Thuế Xuất nhập khẩu & hiện tượng thất thu thuế Nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC Lời mở đầu 4 Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU 6 1. Khái niệm thuế xuất nhập khẩu 6 2. Vai trò của thuế xuất nhập khẩu đối với sự phát triển của kinh tế 8 3. Nội dung cơ bản của luật thuế xuất khẩu, luật thuế nhập khẩu hiện hành 14 4.Thất thu thuế nhập khẩu và sự cần thiết phải chống thất thu thuế nhập khẩu 23 CHƯƠNG II THỰC TRẠNG THU THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU VÀ MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN CHO HIỆN TƯỢNG THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM 28 I Tình hình xuất nhập kh

doc66 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2358 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Thuế Xuất nhập khẩu & hiện tượng thất thu thuế Nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẩu trong mấy năm gần đây 28 1. Đánh giá chung 28 2. Thị trường xuất nhập khẩu năm 2004 có nhiều chuyển biến tích cực 30 II.Tình hình thu thuế nhập khẩu hiện nay 32 1. Cơ sở tính thuế 32 2. Quy trình tính và thu thuế 36 3. Kết quả hoạt động thu thuế xuất nhập khẩu 36 III. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất thu thuế xuất nhập khẩu ở Việt nam 41 1. Do luật thuế xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, thiếu chặt chẽ và phức tạp. 41 2. Do buôn lậu và gian lận thương mại 43 2.1 Tình hình buôn lậu hiện nay trên các tuyến biên giới, và các phương thức vận chuyển……….45 2.1.1 Tuyến biên giới các tỉnh phía bắc..........................45 2.1.2 Tuyến biên giới miền trung...................................45 2.13 Tuyến biên giới Tây nam.......................................45 2.1.4 Tuyển đường biển.................................................46 2.1.5 Tuyến đường hàng không......................................47 2.2 Tình hình gian lận thương mại hiện nay và các phương thức. 47 2.2.1 Lợi dụng sơ hở của luật thuế xuất nhập khẩu47 2.2.2 Khai sai số lượng, trọng lượng của hàng hóa. 49 2.2.3 Ghi sai xuất xứ của hàng hóa. ………………..49 2.2.4 Thông qua tình trạng tạm nhập tái xuất…….49 2.2.5 Thông qua yêu cầu kiểm định trước………….50 khi nhập hàng. 3. Do tình trạng nợ thuế 50 4. Một số nguyên nhân khác. 51 4.1 Do sự yếu kém của cán bộ Hải quan………………….51 4.2 Do công tác kiểm tra kiểm soát chưa tốt……………..51 4.3 Do dân trí về thuế chưa cao…………………………….51 4.4 Do đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn…………..52 Chương III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG THẤT THU THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU 53 I Những quan điểm cơ bản của việc chống thất thu thuế xuất nhập khẩu....................................................................…….53 1. Phải giải quyết hài hóa mối quan hệ giữa lợi ích của nhà nước và lợi ích của đối tượng nộp thuế. 53 2. Chống thất thu thuế ngay từ trong nhà nước. 53 3. Chống thất thu thực và chống thất thu tiềm năng phải cùng được coi trọng 54 4. Phối hợp các ngành các cấp trong hoạt động 54 chống thất thu thuế II. Mục tiêu cơ bản của chống thất thu thuế nhập khẩu. 54 III. Kinh nghiệm chống thất thu thuế ở một số nước..................... 55 1. Ở Pháp……………………………………………………55 2. Ở Singapo ……………………………………………….56 3. Ở Đan mạch……………………………………………...57 IV.Một số giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu. 58 1. Tiến tới xây dựng luật thuế xuất nhập khẩu hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với tình hình phát triển kinh tế của đất nước. 58 2. Tăng cường công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại 63 3. Cải tiến cơ chế quản lý thuế xuất nhập khẩu: 67 V.Điều kiện để thực hiện các giải pháp chống thất thu thuế 69 1. Về con người 69 2. Về khoa học kỹ thuật 69 3. Về phía hải quan 70 Kết luận Tài liệu tham khảo LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thuế xuất nhập khẩu hiện nay đóng góp phần lớn vào nguồn thu của ngân sách nhà nước, là một trong các phương tiện để nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình. Thông qua thuế xuất nhập khẩu có thể quản lý doanh nghiệp ở tầm vĩ mô, bảo hộ sản xuất trong nước, định hướng người tiêu dùng… Nhưng hiện nay tình trạng thất thu thuế nhập khẩu ngày càng trở nên phổ biến, thông qua nhiều hình thức khác nhau, lợi dụng các đối tượng và kẽ hở của pháp luật mà các đối tượng trốn thuế thực hiện hành vi của mình. Thất thu thuế không những chỉ diễn ra ở các địa bàn biên giới, vùng biển, hàng không, các đơn vị kinh tế quốc doanh mà còn diễn ra ở các hoạt động kinh doanh hàng hóa nhập khẩu, mua bán nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, tạm nhập tái xuất… Thất thu thuế nhập khẩu không những chỉ ảnh hưởng đến nguồn thu của ngân sách nhà nước mà còn là vấn đề đạo đức ảnh hưởng đến kinh tế, xã hội. Khi thất thu thuế nhập khẩu công cụ quản lý bằng thuế giảm tính hiệu lực không còn phát huy tác dụng của nó. Từ nó làm ảnh hưởng đến quan hệ thương mại trong và ngoài nước. Đặc biệt đối với Việt nam nhu cầu nhập khẩu còn đang lớn do vậy thất thu thuế nhập khẩu đối với Việt nam càng càng là vấn đề nổi cộm hơn. Trên cơ sở đó việc thực hiện đề tài: Thuế xuất nhập khẩu và hiện tượng thất thu thuế nhập khẩu ở Việt nam hiện nay có ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tiễn. 2. Mục đích nghiên cứu Thuế xuất nhập khẩu là một trong các công cụ thực hiện quản lý hoạt động thương mại. Người viết nghiên cứu đề tài này nhằm có những hiểu biết về lý luận thuế xuất nhập khẩu, mối quan hệ giữa thất thu thuế nhập khẩu và thuế nhập khẩu. Đánh giá thực trạng thất thu thuế nhập khẩu hiện nay. Trên cơ sở đó kiến nghị các giải pháp đề khắc phục thực trạng trên. Qua đó góp phần tăng thu ngân sách, bảo hộ sản xuất thúc đẩy quan hệ thương mại… 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tình hình thất thu thuế nhập khẩu ở Việt nam hiện nay và các nguyên nhân của nó. Trong giới hạn một chuyên đề thực tập tốt nghiệp người viết chỉ xin đề cập tới một số nguyên nhân chủ yếu, một số giải pháp nổi bật nhằm khắc phục tình trạng thất thuế nhập khẩu trong thời gian tới ở Việt nam. 4. Phương pháp nghiên cứu Để đánh giá chính xác thực trạng thất thu thuế để từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp người viết sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-lênin, kết hợp với các biện pháp so sánh đối chiếu, phân tích dựa trên các số liệu tài liệu có sẵn. 5. Kết cấu của đề tài Đề tài được kết cấu thành ba phần chính; Chương 1: Cơ sở lý luận về thuế xuất nhập khẩu và hiện tượng thất thu thuế. Chương 2: Thực trạng thất thu thuế nhập khẩu và các nguyên nhân. Chương 3: Một số giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU 1. Khái niệm thuế xuất nhập khẩu Thuế nói chung vừa là một phạm trù mang tính khách quan vừa là phạm trù mang tính lịch sử. Thuế tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và hoạt động của nhà nước. Khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định, giai cấp và tầng lớp xã hội xuất hiện, thì nhà nước cũng hình thành. Để thực hiện các chức năng của mình thì nhà nước cần có một nguồn tài chính. Nguồn tài chính đó có thể là sự huy động của các tổ chức cá nhân trong xã hội. Theo một cách nào đó có thể hiểu nguồn tài chính này là thuế. Nhà nước đặt ra nhiều sắc thuế khác nhau áp dụng đối với từng lĩnh vực từng đối tượng. Thuế xuất nhập khẩu là một khoản thuế không thể thiếu đặc biệt khi hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia ngày càng trở nên sôi động. Thuế xuất nhập khẩu có thể hiểu là khoản thu bắt buộc điều tiết vào giá của hàng hoá dịch vụ khi trao đổi với nước khác mà người sở hữu nó phải nộp cho nhà nước. Cũng có nhiều quan niệm về thuế xuất nhập khẩu nhưng có thể định nghĩa thuế xuất nhập khẩu như sau: “ Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một loại thuế gián thu đánh vào các mặt hàng mậu dịch, phi mậu dịch được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới Việt Nam.” Hồ Ngọc Cẩn- NXB Thống kê Hà Nội 2003- Thuế xuất nhập khẩu 2003 tr.13. Thuế xuất nhập khẩu hay còn gọi là thuế quan được các nước tư bản sớm phát triển sử dụng như Anh và Pháp. Sự phát triển của thuế xuất nhập khẩu cũng trải qua các quá trình khác nhau ở những giai đoạn khác nhau và ở những nước khác nhau. Trong nền kinh tế tự do cạnh tranh nhiều quan niệm cho rằng việc sử dụng thuế xuất nhập khẩu làm hạn chế tính tự do cạnh tranh của thị trường, quan niệm này có ở những nước phát triển . Và họ bác bỏ việc sử dụng thuế xuất nhập khẩu. Nhưng bên cạnh đó cũng trong giai đoạn này ở những nước kém phát triển muốn bảo hộ sản xuất trong nước, thuế xuất nhập khẩu là một công cụ hữu hiệu nên họ ủng hộ việc sử dụng loại thuế này. Khi chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng đến giai đoạn độc quyền thì thuế xuất nhập khẩu được sử dụng rộng rãi. Thuế nhập khẩu cao làm hạn chế lượng hàng nhập khẩu khiến cho các doanh nghiệp dành độc quyền về thị trường trong nước. Trong giai đoạn chiến tranh thế giới thứ nhất, sự mất cân đối về hoạt động thương mại của các nước tham chiến và không tham chiến làm, sự giảm sút hoạt động trao đổi hàng hoá, cuộc khủng khoảng kinh tế thế giới 1929-1930 khiến cho việc sử dụng công cụ thuế quan đơn nhất không còn đủ sức phát huy tác dụng. Các nước còn sử dụng thêm công cụ phi thuế quan như dùng ngoại tệ trong thanh toán, hạn ngạch xuất khẩu để điều chỉnh hoạt động thương mại của mình. Trong giai đoạn chiến tranh thế giới thứ hai, ở những nước phát triển, kinh tế các nước phát triển nhanh chóng, dẫn tới việc hình thành hệ thống tiền tệ quốc tế. Xu thế này khiến cho các nước linh hoạt hơn trong chính sách của mình, hạn chế hoặc bác bỏ việc sử dụng hàng rào thuế quan, mở rộng quan hệ hình thành nên các hiệp hội các tổ chức thế giới. Tuy nhiên ở các nước đang phát triển vì mục tiêu bảo đảm cho nguồn thu của ngân sách nhà nước và bảo hộ thị trường trong nước, các nước này vẫn ưa chuộng việc sử dụng thuê xuất nhập khẩu - coi nó là công cụ hữu hiệu để thực hiện mục tiêu của đất nước mình. Trong giai đoạn hiện nay với xu thế khu vực hoá toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới ở các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển, thuế quan ngày càng hạn chế sử dụng. Nhằm tăng cường tự do hóa thương mại, tự do cạnh tranh, hàng hoá của các nước được tự do trao đổi. 2. Vai trò của thuế xuất nhập khẩu đối với sự phát triển của kinh tế. Thuế xuất nhập khẩu được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Nó có vai trò to lớn trong việc điều tiết hoạt động thương mại trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Thuế xuất nhập khẩu tác động trực tiếp vào giá cả của hàng hoá, do vậy mà cũng tác động đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Thuế nhập khẩu cao làm tăng thêm giá thành của mặt hàng nhập khẩu do vậy sẽ hạn chế lượng hàng nhập khẩu trên thị trường, tăng tính cạnh tranh cho mặt hàng nội địa. Hơn nữa tạo cơ hội phát triển cho các mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu ở thị trường nội địa đó. Giữa mặt hàng nhập khẩu có thuế đánh cao và mặt hàng nhập khẩu có thuế đánh thấp hơn cũng tạo ra tính cạnh tranh khác nhau cho với mỗi mặt hàng. Ngược lại thuế xuất khẩu thấp khiến cho lượng hàng xuất khẩu nhiều hơn và với mức giá bán ra trên thị trường quốc tế cũng thấp hơn, làm tăng khả năng cạnh trạnh của mặt hàng này trên thị trường thế giới. Như vậy thuế xuất nhập khẩu có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp rất lớn đến hoạt động thương mại nói riêng và sự phát triển kinh tế nói chung. Nhưng có thể tóm tắt các vai trò của thuế xuất nhập khẩu ở : Đóng góp một phần to lớn vào nguồn thu của ngân sách nhà nước. Góp phần bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước. Góp phần hướng dẫn tiêu dùng. Là công cụ điều tiết hoạt động thương mại. 2.1 Đóng góp phần lớn vào nguồn thu của ngân sách nhà nước. Nguồn thu ngân sách nhà nước bao gồm các nguồn chính: thuế, phí lệ phí. Trong đó thuế đòng góp một tỷ trọng lớn ảnh hưởng đến quy mô của ngân sách. Trong cơ cấu thuế, thuế xuất nhập khẩu cũng chiếm một phần quan trọng. Sở dĩ thuế xuất nhập khẩu lại đóng góp lớn vào ngân sách như vậy vì hệ thống thuế hiện nay còn chưa hoàn thiện, trong khi đó hoạt động thương mại diễn ra ngày một sôi động, nhu cầu xuất nhập khẩu ngày càng tăng, thuế lại là loại thuế gián thu. Người tiêu dùng gián tiếp đóng thuế thông qua giá cả hàng hóa, do đó mà không cảm thấy gánh nặng về thuế. Trong những năm qua tổng thu ngân sách không ngừng tăng qua các năm Thời báo kinh tế Việt nam- kinh tế 2004-2005 tr 13. Như chúng ta đã biết ngân sách có vai trò rất quan trọng trong việc: duy trì hoạt động của các cơ quan nhà nước, chi cho các công trình công cộng, các hoạt động phúc lợi xã hội, chi cho các hoạt động đầu tư phát triển. Các hoạt động đẩu tư rủi ro cao khả năng thu lời nhỏ nhưng có lợi cho quốc té dân sinh. Vai trò của ngân sách giúp cho ổn định phát triển kinh tế của quốc gia. Trong khi đó thuế xuất nhập khẩu đóng góp với tỷ lệ 12,3% vào ngân sách đã khẳng định được vai trò của thuế xuất nhập khẩu đối với ngân sách nhà nước. Mức độ đóng góp của thuế xuất nhập khẩu vào ngân sách nhà nước Thời báo kinh tế- kinh tế Việt nam tr13. 2.2 Góp phần bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước phát triển. Ở mỗi quốc gia, ở mỗi giai đoạn phát triển, tuỳ vào chiến lược của từng thời kỳ mà Nhà nước đề ra chính sách thuế phù hợp để có thể khuyến khích xuất khẩu, hoặc nhập khẩu. Thuế xuất nhập khẩu cộng thêm vào giá thành chính vì thế mà làm tăng giá cả của hàng hoá. Đối với những hàng hoá như tài nguyên đất nước, các hàng hoá cần được nhà nước bảo vệ thì nhà nước đánh thuế xuất khẩu cao để bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước. Đối với mặt hàng muốn hạn chế lượng nhập khẩu để khích thích sản xuất trong nước thì nhà nước đánh thuế nhập khẩu cao để hạn chế lượng hàng nhập khẩu này. Đối với mặt hàng xuất khẩu là nguyên liệu đầu vào cho các ngành khác thì thuế nhập khẩu có thể đánh thấp để giảm giá thành cho các mặt hàng đó. Đối với nước ta thường khuyến khích xuất khẩu hạn chế nhập khẩu do vậy mà thuế xuất khẩu thường thấp còn thuế nhập khẩu thì cao hơn. Trong xu thế kinh tế thế giới hiện nay tính cạnh tranh ngày càng trở nên khắc nghiệt, nhưng đối với đất nước ta nhiều ngành còn rất non trẻ. Chính vì vậy mà việc bảo hộ sản xuất trong nước thông qua hàng rào thuế quan là cần thiết. Tuy nhiên cũng khẳng định là Việt Nam không lấy chính sách bảo hộ làm chiến lược phát triển, vì việc gia nhập WTO, sự mở cửa phát triển của khối ASEAN, AFTA, buộc ta phải tháo rỡ hàng rào thuế quan này. Chúng ta cũng hiểu vai trò của hàng hóa nhập khẩu bởi nó là đầu vào của hàng hóa xuất khẩu nhưng cũng không thể không bảo hộ sản xuất trong nước ở từng thời điểm, ở từng vùng và từng ngành nghề nhất định. Bảo hộ tạo cơ sở cho các doanh nghiệp trong nước có thời gian để học hỏi kinh nghiệm, khoa học công nghệ của nước ngoài, cải thiện tình hình sản xuất của mình, nâng cao khả năng cạnh tranh với các mặt hàng khác. Trong giai đoạn hiện nay chúng ta vẫn tiến hành bảo hộ nhưng bảo hộ khác hẳn với xu thế hướng nội không bó chặt nền kinh tế và bảo hộ ở những lĩnh vực cần thiết, mũi nhọn đặc biệt cần sự hỗ trợ của nhà nước. Nhưng việc bảo hộ cũng chỉ trong một thời hạn nhất định, nhà nước cần nghiên cứu kỹ đối tượng bảo hộ tránh tình trạng ỷ lại nhà nước. Bên cạnh đó thuế xuất nhập khẩu còn có tác dụng khuyến khích sản xuất trong nước phát triển. Bởi nó tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước, ít cạnh tranh hơn, thị phần trong nước nhiều hơn. 2.3 Góp phần định hướng người tiêu dùng. Thuế cao hay thấp sẽ có tác dụng hạn chế hay kích thích tiêu dùng, ví dụ đánh thuế nhập khẩu cao người tiêu dùng sẽ sử dụng hàng hoá trong nước nhiều hơn. Đối với mặt hàng khuyến khích phát triển thuế nhập khẩu đánh thấp thậm chí không đánh. Đối với mặt hàng hạn chế việc sử dụng thì thuế đánh rất cao ví dụ như rượu và thuốc lá. Thông qua chính sách thuế đó người tiêu dùng biết Đảng và nhà nước khuyến khích mình nên tiêu dùng mặt hàng nào. 2.4 Là công cụ điều tiết hoạt động thương mại . Để quản lý hoạt động thương mại chính phủ các nước có thể sử dụng đồng bộ các biện pháp thuế quan và phi thuế quan ( như hạn ngạch, hạn chế phân bổ ngoại tệ). Nhưng công cụ thuế quan vẫn được đánh giá là quan trọng nhất bởi một số nguyên nhân sau: Một là: Khác với hạn ngạch, đối với thuế quan, thông tin về sự biến động giá cả hàng hóa dịch vụ được truyền đến người đầu tư, người sản xuất, người tiêu dùng một cách nhanh chóng và chính xác. Bời thuế đánh trực tiếp vào giá cả của hàng hóa và dịch vụ đó. Thông qua việc nắm bắt thông tin này nhanh hay chậm mà người ra quyết định có quyết định nhanh chóng chính xác hay không. Hai là: Trong thuế quan tính bảo hộ rất rõ ràng và minh bạch. Người tiêu dùng và người đầu tư có nhiều cách để nhận ra thuế suất. Song các nhà đầu tư phải dự đoán các biện pháp bảo hộ có thể có trong tương lai đối với mặt hàng của mình - trong thuế quan đó đã có sẵn một đặc tính là tính tiên liệu và tính minh bạch. Ba là: khi sử dụng công cụ thuế quan trong quá trình hội nhập sẽ cho phép chúng ta hạn chế và tiến tới xóa bỏ bảo hộ được một cách có hiệu quả rõ ràng và có thể tính toán được cụ thể. Còn nếu dùng hạn ngạch thì việc tính toán là không thể khi tiến hành tự do hóa thương mại. Bốn là: Khi sử dụng công cụ thuế quan, sẽ tạo được một nguồn thu hữu ích cho ngân sách nhà nước, nếu dùng hạn ngạch có thể dẫn đến sự phung phí của các cá nhân tổ chức nhận được hạn ngạch ưu đãi của nhà nước. Việc sử dụng thuế quan tạo môi trường bình đẳng cho tất cả mọi đối tượng tham gia hoạt động thương mại, còn dùng hạn ngạch sẽ thường tạo cơ hội cho các công ty lâu năm có quan hệ thân thuộc với chính phủ. 2.5 Góp phần thực hiện chính sách đối ngoại của đất nước. Ngoài các vai trò trên thuế xuất nhập khẩu còn đóng góp vào quan hệ đối ngoại của đất nước. Như thuế nhập khẩu có thể đánh cao đối với các mặt hàng của các nước có chính sách phân biệt quốc gia đối với đất nước mình hay cho một số nước đã ký hiệp định thương mại thuế quan. Nhà nước phân biệt khu vực thuế cho từng nước đã có hiệp định thương mại với nước mình đối với từng mặt hàng cụ thể. Trên cơ sở đó mà biểu thuế gồm ba loại: thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất thông thường. Qua đó ta thấy được vai trò quan trọng của thuế xuất nhập khẩu tới sự phát triển của nền kinh tế của đất nước. Vấn đề là việc thu thuế có triệt để hay không, sự thất thu thuế càng ảnh hưởng mạnh đến nhiều mặt của nền kinh tế. Do vậy cần xem xét tìm hiểu thất thu thuế nguyên nhân của hiện tượng và các giải pháp cần thiết để hạn chế tình trạng này. Góp phần thực hiện đúng vai trò mà thuế xuất nhập khẩu mang lại. 3. Nội dung cơ bản của luật thuế xuất khẩu, luật thuế nhập khẩu hiện hành. Luật về thuế xuất nhập khẩu, thuế xuất khẩu được chính thức ban hành vào năm 1987 và được sửa đổi ba lần vào năm 1991, 1993, 1998. Hiện nay luật có nội dung cơ bản như sau: 3.1 Phạm vi áp dụng - Đối tượng chịu thuế: Hàng hóa xuất nhập khẩu qua biên giới Việt nam, kể cả hàng hóa từ khu chế xuất đưa vào thị trường trong nước và từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất đều là đối tượng chịu thuế của luật thuế này. - Đối tượng không chịu thuế Mục II phần A thông tư 87/2004/TT-BTC ngày 31 tháng 8 năm 2004 của Bộ Tài chính : + Hàng quá cảnh mượn đường qua lãnh thổ Việt nam + Hàng kinh doanh theo phương thức chuyển khẩu + Hàng hóa từ nước ngoài nhập khẩu vào khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất và hàng hóa từ khu chế xuất, doanh nghiệp từ khu chế xuất ra nước ngoài hoặc hàng hóa doanh nghiệp chế xuất này sang doanh nghiệp chế xuất khác. + Hàng viện trợ nhân đạo - Đối tượng nộp thuế: Tổ chức cá nhân có đối tượng chịu thuế, phải nộp thuế cho cơ quan nhà nước. 3.2 Căn cứ tính thuế Căn cứ để tính thuế xuất nhập khẩu dựa vào số lượng hàng hóa, giá tính thuế và thuế suất của mặt hàng thực tế xuất nhập khẩu. Công thức tính thuế Thuế suất – Cơ quan quản lý và ban hành thuế suất: Bộ Tài chính - Vụ Chính sách thuế. Số thuế xuất/ nhập khẩu phải nộp = Số lượng hàng hóa xuất/nhập khẩu phải nộp x Đơn giá tính thuế x Thuế suất xuất /nhập khẩu. Hoặc = Trị giá tính thuế x Thuế suất xuất/ nhập khẩu - Số lượng hàng hóa xuất nhập khẩu: Là số lượng mặt hàng thực thế xuất nhập khẩu - Giá tính thuế http/www.custom.gov.vn- thuế xuất nhập khẩu * Trường hợp giá tính thuế theo hợp đồng: + Đối với hàng hóa xuất khẩu là giá bán cho khách hàng tại cửa khẩu xuất( Giá FOB ) không bao gồm chi phí bảo hiểm (I) và chi phí vận tải ( F). + Đối với hàng nhập khẩu là giá mua tại cửa nhập khẩu (CIF) bao gồm cả phí bảo hiểm và chi phí vận tải. Nếu nhập khẩu bằng đường bộ là giá mua theo điều kiện biên giới Việt Nam + Áp dụng với khu chế xuất: là giá thực tế mua bán tại cửa khẩu khu chế xuất doanh nghiệp chế xuất theo hợp đồng. + Hàng nhập khẩu có bảo hành theo hợp đồng nhưng lại không tính toán riêng đối với số hàng hóa thì giá tính thuế bao gồm cả sản phẩm bảo hành. + Đối với máy móc thiết bị mang ra nước ngoài sửa chữa thì giá tính thuế là chi phí sửa chữa ở nước ngoài tính theo hợp đồng. + Đối với máy móc vận tải đi thuê thì giá tính thuế là giá thuê theo hợp đồng. * Đối với mặt hàng nhà nước quản lý giá tính thuế là giá theo Bảng giá của Bộ tài chính qui định. Trường hợp giá theo hợp đồng mua bán ngoại thương cao hơn giá quy định tại Bộ tài chính thì tính theo giá hợp đồng. * Tỷ giá tính thuế là tỷ giá mua bán bình quân trên thị trường liên ngân hàng do nhà nước Việt nam ban hành. Thuế xuất nhập khẩu nộp bằng tiền Việt nam, nếu muốn nộp bằng ngoại tệ thì phải có chuyển đổi của ngân hàng Việt Nam công bố. 3.3 Thuế suất Quyết định số 45/2002/QĐ/BTC ngày 10 tháng 4 năm 2002 của Bộ Tài Chính - Thuế suất nhập khẩu: Gồm thuế suất ưu đãi, thuế suất thông thường, thuế suất ưu đãi đặc biệt. + Thuế suất thông thường: được áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước không có thỏa thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt nam. Thuế suất cao hơn 50% so với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng được quy định tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi được tính Thuế suất = Thuế suất – Thuế suất x 50% thông thường ưu đãi + Thuế suất ưu đãi: Hàng hóa nhập khẩu có giấy chứng nhận xuất xứ từ nước hoặc khối nước có thoả thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại Việt nam. Nước hoặc khối nước đó phải nằm trong danh sách các nước hoặc khối nước do Bộ Thương mại thông qua đã có thỏa thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt nam. Các mức thuế suất xác định cho các mặt hàng cụ thể quy định tại các biểu thuế suất ưu đãi gồm: PQuyết định số 110/2003/ QĐ/ BTC ngày 25 tháng 7 năm 2003 của Bộ tài chính. P Quyết định số 157/2003/QĐ/ BTC ngày 24 tháng 9 năm 2003 của Bộ Tài Chính P Quyết định số 177/2003/QĐ/ BTC ngày 23 tháng 10 năm 2003 của Bộ tài chính. PQuyết định số 198/2003/QĐ/ BTC ngày 05 tháng 12 năm 2003 của Bộ tài chính PQuyết đinh số 224/2003/QĐ/BTC ngày 25 tháng 12 năm 2003 của Bộ tài chính. P Quyết định số 25/2004/ BTC ngày 15 tháng 3 năm 2004 của Bộ tài chính. P Quyết định số 48/2004/QĐ/ BTC ngày 24 tháng 5 năm 2004 của Bộ tài chính. + Thuế suất ưu đãi đặc biệt: Được áp dụng cho hàng nhập khẩu có xuất xứ từ nước hoặc khối nước mà Việt nam và nước và khối nước đó đã có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu theo thể chế khu vực thương mại tự do, liên minh quan thuế hoặc để tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại biên giới Để áp dụng loại thuế này thì hàng nhập khẩu phải là những mặt hàng có giấy chứng nhận xuất xứ, phải được quy định cụ thể và đáp ứng đầy đủ điều kiện đã ghi trong thỏa thuận. 3.4 Miễn thuế, xét miễn giảm thuế Nguyễn Văn Phụng- Thuế Nhà nước- Số 1+2 tháng 1 năm2005 - Đổi mới cả cơ chế chính sách và thủ tục Hải quan . Tr 16 * Miễn thuế - Hàng viện trợ không hoàn lại theo dự án viện trợ hoặc hiệp định giữa chính phủ Việt nam với các tổ chức của nước ngoài hoặc văn bản thỏa thuận viện trợ hoặc thông báo viện trợ. - Hàng tạm nhập, tái xuất, hàng tạm xuất, tái nhập tham dự hội chợ, triển lãm. - Hàng hóa là tài sản di chuyển được miễn thuế. - Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong tiêu chuẩn hành lý miễn thuế của khách xuất nhập cảnh tại các cửa khẩu Việt nam - Đối với hàng nhập khẩu, xuất khẩu của tổ chức, cá nhân nước ngoài được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ thuế tại Việt nam theo quy định của pháp luật và phù hợp với công ước quốc tế mà Việt nam đã ký kết hoặc tham gia thực hiện theo hướng dẫn được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ tại Việt nam. - Đối với hàng hóa nhập khẩu để phục vụ gia công cho phía nước ngoài rồi xuất khẩu theo hợp đồng đã ký, được miễn thuế đối với các trường hợp + Vật tư nguyên vật liệu nhập để gia công + Vật tư tham gia vào quá trình sản xuất gia công + Hàng làm mẫu phục vụ cho gia công + Máy móc thiết bị trực tiếp gia công - Máy móc thiết bị phương tiện vận tải do các nhà thầu nước ngoài mang vào Việt nam theo phương thức tạm nhập, tái xuất để phục vụ thi công công trình dự án sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA. * Xét miễn thuế - Đối với hàng nhập khẩu chuyên phục vụ trực tiếp cho an ninh quốc phòng. + Hàng nhập khẩu chuyên phục vụ cho an ninh quốc phòng: Công văn miễn thuế của Bộ. Danh mục cụ thể về số lượng, chủng loại hàng nhập chuyên dùng cho an ninh, quốc phòng, do lãnh đạo Bộ chủ quản phê duyệt đã được đăng ký và thống nhất với Bộ tài chính. Giấy phép nhập khẩu do Bộ Thương mại cấp. Tờ khai hải quan hàng hóa nhập khẩu. Hợp đồng ủy thác nhập khẩu. + Hàng nhập khẩu chuyên dùng cho nghiên cứu khoa học + Hàng nhập khẩu chuyên dùng cho giáo dục đào tạo - Hàng nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và của bên nước ngoài hợp tác kinh doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. - Hàng nhập khẩu của các nhà đầu tư trong nước theo luật khuyến khích đầu tư trong nước. - Đối với hàng là quà biếu, quà tặng của các tổ chức cá nhân người nước ngoài cho các tổ chức cá nhân người Việt Nam và ngược lại. * Xét giảm thuế Đối với hàng hóa xuất nhập khẩu trong quá trình vận chuyển bốc xếp bị hư hỏng mất mát có lý do xác đáng, do cơ quan tỉnh thành phố ra quyết định xử lý căn cứ vào mức độ tổn thất hư hỏng đã được giám định, đối chiếu hồ sơ có liên quan để giảm thuế tương ứng với trường hợp cụ thể. 3.5 Hoàn lại thuế, truy lại thuế Nguyễn Văn Phụng- Thuế Nhà nước- Số 1+2 tháng 1 năm2005 - Đổi mới cả cơ chế chính sách và thủ tục Hải quan . Tr 17. a. Hoàn lại thuế - Đối với hàng hóa nhập khẩu đã nộp thuế mà còn lưu kho, lưu bãi tại cửa khẩu dưới sự giám sát của hải quan được phép tái xuất phải có công văn đề nghị hoàn thuế nêu lý do. Tờ khai hải quan hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu có thanh khoản của cơ quan Hải quan. Biên lai nộp thuế. Hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu. - Đối với hàng nhập khẩu chưa phù hợp về chất lượng quy cách phẩm cấp so với hợp đồng thương mại - Đối với đối tượng nhập thuế nhầm lẫn trong kê khai thì được hoàn trả lại trong thời gian một năm trở về trước Các trường hợp được xét hoàn thuế gồm: Các doanh nghiệp nhập nguyên vật liệu vật tư rồi trực tiếp sản xuất hoặc tổ chức đưa gia công và nhận sản phẩm về để xuất khẩu. Các doanh nghiệp nhập nguyên vật liệu, vật tư để sản xuất hàng hóa tiêu thụ trong nước sau đó tìm được thị trường xuất khẩu và đưa số nguyên liệu vật tư này vào sản xuất hàng xuất khẩu, đã thực xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài. Các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu, vật tư để sản xuất hàng xuất khẩu thuộc phần vốn góp đầu tư của bên nước ngoài trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. b. Truy lại thuế * Các trường hợp phải truy lại thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: Các trường hợp được miễn thuế, giảm thuế nếu đã được sử dụng khác với mục đích đã được miễn giảm thì phải truy thu đủ số thuế đã được miễn giảm. Trường hợp đối tượng nộp thuế nhầm lẫn trong kê khai hàng hóa nhập khẩu thì phải truy thu tiền thuế trong thời hạn 1 năm trở về trước, kể từ ngày kiểm tra phát hiện có sự nhầm lẫn đó. * Cân cứ tính thuế xuất nhập khẩu, nhập khẩu là giá tính thuế và thuế suất được áp dụng theo quy định tại thời điểm truy thu thuế. * Thời hạn kê khai nộp thuế xuất, nhập khẩu là 2 ngày kể từ ngày thay đổi mục đích sử dụng ghi trên các văn bản, chứng từ, hóa đơn có liên quan. Trường hợp không có các chứng từ để xác định ngày thay đổi mục đích sử dụng thì ngày xác định để truy thu là ngày đăng ký tờ khai hàng hóa xuất khẩu. * Thời hạn nộp thuế phải truy thu thực hiện theo quy định. Nếu quá thời hạn quy định nêu trên mà đối tượng nộp thuế chưa nộp sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. 3.6 Thời điểm tính thuế và thời hạn thông báo thuế a. Thời điểm tính thuế xuất khẩu, nhập khẩu là thời điểm đối tượng nộp thuế đã nộp tờ khai hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cho cơ quan Hải quan. b. Thời hạn thông báo thuế theo quy định : - Trong thời hạn 8 giờ làm việc kể từ khi tiếp nhận tờ khai hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của đối tượng nộp thuế, cơ quan Hải quan phải thông báo chính thức cho đối tượng nộp thuế về số thuế phải nộp theo kê khai của đối tượng nộp thuế. - Trong thời han 8 giờ làm việc kể từ khi cơ quan Hải quan kiểm hóa xong lô hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu nếu có khác biệt về số thuế phải nộp so với thông báo theo kê khai ban đầu thì cơ quan hải quan phải thông báo cho đối tượng nộp thuế số thuế còn thiếu hoặc thừa. Trong thông tư 87/2004 có quy định rõ hơn trách nhiệm của cơ quan hải quan và đối tượng nộp thuế trong trường hợp một trong 2 bên đề nghị giám định lại hàng hóa. Nếu hàng hóa phải qua giám định lại, nếu có thay đổi về số thuế phải nộp thì thông báo thuế sẽ được điều chỉnh trong thời hạn 8 ngày làm việc kể từ khi nhận kết quả giám định. 3.7 Thời hạn nộp thuế xuất nhập khẩu - Đối với hàng xuất khẩu là 15 ngày kể từ ngày đối tượng nộp thuế nhận được thông báo chính thức của cơ quan Hải quan. - Đối với hàng hóa là vật tư nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu là 9 tháng kể từ ngày đối tượng nộp thuế nhận được thông báo thuế chính thức của cơ quan Hải quan về số lượng thuế phải nộp. - Đối với hàng kinh doanh theo phương thức tạm xuất- tái nhập hoặc tạm nhập - tái xuất thì thời hạn nộp thuế là 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn của cơ quan có thẩm quyền cho phép tạm xuất - tái nhập hoặc tạm nhập - tái xuất - Đối với hàng tiêu dùng phải nộp xong thuế, nhập khẩu trước khi nhận hàng, Danh mục hàng tiêu dùng thực hiện theo quy định của Bộ thương mại. - Đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phi mậu dịch, hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của cư dân biên giới thì đối tượng nộp thuế phải nộp xong thuế trước khi xuất khẩu hàng ra nước ngoài hoặc nhập khẩu hàng vào Việt Nam. - Đối với hàng hóa nhập khẩu không được thuộc diện thực hiện thời hạn nộp thuế nêu trên thì thời hạn nộp thuế là 30 ngày - Hàng hóa nhập khẩu có thời hạn nộp thuế khác nhau thì phải mở tờ khai hàng hóa nhập khẩu riêng theo từng thời hạn nộp thuế. 4.Thất thu thuế nhập khẩu và sự cần thiết phải chống thất thu thuế nhập khẩu. a. Khái niêm: Như chúng ta đã biết, để cung cấp nguồn tài chính cho hoạt động của Nhà nước, nhà nước đã đặt ra các loại thuế khác nhau. Chi ngân sách càng nhiều thì nhu cầu thu thuế, lệ phí càng cao để bù đắp vào chi phí đó. Và trên cơ sở đó nhà nước càng muốn thu đủ thuế. Trong khi đó các doanh nghiệp king doanh với mục đính chính là ._.lợi nhuận thì thuế nộp càng nhiều lợi nhuận để lại của họ càng ít. Chính vì vậy mà họ luôn tìm cách hạn chế số thuế phải nộp. Như vậy trong nền kinh tế luôn tồn tại hai bên lợi ích mâu thuẫn nhau giữa một bên là nhà nước và một bên là các doanh nghiệp. Nên hiện tượng thất thu thuế là không tránh khỏi. Để hiểu rõ hơn về khái niệm thất thu thuế ta có các giả thiết sau Giả sử: Gọi T là tổng số thuế xuất nhập khẩu phải nộp cho nhà nước Qi là tổng số lượng hàng hóa xuất nhập khẩu Pi là giá hàng hóa xuất nhập khẩu Và ti thuế suất xuất nhập khẩu ứng với mỗi đơn vị hàng hóa Thì có: T= Pi*Qi*ti Nếu gọi T’ là tổng thuế xuất nhập khẩu thực tế thu được của ngân sách nhà nước thì T - T’ = k Lúc đó ta gọi k là số thất thu thuế. Như vậy số thất thu thuế là chênh lệch giữa số thuế xuất nhập khẩu phải nộp cho ngân sách với số thực tế thu được. Nhưng luật thuế xuất nhập khẩu ban hành cũng không lường trước được những khoản phát sinh của nền kinh tế. Cho nền số thất thu thuế này bao gồm cả khả năng tiềm năng của nền kinh tế thuộc về hoạt động xuất nhập khẩu đáng lẽ ra được khai thác vào nguồn thu của ngân sách nhà nước nhưng lại không được huy động. Việc không tính đến tiềm năng của nền kinh tế là luôn tồn tại ở mỗi quốc gia. Bởi nền kinh tế luôn luôn vận động và biến đổi. Nhưng cũng nói lên khả năng hoạch định chính sách thuế. Nếu khi hoạch định tính tới yếu tố này và dự trù được chính xác thì khả năng thất thu sẽ ít hơn. Do vậy để hạn chế tình trạng thất thu cần có quá trình hoach định chính sách thuế khoa học chính xác hơn để giảm biên độ giao động của nền kinh tế so với dự tính. Qua đó ta có thể đưa ra khái niệm thất thu thuế xuất nhập khẩu như sau: Thất thu thuế xuất nhập khẩu là những khoản thuế về các hoạt động xuất nhập khẩu không được nộp vào ngân sách nhà nước và những khoản thuế không được quy định trong luật thuế xuất nhập khẩu. b. Sự cần thiết phải chống thất thu thuế xuất nhập khẩu: Trên cơ sở nhận thức vai trò của thuế xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế, ta có thể thấy thất thu thuế xuất nhập khẩu có thể ảnh hưởng nhiều mặt đến nền kinh tế của đất nước. Bởi thuế xuất nhập khẩu tác động mạnh vào nguồn thu của ngân sách nhà nước, định hướng tiêu dùng, khuyến khích sản xuất trong nước phát triển, định hướng quan hệ quốc tế và hoạt động ngoại thương. Dưới đây sẽ xem xét tác động của thất thu thuế xuất nhập khẩu trên một số phương diện: kinh tế, xã hội và đạo đức. b.1 Về mặt kinh tế: Ngày nay, với nền kinh tế phát triển, chức năng nhà nước không còn đơn thuần là duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước, bảo vệ an toàn và trật tự xã hội mà còn thực hiện chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Nhu cầu chi tiêu ngày càng nhiều, dưới nhiều hình thức và cho nhiều lĩnh vực. Một phần quan trọng nhất của chi tiêu ngân sách nhà nước là chi cho đầu tư và phát triển: xây dựng cơ sở hạ tầng, mua khoa học công nghệ, chi cho giáo dục đào tạo và nhiều hoạt động khác. Nếu thất thu thuế trong khi thuế lại đóng góp phần lớn vào ngân sách thì sẽ làm cho các khoản chi của chính phủ bị hạn chế, dẫn đến tình trạng mất cân đối nguồn ngân sách. Dẫn tới vay tiền trong dân, gây mất ổn nền kinh tế. Nhiều khi chính phủ phải dùng biện pháp phát hành tiền tăng lượng tiền trong nền kinh tế, gây lạm phát. Ngoài ra còn gây nợ nước ngoài, dẫn đến lệ thuộc về kinh tế chính trị đối với các nước khác. Bên cạnh đó việc thất thu thuế xuất nhập khẩu của các mặt hàng xuất nhập khẩu còn ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của mặt hàng đó trên thị trường. Cùng một loại mặt hàng mà hãng thì bị đánh thuế hãng thì không làm cho mức độ tin cậy của khách hàng vào sản phẩm giảm về chất lượng của sản phẩm. Đối với mặt hàng xuất khẩu thì giá có thể được cao hơn đối với mặt hàng đó nhưng lại gây ảnh hưởng đến những mặt hàng tương tự chúng trên thị trường được đánh thuế. b.2 Về mặt xã hội Thất thu thuế xuất nhập khẩu sẽ ảnh hưởng đến công bằng xã hội. Bởi thông qua thuế xuất nhập khẩu và chính sách thuế xuất nhập khẩu, nhà nước huy động được một phần nguồn thu của người kinh doanh hàng xuất nhập khẩu đồng thời tiến hành quản lý vĩ mô đối với các hoạt động này. Các doanh nghiệp kinh doanh những mặt hàng giống nhau thì phải nộp thuế như nhau có thế mới đảm bảo được tính công bằng trong nền kinh tế. Đặc biệt trong giai đoạn kinh tế thị trường hiện nay, với những ưu điểm như tăng cường khă năng cạnh tranh , tạo tính độc lập tự chủ cho các đơn vị thành phần kinh tế, tạo ưu thế cho người tiêu dùng trong việc lựa chọn sản phẩm ngày càng tốt hơn, chất lượng cao hơn đa dạng phong phú hơn, Thì bên cạnh nó cũng chứa đầy tính tiêu cực, đặc biệt làm cho người bị vật chất hóa, chạy theo lợi nhuận có những nguồn thu nhập bất chính kếch xù, tạo ra sự phân hóa ngày càng nhanh chóng người giàu và người nghèo trong xã hội, gây bất bình đẳng ảnh hưởng đến trật tự an ninh quốc gia. b.3 Về mặt đạo đức Bất cứ việc thực hiện một chính sách pháp luật nào cũng tồn tại những cá nhân không chấp hành nghiêm túc. Với việc thi hành luật thuế xuất nhập khẩu cũng vậy, luôn có các cá nhân vì lợi ích riêng mà không chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm túc. Đó là xét trên đối tượng nộp thuế, còn xét trên pham vi quản lý thì cũng có một đội ngũ cán bộ vì tham ô cửa quyền đã tiếp tay cho một lượng buôn lậu trốn thuế, gây tổn thất nghiêm trọng đến nền kinh tế. Thực tế đã có nhiều cá nhân phải đứng trước vành móng ngựa, kể cả doanh nghiệp và cả quan chức nhà nước, cấu kết với nhau gây thất thoát cho nền kinh tế. Đặc biệt các nhân viên hải quan- đối tượng đứng trước nhiều cám dỗ của bọn tội phạm. Do vậy vấn đề đạo đức đối với cán bộ hải quan là rất quan trọng. Qua đó ta thấy thất thu thuế xuất nhập khẩu ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt của nền kinh tế. Do vậy cần có biện pháp hạn chế tình trạng này. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG THU THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU VÀ MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN CHO HIỆN TƯỢNG THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU TRONG MẤY NĂM GẦN ĐÂY. 1. Đánh giá chung: Trong mấy năm gần đây tình hính xuất khẩu có nhiều khả quan. Đặc biệt trong năm 2004 vừa qua đã thu được kết quả vượt bậc: Năm 2004 kết quả cao nhất từ trước đến nay. Tổng kim ngạch đạt 26.003 tr USD. Bình quân tháng đạt 2.167 tr USD/ tháng. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đã vượt qua mốc 300 USD/người. Trong khi mấy năm trước còn ở dưới mức nghèo khổ Thời báo kinh tế_ kinh tế Việt nam 2004- 2005 tr 26 . Về tốc độ tăng của năm 2004 là 28,9% so với năm 2003. Tuy về số tương đối đứng thứ 4 trong 14 năm trở lại đây nhưng về tuyệt đối là 5.836 tr USD cao nhất từ trước tới nay thời báo kinh tế- kinh tế việt nam 2004-2005 tr 26 . Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu qua các năm Hệ số của tăng xuất khẩu so với tăng GDP tăng 3,8 lần. Đây là hệ số cao nhất trong mấy năm gần đây góp phần làm cho kinh tế tăng trưởng nhanh. Qua các biểu đồ trên thấy kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng qua các năm, tăng một cách liên tục, kéo dài. Phản ánh mức độ tăng bền vững của hoạt động xuất khẩu. - Xuất khẩu tăng trưởng mạnh ở cả hai khu vực: khu vực kinh tế trong nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực kinh tế trong nước đạt 11.736 trUSD (tăng 17,2 %). Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 14.267 trUSD tăng 40,4%. Việc tăng cao hơn của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài khẳng định các doanh nghiệp thuộc khu vực này đã phát huy lợi thế của vốn, khoa học công nghệ, trình độ quản lý, trình độ người lao động, các phương tiện quảng cáo, thị trường tiêu thụ, tận dụng được các cơ hội của thị trường. - Kim ngạch xuất khẩu nhiều mặt hàng tăng ở cả hai yếu tố giá và lượng. Đây là một điểm đáng mừng vì không phải lúc nào cũng dễ dàng đạt được, nhiều khi lượng tăng nhưng gía lại không tăng thậm chí còn giảm do đó phải xuất nhiều hơn để bù vào. Ví dụ dầu thô kim ngạch tăng 48,3% trong đó lượng tăng14,1% giá tăng 30%. Gạo kim ngạch tăng 30,5% trong đó lượng tăng 6,3% giá tăng 22,9%. Cao su kim ngạch tăng 53,2% trong đó lượng tăng 14,2% giá tăng 34,2%. Hạt điều kim ngạch tăng 49,4% trong đó lượng tăng 22,3% giá tăng 22,2%.Tốc độ tăng kim ngạch của xuất khẩu tăng cao hơn tốc độ tăng kim ngạch của nhập khẩu. Xuất khẩu tăng 28,9%, nhập khẩu tăng 25%. 2. Thị trường xuất khẩu năm 2004 có nhiều chuyển biến tích cực Trong năm qua chúng ta đã thu được những chuyển biến trong thị trường xuất nhập khẩu không chỉ ở nỗ lực của các doanh nghiệp mà còn được sự hỗ trợ của chính phủ, Việt nam đã có được nhiều thỏa thuận với liên minh Châu Âu, thị trường Mỹ và thị trường Nhật Bản. Ngoài ra khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt nam trên các thị trường này cũng tăng lên rõ rệt. Hàng hóa của Việt nam hiện nay đã có mặt ở nhiều vùng lãnh thổ song cũng không đồng đều ở các nơi đó. Một số thị trường xuất khẩu chính của Việt nam + Thị trường Châu Á vẫn là thị trường lớn nhất đối với Việt Nam. Tốc độ tăng xuất khẩu vào thị trường này vào cuối năm càng ngày càng cao. Cao nhất là vào thị trường Trung Quốc (tăng 66%), các tiểu vương quốc ả rập ( tăng 42%) các nước ASEAN ( tăng 26%)…Xuất khẩu vào thị trường này về tuyệt đối là13,1 tỷ USD, nhập khẩu 25,6 tỷ USD. Nhưng Việt nam cũng đang nhập siêu lớn từ khu vực châu á (12,2 tỷ USD). Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt nam vào ASEAN và Trung quốc khá đơn điệu: chủ yếu là dầu thô và gạo. Như vậy khả năng cạnh tranh của nước ta là yếu, sẽ thuận lợi hơn cho các nước ASEAN và Trung quốc khi nhập vào thị trường nước ta hơn là nước ta xuất sang. + Thị trường Châu Âu: xuất khẩu sang EU tăng khoảng 25% + Thị trường Mỹ, năm 2004 hoạt động xuất khẩu bị chậm lại. Riêng thủy sản do ảnh hưởng của vụ kiện bán phá giá tôm và cá ba sa nên kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ đã bị giảm hẳn. Nhưng trong quan hệ thương mại với Mỹ Việt nam vẫn đang ở thế xuất siêu. + Thị trường Châu Phi: Đây là một thị trường đầy tiềm năng đối với Việt nam. Việt nam hiện nay xuất khẩu một lượng lớn hàng dệt may hàng tiêu dùng vào thị trường này. Lượng gạo xuất khẩu sang thị trường này chỉ đứng sau thị trường châu á. Bên cạnh những thành tích đạt được thì thương mại Việt nam cũng đứng trước nhiều khó khăn cản trở: khả năng cạnh tranh của mặt hàng Việt Nam là không cao, xuất khẩu chủ yếu mặt hàng nông sản chưa qua chế biến, có chế biến thì cũng gia công và nguyên liệu phải nhập từ nước ngoài. Nhiều mặt hàng phải bán qua trung gian nên giá thường thấp hơn, Nhập siêu giảm về tỷ lệ nhưng về tuyệt đối lại tăng. Trên đây là một số nét khái quát về tình hình xuất nhập khẩu của năm 2004. Các dấu hiệu đều cho thấy tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam rất khả quan. Điều này tạo điều kiện cho việc tăng thu nguồn thuế xuất nhập khẩu cho ngân sách nhà nước. II. TÌNH HÌNH THU THUẾ NHẬP KHẨU HIỆN NAY . 1. Cơ sở tính thuế Đối tượng áp dụng giá tính thuế: Hàng hóa xuất nhập khẩu qua biên giới Việt nam, kể cả hàng hóa từ khu chế xuất đưa vào thị trường trong nước và từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất đều là đối tượng áp dụng giá tính thuế của luật thuế này. Giá tính thuế xuất nhập khẩu và các loại thuế gián thu tại khâu xuất nhập khẩu ở các quốc gia là khác nhau. Quy định mang tính truyền thống ở nước ta, giá tính thuế xuất nhập khẩu là giá bao gồm cả phí bảo hiểm và phí vận tải đến cửa khẩu làm thủ tục xuất nhập khẩu. Trong một thời gian dài nhà nước thực hiện công cụ giá tính thuế để quản lý hoạt động xuất nhập khẩu chống buôn lậu và gian lận thương mại, bảo hộ sản xuất trong nước. Tuy nhiên trước yêu cầu hội nhập ta đã nới lỏng các quy định về giá tính thuế từ cuối năm 2003 ( sau thông tư 118/2003/TT-BTC ngày 8/12/2003). Trước đây dùng hai bảng giá để tính đó là bảng giá tối thiểu do bộ tài chính quy định đối với một số mặt hàng do nhà nước quản lý giá tính thuế và bảng giá kiểm tra do tổng cục hải quan quy định đối với các hàng hóa còn lại. Khi thông tư 87/2004 ra đời sự can thiệp của nhà nước về giá tính thuế đã bị xóa bỏ chuyển sang áp dụng cơ chế giá thị trường với ba trường hợp khác nhau: Trường hợp áp giá tính thuế theo hợp đồng. Được xác định theo nguyên tắc của hiệp định thực hiện điều 7 hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT). Nghĩa là trị giá tính thuế không gồm các chi phí bảo hiểm vận tải hàng hóa về đến điểm nhập khẩu, không phân biệt người nhập khẩu có thực trả các khoản đó hay không. Hay theo hóa đơn mà ghi giá FOB thì giá tính thuế là giá hóa đơn, nếu là giá CIF thì giá tính thuế là giá hóa đơn trừ đi I và F. Có sáu phương pháp để xác định giá này: 1) Phương pháp giá trị giao dịch của hàng hóa nhập khẩu; 2) phương pháp trị giá khấu trừ; 3) phương pháp trị giá tính toán;4) phương pháp giao dịch của hàng hóa nhập khẩu giống hệt;5) phương pháp giao dịch của hàng hóa nhập khẩu tương tự; 6) phương pháp khác. Tuy nhiên hai phương pháp trị giá khấu trừ và trị giá tính toán chưa được áp dụng vì thiếu thông tin kỹ thuật. Ví dụ việc xác định giá tính thuế đối với mặt hàng ô tô: Mặt hàng nhập khẩu là xe ô tô BMW model 745i. Mức giá doanh nghiệp khai báo là 22.000USD/ chiếc. Trong khi đó các thông tin về giá mặt hàng xe BMW do cơ quan Hải quan thu thập được tổ chức nguồn thông tin gồm: Giá bán thị trường nội địa: 220.000USD, giá trên mạng internet: 63.770 USD/ chiếc, giá xe BMW tại danh mục dữ liệu giá là: 57.000USD/ chiếc. Thông qua tìm hiểu các nguồn giá trên cơ quan Hải quan thấy giá doanh nghiệp báo cáo quá bất hợp lý so với các mức giá khác. Sau khi tham vấn cán bộ Hải quan cần bác bỏ mức giá này và tiến hành xác định lại trị giá như sau: Về lựa chọn phương pháp xác định giá phải thực hiện tuần tự từng phương pháp sau đó mới dừng lại ở phương pháp thích hợp. Trong trương hợp này Hải quan không tìm thấy hàng hóa giống hệt để tính giá nên phương pháp 2, 3 là không áp dụng được. Còn phương pháp khấu trừ cũng không thực hiện được vì chỉ biết giá trên thị trường nội địa không xác định được chi phí và lợi nhuận sau khi bán hàng để khấu trừ. Do vậy phải sử dụng phương pháp 6 là phương pháp khác. Khi sử dụng phương pháp 6 giá tính lại là 55.000USD trên cơ sở suy luận từ phương pháp 2, 3,4. Trường hợp hàng hóa nhập khẩu theo hợp đồng thương mại nhưng không thuộc các đối tượng nêu trên thì giá tính thuế là giá thực tế phải thanh toán mà người nhập khẩu đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho người bán hàng. Do đó giá tính thuế bao gồm trị giá ghi trên hóa đơn, chi phí vận tải, phí bảo hiểm. Trong trường hợp này còn bao gồm cả nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải thuê từ nước ngoài hoặc đưa ra nước ngoài để sửa chữa nay nhập lại Việt nam. Trường hợp hàng hóa xuất nhập khẩu không theo hợp đồng mua bán hoặc có hợp đồng nhưng không phù hợp với quy định của luật thương mại: quà biếu quà tặng, hàng nhập khẩu để triễn lãm nhưng lại chuyển sang mục đích khác. Thì giá tính thuế nhập khẩu do tổng cục hải quan địa phương quy định theo hướng dẫn của tổng cục hải quan phù hợp với giá giao dịch trên thị trường. * Tình hình quản lý giá thuế trong những năm qua: Trước năm 1999: Ba điều kiện đặt ra để tính thuế nhập khẩu theo hợp đồng ngoại thương quá đơn giản (tính hợp pháp hợp lệ của hợp đồng, được ngân hàng xác nhận thanh toán, danh mục hàng không nằm trong diện quản lý của nhà nước) tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lợi dụng. Trong khi đó việc quản lý phối hợp giữa các chức năng còn kém không thể kiểm soát hết các hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy mà các doanh nghiệp chỉ thanh toán một phần qua ngân hàng, còn phần lớn còn lại thanh toán bằng tiền mặt. Chính vì vậy mà một lượng lớn thuế bị thất thu gây mất bình đẳng cho các doanh nghiệp. Trước tình hình trên Bộ tài chính ban hành thêm thông tư số 92/ 1999/ TT/ BTC sửa đổi một số điểm của thông tư 82/ 1997/TT/BTC bổ sung điều kiện phải tuân theo các quy định về ngoại tệ tự do chuyển đổi, phương thức thanh toán mở thì mới được áp dụng giá tính thuế theo hợp đồng. Nhà nước qua thông tư này có thể kiểm tra chặt chẽ hơn do vậy hạn chế hiện tượng ghi khống hóa đơn thanh toán qua ngân hàng. Nhưng trong thông tư này cũng không cấm các doanh nghiệp sử dụng các hình thức thanh toán khác nhưng họ phải áp dụng giá tối thiểu. Do vậy vấn đề đặt ra là bảng giá tối thiểu được ban hành có chính xác hay không? Thực tế cho thấy là việc quy định giá tối thiểu đã cơ bản theo sát giá CIF, sát giá thực tế, thực thanh toán của doanh nghiệp. Nhưng do phản ứng của doanh nghiệp, trước khi ban hành thông tư này họ trốn thuế được nhiều hơn, nhưng sau đó lại phải nộp đầy đủ giảm một nguồn thu đáng kể, do vậy mà hoạt động nhập khẩu của họ có xu hướng trững lại. Ngày 6/6/2002 Chính phủ ban hành nghị định số 60/2002/ NĐ- CP về xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo nguyên tắc thực hiện Điều 7 hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại. Thông tư này xác định đối tượng giá tính thuế gồm: Hàng hóa nhập khẩu của doanh nghiệp, các bên hợp danh thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam Hàng hóa nhập khẩu theo hợp đồng thương mại có xuất xứ Hoa kỳ. Hàng hóa nhập khẩu theo hợp đồng thương mại trong danh mục hàng hóa của Việt nam để thực hiện Hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung ( CEPT) của các nước ASEAN. Đến nay đã áp dụng phương pháp xác định giá tính thuế theo hiệp định chung về thương mại và thuế quan ( GATT), hy vọng sẽ thu được kết quả đáng mừng đảm bảo xác định giá tính thuế được chính xác hạn chế được các tiêu cực xảy ra. Trên thực tế cần xác định theo giá giao dịch vì các đơn vị thành phần kinh tế không đơn thuần độc lập với nhau. Mà mối quan hệ giữa chúng rất phức tạp. Giao dịch trên thị trường được thực hiện dưới hai hình thức: thị trường nội bộ và thị trường khách quan bên ngoài. Bởi hiện nay có sự phát triển của các tập đoàn kinh tế, các công ty xuyên quốc gia, thì các hoạt động giao dịch trong nội bộ chúng cũng diễn ra hết sức phức tạp. Giá giao dịch giữa các bên có mối quan hệ với nhau khác so với các bên độc lập làm cho kết quả kinh doanh bị phản ánh sai. Nếu các đơn vị trong cùng một tập đoàn cư trú trên các lãnh thổ khác nhau thì sẽ phản ánh sai lệch về thu ngân sách ở các quốc gia này. 2. Quy trình tính và thu thuế - Doanh nghiệp tự kê khai và tự nộp thuế. Tổng cục Hải quan chỉ có nhiệm vụ thanh tra. Hình thức này nâng cao tính tự giác của các doanh nghiệp hạn chế được gian lận trong nộp thuế. - Phương thức thu: Theo quy định của Thông tư số 41/1998/TT - BTC ngày 31/3/1998 việc thu thuế được thu qua hai phương thức: Qua kho bạc nhà nước và thu qua cơ qua thu thuế. Đối với các đối tượng kinh doanh không cố định thì có thể thu theo hai phương thức: thu ở nơi thu và thu trực tiếp. 3. Kết quả hoạt động thu thuế xuất nhập khẩu Theo báo cáo của tổng cục Hải quan thì trước tình hình thương mại đầu tư tăng nhanh trong năm 2004 so với năm 2003 thể hiện rõ ở một số mặt sau: Năm 2004 ngành Hải quan được cấp trên giao chỉ tiêu thu thuế hàng hóa xuất nhập khẩu là 46.000 tỷ đồng. Trong đó thuế xuất nhập khẩu và tiêu thụ đặc biệt: 25.600 tỷ đồng. Thuế giá trị gia tăng: 20.200 tỷ đồng; Chênh lệch giá là: 200 tỷ đồng. Chỉ tiêu năm 2004 tăng 17,3 so với số thuế thực thu năm 2003 ( 46.000/39.215 tỷ đồng). Theo báo cáo của Hải quan các tỉnh thành phố số thu năm 2004 của ngành Hải quan đạt 46.017 tỷ đồng bằng 100.04% kế hoạch năm; so với năm 2003 tăng 17,74% (46.017/39.215 tỷ đồng). Thuế XNK và tiêu thụ đặc biệt: 21.579 tỷ đồng bằng 84,3% tăng 0,8% so với năm 2003( 21.579/21/404 tỷ đồng). Thuế giá trị gia tăng đạt 24.228 tỷ đồng đạt 119,9% tăng 38,3 % so với năm 2003 (24.228/17.512 tỷ đồng). Thu chênh lệch giá 55 tỷ đồng bằng 27,5%. Thu khác đạt 155tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch XNK, phương tiện, hành khách, xuất nhập cảnh và tờ khai hàng hóa XNK 2003, 2004 Báo cáo 2004 của tổng cục hải quan. 2003 2004 Kim ngạch Nhập khẩu Xuất khẩu 25.2 tỷ USD 20.1 tỷ USD 31.5 tỷ USD 26 tỷ USD Tốc độ tăng so với 2003 25% 29.30% Tổng số 45.3 tỷ USD 57,5 tỷ 26,90% Số tờ khai Nhập khẩu 741 nghìn tờ 900 nghìn tờ 21,40% Xuất khẩu 656 nghìn tờ 850 nghìn tờ 29,50% Tổng số 1397 nghìn tờ 1750 nghìn tờ 25,20% Phương tiện XNK Nhập cảnh 1.058.000 lượt 1.723.000 lượt 62,90% Xuất cảnh 1.071.000 lượt 1.373.000 lượt 27,20% Tổng số 2.129.000 lượt 3.096.000 lượt 45,40% Người XNC Nhập cảnh 35.067.000 người 41.109.000người 17,20% Xuất cảnh 33.102.000 người 39.886.00 người 20,50% Tổng số 68.169.000 người 80.995.00 người 18,80% Đáp ứng nhu cầu tăng nhanh của các mặt trên tổng cục Hải quan đã tích cực chủ động trong việc đẩy mạnh cải tiến thủ tục hải quan các quy trình nghiệp vụ để hoàn thành nhiệm vụ. Do hoạt động xuất nhập khẩu đầu tư tăng nhanh đáng kể nên số thu thuế cũng có kết quả đáng mừng. Năm 2004 ngành hải quan đã hoàn thành chỉ tiêu về thu thuế và ngân sách nhà nước. Điều này được thể hiện ở bảng số liệu sau: Kết quả thu thuế của ngành Hải quan trong năm 2004 Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Kế hoạch 2004 Thực hiện 2004 %/2004 %/2003 - Thuế XNK 46.000 46.017 100.04 117.34 - Thuế XNK + TTĐB 25.600 21.579 84.3 100.8 - Thuế GTGT 20.200 24.228 119.9 138.8 - Thu chênh lệch giá 200 55 27.5 - Thu khác 155 Nguồn: Báo cáo 2004 của Tổng cục Hải quan. Từ bảng số liệu trên cho thấy công tác thu thuế của tổng cục hải quan trong năm 2004 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đem lại nguồn thu đáng kể vào ngân sách nhà nước góp phần hoàn thành thực hiện kế hoạch thu ngân sách của nhà nước. Trong những năm gần đây tổng số thuế xuất nhập khẩu đã thu được liên tục tăng qua các năm. Nguyên nhân cơ bản là do kinh tế ngày càng phát triển, hoạt động ngoại thương diễn ra ngày càng sôi động, hàng ngày số lượng hàng hóa xuất nhập khẩu ngày càng lớn, đồng thời giá nhiều mặt hàng xuất nhập khẩu tăng do đó lượng thuế cũng tăng theo. Tuy nhiên với số lượng thuế đã thu tăng lên không có nghĩa số thất thu giảm đi do buôn lậu và nợ thuế giảm đi. Tình hình buôn lậu hiện nay xảy ra rất phức tạp và lan giải dưới nhiều hình thức và quy mô. Thống kê kim ngạch xuất nhập khẩu và số thu thuế từ hoạt động XNK Năm Tổng kim ngạch XNK ( tỷ đồng) Tổng số thuế thu được (tỷ đồng) Tổng kim ngạch Kim ngạch XK Kim ngạch NK 1997 11,15 8,76 2,39 13,774 1998 11,49 9,32 2,17 16,657 1999 11,62 11,52 0,10 23,669 2000 15,63 14,45 1,18 24,417 2001 17,00 16,50 0,50 29,619 2002 19,73 17,70 2,03 37,222 2003 25,22 20,18 5,04 39,224 2004 57,50 26,00 31,50 46,017 Nguồn: Trung tâm thống kê tin học của Tổng cục Hải quan. Kết quả phát hiện, bắt giữ các vụ vi phạm Năm 2004: Kết quả Kết quả năm 2004 So vời cùng kỳ năm 2003 Số vụ Trị giá (tỷ đồng) Số vụ (+%) Trị giá (+%) Có dấu hiệu buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa ( khởi tố hình sự 44 vụ) 5.116 -31% Gian lận thương mại 660 +35% Vi phạm thủ tục hải quan 5.524 +7% Ma túy 24 -46% Vũ khí chất nổ 3 -25% Tổng cộng 11.327 405 -13% 55% Nguồn: Trung tâm thống kê tin học Tổng cục Hải quan. Nhưng năm 2004 tình hình vi phạm có xu hướng giảm hơn năm 2003 nhưng vẫn cao hơn nhiều so với các năm trước đó. Số vụ vi phạm từ năm 2000 đến năm 2004 Nguồn: Trung tâm thống kê tin học Tổng cục Hải quan. Về số nợ thuế: Đây là một vấn đề tồn tại trong những năm qua của toàn ngành, được sự chỉ đạo quyết liệt giữa của tổng cục Hải quan bằng nhiều biện pháp hoạt động thu hồi thuế nợ đọng nhất là nợ đọng xấu. Kết quả thu hồi nợ đọng trong năm 2004 đã thu được nhiều kết quả tích cực. Riêng số thuế nợ đọng do doanh nghiệp chây ỳ đã giảm được 209 tỷ so với 12/2003 (583/734 tỷ đồng). Về phẩm chất đạo đức của cán bộ hải quan: Năm 2004 ngành hải quan xử lý kỷ luật 169 trường hợp trong đó có 114 trường hợp liên quan đến sử dụng văn bằng tốt nghiệp không hợp pháp hợp lệ chiếm 67,45%. So với năm 2003 số vi phạm kỷ luật năm 2004 tăng hơn 3 lần chủ yếu do xử lý bằng cấp không hợp pháp. Trong đó khiển trách 14 chiếm 8,28%; cảnh cáo 94 chiếm 55,62%; hạ bậc, hạ ngạch 30 chiếm 17,75% cách chức 11 chiếm 6,50%; buộc thôi việc 20 chiếm11,83%; Trong số sai phạm kỷ luật lãnh đạo cục 03 chiếm 1,77%, lãnh đạo cấp phòng 09 chiếm 5,32%, lãnh đạo cấp đội thuộc chi cục 16 chiếm 23,18% nhân viên 141 trường hợp chiếm 84,43%. Số cán bộ công chức hải quan vi phạm pháp luật bị cơ quan điều tra khởi tố hình sự trong năm 2004 là 35 trường hợp. III. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN TÌNH TRẠNG THẤT THU THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM 1. Do luật thuế xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, thiếu chặt chẽ và phức tạp. Luật thuế xuất nhập khẩu được ban hành vào ngày 29/12/1987 và được sửa đổi vào năm 1991, 1993, 1998 cho phù hợp với tình hình phát triển của đất nước. Đồng thời cũng ban hành nhiều công văn hướng dẫn cho Bộ tài chính, Tổng cục hải quan đã thu được những kết quả to lớn mang lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước, bảo hộ sản xuất trong nước, định hướng được cho người tiêu dùng. Nhưng bên cạnh đó còn có nhiều sơ hở mà các đối tượng buôn lậu trốn thuế lợi dụng để có hàng vi vi phạm pháp luật. Một là: Biểu thuế suất xuất nhập khẩu còn nhiều phức tạp với 97 chương trên 3000 mã nhóm mặt hàng, hơn 6000 mã số hàng hóa 19 mức thuế. Bên cạnh đó biểu thuế còn tồn tại một số biểu thuế lắt nhắt có một đến hai dòng trong một biểu thuế ví dụ như mức 12% chỉ có 2 dòng, mức 18% có một dòng, 25% có 2 dòng. Biểu thuế thì rất chi ly cụ thể nhưng các liệu hướng dẫn thì chưa đầy đủ khiến xuất hiện sự tranh cãi trong các doanh nghiệp gây thất thu thuế. Hai là: Thuế xuất nhập khẩu hiện hành chủ yếu theo mục đích sử dụng chứ không theo tính chất hàng hóa: Những mặt hàng cùng tính chất nhưng mức thuế suất lại chênh nhau đến hàng chục lần vì mục đích sử dụng khác nhau. Điều này tạo kẽ hở cho đối tượng nộp thuế, họ sẽ chọn mục đĩch ứng với mức thuế suất thấp hơn, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Ví dụ cùng là khoai tây nhưng khoai tây giống thuế 0%, còn để ăn thì 20%. Xe đạp đua chịu thuế 5%, còn xe đạp thường 70%, mức thuế rất chênh lệnh và khó khăn cho cán bộ hải quan trong việc xác định đúng mục đích sử dụng của đối tượng. Luật hiện hành chỉ quy định hình thức đánh thuế theo tỷ lệ chưa quy định hình thức thu theo mức độ tuyệt đối. Hình thức thu theo tỷ lệ tuy có ưu điểm là dễ áp dụng nhưng trong trường hợp đối tượng nộp thuế kê khai thấp giá trị tính thuế thì hải quan không đủ cơ sở để xác định chính xác giá trị nhập khẩu mà người mua phải thanh toán cho người bán. Việc sự dụng thu theo tuyệt đối sẽ ngăn ngừa được khai thấp giá trị hàng hóa tính thuế hàng nhập khẩu. Ba là: Xét về chức năng bảo hộ của thuế xuất nhập khẩu. Để bảo vệ thị trường trong nước, thuế nhập khẩu thường đánh cao đối với những mặt hàng hiện nay trong nước đã sản xuất được, và đánh thấp đối với hàng hóa là nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất. Nhưng điều này lại tạo sự lệch lạc trong chính sách đầu tư. Điều này làm tăng khả năng đầu tư nước ngoài vào phát triển hàng thay thế nhập khẩu chứ không đầu tư vào hàng xuất khẩu. Do vậy cán cân thương mại bị chênh lệch. Bốn là: Về thời hạn nộp thuế đối với hàng nhập khẩu là 15 ngày hàng nguyên liệu sản xuất là 275 ngày, những quy định này nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong điều kiện vốn còn hạn hẹp để phù hợp với thông lệ quốc tế, nhưng cơ chế quản lý doanh nghiệp về thành lập và hoạt động còn lỏng lẻo. Hiện nay nhiêu doanh nghiệp tìm cách chiếm dụng tiền thuế của nhà nước. Tính đến cuối năm 2004 đã có 8000/16000 doanh nghiệp nợ thuế xuất nhập khẩu vời tổng nợ là 2.900 tỷ đồng. Năm là tính thống nhất của luật thuế với các luật khác: Về các trường hợp miễn thuế, xét miễn thuế nội hàm của các quy định này hoàn toàn chưa đầy đủ dẫn đến việc xét miễn thuế trong các luật về thuế, đầu tư nước ngoài, khuyến khích đầu tư trong nước mâu thuẫn nhau cả về phạm vi và điều kiện để được miễn thuế. Sáu là: Vấn đề thông báo thuế. Các quy định hiện hành không còn đáp ứng được yêu cầu của cải cách hành chính, vừa lãng phí nguồn lực vừa không tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động nộp thuế. Vì vậy cần bỏ thông báo nộp thuế. Các doanh nghiệp cũng thực hiện tờ khai, tự tính tự nộp cho cơ quan hải quan. Bên cạnh đó việc giới hạn hàng tiêu dùng mới phải nộp thuế trước khi giải phóng hàng, thì để phân biệt hàng tiêu dùng với các loại hàng hóa khác là khó phân định. Chế tài áp dụng đảm bảo cho nộp thuế đúng hạn là chưa hiệu quả. Những sơ hở này tạo điều kiện cho doanh nghiệp chây ỳ trốn nộp thuế. 2. Do buôn lậu và gian lận thương mại Thất thu thuế nhập khẩu có nhiều nguyên nhân, song trong những nguyên nhân đó thì buôn lậu và gian lận thương mại được đánh giá là nguyên nhân nổi cộm đang là vấn đề nhức nhối nhất hiện nay, và được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm. Buôn lậu được hiểu là "buôn bán hàng hoá trốn thuế hoặc hàng quốc cấm" Từ điển Tiếng Việt - NXB Đà Nẵng, Hà nội -Đà Nẵng, 1997, trang 87. . Trong thời gian gần đây tồn tại một thuật ngữ gần với buôn lậu là gian lận thương mại. Gian lận thương mại được hiểu là: “hành vi dối trá, buôn bán gian lậu" Từ điển Tiếng Việt . trang 375 . Nhưng trên thực tế, nhiều nước không có sự phân biệt rõ ràng giữa buôn lậu và gian lận thương mại. Buôn lậu chính là hành vi gian lận thương mại nhưng ở mức cao hơn, phức tạp hơn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng hơn. Nó gồm các hành vi che dấu sự kiểm soát của hải quan tại cửa khẩu hoặc vượt biên trái phép. Còn gian lận thương mại là hành vi cố ý vi phạm pháp luật thực hiện các hành vi gian dối nhằm thu lợi bất chính tại nơi kiểm tra một cách công khai. Như vậy khái niệm gian lận thương mại là rộng hơn khái niệm buôn lậu. Buôn lậu và gian lận thương mại diễn ra trên địa bàn và phạm vi rộng nhưng trong giới hạn của bài viết chỉ xin đề cập đến buôn lậu và gian lận thương mại đối với hàng nhập khẩu. Các hành vi sau được gọi là hành vi buôn lậu gian lận thương mại đối với hàng hóa nhập khẩu: Một là: Hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới để vào Việt nam (trái với các quy định của pháp luật và các quy định của cơ quan quản lý nhà nước). Hai là: Vận chuyển, mua bán tàng trữ các hàng hóa đó trong thị trường nhưng không chứng minh được nguồn gốc hợp pháp của hàng hóa đó. Các cá nhân tổ chức có các hành vi nêu trên được gọi là buôn lậu gian lận thương mại. 2.1 Tình hình buôn lậu hiện nay trên các tuyến biên giới, và các phương thức vận chuyển. 2.1.1 Tuyến biên giới các tỉnh phía bắc Biên giới Việt – Trung dài gần 2000km tình hình buôn lậu diễn ra hết sức phức tạp. C._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0489.doc
Tài liệu liên quan