng đã tồn tại trong thời gian dài,
có kinh nghiệm, cũng như đáng tin cậy hơn để thực hiện các giao dịch tài
chính so với các ngân hàng khác. Tạo điều kiện cho ngân hàng thâm nhập thị
trường và cung cấp các chủng loại sản phẩm, dịch vụ mới thông qua kế hoạch
tiếp thị. Đồng thời, cũng cung ứng lòng tự hào cho khách hàng khi sử dụng
Trang 14
sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng ”sành điệu”,” trẻ trung”,” thời thượng”,…
1.2.2.3. Giảm thiểu được các rủi ro
Hoạt động kinh doanh Ngân hàng có rất nhiều rủi ro, trong đó có rủi ro
tín dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro thanh khoản, rủi ro hối đoái, rủi ro lãi
suất...Vì thế, ngân hàng nào có thương hiệu mạnh thì ngân hàng đó hạn chế
được nhiều loại rủi ro do lợi thế quy mô, uy tín mang lại. Đồng thời, do đã có
thương hiệu, nên các ngân hàng này thường có hệ thống quản trị rủi ro mạnh,
tập trung nhiều chuyên gia giỏi và công nghệ quản trị rủi ro cao giúp cho
ngân hàng mình giảm thiểu được rủi ro một cách hiệu quả.
1.2.2.4. Tăng tính hấp dẫn đối với nguồn vốn và nguồn nhân
lực tài năng
Vốn và nguồn nhân lực bao giờ cũng khan hiếm trong điều kiện cạnh
tranh giữa các ngân hàng, tổ chức tài chính ngày càng gay gắt. Gia tăng khả
năng thu hút các nhà đầu tư vào ngân hàng với tư cách là chủ sở hữu của ngân
hàng, giúp ngân hàng gia tăng khả năng kinh doanh và sự an toàn thông qua
việc bán các loại chứng khoán vốn. Đồng thời, một ngân hàng có thương hiệu
tốt luôn là nơi thu hút của nhiều nhân tài về tài chính hơn các ngân hàng khác
hoặc doanh nghiệp trong lĩnh vực khác trong nền kinh tế.
1.2.3. Những bất lợi của thương hiệu đối với ngân hàng
Song song với những lợi ích tạo ra từ thương hiệu của ngân hàng thì
bên trong nó cũng có những bất lợi nhất định:
1.2.3.1. Bất lợi về chi phí và thời gian
− Để xây dựng thương hiệu, các doanh nghiệp nói chung hay các ngân hàng
nói riêng phải chi tiêu khá lớn trong tổng chi phí hoạt động hằng năm của
mình. Theo ước tính của các chuyên gia kinh tế, thông thường chi phí xây
dựng thương hiệu có thể chiếm khoảng 10% tổng chi phí hoạt động hằng
năm. Đây là một khoản chi đáng kể khi hoạt động của các ngân hàng diễn
ra trong môi trường kinh doanh ngày càng cạnh tranh khốc liệt hơn.
Trang 15
− Do tính chất riêng biệt trong ngành tài chính – ngân hàng, thì để một ngân
hàng xây dựng thương hiệu thành công cần ít nhất một thời gian dài từ 5
đến 10 năm để xây dựng. Bên cạnh đó, trong quá trình xây dựng thương
hiệu theo định hướng đã vạch sẵn thì ngân hàng cũng cần thẩm định kết
quả của việc xây dựng thương hiệu.
1.2.3.2. Giảm bớt hình ảnh con người trong giao tiếp với
khách hàng
− Khi các ngân hàng sử dụng thương hiệu như một công cụ để tiếp thị bản
thân, sản phẩm và dịch vụ của mình đến khách hàng nó sẽ làm giảm bớt
hình ảnh con người trong giao tiếp với khách hàng. Điều này làm ảnh
hưởng không tốt đến bản chất kinh doanh của ngân hàng – cần sự giao tiếp
giữa nhân viên ngân hàng và khách hàng nhằm tìm hiểu và thỏa mãn các
nhu cầu về sản phẩm,dịch vụ tài chính ngân hàng.
− Khi xây dựng thương hiệu, hình ảnh của ngân hàng thường bị cố định vào
một hoặc một nhóm sản phẩm cố định làm hạn chế khả năng đưa ra các
sản phẩm, dịch vụ mới của ngân hàng.
1.2.4. Vai trò của thương hiệu Ngân hàng đối với nền kinh tế.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần phấn đấu mạnh
mẽ để có những sản phẩm hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn
nhằm nâng cao hình ảnh thương hiệu quốc gia. Điều này đòi hỏi nỗ lực cao
của toàn nền kinh tế, trong đó Chính phủ phải là đầu tàu thúc đẩy.
• Thương hiệu quốc gia là gì ?
Thương hiệu quốc gia là tập hợp những liên tưởng của cộng đồng về
hình ảnh và bản sắc của quốc gia; trong đó hình ảnh quốc gia là những gì mà
quốc gia đã tạo dựng được trong nhận thức của cộng đồng tại quá khứ. Bản
sắc quốc gia là những gì mà quốc gia mong muốn định vị, gắn với hình ảnh
quốc gia trong tương lai.
Thương hiệu quốc gia và thương hiệu doanh nghiệp có mối quan hệ
Trang 16
mật thiết. Thương hiệu quốc gia thành công sẽ có tác động hiệu quả đến
thương hiệu của doanh nghiệp. Thương hiệu quốc gia là đường dẫn đối tác và
nhà đầu tư đến với doanh nghiệp, làm tăng giá trị sản phẩm, dịch vụ của
doanh nghiệp. Ngược lại, quốc gia tập hợp nhiều doanh nghiệp có thương
hiệu mạnh sẽ giúp nâng cao hình ảnh thương hiệu quốc gia.
Lĩnh vực tài chính, ngân hàng là một trong những lĩnh vực sôi động
nhất sau khi Việt Nam chính thức là thành viên WTO. Ngành Ngân hàng
được đánh giá là một định chế tài chính cực kỳ quan trọng, đóng vai trò khẳng
định mức độ văn minh của hoạt động kinh tế và chất lượng cuộc sống cộng
đồng. Có thể nói rằng “ Thương hiệu Ngân hàng là Thương hiệu quốc gia”.
Bởi vì :
Thứ nhất, hơn ai hết ngân hàng là lĩnh vực cần phải đầu tư xây dựng
thương hiệu mạnh mẽ. Ngân hàng, nói cho cùng là một định chế tài chính
trung gian trong nền kinh tế cung cấp dịch vụ tài chính, tín dụng. Tài sản thực
của ngân hàng rất nhỏ so với giá trị giao dịch luân chuyển qua ngân hàng.
Một ngân hàng có vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng, có thể có nguồn vốn huy động
lên đến vài chục ngàn tỷ đồng. Nói cách khác, ngân hàng đang kinh doanh
trên nguồn vốn của người khác. Hơn bất kỳ ngành nghề nào khác, uy tín
chính là yếu tố sống còn của ngân hàng. Muốn vậy, ngân hàng rất cần tạo
dựng cho mình một thương hiệu mạnh, tin cậy. Những thuận lợi của lĩnh vực
ngân hàng sẽ còn được duy trì trong bao lâu khi thị trường sắp đến sẽ có mặt
những tên tuổi lớn như ANZ, Citi bank, Maybank, HSBC, Bank of America,
v.v sẽ cạnh tranh cùng chung một luật chơi WTO tại Việt Nam?
So với các hoạt động của các ngành kinh doanh khác, hoạt động Ngân
hàng có nhiều nét đặc thù. Một trong những đặc thù của Ngân hàng thương
mại là kinh doanh lòng tin. Vì thế thương hiệu mạnh đóng vai trò vô cùng
quan trọng. Thương hiệu mạnh phụ thuộc vào các nhà lãnh đạo có những
hoạch định chiến lược, quản trị chiến lược tốt, đảm bảo cho Ngân hàng vừa
Trang 17
đạt lợi ích ngắn hạn, vừa gia tăng thị phần để đạt mục tiêu dài hạn.
Thứ hai, kinh doanh Ngân hàng có nhiều rủi ro, trong đó có rủi ro tín
dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro thanh khoản, rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất...Vì
thế, trong các ngân hàng thương mại thường có hệ thống quản trị rủi ro mạnh,
tập trung nhiều chuyên gia giỏi và công nghệ quản trị rủi ro cao.
Thứ ba, ngành ngân hàng là lĩnh vực sử dụng nhiều công nghệ thông
tin nhất. Các số liệu thống kê cho thấy có 82% công nghệ ngành Ngân hàng
được điện tử hoá. Trình độ công nghệ thông tin về phần mềm, quản lý nhân
lực sẽ tạo hình ảnh về một Ngân hàng hiện đại; rồi từ đó mới có thể đủ năng
lực cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới.
Với những khác biệt trên, ngành ngân hàng được đánh giá là một định
chế tài chính cực kỳ quan trọng, đóng vai trò khẳng định mức độ văn minh
của hoạt động kinh tế và chất lượng cuộc sống cộng đồng. Ngân hàng là dòng
máu của nền kinh tế. Nếu hoạt động ngân hàng sung mãn thì sẽ phân bổ vốn
hiệu quả cho phát triển đầu tư, kinh doanh, dịch vụ, phát triển kinh tế có chất
lượng và bền vững...Nếu ngành ngân hàng bộc lộ mất khả năng thanh khoản
sẽ ảnh hưởng chung đến toàn hệ thống và làm giảm nhịp điệu tăng trưởng của
nền kinh tế.
Chính phủ Việt Nam đang mong muốn có được một hệ thống ngân
hàng mạnh, hàng đầu và có quy mô hoạt động không bó hẹp trong ranh giới
quốc gia mà phải mở rộng phạm vi trên toàn thế giới. Để góp phần nâng cao
hình ảnh thương hiệu quốc gia, các ngân hàng Việt Nam phải nghĩ đến
chuyện trở thành ngân hàng toàn cầu : mở chi nhánh, trung tâm tài chính lớn,
thậm chí phải hoạt động như ngân hàng 100% vốn ra nước ngoài. Và tất
nhiên, điều này đòi hỏi khả năng dám chấp nhận rủi ro và tầm nhìn chiến lược
của mỗi ngân hàng trong nền kinh tế.
1.3. KINH NGHIỆM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN THƯƠNG HIỆU
CỦA CÁC NGÂN HÀNG LỚN TRÊN THẾ GIỚI
Trang 18
1.3.1. Ngân hàng Citibank
1.3.1.1. Sơ lược về Citibank toàn cầu
Citibank, thương hiệu ngân hàng có giá trị nhất thế giới với 35,148 tỷ
USD đứng đầu trong Top 100 thương hiệu ngân hàng mạnh trên thế giới do
BrandFinance bình chọn vào tháng 11 năm 2006 ( Tham khảo Phụ lục 3 : Top
100 thương hiệu ngân hàng mạnh trên thế giới 2006).
Citibank được thành lập vào năm 1812 tại Mỹ với hơn nửa vốn thuộc
về Citicorp, hiện nay đã có trên 3.400 chi nhánh và trụ sở trên 100 nước.
Citibank, ._.hiện nay là một phần của tập đoàn Citigroup cũ, là một trong những
tổ chức dịch vụ tài chính lớn nhất cung cấp việc làm cho hơn 160.000 trên
toàn thế giới, đồng thời là hãng phát hành thẻ tín dụng ngân hàng lớn nhất thế
giới.
Citibank là ngân hàng của Mỹ đầu tiên hoạt động tại Châu Á vào năm
1902 và hiện nay đã phát triển rộng nhất trong khu vực Châu Á ở lĩnh vực tài
chính với hơn 200 chi nhánh tại 21 nước.
Các sản phẩm đơn lẻ của Citibank được thiết kế rất sáng tạo, linh hoạt
và hoàn toàn phù hợp với các nhu cầu cá nhân của khách hàng. Một ví dụ
điển hình là Citibank’s Mortgage Power, hình thức vay tín dụng tuần hoàn
đầu tiên của Australia giúp cho khách hàng có thể tăng lợi nhuận
1.3.1.2. Kinh nghiệm phát triển thương hiệu
− Phát triển mạng lưới rộng khắp :
− Hiện nay, Citibank đã có trên 3.400 chi nhánh và trụ sở trên 100 nước, là
một trong những ngân hàng lớn và lâu đời nhất trên thế giới, Citibank luôn
xem trọng thị trường bán lẻ. Khi thị trường tài chính thế giới ngày càng
cạnh tranh thì sự đổi mới và các cuộc cải cách là điều quyết định cho sự
Trang 19
tồn tại. Khả năng tận dụng mạng lưới rộng khắp toàn cầu và những chuyên
môn quốc tế của Citybank sẽ là một nền tảng vững chắc cho sự thành
công.
− Citibank là ngân hàng tiên phong trong việc đổi mới ngân hàng với một
tầm nhìn nhằm phát triển việc kinh doanh của khách hàng bằng việc hiểu
được những vấn đề trong vùng hay toàn cầu thông qua mạng lưới khách
hàng rộng lớn và liên kết với mạng lưới ngân hàng Châu Á Thái Bình
Dương.
− Đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ : Các kế hoạch đa dạng sản phẩm, dịch vụ
đầy tính sáng tạo thu hút số lượng khách hàng đông đảo đã làm cho
Citibank trở thành một trong những ngân hàng nước ngoài hoạt động tại
các nước trên khắp thế giới thành công. Cách tiếp cận của Citibank với
hình thức kinh doanh ngân hàng đơn lẻ và tập đoàn luôn khác biệt so với
các đối thủ cạnh tranh. Nhân viên tài năng tới từ rất nhiều lĩnh vực khác
nhau, và những người quản lý thì luôn đảm bảo rằng họ tập trung vào việc
cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất có thể. Citibank cung cấp
một loạt các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng đơn lẻ và tập đoàn. Citibank
bao gồm 2 nhóm kinh doanh chính – Citibank’s Global Consumer Bank và
The Citibank Global Corporate Banking.
− Citibank’s Global Consumer Bank cung cấp cho khách hàng một hệ
thống các dịch vụ ngân hàng cá nhân hoàn thiện, gồm có thế chấp tài chính
cá nhân và doanh nghiệp, khoản vay cá nhân, thẻ tín dụng, tài khoản gửi
và đầu tư, Visa TravelMoney và đầu tư ngân hàng quốc tế. Bảo hiểm nhân
thọ và quỹ quản lý được cung cấp thông qua công ty con của Citibank,
Citicorp Life. Các sản phẩm đơn lẻ của Citibank được thiết kế rất sáng tạo,
linh hoạt và hoàn toàn phù hợp với các nhu cầu cá nhân của khách hàng.
Một ví dụ điển hình là Citibank’s Mortgage Power, hình thức vay tín dụng
tuần hoàn đầu tiên của Australia giúp cho khách hàng có thể tăng lợi
Trang 20
nhuận..
− The Citibank Global Corporate Banking đáp ứng được nhu cầu tài
chính toàn diện của các tập đoàn chính, các công ty đa quốc gia, các học
viện tài chính và các tổ chức của chính phủ. The Corporate Bank bao gồm
các dịch vụ giao dịch ngân hàng, quản lý đầu tư, vay vốn đầu tư, sản phẩm
xây dựng và tổ chức cho vay. Trong tầng lớp tài chính trên thế giới
Citibank rất nổi tiếng về tỉ giá hối đoái và tỉ giá chung qua các chiến lược
với thành tích thành công rất ấn tượng trong thương mại và chuyên môn
riêng. Dẫn đầu trong các kim loại quý và là tiên phong trong trao đổi phát
sinh, Citibank đã tận dụng hệ thống mạng lưới toàn cầu của mình để tạo
điều kiện thuận lợi cho khách hàng.
− Gần đây Citibank cho ra mắt một vài sản phẩm thú vị và rất sáng tạo :
Business Power hai trong một cung cấp khả năng linh hoạt cho phép kết
nối tài chính cá nhân và tài chính kinh doanh cho những nhà quản lý kinh
doanh nhỏ và tư nhân.
− Ngoài ra, hoạt động Foreign Exchange Bank của Citibank luôn đứng đầu
trong vòng 20 năm trở lại đây, khả năng trong việc giải quyết tỉ giá cụ thể
của mỗi khách hàng đã đưa Citybank trở thành ngân hàng dẫn đầu trong thị
trường tài chính đối với cả Foreign Exchange và Interest Rates.
− Phát triển mạnh Ngân hàng điện tử :
− Phần lớn khách hàng của Citibank sử dụng hình thức giao dịch từ xa để
đáp ứng nhu cầu của họ. Trong tương lai Citibank sẽ mở rộng ngân hàng
tới bất cứ nơi nào có khách hàng. Citibank là ngân hàng đầu tiên có dịch
vụ ngân hàng thông qua CitiPhone Banking, Citibank’s 24 giờ, ngân hàng
điện thoại 7 ngày 1 tuần và CitiDirect, Citibank’s Internet Banking. Ngoài
ra, Citibank Website cung cấp tỉ giá chung, các thông tin sản phẩm, tin tức
và thể thao. Các khách hàng có thể thoải mái và tiện lợi khi thực hiện các
cuộc giao dịch ngân hàng trực tuyến, là một trong những trang web phong
Trang 21
phú và thân thiện với người sử dụng nhất.
− Phát triển sản phẩm Thẻ tín dụng liên kết :
Citibank đồng thời cung cấp một loạt thẻ tín dụng: Silver và Gold Visa
hay MasterCards thông qua các thẻ như Golf Link MasterCard và the Football
Visa Card.
− Vào năm 1998, Citibank cho ra mắt Mortgage Minister Credit Card đầu
tiên liên kết với Citibank HOMECREDIT, một loại thẻ vòng cho phép
khách hàng trả tiền thuê nhà trước 17 năm. Citibank cũng giới thiệu
Mortgage PLANS, thẻ tín dụng tuần hoàn cho những đồ thế chấp. Với
những sản phẩm như vậy, khách hàng có thể chọn những sự kết hợp khác
nhau giữa tỉ giá chung, chi phí và hàng loạt các giao dịch miễn phí.
− Citibank cho ra mắt 2 loại Football Visa Card và Golf Link MasterCard
vào năm 1998. The Football Card là loại thẻ tín dụng đầu tiên của
Australia với chương trình giải thưởng bóng đá đặc biệt và được Carlton,
Collingwood Geelong và câu lạc bộ St Kilda chấp nhận như loại thẻ tín
dụng chính thức của họ. The Link Golf Card là thẻ tín dụng Australia đầu
tiên được thiết kế cho các tay chơi golf và trở thành loại thẻ chính thức của
The Australian Golf Link.
− Hơn nữa hiện nay Citibank còn nâng cấp chương trình Credit Card Reward
bằng việc liên kết với một hãng hàng không hàng đầu của Australia. Cung
cấp bảo hiểm du lịch rủi ro, những điểm bay thường xuyên và hàng loạt
các phần thưởng từ những cái máy xay sinh tố cho tới những chú gấu
Teddy, Citibank có những chương trình Credit Card Rewards rất độc đáo
và phong phú.
− Citibank nâng cao vị trí dẫn đầu của mình để thiết lập một hình thức kinh
doanh mới International Process Solutions. Dự án chung này cung cấp các
dịch vụ cơ quan một cách đầy đủ cho các tập đoàn và các công ty bảo
hiểm thông qua quá trình chuyển tiền lần lượt và thu trả.
Trang 22
− Cuối năm 1998, Citibank đã có hơn 2 công ty cộng tác. Nhằm tăng sức
mạnh thương hiệu của Dinner Club Card, Citibank tiến hành trao đổi 77%
thị phần của Australia mà nó chưa sở hữu. Một ví dụ về sự mong muốn
phát triển của Citibank ở Australia và khu vực Châu Á Thái Bình Dương,
điều này làm cho Citibank trở thành công ty duy nhất có uy tín đặc biệt
trong thị trường thẻ tín dụng và thẻ trao đổi.
− Citibank cũng là nhà tài trợ cho đội The New South Wales Rugby, The
Waratahs trong 3 năm tới. Việc tài trợ sẽ có sự đóng góp của Citibank’s
Consumer and Corporate banks, MasterCard and Salomon Smith Barney.
Cũng như Citibank, The Waratahs cũng có một lịch sử đáng tự hào, một
truyền thống vững mạnh và sự nổi tiếng trên toàn thế giới. Những nhà tài
trợ cũng hỗ trợ thế hệ trẻ và cấp bậc của câu lạc bộ.
• Quảng bá thương hiệu :
− Citibank luôn phấn đấu xây dựng một quan hệ đặc biệt và lâu dài với
khách hàng thông qua chương trình marketing trực tiếp với rất nhiều sản
phẩm sáng tạo. Chương trình câu lạc bộ The Citibank Club Loyalty tạo ra
giá trị của mình bằng việc cung cấp cho các thành viên những chuyến du
lịch, trò giải trí đặc biệt, và hàng loạt các sản phẩm và dịch vụ độc đáo
khác.
− Citibank là nhà tài trợ cho tua diễn năm 1998 của Elton John vì sự hợp tác
duy nhất từ trước tới nay của Citibank với Elton John. Tại Australia,
Citibank chấp nhận cho 10 bệnh nhân trẻ ốm nặng được tham gia buổi hoà
nhạc của Elton John và Billy Joel và gặp gỡ với Elton John sau buổi diễn.
− Citibank đặc biệt chú ý tới công chúng, tập trung nhiều vào hiệu quả vào
giáo dục. Vào năm 1998 hơn 100 nhân viên của Citibank đã sử dụng kỳ
nghỉ của mình để đưa 300 học sinh tới Công viên thú Taroga. Năm 1999
Citibank tự hào là nhà tài trợ cho The Western Subburbs Branch of
Learning Links, một tổ chức cung cấp dịch vụ giáo dục cho trẻ em gặp khó
Trang 23
khăn trong học tập và trong gia đình.
1.3.1.3. Định vị thương hiệu Citibank
Citibank tạo được một vị trí quan trọng trên thị trường và được biết đến
bởi tính toàn cầu của mình với các dịch vụ cho khách hàng trên 100 nước.
Citibank mang những ý tưởng toàn cầu tới từng nước và mang những ý tưởng
của từng nước ra toàn thế giới.
Citibank được coi là người tiên phong phát triển các tài khoản có thể
chi trả đầu tiên trên thị trường. Thêm vào đó, Citibank được biết tới với chất
lượng phục vụ khách hàng cao. Personal Bankers luôn luôn cung cấp cho các
khách hàng những dịch vụ tuyệt vời nhất.
Citibank gây dựng được sự nổi tiếng của mình nhờ vào việc luôn tập
trung tới những sản phẩm mới dựa trên sự hiểu biết và nắm bắt rõ nhu cầu của
khách hàng. Các sản phẩm có chức năng vượt xa so với mục đích được làm
ra. Nó còn có nhiều hơn những giá trị về tài chính như loại thẻ Photocard, một
loại thẻ với chức năng bảo mật khả năng nhận dạng mà chỉ có ảnh mới có thể
cung cấp được.
Sự nổi tiếng mà Citibank đã gây dựng trong nhiều năm qua tạo nên sự
tin tưởng cho mọi khách hàng và ngược lại khách hàng luôn cảm thấy tin
tưởng với các dịch vụ của Citibank.
1.3.2. Ngân hàng HSBC
1.3.2.1. Sơ lược về HSBC toàn cầu
Thương hiệu Tập đoàn HSBC có giá trị 33.495 tỷ USD, đứng thứ hai
sau Citibank, do BrandFinance bình chọn vào tháng 11 năm 2006 theo Bảng
xếp hạng “ Global 100 Banking Brands Index” ( An annual review of the top
banking brands in the word). HSBC là Ngân hàng có tốc độ tăng trưởng đạt
bình quân 18,4% trong suốt 5 năm gần nhất. Tập đoàn HSBC cũng là một
Trang 24
trong những tổ chức dịch vụ tài chính và ngân hàng lớn nhất trên thế giới với
các chi nhánh tại châu Âu, châu Á Thái Bình Dương, châu Mỹ, Trung Đông
và châu Phi. HSBC định vị thương hiệu của mình thông qua thông điệp
“Ngân hàng toàn cầu am hiểu địa phương”.
Với trụ sở chính tại Luân Đôn, tính đến ngày 3 tháng 3 năm 2008,
HSBC có trên 10.000 văn phòng tại 83 quốc gia và vùng lãnh thổ, phục vụ
trên 128 triệu khách hàng trong đó hơn 46 triệu là khách hàng sử dụng dịch
vụ ngân hàng điện tử. Tổng giá trị tài sản của Tập đoàn là 2.345 tỷ đô la Mỹ
tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2007.
1.3.2.2. Kinh nghiệm phát triển thương hiệu ở Việt Nam
• Phát triển mạng lưới :
− Năm 1870, HSBC mở văn phòng đầu tiên tại Sài Gòn ( nay là TPHCM).
Tháng 8 năm 1995, chi nhánh TPHCM được cấp phép hoạt động và cung
cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính ngân hàng. HSBC khai trương chi nhánh
Hà Nội và thành lập Văn phòng Đại diện tại Cần Thơ vào năm 2005.
− Tháng 06 năm 2008, HSBC là ngân hàng nước ngoài đầu tiên được Ngân
hàng Nhà nước chính thức cho phép thành lập ngân hàng con 100% vốn
nước ngoài tại Việt Nam. HSBC đang hoàn tất những thủ tục đăng ký kinh
doanh cuối cùng và hi vọng trở thành ngân hàng nước ngoài đầu tiên chính
thức đưa ngân hàng con vào hoạt động tại thị trường tài chính đang tăng
trưởng rất nhanh của Việt Nam.
• Phát triển sản phẩm, dịch vụ : Với hơn 130 năm hoạt động tại Việt Nam,
HSBC cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính bao gồm:
− Dịch vụ Tài chính Doanh nghiệp.
− Dịch vụ Ngân hàng cho các Tập đoàn Đa quốc gia và Định chế Tài chính.
− Dịch vụ Tiền tệ và Thị trường vốn
− Dịch vụ Thanh toán và Quản lý Tiền tệ
− Dịch vụ Thanh toán Quốc tế
Trang 25
− Dịch vụ Chứng Khoán
− Dịch vụ Tài chính Cá nhân
• Liên doanh liên kết với Ngân hàng trong nước :
− Ngày 29 tháng 12 năm 2005, HSBC mua 10% cổ phần của Ngân hàng Cổ
phần Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), ngân hàng thương mại cổ
phần lớn thứ ba tại Việt Nam xét về vốn. Tháng 07 năm 2007, HSBC mua
thêm 5% cổ phần tại Techcombank, trở thành ngân hàng nuớc ngoài đầu
tiên tại Việt Nam nắm giữ 15% cổ phần tại một Ngân hàng trong nước.
− Tháng 09 năm 2007, HSBC ký hợp đồng mua 10% cổ phần của Tập Đoàn
Bảo Việt, tập đoàn bảo hiểm và tài chính hàng đầu của Việt Nam và trở
thành đối tác chiến lược nước ngoài duy nhất của Bảo Việt.
• Thành tựu đạt được : Hiện tại, HSBC là ngân hàng nước ngoài lớn nhất
tại Việt Nam xét về vốn đầu tư, mạng lưới, chủng loại sản phẩm, số lượng
nhân viên và khách hàng. Đồng thời, trong suốt thời gian hoạt động kinh
doanh tại Việt Nam, HSBC đã đoạt được các giải thưởng lớn như sau :
− Ngân hàng Tài trợ Thương mại tốt nhất Việt Nam 2008 do Asset Triple A
bình chọn.
− Ngân hàng nước ngoài tốt nhất Việt Nam 2006 và 2007 do tạp chí Fi-
nanceAsia bình chọn
− Ngân hàng Bán Lẻ tốt nhất Việt Nam 2006 do AsianBanker bình chọn
− Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2006 do Asset Triple A bình chọn
− Ngân hàng Lưu ký tốt nhất tại Việt Nam 2006 do Asset Triple A bình chọn
− Ngân hàng Lưu ký tốt nhất tại Việt Nam 2007 do Global Finance bình
chọn
− Ngân hàng Nước ngoài cung cấp Dịch vụ Ngoại hối tốt nhất Việt Nam
2006 do tạp chí Asiamoney bình chọn
Trang 26
− Giải thưởng Rồng Vàng cho Ngân hàng được yêu thích nhất (Most Pre-
ferred Bank) do Thời báo Kinh Tế Việt Nam và Bộ Kế hoạch và Đầu tư
bình chọn trong 7 năm liền (2001 – 2007)
− Giải thưởng Top Trade Services 2007 do Bộ Công Thương Việt Nam bình
chọn
− Giải thưởng Saigon Times Top 40 năm 2007 do báo SaigonTimes và các
Sở Kế Hoạch-Đầu Tư Thành Phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai và
Bà Rịa-Vũng Tàu bình chọn.
1.3.3. Ngân hàng ANZ :
1.3.3.1. Sơ lược về ANZ toàn cầu
ANZ được thành lập tại Australia hơn 150 năm trước. Từ đó đến nay
ANZ đã phát triển thành một tập đoàn ngân hàng và tài chính quốc tế lớn.
ANZ cũng là ngân hàng hàng đầu của Australia tại khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương. Hiện nay, ANZ là một trong 50 ngân hàng lớn nhất thế giới với
hàng nghìn đại lý, hệ thống vận hành hiện đại, kỹ thuật hàng đầu thế giới, giải
pháp tài chính sâu rộng và một cam kết thực sự với cộng đồng. Đồng thời,
ANZ đã được hơn 6 triệu khách hàng trên thế giới chọn làm đối tác tin cậy.
ANZ là ngân hàng hàng đầu của Australia tại Châu Á và đã kinh doanh,
phục vụ cộng đồng dân cư ở khu vực này hơn 30 năm.
1.3.3.2. Kinh nghiệm phát triển thương hiệu ở Việt Nam
• Phát triển nguồn nhân lực địa phương chuyên nghiệp :
ANZ Việt Nam được thành lập 14 năm trước đây, bí quyết thành công của
ANZ Việt Nam chính là đào tạo các nhân viên địa phương nhằm cung cấp
dịch vụ cho khách hàng một cách chuyên nghiệp và thân thiện. ANZ Việt
Nam cũng nổi tiếng tại Việt Nam về sản phẩm dành cho cá nhân và chất
Trang 27
lượng phục vụ khách hàng.
− Để xây dựng cơ sở khách hàng tại Việt Nam, ANZ đã đào tạo đội ngũ
nhân viên bản địa có khả năng sử dụng thành thạo cả tiếng Anh và tiếng
Việt. Với hiểu biết về địa phương và khu vực, đội ngũ nhân viên này có
khả năng thấu hiểu các khó khăn, nhu cầu của cả người Việt Nam và người
nước ngoài sống, làm việc tại Việt Nam do đó họ có thể tư vấn, giúp đỡ
các khách hàng này về hàng loạt các dịch vụ tài chính.
• Liên doanh liên kết với Ngân hàng trong nước : Năm 2001, ANZ mua
10% cổ phần của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín ( Sacombank),
ngân hàng thương mại cổ phần có vốn điều lệ lớn nhất tại Việt Nam.
• Thành tựu đạt được : Chất lượng dịch vụ khách hàng tốt của ANZ đã
được công nhận bằng hàng loạt các giải thưởng như :
− Giải thưởng Rồng Vàng ‘Ngân hàng định hướng khách hàng tốt nhất’ năm
2006, do Thời báo Kinh tế Việt Nam bình chọn.
− ‘Ngân hàng định hướng khách hàng tốt nhất’ năm 2005, do Thời báo Kinh
tế Việt Nam bình chọn.
− ‘Ngân hàng được yêu thích nhất Việt Nam năm 2004’, do Thời báo Kinh
tế Việt Nam bình chọn.
− ‘Ngân hàng nước ngoài tốt nhất Việt Nam năm 2003/2004’, do Finance
Asia Hồng Kông bình chọn.
− ‘Ngân hàng bán lẻ tốt nhất Việt Nam năm 2003’, tạp chí Asian Banker
Singapore bình chọn.
− ‘Ngân hàng yêu thích nhất Việt Nam năm 2003’, Thời báo Kinh tế Việt
Nam bình chọn.
− ‘Ngân hàng nước ngoài tốt nhất Việt Nam năm 2002/2003’, do Finance
Asia Hồng Kông bình chọn.
− ‘Ngân hàng được khách hàng ưa chuộng nhất năm 2002’, do Thời báo
Kinh tế Việt Nam bình chọn.
Trang 28
1.3.4. Rút ra bài học kinh nghiệm phát triển thương hiệu từ các
ngân hàng lớn trên thế giới
− Thứ nhất, các ngân hàng này đã không ngừng nâng cao năng lực tài chính
bằng cách tăng vốn chủ sở hữu, quản trị tốt tài sản nợ và tài sản có rủi ro
nhằm điều hành kinh doanh một cách mạnh dạn và đạt hiệu quả cao.
− Thứ hai, công tác quảng bá thương hiệu được chú trọng thông qua việc
thường xuyên tài trợ cho các chương trình quảng cáo trên các phương tiện
thông tin đại chúng.
− Thứ ba, các ngân hàng này không ngừng đầu tư hiện đại hoá công nghệ
ngân hàng và hệ thống thanh toán theo hướng tự động hoá, đặc biệt là các
nghiệp vụ thanh toán, hệ thống giao dịch trực tuyến, phát triển dịch vụ
ngân hàng điện tử như : Home banking, Internet banking..., và các dịch vụ
thanh toán không dùng tiền mặt như hệ thống thẻ ATM, thẻ tín dụng...
− Thứ tư, họ đào tạo được nguồn nhân lực giỏi, chuyên nghiệp. Đồng thời,
có chính sách đãi ngộ để quy tụ được nhiều nhân tài có chuyên môn cao và
năng lực quản lý giỏi trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
− Thứ năm, các các ngân hàng này không ngừng tạo ra các sản phẩm mới
thoe hướng đa dạng, gia tăng tính khác biệt, vượt trội so với các ngân hàng
khác.
− Thứ sáu, họ luôn chú trọng việc mở rộng quan hệ đại lý quốc tế, mạng
lưới trên khắp thế giới. Đồng thời, để cung cấp các dịch vụ ngân hàng qua
biên giới nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hoá sản phẩm
nhằm cạnh tranh với các ngân hàng khác.
− Thứ bảy, đẩy mạnh hợp tác đầu tư với các ngân hàng nội địa nhằm tận
dụng lợi thế địa phương nhắm phát triển, mở rộng thị phần. Bên cạnh đó,
liên tục mở rộng mạng lưới văn phòng đại diện, chi nhánh tại hầu hết các
Trang 29
quốc gia trên thế giới, đặc biệt là tập trung ở các quốc gia có nền kinh tế
mạnh, thị trường tài chính ngân hàng phát triển.
Tóm lại : Chương 1 về cơ bản đã trình bày những lý luận chung về tài sản
vô cùng quý giá của ngân hàng : khái niệm thương hiệu, thành phần của
thương hiệu, khái niệm thương hiệu ngân hàng. Đồng thời, chương này cũng
đã đưa ra những lợi ích của thương hiệu đối với ngân hàng và đối với nền
kinh tế, kinh nghiệm xây dựng và phát triển thương hiệu của một số ngân
hàng lớn trên thế giới như : Citibank, HSBC, ANZ.
Trang 30
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG XÂY DỰNG THƯƠNG
HIỆU TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN
THƯƠNG TÍN ( SACOMBANK)
2.1. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG
TMCP SÀI GÒN THƯƠNG TÍN
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Ngày 21/12/1991, Sacombank được thành lập và đi vào hoạt động trên
cơ sở chuyển thể Ngân Hàng Phát Triển Kinh Tế Gò Vấp và sáp nhập với 3
Hợp tác xã tín dụng Tân Bình – Thành Công - Lữ Gia. Nền kinh tế đất nước
trong thời kỳ này đang đối mặt với tốc độ lạm phát phi mã, hoạt động tiền tệ –
tín dụng của các NHTM gặp rất nhiều khó khăn, nhất là các hợp tác xã tín
dụng. Với mức vốn ban đầu chưa đến 3 tỷ đồng, Sacombank đã bước những
bước đi đầu tiên đầy cam go, thử thách : mạng lưới hoạt động chủ yếu nằm ở
các quận ven nội thành, chất lượng nguồn năng lực thấp, hoạt động nghiệp vụ
khá đơn điệu về huy động vốn và cho vay, nợ quá hạn khó đòi chuyển giao
sang cao gấp 2 lần vốn tự có.
Ngày 02/03/1993, Sacombank là ngân hàng TMCP có hội sở chính tại
TPHCM đầu tiên và mở chi nhánh tại Hà Nội. Đồng thời, Sacombank là ngân
hàng TMCP đầu tiên thực hiện nghiệp vụ phát hành kỳ phiếu có mục đích để
huy động vốn và dịch vụ chuyển tiền nhanh từ Hà Nội đi TPHCM và ngược
lại. Điều này đã bước đầu gây dựng cho Sacombank một hình ảnh đặc trưng
và một tính cách riêng đầy ấn tượng tại thủ đô, đồng thời mở đường cho việc
hình thành dần thói quen không dùng tiền mặt trong thanh toán giữa hai đô thị
lớn nhất nước lúc bấy giờ.
Tháng 10/1995, cho vay phân tán theo đề án kết hợp với cho vay tập
trung có trọng điểm là quan điểm chỉ đạo chiến lược về định hướng phát triển
tín dụng của Sacombank sau thời kỳ cải tổ. Đề án thực hiện thành công tại chi
Trang 31
nhánh Gò Vấp là cơ sở cho Sacombank nhân rộng phạm vi thực hiện trên toàn
hệ thống và trở thành tiền đề cho định hướng phát triển tín dụng ngày nay.
Cho vay SMEs và quyết tâm xây dựng Sacombank trở thành Ngân hàng bán
lẻ - đa năng - hiện đại trong các giai đoạn tiếp theo cũng xuất phát từ tư tưởng
chỉ đạo chiến lược vừa nêu.
Tháng 03/1996, sáng kiến phát hành cổ phiếu đại chúng để tăng vốn
điều lệ. Đại hội đại biểu cổ đông Sacombank đã đồng thuận với sáng kiến của
Chủ Tịch Đặng Văn Thành trong việc phát hành cổ phiếu đại chúng để tăng
đủ số vốn điều lệ là 70 tỷ đồng theo đúng qui định của Chính Phủ. Thành
công ngoài mong đợi trong việc triển khai thực hiện sáng kiến này đã giúp
Sacombank tự tin hơn trong quá trình thực hiện kế hoạch tăng vốn điều lệ
trong nhiều năm tiếp theo. Ngày nay, Sacombank đã trở thành ngân hàng
TMCP có vốn điều lệ lớn thứ hai tại Việt Nam sau Vietcombank.
Ngày 03/05/1999, khánh thành trụ sở chính của Sacombank tại 278
Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TPHCM. Sacombank là ngân hàng
TMCP đầu tiên ở Việt Nam có được một trụ sở chính khá khang trang, bề thế
và hiện đại. Điều này nhằm khẳng định sức mạnh tài chính, xác định quyết
tâm tồn tại phát triển và gắn bó lâu dài với các tổ chức kinh tế và dân cư trên
địa bàn, đồng thời có điều kiện phát triển mở rộng mối quan hệ giao thương
với khu vực và quốc tế.
Năm 1999, Sacombank trở thành thành viên của Hiệp Hội Viễn Thông
Liên Ngân Hàng Toàn Cầu ( SWIFT), tiếp theo sau đó là gia nhập Hiệp Hội
Thẻ Quốc Tế Visa, Master và tiếp nhận được sự ủy thác tín dụng và tài trợ kỹ
thuật của nhiều tổ chức kinh tế tài chính nước ngoài. Đây là sự kiện mở
đường cho quá trình đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại nhờ đó thương
hiệu Sacombank đã từng bước được củng cố và nâng cao trong nước và vươn
ra khu vực.
Năm 2001, tập đoàn tài chính Anh Quốc ( Dragon Financial Holdings
Trang 32
Capital) tham gia góp vốn cổ phần chiếm 10% vốn điều lệ, mở đường cho
việc tham gia góp vốn của Công ty tài Chính Quốc Tế IFC và Ngân Hàng
ANZ nâng số vốn cổ phần của các cổ đông nước ngoài lên gần 30% vốn điều
lệ. Thông qua sự kiện này, Sacombank đã sớm nhận được sự hỗ trợ về kinh
nghiệm, quản lý, công nghệ, rủi ro, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực từ
các cổ đông chiến lược.
Năm 2002, thành lập Tổ Tín Dụng Lai Uyên - Tỉnh Sông Bé trực thuộc
Chi nhánh Gò Vấp ( do Sông Bé chưa có chi nhánh Sacombank) là một phát
kiến quan trọng của người đứng đầu cơ quan Quản trị Sacombank. Thành
công của việc trải nghiệm phát kiến này là một thực tiễn sinh động, được lãnh
đạo Tỉnh Sông Bé đồng tình ủng hộ và hết lòng động viên cổ vũ, là tiền đề
quan trọng có tính mở đường để Chỉ thị 05 của Thống đốc NHNN được ban
hành sau đó cho phép các NHTM được thành lập các Tổ Tín dụng, điểm giao
dịch ngoài địa bàn ( ở những tỉnh các NHTM chưa có chi nhánh) trong những
năm sau này. Sacombank tuy trong điều kiện vốn điều lệ hãy còn khá mỏng
nhưng vẫn có mặt ở nhiều tỉnh – thành phố trọng điểm kinh tế trong cả nước
được bắt đầu từ sáng kiến độc đáo bày.
Tháng 07/2003, Quỹ học bổng “Sacombank - Ươm mầm cho những
ước mơ” được hình thành bởi sáng kiến của người đứng đầu cơ quan Quản trị
Sacombank, đã được Đại hội đồng cổ đông thống nhất cho trích lập một cách
lâu dài 1% lợi nhuận thuần hằng năm sau khi trích lập các quỹ theo quy định.
Sáng kiến này đã mở đường cho một quá trình gắn kết lâu dài trách nhiệm của
Sacombank đối với cộng đồng xã hội.
Tháng 06/2004, Sacombank ký kết hợp đồng triển khai hệ thống
Corebanking T-24 với công ty TEMENOS (Thụy Sỹ), khởi đầu cho quá trình
hiện đại hóa công nghệ ngân hàng của Sacombank trong tiến trình phát triển
và hội nhập. Thông qua đó, Sacombank ngày càng nâng cao chất lượng hoạt
động, chất lượng quản lý và phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử, ngân
Trang 33
hàng quốc tế.
Năm 2004, Chương trình chạy việt dã “Sacombank chạy vì sức khỏe
cộng đồng” được tổ chức định kỳ tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước
nhân kỷ niệm ngày thành lập chi nhánh Sacombank với hàng trăm giải thưởng
và hàng nghìn người tham gia. Từ đây, Sacombank đã thực hiện một cách tích
cực các hoạt động có tinh thần xã hội hóa cao như : Ngày từ thiện Sacombank
nhân dịp Tết cổ truyền hằng năm với sự tham gia của hàng nghìn các cháu
khuyết tật, neo đơn; những chuyến trực tiếp đến thăm hỏi, sẻ chia; cứu trợ
đồng bào bị thiên tai bão lụt…
Ngày 08/03/2005, Sacombank khai trương hoạt động Chi nhánh 8/3
TPHCM xuất phát từ hoài bão của Ban lãnh đạo Sacombank. Chi nhánh là nơi
thể hiện chính sách vì sự tiến bộ của phụ nữ của Sacombank, đồng thời cũng
là chi nhánh ngân hàng toàn nữ duy nhất có ở Việt Nam. Sáng kiến độc đáo
này đã góp phần vào quá trình gầy dựng cho Sacombank một hình ảnh đặc
trưng và một tính cách riêng đầy ấn tượng trong lòng mọi người, mọi nhà
trong nước và trong khu vực.
Tháng 07/2006, Sacombank Leasing là Công ty cho thuê tài chính đầu
tiên thuộc khối các NHTM cổ phần Việt Nam đã ra đời. Đây là sự kết hợp
chủ trương đa dạng hóa dịch vụ tài chính - ngân hàng trọn gói với quá trình
nâng cao trình độ chuyên môn hóa, nhằm giúp cho các doanh nghiệp trong
nước có thêm điều kiện tăng cường trang thiết bị, đổi mới công nghệ, mở
rộng sản xuất kinh doanh để từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá
trình hội nhập.
Ngày 12/07/2006, cổ phiếu Sacombank là cổ phiếu đầu tiên của hệ
thống các NHTM Việt Nam được phép niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Là đơn vị tiên phong tất yếu phải chịu nhiều thử thách trong quá trình trải
nghiệm, nhưng người đứng đầu cơ quan Quản trị Sacombank cũng chính
người đề xuất chủ trương niêm yết này đã nhận thức sâu sắc rằng: không vượt
Trang 34
qua khó khăn thử thách tất yếu sẽ khó có thể trưởng thành phát triển, vả lại
đây chính là động lực, là chất xúc tác thúc đẩy đội ngũ cán bộ và lực lượng
nhân viên Sacombank đã quyết tâm càng phải quyết tâm cao hơn nữa trong
quá trình tăng cường năng lực cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hoạt động, đảm
bảo chất lượng phát triển bền vững và thể hiện khả năng hội nhập cùng tính
công khai minh bạch trong quản trị Ngân hàng theo các chuẩn mực và thông
lệ quốc tế tốt nhất.
Ngày 10/08/2007, Sacombank đã chính thức khai trương chi nhánh Hoa
Việt - mô hình ngân hàng dành riêng cho người Hoa lần đầu tiên xuất hiện tại
Việt Nam. Chi nhánh Sacombank Hoa Việt được đặt tại địa chỉ 382A - B
Trần Hưng Đạo, Phường 11, Quận 5, TPHCM. Chi nhánh Hoa Việt sẽ mang
lại những tiện ích ngân hàng cùng những ưu đãi tốt nhất, chuyên nghiệp nhất
cho các khách hàng người Hoa đang làm ăn, kinh doanh, sinh sống, du lịch,
nghỉ dưỡng... trên địa bàn TPHCM nói riêng và toàn quốc nói chung.
Năm 2007, lần đầu tiên Sacombank trở thành ngân hàng duy nhất tại
Việt Nam nhận 2 giải thưởng quốc tế uy tín “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam
2007” do Euromoney trao tặng, “Ngân hàng bán lẻ tốt nhất Việt Nam 2007”
do Asian Banking And Finance thuộc tập đoàn Charton Media trao tặng. Đây
là sự ghi nhận của cộng đồng tài chính khu vực và thế giới đối với
Sacombank qua khả năng phát triển bền vững, kết quả hoạt động kinh doanh,
quản lý rủi ro, công nghệ thông tin, chất lượng điều hành và những đóng góp
của Sacombank đối với thị trường tài chính ngân hàng nước nhà.
Ngày 16/05/2008, Sacombank đã công bố thành lập Tập đoàn Tài chính
Sacombank - tập đoàn tài chính tư nhân đầu tiên ở Việt Nam, với vốn điều lệ
hơn 5.200 tỷ đồng, tổng tài sản 79.915 tỷ đồng và đội ngũ nhân sự hơn 6.500
người (tính đến hết quý 1/2008). Tập đoàn tài chính Sacombank gồm có
Sacombank; 05 công ty thành viên trực thuộc là Công ty Chứng khoán- SBS,
Công ty Cho thuê tài chính- SBL, Công ty Kiều hối- SBR, Công ty Quản lý
Trang 35
nợ và khai thác tài sản- SBA, Công ty vàng bạc đá quý - SBJ; Và 06 công ty
thành viên hợp tác chiến lược bao gồm: (1) Công ty Đầu tư Sài Gòn Thương
Tín- STI; (2) Công ty Xuất nhập khẩu Tân Định- Tadimex; (3) Công ty Đầu
tư xây dựng Toàn Thịnh Phát; (4) Công ty Địa ốc Sài Gòn Thương Tín-
Sacomreal; (5) Công ty liên doanh Quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán Việt
Nam- VFM và (6) Trường Đại học Yersin Đà Lạt.
2.1.2. Sơ đồ tổ chức
Hình 1 : Sơ đồ tổ chức của Sacombank
Nguồn : Trang web www.sacombank.com
Trang 36
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh
2.1.3.1. Tổng tài sản
Biểu đồ 1 : Tình hình tăng trưởng Tổng tài sản của Sacombank ( 2002 – 2008)
TỔNG TÀI SẢN
4,296
7,304
10,395
14,156
24,764
63,484
93,182
42%
70%
37% 36%
75%
156%
47%
0
10,000
20,000
30,000
40,000
50,000
60,000
70,000
80,000
90,000
100,000
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 ( Kế hoạch)
Tỷ đồng
0%
20%
40%
60%
80%
100%
120%
140%
160%
180%
TỔNG TÀI SẢN TĂNG TRƯỞNG
Nguồn : Kỷ yếu “ Sacombank, 15 năm hình thành và phát triển”
Tổng tài sản đến cuối năm 2007 đạt 63.484 tỷ đồng, gấp gần 15 lần so
với năm 2002. Dự kiến đến hết năm 2008, tổng tài sản của Sacombank đạt
khoảng 93.182 tỷ đồng. Cơ cấu tổng tài sản được cấu trúc hài hòa nhằm đảm
bảo tính sinh lời cao nhưng vẫn đảm bảo khả năng thanh khoản. Trong tổng
tài sản, tài sản có sinh lời chiếm tỷ trọng 78%.
2.1.3.2. Huy động vốn
Biểu đồ 2 : Tình hình tăng trưởng Huy động vốn của Sacombank ( 2002 – 2008)
HUY ĐỘNG
3,856
6,432
9,201
12,272
21,500
54,777
80,723
47%
155%
75%
33%35%
67%
43%
0
10,000
20,000
30,000
40,000
50,000
60,000
70,000
80,000
90,000
200._.kiến sẽ đạt mức tối thiểu 155.000 tỷ đồng
tăng gấp gần 10,5 lần so với cuối năm 2005. Trong đó, nguồn vốn huy động từ
tổ chức kinh tế và dân cư tăng trưởng bình quân 60 - 65%.
3.1.1.2. Về hiệu quả hoạt động kinh doanh
Tổng dư nợ cho vay đến cuối năm 2010 dự kiến sẽ đạt 85.000 tỷ đồng
chiếm tỷ trọng 65 – 70% trên tổng nguồn vốn huy động. Trong thời kỳ này,
Sacombank tập trung vào việc phát triển đa dạng hóa các sản phẩm, mở rộng
các dịch vụ ngân hàng theo hướng hiện đại hóa. Đồng thời, đặc biệt chú trọng
phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử, ngân hàng quốc tế, các sản phẩm
bán lẻ cao cấp. Đến năm 2010 thu nhập phi tín dụng phải chiếm tỷ trọng
khoảng 32 - 35% trên tổng thu nhập của ngân hàng. Đồng thời, đảm bảo lợi
nhuận trước thuế tăng bình quân mỗi năm 55 – 60% so với năm trước. Tỷ suất
lợi nhuận/ tổng tài sản vào năm 2010 dự kiến đạt 1,7 - 1,9% và tỷ suất sinh
lời/ vốn chủ sở hữu vào năm 2010 đạt 22 - 23%. Chi trả cổ tức hàng năm 14%
- 16%.
Trang 67
3.1.1.3. Về mạng lưới hoạt động
Sacombank phấn đấu đến cuối năm 2010, mạng lưới chi nhánh sẽ có
mặt tại tất cả các tỉnh, thành miền Nam, miền Trung và tại tất cả các tỉnh
thành kinh tế trọng điểm miền Bắc. Dự kiến mạng lưới hoạt động của
Sacombank vào năm 2010 sẽ đạt trên 320 điểm. Đồng thời tiến hành thành
lập các chi nhánh tại các quốc gia lân cận như Lào, Campuchia,…; thành lập
văn phòng đại diện tại Trung Quốc, Mỹ, Châu Âu và Châu Úc.
3.1.1.4. Về định vị thương hiệu
Đến năm 2010, Sacombank trở thành Ngân hàng thương mại hàng đầu
của Việt Nam trong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính đa dạng,
chất lượng cao, trọn gói thông qua các Công ty con thuộc tập đoàn Sacom-
bank, trong đó lấy Ngân hàng Sacombank làm hạt nhân.
3.1.2. Giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2020
3.1.2.1. Về năng lực tài chính
Đến năm 2020, Sacombank phấn đấu là một trong ba ngân hàng thương
mại có vốn tự có lớn nhất Việt Nam, ước tính đạt khoảng 4 tỷ đô la Mỹ. Tổng
tài sản dự kiến sẽ đạt mức tương đương 120 tỷ đô la Mỹ.
3.1.1.2. Về hiệu quả hoạt động kinh doanh
Tổng dư nợ cho vay đến cuối năm 2020 dự kiến sẽ đạt 800.000 tỷ đồng,
tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 25%/năm. Đảm bảo lợi nhuận trước thuế
tăng bình quân mỗi năm 30% so với năm trước. Tỷ suất lợi nhuận/ tổng tài
sản vào năm 2020 dự kiến đạt 2% và tỷ suất sinh lời/ vốn chủ sở hữu vào năm
2020 đạt 20%. Chi trả cổ tức hàng năm 15%.
3.1.1.3. Về mạng lưới hoạt động
Sacombank phấn đấu đến cuối năm 2020, mạng lưới chi nhánh sẽ có
mặt tại tất cả các tỉnh, thành trên cả nước. Đồng thời, mục tiêu đến năm 2020
Sacombank trở thành Ngân hàng thương mại cổ phần có số lượng chi nhánh,
Trang 68
văn phòng đại diện ở nước ngoài nhiều nhất Việt Nam, góp phần đưa thương
hiệu Sacombank vươn tầm ra khu vực và thế giới.
3.1.1.4. Về định vị thương hiệu
Sacombank định vị thương hiệu trong tương lai là trở thành “ Ngân
hàng bán lẻ hiện đại tốt nhất Việt Nam”. Đồng thời, Sacombank không chỉ
được công nhận là ngân hàng có dịch vụ tài chính ngân hàng đa dạng, chất
lượng phục vụ cho khách hàng Việt Nam mà còn phục vụ cho hàng triệu
khách hàng tại các nước Đông Nam Á và Trung Quốc.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỤ THỂ NHẰM XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN THƯƠNG HIỆU SACOMBANK TRONG THỜI GIAN TỚI.
3.2.1. Nhóm giải pháp về định hướng phát triển
− Thành lập Phòng/Ban phát triển thương hiệu chuyên biệt : Hiện nay,
Sacombank chưa có Phòng/ban theo dõi phát triển thương hiệu một cách
chuyên biệt mà mảng thương hiệu lại được đảm trách bởi một bộ phận của
Phòng đối ngoại. Thiết nghĩ, vấn đề phát triển thương hiệu là vấn đề sống
còn nên cần có Phòng phát triển thương hiệu riêng biệt nhằm xây dựng
chính sách thương hiệu và triển khai trong từng giai đoạn cụ thể.
− Xây dựng chính sách thương hiệu rõ ràng và mang tính chiến lược lâu
dài : Chính sách thương hiệu đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây
dựng và phát triển thương hiệu. Chính sách thương hiệu này nhằm hỗ trợ
ngân hàng hoàn thành nhiều mục tiêu kinh doanh khác nhau, đồng thời
thuyết phục khách hàng rằng các sản phẩm, dịch vụ cùng một ngân hàng
thì có cùng chất lượng hoặc đáp ứng một số tiêu chuẩn nào đó.
− Nhận thức đúng đắn và đầy đủ về thương hiệu một cách thống nhất : Từ
cấp lãnh đạo cao nhất tới nhân viên ở cấp thấp nhất để có thể đề ra và thực
thi được một chiến lược thương hiệu trên các mặt: xây dựng, bảo vệ,
quảng bá và phát triển thư ơng hiệu.
Trang 69
− Quản lý các chương trình tiếp thị và xúc tiến giới thiệu sản phẩm, dịch
vụ một cách tập trung từ hội sở đến chi nhánh để tạo cho khách hàng có
cái nhìn thống nhất về thương hiệu Sacombank một cách toàn diện.
3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức thương hiệu
Thương hiệu là một thứ tài sản vô hình nhưng lại chứa đựng một sức
mạnh hữu hình, khi nó quyết định sự lựa chọn của khách hàng đối với sản
phẩm, dịch vụ của bạn, thậm chí nó còn tác động đến sự thành- bại của hoạt
động kinh doanh. Vì lý do đó, một hướng đi cho thương hiệu luôn là thách
thức đối với doanh nghiệp. Để xây dựng hình ảnh thương hiệu trong lòng
khách hàng một cách lâu dài thì Sacombank trước hết cần phải cải thiện logo,
quảng bá tên gọi mang tính đặc trưng sao cho không trùng lắp với các ngân
hàng khác. Cụ thể :
− Xây dựng chiến lược, mục tiêu quảng cáo thương hiệu : Chiến lược xây
dựng thương hiệu phải nằm trong một chiến lược marketing tổng thể, xuất
phát từ nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng, xác định đối tượng khách hàng
mục tiêu, kết hợp với chiến lược phát triển sản phẩm, quảng bá, chính sách
giá, nhằm tạo cho doanh nghiệp và các sản phẩm dịch vụ của họ một hình
ảnh riêng trong tâm trí và nhận thức của khách hàng trong tương quan với
các đối thủ cạnh tranh. Qua đó, các NHTM sẽ đưa các sản phẩm mới thâm
nhập thị trường sẽ thuận lợi hơn.
− Cần tăng cường hoạt động marketing : Để có được những hiểu biết về
khách hàng như mong muốn, nhu cầu, năng lực, sự nhạy cảm đối với giá cả
và mong muốn của họ thì Sacombank cần có các hoạt động marketing hữu
hiệu, để từ đó định hướng phát triển của sản phẩm, dịch vụ cho phù hợp.
Đồng thời, marketing phải kết hợp được những nhu cầu của khách hàng
thống nhất với ý tưởng của thương hiệu và phải phù hợp với khả năng tài
chính.
Trang 70
− Thống nhất thường xuyên sử dụng thương hiệu “ Sacombank” trong
thông cáo báo chí, cũng như bảng hiệu, pano quảng cáo tại trụ sở, văn
phòng làm việc nhằm tạo thói quen sử dụng thương hiệu “ Sacombank” đối
với khách hàng, tránh có sự nhầm lẫn với Ngân hàng TMCP Sài Gòn
(SCB), Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín như thời gian qua.
3.2.3. Nhóm giải pháp về truyền thông, quảng bá
Nhóm giải pháp về truyền thông, quảng bá này có thể thay đổi tùy từng
thời điểm, thời kỳ, nhưng mục đích cuối cùng vẫn là làm như thế nào để
thương hiệu được khách hàng, người tiêu dùng biết và nhớ đến nhiều nhất
trong khoảng thời gian ngắn nhất. Trong thực tế có những thương hiệu ngân
hàng phải mất 5 - 10 năm hoặc lâu hơn nữa mới tìm được chỗ đứng trong
lòng khách hàng. Tuy nhiên, cũng có những thương hiệu ngân hàng chỉ sau
một thời gian ngắn xuất hiện cũng đủ để chiếm lĩnh lòng tin khách hàng. Điều
này cho thấy thương hiệu không phụ thuộc hoàn toàn vào thời gian xuất hiện
trên thị trường, mà còn nhiều yếu tố khác như thông tin về sản phẩm, sự
truyền tải những thông tin về thương hiệu đó v.v đến với khách hàng một các
chính xác và nhanh nhất. Do đó, Sacombank cần thực hiện các biện pháp
truyền thông, quảng bá thương hiệu cụ thể như sau :
- Xây dựng kế hoạch ngân sách nhằm phát triển thương hiệu : Sacombank
cần xây dựng kế hoạch ngân sách cho từng khoản mục chi phí phục vụ cho
công cuộc phát triển lâu dài trong từng giai đoạn, đặc biệt là ngân sách để
truyền thông, quảng bá thương hiệu.
- Tăng cường quan hệ công chúng, hay giao tiếp cộng đồng ( public rela-
tions, viết tắt là PR) : Sacombank cần chủ động quản lý các quan hệ giao
tiếp cộng đồng để tạo dựng và giữ gìn một hình ảnh tích cực của mình. Các
hoạt động quan hệ công chúng bao gồm các việc quảng bá thành công, giảm
nhẹ ảnh hưởng của các thất bại, công bố các thay đổi, và nhiều hoạt động
khác như tài trợ các chương trình xã hội, hoạt động từ thiện...
Trang 71
- Thiết kế Website của Sacombank đẹp mắt hơn, thông tin phong phú, đa
dạng và cập nhật hơn. Ngoài việc làm cho Website của mình trở thành
kênh truyền thông trực tiếp truyền tải thông tin về sản phẩm, dịch vụ mới
đến với khách hàng thì Sacombank cũng cần thiết kế nó trở thành kênh
quảng bá, xây dựng thương hiệu một cách hữu hiệu thông qua việc cập nhật
thông tin phong phú, đa dạng về những biến động của thị trường, về chính
sách ưu đãi ngân hàng trong từng thời kỳ.
- Thường xuyên quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng,
bằng các bản tin quảng cáo về sản phẩm mới hay trực tiếp trong việc giao
tiếp, quan hệ với khách hàng và công chúng. Thông qua các phương tiện
thông tin tivi, báo, đài giới thiệu hình ảnh ngân hàng đến với những đối
tượng chưa trực tiếp đến với ngân hàng, là làm thế nào để họ có thể là
những khách hàng trong tương lai.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác truyền thông chuyên nghiệp hơn:
Vì lĩnh vực tài chính ngân hàng là một lĩnh vực rất nhạy cảm do đó cần phải
có bộ phận chuyên trách có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực tài chính ngân
hàng và đã được đào tạo về nghiệp vụ truyền thông nhằm cung cấp thông
tin về Sacombank cũng như sản phẩm, dịch vụ của Sacombank một cách
đầy đủ, chính xác và kịp thời.
- Nâng cao chất lượng các bài viết, tin, ảnh để không chỉ cung cấp cho tờ
Thông tin, Website mà còn có thể cung cấp cho các báo đài trong và ngoài
ngành.
- Thông tin trong nội bộ ngân hàng tốt : phổ biến những thông tin về sản
phẩm, dịch vụ, định hướng phát triển đến toàn thể CBNV. Bởi hơn ai hết,
CBNV là những người trực tiếp giao dịch, tiếp xúc với khách hàng – đây là
kênh truyền tải thông điệp từ ngân hàng đến với khách hàng thông qua các
mối quan hệ của nhân viên hoặc khi có điều kiện tiếp xúc với người tiêu
dùng rất hiệu quả. Hơn nữa, chính sự hiểu biết sâu sắc về những sản phẩm,
Trang 72
dịch vụ cũng như nhiệm vụ phát triển của đơn vị mình sẽ làm cho CBNV ý
thức được trách nhiệm của mình trong công việc. Đồng thời sẽ mang lại
hiệu quả cao trong việc tư vấn, giới thiệu sản phẩm. Từ đó tạo động lực để
mỗi CBNV phải là một đầu mối marketing để giới thiệu, cung cấp được
nhiều thông tin tốt của ngân hàng đến khách hàng.
- Triển khai các hoạt động tài trợ các chương trình xã hội nhằm khuếch
trương thương hiệu : phải được thực hiện thường xuyên, đồng bộ ở tất cả
các đơn vị trong hệ thống. Điều này sẽ tạo nên tính thống nhất và sẽ có
những tác động mạnh hơn đối với khách hàng.
3.2.4. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực tài chính
Nhóm giải pháp này nhằm giúp cho Sacombank nâng cao năng lực tài
chính, quản trị tốt rủi ro nhằm điều hành kinh doanh một cách mạnh dạn và
đạt hiệu quả cao, cụ thể :
− Tiếp tục thực hiện các biện pháp tăng vốn chủ sở hữu một cách nhanh
chóng và an toàn : Vốn chủ sở hữu là yếu tố tài chính quan trọng nhất, nó
là điều kiện cơ bản đảm bảo tiền gởi của khách hàng, một khi gặp rủi ro
trong kinh doanh ( như xử lý các khoản nợ khó đòi, tạo khả năng thanh
toán các khoản nợ của khách hàng). Tuy thời gian qua thị trường chứng
khoán ảm đạm, giá cổ phiếu (STB) của Sacombank đang rớt giá nhưng
nhìn về tương lai thì cổ phiếu ngành tài chính – ngân hàng vẫn là loại
chứng khoán có tiềm năng lớn trong tương lai. Mặc dù vốn điều lệ của
Sacombank đã tăng mạnh so với các ngân hàng thương mại cổ phần khác
trong thời gian qua tuy nhiên còn nhỏ bé so với các ngân hàng trên thế giới
và khu vực. Do đó, Sacombank cũng cần có chiến lược thu hút các nhà đầu
tư chiến lược nước ngoài từ bây giờ để chuẩn bị tiền đề cho việc thu hút
vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài khi Nhà nước mở hạn mức đầu tư tối đa
(room) cho đối tượng này trên mức 30% như hiện nay.
Trang 73
− Tăng cường công tác huy động vốn : Tiếp tục mở rộng mạng lưới chi
nhánh và phòng giao dịch toàn quốc, bảo đảm thuận tiện cho huy động
vốn; hiện đại hóa công nghệ gắn liền với đổi mới phong cách giao dịch của
nhân viên, tạo sự tôn trọng của ngân hàng đối với người gửi tiền.
− Quản lý tốt rủi ro : thực hiện quản trị ngân hàng từ chiều rộng sang chiều
sâu theo hướng nâng cao năng lực quản trị rủi ro thông qua việc hoàn thiện
bộ máy tổ chức quản trị nội bộ, thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra và
chế độ báo cáo thường xuyên. Quản lý rủi ro tín dụng, giảm dư nợ xấu
bằng cách tiếp tục cơ cấu lại danh mục cho vay theo hướng có sự cân đối
giữa các kỳ hạn huy động và cho vay; cho vay phân tán vào các ngành lĩnh
vực có nhu cầu vốn thực sự, tránh tình trạng tập trung cho vay vào các lĩnh
vực đầu cơ như bất động sản và chứng khoán như thời gian qua. Cần đẩy
mạnh phát triển bộ phận quản lý rủi ro về tỷ giá, lãi suất.
− Phải đảm bảo thanh khoản với mức độ cần thiết trong kết cấu tài sản có
và mức độ sinh lãi có thể chấp nhận được. Tức phải đảm bảo toàn bộ giá trị
tài sản có phải lớn hơn các khoản nợ phải thanh toán ở mọi thời điểm. Nếu
trong kinh doanh vốn cho vay không có khả năng thu hồi và lỗ trong
nghiệp vụ chứng khoán sẽ làm cho giá trị tài sản có xuống thấp hơn tài sản
nợ.
− Nâng cao hiệu quả hoạt động thông qua việc định hướng kinh doanh rõ
ràng, triển khai thực hiện và kiểm tra kiểm soát chỉ tiêu chặt chẽ. Đồng
thời, có những chính sách khen thưởng kịp thời, hợp lý cho những chi
nhánh, phòng giao dịch thực hiện vượt mức chỉ tiêu được giao, có chế độ
lương thưởng hợp lý cho từng chức vụ, vị trí đặc biệt là đối với đội ngũ
nhân viên bán hàng trực tiếp.
3.2.5. Nhóm giải pháp về hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ
thống thanh toán.
Trang 74
− Hoàn thiện chương trình Core – Banking : Hiện nay, Sacombank vẫn
còn sử dụng hai chương trình phần mềm song song là Smartbank và Core -
Banking. Chính điều này đã làm cho nghiệp vụ chuyển tiền trong hệ thống
giữa các chi nhánh sử dụng hai chương trình khác nhau mất nhiều thời
gian xác minh qua fax, điện thoại và không an toàn. Do đó, Sacombank
cần tiếp tục hoàn thiện chương trình phần mềm Core Banking nhằm triển
khai thống nhất trên toàn hệ thống để cải thiện thời gian giao dịch, phát
triển đa dạng các loại dịch vụ, từng bước công khai hoá và minh bạch hoá
các thông tin về hoạt động ngân hàng bảo đảm cho khách hàng, và các nhà
quản lý, lãnh đạo có đủ thông tin chính xác về hoạt động ngân hàng.
− Đào tạo nguồn nhân lực CNTT : Cần đặc biệt chú trọng phát triển nguồn
nhân lực CNTT qua công tác đào tạo, đào tạo lại và tuyển dụng mới. Đồng
thời, đào tạo nguồn nhân lực tại các chi nhánh có trình độ về nghiệp vụ, kỹ
thuật đủ sức tiếp cận được với công nghệ mới.
− Tiếp tục đầu tư hiện đại hoá các hệ thống thanh toán theo hướng tự
động hoá, đặc biệt ưu tiên cho các nghiệp vụ thanh toán, tín dụng, kế toán,
quản lý rủi ro, phát triển hệ thống giao dịch trực tuyến, phát triển dịch vụ
ngân hàng điện tử như : Internet banking, mobile banking..., và các dịch vụ
thanh toán không dùng tiền mặt theo hướng giao dịch tự động nhưng đảm
bảo chất lượng an toàn, hiệu quả như hệ thống thẻ ATM, thẻ tín dụng....
3.2.6. Nhóm giải pháp nâng cao trình độ nhân lực
Khách hàng đánh giá một thương hiệu thông qua kinh nghiệm của
mình về thương hiệu đó và chịu sự ảnh hưởng của môi trường chung quanh.
Tại bất kỳ nơi nào có diễn ra sự tiếp xúc của thương hiệu với khách hàng dù
trực tiếp như lời cám ơn của cô giao dịch viên ngân hàng, thái độ vui vẻ của
người bảo vệ, hay dù gián tiếp như một đoạn phim quảng cáo khách hàng
đang xem trên ti vi, một băng rôn quảng cáo treo trên đường phố đều mang lại
những trải nghiệm cho khách hàng về thương hiệu. Khách hàng không ngừng
Trang 75
trải nghiệm và kiểm chứng những gì mình nhận được, quan sát được từ
thương hiệu để hình thành nên các cấp độ khác nhau về ứng xử đối với
thương hiệu. Đây là một quá trình phức tạp đòi hỏi sự nỗ lực không chỉ của
riêng phòng marketing mà là của tất cả mọi người đang đại diện cho thương
hiệu đó.
Nhân lực chất lượng cao là động lực để bức phá, nâng cao tính cạnh
trạnh và cũng góp phần lớn vào việc phát triển thương hiệu ngân hàng. Bởi vì,
nhìn chung tất cả mọi thứ đều do con người tạo ra. Nâng cao trình độ nhân lực
cần chú trọng những giải pháp sau :
− Đào tạo trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng bán hàng, chăm sóc
khách hàng nhằm tạo ra đội ngũ nhân viên đáp ứng được nhu cầu công
việc hiện tại ngày càng tốt hơn. Đồng thời, cần trau dồi đạo đức nghề
nghiệp nhằm phát triển nguồn nhân lực mang tính toàn diện và bền vững.
− Triển khai tốt lộ trình đào đạo nhân viên, cán bộ quản lý sơ, trung và
cao cấp cho Sacombank giai đoạn 2007 – 2010. Tuy nhiên, để thực hiện lộ
trình đào tạo này được chất lượng và hiệu quả, thiết nghĩ cần phải có thành
lập một tổ theo dõi đào tạo ( nằm ngoài cơ cấu tổ chức của Trung tâm đào
tạo) thường xuyên kiểm tra, đánh giá chương trình một cách kịp thời và
chặt chẽ.
− Xây dựng môi trường nội bộ lành mạnh với hệ thống khuyến khích có
hiệu quả. Cải thiện môi trường làm việc tốt hơn bằng cách tạo điều kiện
cho nhân viên phát triển khả năng cá nhân; tăng lòng tự hào bản thân; có
cơ hội thăng tiến; có thái độ tích cực và động lực cao làm việc; đó chính là
động lực để những người lao động ngày càng gắn bó hơn với ngân hàng và
sẵn sàng đón nhận những thử thách mới trong công việc góp phần nâng
cao hình ảnh vị thế ngân hàng trên thương trường.
− Cần phải có chính sách đãi ngộ và sử dụng con người để quy tụ được
nhân tài về với Sacombank bằng cách đánh giá đúng năng lực và trình độ
Trang 76
của từng cá nhân để bố trí, sử dụng hợp lý, trọng dụng những người có
năng lực, đào thải những người không có năng lực. Nhân viên ngân hàng
là những người làm việc trên lĩnh vực dịch vụ cao cấp nên phải đảm bảo
tính chuyên nghiệp và lương cao. Vì vậy, cần có cơ chế tiền lương phù
hợp với trình độ và năng lực của cán bộ, tránh được trường hợp cán bộ
quan liêu, tiêu cực…
− Gắn chiến lược nhân sự với việc liên kết, trực tiếp đầu tư vào các
trường đại học và các trung tâm đào tạo về chuyên ngành tài chính –
ngân hàng phục vụ cho toàn Sacombank – Group. Đồng thời, Sacombank
cần có một chiến lược nhân sự trung và dài hạn, các chính sách nhằm lôi
kéo và tận dụng nguồn chất xám trong xã hội.
− Nâng cao năng lực quản trị điều hành của cán bộ quản lý cấp cao thông
qua sự trợ giúp của các đối tác chiến lược nước ngoài. Đối tác chiến lược
nước ngoài hiện nay là ngân hàng ANZ, tập đoàn tài chính IFC và Quỹ
đầu tư Dragon Financial Holdings. Đây là các tập đoàn tài chính lớn, có
lịch sử hình thành và phát triển lâu đời trên thế giới. Do đó, các cán bộ
quản lý cấp cao của Sacombank không chỉ học hỏi từ họ về chuyên môn,
cách thức quản trị rủi ro ngân hàng, quản trị tài sản có một cách an toàn và
hiệu quả, mà còn học hỏi được cách thức xâm nhập thị trường, quảng bá
thương hiệu trong nền kinh tế hội nhập.
3.2.7. Nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ
Đối với một ngân hàng thương mại, việc xây dựng thương hiệu khó
khăn hơn nhiều so với doanh nghiệp kinh doanh những lĩnh vực khác, đó là
do các sản phẩm của ngân hàng mang tính chất vô hình và thường có nhiều
điểm giống nhau giữa các sản phẩm, dịch vụ của các ngân hàng khác. Do đó,
thương hiệu đối với một NHTM không chỉ đơn thuần là một nhãn hiệu, một
cái tên mà nó bao gồm cả uy tín, chất lượng, giá cả sản phẩm dịch vụ, phong
Trang 77
cách giao dịch và văn hoá của mỗi ngân hàng. Do đó, Sacombank cần thực
hiện các giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ :
-Cải tiến và hoàn thiện hệ thống các dịch vụ truyền thống thông qua việc cải
tiến chất lượng dịch vụ, thủ tục giao dịch, phong cách phục vụ và chính sách
tìm hiểu thị trường. Tập trung vào các khu vực thị trường mục tiêu: Khu vực
đô thị, khu công nghiệp, các trung tâm kinh tế - thương mại. Các khách hàng
mục tiêu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, các tập đoàn quốc gia và đa quốc gia, cá nhân và gia đình có thu nhập
trên mức trung bình. Những thị trường mới nổi và thị trường có nhiều tiềm
năng, nhất là khu vực dịch vụ ngân hàng bán lẻ, tài trợ dự án, tài trợ thương
mại, dịch vụ thanh toán và chuyển tiền.
-Để xây dựng và chiếm lĩnh lòng tin đối với người tiêu dùng, đòi hỏi sản
phẩm của ngân hàng đó cần phải có những điểm phù hợp, đồng thời phải
có sự khác biệt đối với sản phẩm của ngân hàng khác. Sự phù hợp trong
sản phẩm là khả năng thuơng hiệu đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Còn
sự khác biệt là để thể hiện sự vượt trội của thương hiệu đó. Điều này đòi hỏi
ngân hàng phải phải thường xuyên có những sản phẩm, dịch vụ mới hoặc gia
tăng chức năng vượt trội so với sản phẩm, dịch vụ cùng loại.
-Cần đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá các sản phẩm dịch vụ mới, có
chương trình marketing rộng rãi tới mọi tầng lớp dân cư nhằm thu hút khách
hàng, phát triển thị trư ờng để động viên, khuyến khích mọi đối tượng khách
hàng đến giao dịch với ngân hàng thông qua việc tổ chức các cuộc diễn đàn,
thảo luận xoay quanh vấn đề những tiện ích khách hàng được hưởng khi sử
dụng sản phẩm, dịch vụ.
-Mở rộng quan hệ đại lý quốc tế để cung cấp các dịch vụ ngân hàng qua biên
giới nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hoá sản phẩm trong kinh
doanh nhằm nâng uy tín trong kinh doanh đối với công chúng, có thể cạnh
Trang 78
tranh với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi mở cửa hội nhập dịch vụ
ngân hàng.
3.2.8. Nâng cao chất lượng phục vụ
− Hầu hết các ngân hàng thường mắc sai lầm khi cho rằng chỉ bằng quảng
cáo, logo đẹp, khuyến mãi là có thể tạo nên thương hiệu mạnh. Tuy nhiên,
trên thực tế yếu tố để tạo ra lòng trung thành và độ tin cậy của khách hàng
đó chính là chất lượng phục vụ của ngân hàng. Khách hàng có thể thích
quảng cáo, khuyến mãi, rất háo hức đến ngân hàng quảng cáo để gửi tiền
nhưng chỉ cần nhân viên giao dịch hạch sách khách hàng, thủ tục rút tiền
nhiêu khê thì liệu khách hàng có còn quay lại? Hôm nay khách hàng đến vì
có khuyến mãi, ngày mai khi không còn khuyến mãi hay ngân hàng kế bên
có khuyến mãi lớn hơn, liệu khách hàng có tìm đến chúng ta?. Do đó, để
xây dựng một thương hiệu mạnh, bền vững trong lòng khách hàng, thì bản
thân các ngân hàng đang hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực cung cấp
dịch vụ cao cấp là dịch vụ tài chính càng phải quan tâm đến chất lượng
phục vụ. Chất lượng phục vụ không chỉ là thái độ phục vụ, trình độ, kỹ
năng của nhân viên mà còn được đánh giá qua thời gian hoàn tất giao dịch,
tiện nghi thoải mái nơi giao dịch và lợi ích của sản phẩm, dịch vụ mà ngân
hàng đó mang lại.
− Việc giải quyết vấn đề cho khách hàng được xem là vấn đề sống còn trong
việc xây dựng thương hiệu, đặc biệt là trong thời đại mà khách hàng, những
người có thể có ấn tượng xấu về sản phẩm hay dịch vụ, có thể dễ dàng phát
biểu cảm nhận với người khác thông qua những phương tiện truyền thông
có thể tạo ra khách hàng. Do đó, cần phải lấy khách hàng làm trung tâm
phải nhắm vào sự ảnh hưởng lẫn nhau của khách hàng, nếu không sẽ phải
đối đầu với một kiểu cách mạng khác được tạo ra bởi khách hàng.
3.2.9. Xây dựng chiến lược khách hàng và phát triển mạng lưới
Trang 79
− Tiếp tục tăng cường phát triển mở rộng mạng lưới, tăng quy mô hoạt động
phù hợp với năng lực tài chính, quản trị kinh doanh, nguồn nhân lực, công
nghệ hiện có.
− Triển khai phát triển nhanh chóng các kênh phân phối ra nước ngoài qua
các hình thức như thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện ở nước ngoài
như Mỹ, các nước Châu Âu và một số nước châu Á nhằm từng bước thâm
nhập và cạnh tranh cung cấp dịch vụ ngân hàng trên thị trường quốc tế.
− Xác định khách hàng mục tiêu, xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn
để phục vụ và chăm sóc khách hàng, và có những chính sách thích hợp nhất
để thoả mãn những khách hàng mục tiêu đó. Ngân hàng và khách hàng
luôn gắn bó với nhau, phải giữ vững và phát triển mối quan hệ lâu bền
khách hàng truyền thống và khách hàng có uy tín trong giao dịch ngân
hàng, có chính sách ưu đãi, hậu mãi.
− Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ theo hướng đột phá về công nghệ nhằm
đưa Sacombank trở thành ngân hàng bán lẻ đa năng hiện đại, cung cấp các
sản phẩm dịch vụ mới dành cho giới trẻ năng động. Vì nước ta là một nước
đông dân số, các tổ chức kinh tế chủ yếu là vừa và nhỏ, đa số giới trẻ
thường truy cập Internet, thích sử dụng công nghệ hiện đại, giao dịch điện
tử nên cần có chiến lược phát triển riêng, phù hợp trong từng thời kỳ, giai
đoạn tăng trưởng kinh tế theo xu hướng hội nhập hiện nay.
− Xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, phân tích kỹ môi trường kinh
doanh để xác định đúng đối thủ cạnh tranh.
3.2.10. Tăng cường liên minh, liên kết
Để tăng trưởng tốt và bền vững trên chính thị trường nước nhà, bản
thân các NHTM Việt Nam bên cạnh sự cạnh tranh lành mạnh cũng cần có sự
liên minh, liên kết. Sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng trong nước không phải
là cạnh tranh theo kiểu sống còn mà nên là cạnh tranh trong sự hợp tác cùng
phát triển, để có thể giữ vững thị phần, hạn chế sự tăng trưởng thị phần của
Trang 80
các ngân hàng nước ngoài – đối thủ cạnh tranh chính của các ngân hàng trong
nước. Vì vậy xu hướng hội nhập sắp tới, Sacombank cũng cần :
− Tăng cường hợp tác với các ngân hàng trong nước để cùng nhau phát triển,
mở rộng thị phần và có thể khống chế được thị phần của các ngân hàng
nước ngoài. Bên cạnh việc mở rộng kênh phân phối, thu hút khách hàng,
việc hợp tác giữa các ngân hàng trong nước sẽ tận dụng những kinh
nghiệm của nhau, chuyển những điểm yếu thành điểm mạnh để cùng phát
triển.
− Đẩy mạnh liên kết, hợp tác giữa các ngân hàng để mở rộng các kênh phân
phối dịch vụ, cung ứng nhiều tiện ích cho khách hàng hợp tác để đầu tư,
liên minh hệ thống thẻ, tiết giảm chi phí, thỏa thuận thực hiện dịch vụ
thanh toán, kết nối dữ liệu thông tin tín dụng, hỗ trợ thông tin tín dụng
khách hàng nhằm giảm thiểu tình hình vay nợ nhiều nơi của khách hàng
nhằm phục vụ cho chiến lược phát triển.
− Tham gia tích cực vào Hiệp hội ngân hàng nhằm hạn chế những thỏa thuận
mang tính chất ngăn cản sự vận động khách quan của thị trường tài chính,
ví dụ như thỏa thuận mức trần lãi suất. Hiệp hội ngân hàng là nơi cung cấp
thông tin của thị trường, làm cầu nối cho những mối quan hệ hợp tác tốt
nhất giữa các ngân hàng, hỗ trợ các ngân hàng thành viên.
− Mở rộng quan hệ trao đổi, học tập kinh nghiệm quản lý, tranh thủ vốn,
tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật để hiện đại hóa công nghệ ngân
hàng, phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân phù hợp với thông lệ, chuẩn
mực quốc tế từ các cổ đông chiến lược nước ngoài.
3.2.11. Bảo vệ thương hiệu
Đi đầu trong việc đăng ký bảo vệ thương hiệu là Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam ( BIDV) : Ngày 24/5/2005, BIDV chính thức được Cơ
quan đăng ký sáng chế và Thương hiệu Mỹ chứng nhận đăng ký và bảo hộ
thương hiệu BIDV cả hình và chữ cho các dịch vụ tài chính và ngân hàng
Trang 81
thuộc nhóm 36 theo phân loại quốc tế tại thị trường Mỹ. Thương hiệu BIDV
sẽ được bảo hộ trong thời gian 10 năm và sẽ được gia hạn nếu BIDV có tuyên
bố tiếp tục sử dụng và có Đơn đề nghị gia hạn. BIDV cũng có thể sử dụng
nhãn hiệu đã đăng ký để chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu, sử dụng như
một phần tài sản lớn góp vốn trong liên doanh liên kết với các đối tác nước
ngoài.
Đăng ký thương hiệu ngân hàng cũng tương tự như thủ tục đăng ký các
loại nhãn hiệu hàng hóa khác. Khi một ngân hàng đăng ký thương hiệu của
mình tại một lãnh thổ, quốc gia nào đó có nghĩa là ngân hàng đó ngăn chặn
bên thứ ba sử dụng và đăng ký thương hiệu giống hệt hoặc thương hiệu tương
tự có khả năng gây nhầm lẫn với thương hiệu của ngân hàng nếu họ không
được cho phép.
Vì vậy, giải pháp phát triển thương hiệu Sacombank một cách lâu
dài và bền vững thì Sacombank cần phải đăng ký độc quyền tên ngân
hàng, logo của mình tại Việt Nam và trên quốc tế. Điều này nhằm tạo sự
khác biệt và tiện lợi trong việc sử dụng thương hiệu Sacombank để quảng
cáo, giao dịch trực tiếp với đối tác, khách hàng và các ngân hàng đại lý trên
khắp thế giới.
Tóm lại : Từ thực trạng xây dựng thương hiệu, cũng như vị thế thương
hiệu hiện tại của Sacombank ở chương 2; chương 3 đã đưa ra các nhóm giải
pháp nhằm nâng cao giá trị thương hiệu Sacombank trong tương lai, vươn tầm
ra khu vực và thế giới. Xây dựng và phát triển thương hiệu là một quá trình
liên tục và lâu dài, đòi hỏi có định hướng rõ ràng, thực hiện đồng bộ, toàn
diện của toàn thể CBNV của toàn ngân hàng.
Trang 82
KẾT LUẬN :
Ngày nay, phần lớn ngân hàng nhận thức rằng thương hiệu là quan
trọng. Tuy nhiên từ nhận thức đến hành động là một khoảng cách đáng kể. Và
ngay cả ngân hàng triển khai hoạt động xây dựng thương hiệu, thì để đạt được
thương hiệu mạnh vẫn đòi hỏi nhiều yếu tố cần thiết cốt lõi.
Để xây dựng một thương hiệu ngân hàng mạnh cần phải có thời gian
trải nghiệm nhằm tạo nên lòng trung thành của khách hàng thông qua việc
nâng cao tiềm lực tài chính, công nghệ, mạng lưới, kinh nghiệm,….Ngoài ra,
việc xây dựng thương hiệu đòi hỏi phải thực hiện một cách đồng bộ, chuyên
nghiệp. Vì chỉ có chuyên nghiệp mới tạo nên đặc trưng khác biệt và tin cậy.
Xây dựng và phát triển thương hiệu ngân hàng cần có những nỗ lực của toàn
thể cán bộ công nhân viên, cộng với cam kết của lãnh đạo thì mới thành công.
Đề tài đã đề cập đến các vấn đề liên quan đến thương hiệu, thương hiệu
ngân hàng, các yếu tố cốt lõi để xây dựng thương hiệu ngân hàng mạnh. Đồng
thời, sau khi nghiên cứu, khảo sát thực tế thực trạng thương hiệu Sacombank:
những thành tựu cũng như những mặt chưa đạt được của thương hiệu
Sacombank mà đề tài đưa ra một số nhóm giải pháp nhằm giúp cho thương
hiệu Sacombank ngày càng phát triển, có thể vươn tầm ra khu vực và trên thế
giới.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA0529.pdf