Thuế với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Lời mở đầu Tăng trưởng kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa là chỉ tiêu chiến lượng đặc biệt quan trọng, nó là sự ra tăng về lượng kết quả đầu ra hoạt động của nền kinh tế trong một thời kì nhất định. Đó là mục tiêu mà Chính phủ ở quốc gia nào cũng quan tâm phấn đấu và thực hiện để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế lâu dài ổn định, nâng cao chất lượng tăng trưởng, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế. Đặc biệt trong bối cảnh thế giới hiện nay, xu hướng mở

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1585 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thuế với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của và hộ nhập đã trở thành quy luật của nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam sau 20 năm đổi mới, nhất là 10 năm trở lại đây đã có những bước phát triển quan trọng làm thay đổi cả thế và lực của đất nước. Năm 2006 vừa qua là năm có nhiều sự kiện lớn, đặc biệt là việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 15 của tổ chức Thương mại thế giới WTO. Cùng với việc tổ chức thành công hội nghị Thượng đỉnh APEC 14 lần đầu tiên do Việt Nam đăng cai tổ chức, Đại hội đảng toàn quốc lần thứ X quyết định mục tiêu lớn của đất nước trong giai đoạn 2006-2010 và nhiều sự kiện khác. Để có những thành công đó, ngoài việc phát huy tối đa lợi thế vốn có của mình, Chính phủ Việt Nam đã phải thực hiện rất nhiều chính sách vĩ mô. Một phần quan trọng không thể thiếu đó là các chính sách thuế tác động đến tăng trưởng kinh tế nước ta. Đây là vấn đề hết sức cấp thiết bởi nó ảnh hưởng đến việc huy động nguồn tài chính cho đất nước và điều tiết kinh tế. Thực hiện tốt các chính sách thuế sẽ tạo điều kiện thuận lợi, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế diễn ra nhanh chóng và thuận lợi. Qua những bài giảng, các phương tiện thông tin đại chúng và thực tế, em thấy vẫn đề thuế, sự tác động qua lại giữa thuế và tăng trưởng kinh tế còn nhiều bất cập. Chính vì lý do đó em đã chọn nghiên cứu đề tài “Thuế với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”, với mục đích hiểu rõ hơn về vấn đề này, tạo lập cho bản thân vốn hiểu biết nhất định khi có cơ hội tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta. Thuế và tăng trưởng kinh tế là đề tài có phạm vi nghiên cứu rất rộng. Tuy nhiên với quy mô của tiểu luận môn học, em tập trung phân tích đề tài trên một số điểm chủ yếu gồm: những hoạt động sản xuất kinh doanh của cá nhân và doanh nghiệp, tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế; những thành tựu đạt được từ việc thực hiện các chính sách thuế; những vấn đề còn tồn tại và biện pháp, phương hướng giải quyết… Kết cấu của đề tài gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về thuế với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế Chương II: Thuế với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong thời gian qua Chương III: Một số ý kiến đề xuất đổi mới và hoàn thiện chính sách thuế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong gian đoạn hiện nay Để hoàn thiện tiểu luận này, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của Giảng viên TS Trần Xuân Hải. Tuy nhiên do thời gian, nhận thức cũng như tài liệu tham khảo còn hạn chế, em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và bạn đọc để em có điều kiện nâng cao kiến thức, hoàn thiện tốt đề tài này nhằm phục vụ cho quá trình học tập tiếp theo. Em xin chân thành cảm ơn ! Chương I Lý luận chung về thuế với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế 1. Tăng trưởng kinh tế-một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng . Tăng trưởng kinh tế và các mục tiêu tăng trưởng kinh tế 1.1.1. Tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế là sự ra tăng về lượng kết quả đầu ra hoạt động của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là năm, quý) hay chính là sự ra tăng của GNP thực tế. 1.1.2. Các mục tiêu tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế có thể được đo lường thông qua tăng trưởng GDP hoặc GNP. Để xác định tăng trưởng kinh tế của một quốc gia chúng ta có các chỉ tiêu sau: - Mức tăng trưởng kinh tế tuyệt đối: ΔGDPn = GDPn- GDPo Tốc độ tăng trưởng kinh tế (g): Tốc độ tăng trưởng hàng năm: là tốc độ tăng trưởng của năm sau so với năm liền trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của một giai đoạn () Trong đó: GDPo là tổng sản phẩm trong nước của năm 0 GDPn là tổng sản phẩm trong nước của năm n Trong phân trong phân tích và so sánh kinh tế vi mô với các nước, tăng trưởng kinh tế được đo bằng GDP bình quân đầu người. Đâylà một chỉ số rất quan trọng và chịu ảnh hưởng của sự gia tăng dân số. Nếu cùng có tốc độ tăng trưởng kinh tế như nhau, quốc gia nào có tốc độ gia tăng đân số lơn hơn thì tốc độ tăng trưởng binh quân đầu người sẽ thấp hơn. Tốc độ gia tăng GDP bình quân đầu người = Tốc độ tăng trưởng GDP - Tốc độ gia tăng dân số. 1.2. Nguồn gốc của sự tăng trưởng kinh tế Chúng ta đã biết các đầu ra của nền kinh tế như : GDP thực, việc làm, giá cả…là kết quả của tác động qua lại của tổng mức cung và tổng mức cầu của nền kinh tế. Tổng mức cung của nền kinh tế đề cập đến khối lượng mà các ngành kinh doanh sản xuất và bán ra trong điều kiện giá cả, khả năng sản xuất và chi phí sản xuất nhất định. Tổng mức cung liên quan chặt chẽ với sản lượng tiềm năng. Nhân tố tác động tới sản lượng tiều năng và quyết định tổng mức cung là khối lượng đầu vào của sản xuất. (Sức lao động và vốn là hai yếu tố quan trọng nhất) và hiệu quả của những đầu và đó kết hợp với nhau. (Đó là kỹ thuật của xã hội). Tổng mức cầu đề cập đến khối lượng mà người tiêu dụng, các doanh nghiệp và chính phủ sẽ sử dụng. Tuy nhiên, tổng mưc cầu là động lực nằm sau nhưng thay đổi ngắn hạn về sản lượng thực tế. Về mặt lâu dài, sản lượng thực tế chủ yếu do sản lượng tiều năng quyết định và tổng mức cầu chủ yếu tác động đến mức giá. Tăng trưởng kinh tế là một quá trình lâu dài chủ yếu gắn với sư gia tăng về sản lượng tiềm năng và những nhân tố tác động đến sản lượng tiều năng như khối lượng vốn lao độngm tiến bộ công nghệ và tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, có thể nói nguồn gốc của tăng trưởng là sản xuất và các nhân tố cơ bản quyết định tăng trưởng là vốn, lao động, tiến bộ công nghệ và tài nguyên thiên nhiên. 1.3. Chất lượng tăng trưởng kinh tế và các tiêu chí của chất lượng tăng trưởng kinh tế 1.3.1. Chất lượng tăng trưởng kinh tế Chất lượng tăng trưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế dùng để chỉ tính ổn định của trạng thái bên trong vốn có của quá trính tăng trưởng kinh tế, là tổng hợp các thuộc tính cơ bản hay đặc tính tạo thành có bản của tăng trưởng kinh tế trong một hoản cảnh và giai đoạn nhất định. 1.3.2. Các tiêu chí của chất lượng tăng trưởng kinh tế. Theo quan điểm của ngân hàng Thế giới, chương trình phát triển của Liên hợp quốc và một số nhà kinh tế học nổi tiếng được giải thưởng Nobel gần đây như G.Becker, R.Lucas, Amartyasen, J.Stiglitz thì cùng với quá trình tăng trưởng, chất lượng tăng trưởng biểu hiện tập trung ở các tiêu chuẩn chính sau: Tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định trong dài hạn và tránh được những biến động từ bên ngoài. Tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, được thể hiện ở sự đóng góp của yếu tố năng suất nhân tố tổng hợp cao và không ngừng gia tăng. Tăng trưởng phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Tăng trưởng đi kèm với tăng trưởng bền vững. Tăng trưởng hỗ trợ cho thể chế dân chủ luôn đổi mới, đến lượt nó thúc đẩy tăng trưởng ở tỷ lệ cao hơn. Tăng trưởng phải đạt mục tiêu cải thiện phúc lợi xã hội và giảm được đói nghèo. 1.4. Mục tiêu tăng trưởng của kinh tế vĩ mô Mục tiêu tăng trưởng của kinh tế vĩ mô là phải phấn đấu tốc độ tăng sản lượng của nền kinh tế đạt được ở mức cao nhất. Một nền kinh tế phát triển ổn định chưa chắc đã có được một tốc độ tăng trưởng nhanh. Một nước có tốc độ tăng trưởng chậm thì có nguy cơ tụt hậu và nếu có tăng trưởng nhanh thì có thể có khả năng đuổi kịp và vượt các nước đi trước. Vấn đề đặt ra là muốn có được tăng trưởng kinh tế thì cần phải có chính sách thúc đẩy quá trình tạo vốn, tăng năng suất lao động nhằm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế và tăng nhanh sản lượng tiềm năng. 2. Tác động của thuế đối với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2.1. Thuế - Chính sách thuế 2.1.1. Khái niệm về thuế Trong các sách báo kinh tế trên thế giới, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt đối khái niềm về thuế. Theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn giản. C.Mác đã chỉ rõ: “Để duy trì quyền lực cộng đồng đó, cần phải có những sự đóng góp của những người công dân của Nhà nước, đó là thuế má…” Sau này khái niệm về thuế ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn. Người ta đưa ra các khái niệm về thuế xét trên nhiều góc độ. Trên góc độ phân phối thu nhập, người ta định nghĩa: Thuế là hình thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành các quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước. Trên góc độ người nộp thuế, thuế được coi là khoản đóng góp bắt buộc mà mỗi tổ chứ, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo Luật định để đáp ứng nhu cầu chi tiết cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước. Trên góc độ kinh tế học, thuế được xem xét như một biện pháp đặc biệt theo đó Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu vực công nhằm thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. ở nước ta hiện nay cũng chưa có một định nghĩa thống nhất về thuế, nhưng có thể hiểu một khái niệm tổng quát về thuế như sau: Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo một mức độ và thời hạn được Pháp luật quy định nhằm sử dụng cho mục đích công cộng. 2.1.2 Chức năng thuế Thuế không những là một phạm trù kinh tế mà còn là phạm trù tài chính. Do đó thuế không chỉ mang trong mình những thuộc tính chung vốn có của các quan hệ tài chính, mà còn biểu hiện những đặc trưng, hình thức vận động và các chức năng riêng có bắt nguồn từ tổng thể các mối quan hệ tài chính. Cho đến nay trên các sách báo kinh tế trong nước cũng như trên thế giới cũng chưa có sự thống nhất trong việc đưa ra số lượng các chức năng của thuế và tên gọi chúng. Nhưng nhìn chung, chúng ta thấy thuế luôn thực hiện chức năng cơ bản: chức năng huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước và chức năng điều tiết kinh tế. 2.1.2.1 Huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước Ngay từ lúc phát sinh, thuế luôn luôn có công dụng là phương tiện động viên nguồn tài chính cho Nhà nước. Đây là chức năng huy động nguồn lực tài chính của thuế. Nhờ chức năng huy động nguồn lực tài chính mà quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước được hình thành, qua đó đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước. Chính chức năng này tạo tiền đề cho Nhà nước tiến hành phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong xã hội, tạo ra những tiền đề khách quan cho sự điều tiết của Nhà nước với nền kinh tế. 2.1.2.2 Điều tiết kinh tế Chức năng điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện thông qua việc quy định các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế, xây dựng chính xác các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của người nộp, sử dụng linh hoạt các ưu đãi và miễn giảm thuế. Trên cơ sở đó, Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi và quỹ đạo chung, phù hợp lợi ích xã hội. Như vậy bằng cách điều tiết và kích thích chức năng điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện. 2.1.3 Chính sách thuế - hệ thống thuế Chính sách thuế là tổng hòa phương hướng của Nhà nước trong lĩnh vực thuế và các biện pháp để đạt được những mục tiêu đã định. Chính sách thuế thể hiện đường lối và phương hướng động viên thu nhập dưới hình thức thuế trong nền kinh tế quốc dân. Chính sách thuế được thực hiện bằng cách thiết lập các văn bản pháp luật trong lĩnh vực nộp thuế ban hành các loại thuế. Điều đó có nghĩa là chính sách thuế được thực hiện bằng cách thiết lập hệ thống thuế, cải cách thuế và củng cố hệ thống thuế. Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau mà giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau để thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước trong từng thời kỳ. Hệ thống thuế bao gồm nhiều hình thức thuế khác nhau, nhưng sự hình thành từng hình thức thuế lại do cơ sở thuế quyết định. Trong nền kinh tế thị trường thuế suy cho cùng lấy từ thu nhập. Do yêu cầu của tái sản xuất mà thu nhập được vận động trong một chu trình khép kín và luôn thay đổi hình thái biểu hiện của nó. 2.2 Tác động kinh tế của thuế Việc đánh thuế dưới hình thức nào cũng gây ra những tác động danh nghĩa và tác động thức đối với nền kinh tế. Tùy theo từng điều kiện, mức độ tác động của thuế đối với các chủ thể trong xã hội có thể khác nhau. Hiểu rõ tác động của thuế đối với nền kinh tế nói chung và với từng chủ thể nói riêng có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách thuế, đặc biệt trong giai đoạn chuyển sang kinh tế thị trường như nước ta. 2.2.1 Tác động của thuế tiêu dùng đối với sản phẩm dịch vụ Về danh nghĩa, thuế tiêu dùng là thuế gián thu, tuy nhiên trong điều kiện cạnh tranh, vấn đề không hoàn toàn như vậy. Những tác động của thuế đối với sản phẩm tiêu dùng trên thị trường cạnh tranh có thể minh họa theo đồ thị. Cung trước thuế Cung sau thế Sản lượng sản phẩm Giá Qo Q1 E1 E2 P1 Po P2 Hình 2.1. Tác động của thuế đối với giá và sản lượng Giả định khi Nhà nước chưa đánh một loại thuế nào vào sản phẩm A, cung cầu sản phẩm này cân bằng tại Eo, sản lượng sản phẩm A tiêu thụ là Q với giá Po. Bây giờ Nhà nước đánh thuế tiêu dùng vào sản phẩm A với thuế suất t tính trên giá bán chưa thuế Po. Số thuế phải nộp là Po x t = T. Với các yếu tố không thay đổi, phản ứng thị trường là: người bán nâng giá để đảm bảo thu nhập sau thuế như cũ. Khi giá tăng, nhu cầu về sản phẩm A co giãn theo, điểm cân bằng lúc này là E1, với sản lượng Q1 và giá P1. Thu nhập sau thuế của mỗi đơn vị sản phẩm của người cung cấp sau khi có thuế sẽ là P1 - T = P2. Nghĩa là gánh nặng thuế chia sẻ cho người cung cấp và tiêu dùng cùng chịu. Trên hình vẽ ta thấy người tiêu dùng chỉ chịu đoạn P1Po, người sản xuất chịu PoP2. Hiện tượng này gọi là sự chuyển thuế. Tỷ lệ phân chia gánh nặng thuế phụ thuộc vào dạng của đường cung và đường cầu. Nếu độ dốc đường cầu càng lớn hoặc độ dốc đường cung càng nhỏ thì gánh nặng thuế có xu hướng nghiêng về phía người tiêu dùng. Trường hợp đặc biệt nếu đường cầu thẳng đứng, hoặc cung nằm nganh, người tiêu dùng sẽ chịu hoàn toàn thuế. Cung trước thuế Cung sau thuế Sản lượng sản phẩm Giá Qo Q1 E1 Eo P1 Po=P2 Hình 2.2.a) Người tiêu dùng chịu thuế hoàn toàn Thuế Cung trước thuế Cung sau thuế Sản lượng sản phẩm Giá Q1=Qo E1 Eo P1 Po=P2 Hình 2.2.b) Người tiêu dùng chịu thuế hoàn toàn Thuế Ngược lại, nếu độ dốc của đường cung càng lớn, hoặc độ dốc đường cầu càng nhỏ thì gánh nặng thuế càng nghiêng về người sản xuất. Trường hợp đặc biệt nếu đường cung thẳng đứng hoặc đường cầu nằm ngang thì gánh nặng thuế do người sản xuất chịu hoàn toàn Cung trước và sau thuế Sản lượng sản phẩm Giá Q1=Qo Eo Po=P1 P2 Hình 2.3.a) Người sản xuất chịu thuế hoàn toàn Thuế Cầu Cung trước thuế Cung sau thuế Sản lượng sản phẩm Giá Q1 E1 Eo Po=P1 P2 Hình 2.3.b) Người sản xuất chịu thuế hoàn toàn Thuế Cầu Qo Có thể thấy được điều này trên thực tế khi nhu cầu về một loại sản phẩm nào đó nhạy cảm với sự thay đổi của giá cả thì người bán rất khó nâng giá vì khi đó người tiêu dùng lập tức giảm bớt nhu cầu tiêu dùng loại hàng này. Vì vậy người bán không thể nâng giá ngang bằng thuế phải nộp mà sẽ phải chịu đa phần gánh nặng thuế. 2.2.2 Tác động thuế thu nhập đánh vào tiền lương, tiền công Trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo, mức lương cũng được quyết định bởi mối quan hệ cung cầu lao động. Ta có thể thấy rõ điều này qua mô hình sau: Cầu trước thuế Cung Số lượng lao động Lương Lo Wo W1 Hình 2.4. Tác động của thuế với cung và cầu lao động W2 Cầu sau thuế Eo L1 E1 E2 Thuế Trước khi đánh thuế cung và cầu lao động cân bằng tại điểm Eo. Tại Eo số lượng lao động cung cấp là Lo với mức lương Wo. Bây giờ Nhà nước đánh thuế thu nhập vào tiền lương với thuế suất t. Số thuế mà Nhà nước có được sẽ là T = Wo x t. Sau khi có thuế, thu nhập còn lại của người làm công giảm. Công nhân sẽ đòi tăng lương để bù vào phần thuế đã mất. Khi đó, chi phí đối với chủ doanh nghiệp sẽ tăng, cầu về lao động giảm xuống. Kết quả là đường cầu sẽ dịch chuyển xuống dưới một khoảng đúng bằng T. Điểm cân bằng mới là E1. Tại E1 số lượng lao động là L1 và tiền lương là W1. Trong khi đó, chi phí đối với chủ doanh nghiệp lúc này là W2 (tức W1 + T) Gánh nặng thuế được phân chia cho cả người lao động và giới chủ cùng chịu. Việc phân chia gánh nặng thuế này hoàn toàn phụ thuộc vào dạng của đường cung và cầu lao động. Nếu độ dốc của đường cung càng nhỏ hoặc độ dốc của đường cầu càng lớn thì gánh nặng thuế có xu hướng nghiêng về phía chủ. Trường hợp đặc biệt nếu đường cung hoàn toàn nằm ngang hoặc đường cầu hoàn toàn thẳng đứng thì thuế lương do giới chủ gánh chịu. Cầu trước thuế Cung Số lượng lao động Lương Lo Wo=W1 Hình 2.5a) Thuế do giới chủ gánh chịu hoàn toàn W2 Cầu sau thuế Eo L1 E1 E2 Thuế Cầu trước và sau thuế Cung Số lượng lao động Lương Wo=W1 Hình 2.5b) Thuế do giới chủ gánh chịu hoàn toàn W2 L1=L1 E1=Eo E2 Thuế Ngược lại, nếu độ dốc của đường cung càng lớn hoặc độ dốc của đường cầu càng nhỏ thì gánh nặng thuế có xu hướng nghiêng về người lao động. Trường hợp đặc biệt, nếu đường cung hoàn toàn thẳng đứng hoặc đường cầu hoàn toàn nằm ngang thì gánh nặng thuế do người lao động chịu hoàn toàn. Cầu trước thuế Cung Số lượng lao động Lương W1 Hình 2.6a) Thuế do người lao động gánh chịu hoàn toàn W2=W2 Cầu sau thuế L1=Lo E1 E2=Eo Thuế Cầu trước thuế Cung Số lượng lao động Lương W1 Hình 2.6b) Thuế do người lao động gánh chịu hoàn toàn Wo=W2 L1 E1 E2 Thuế Cầu sau thuế Eo Lo Qua phân tích ta thấy: Việc đánh thuế làm tăng giá cả sản phẩm hàng hóa tiêu dùng và hàng hóa sức lao động Gánh nặng thuế được chia sẻ cho cả người tiêu dùng và người cung cấp cùng chịu. 2.2.3 Thuế tác động đến thu nhập cá nhân Thuế tác động đến thu nhập cá nhân chính là thuế thu nhập cá nhân với thuế suất lũy tiến từng phần. Cơ chế lũy tiến là cơ chế mà trong đó tỷ suất thuế bình quân tăng cùng với mức thu nhập cá nhân Chính phủ thu của người giàu tỷ lệ cao hơn người nghèo. Thu nhập của doanh nghiệp và của cá nhân tạo thành thu nhập của hộ gia đình và thu nhập xã hội. Thu nhập khả dụng của doanh nghiệp sẽ sử dụng vào tiêu dùng và đầu tư. Thu nhập của hộ gia đình sẽ dùng vào hai việc là tiêu dùng và tiết kiệm (để đầu tư). Thực tế tồn tại một quy luật mà Keynes gọi là “quy luật tâm lý cơ bản”: Khi thu nhập khả dụng tăng lên thì tiêu dùng và tiết kiệm tăng nhưng tiêu dùng tăng chậm hơn so với thu nhập khả dụng, còn tiết kiệm tăng nhanh hơn” Do vậy thuế đánh vào thu nhập sẽ tác động trực tiếp đến cả khả năng tiêu dùng và đầu tư, làm ảnh hưởng đến cung cầu thị trường, chi phối hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi nền kinh tế quốc gia. 2.2.4 Thuế tác động đến thương mại quốc tế và các họat động kinh tế khác Thuế tác động tới Thương mại quốc tế thông qua hình thức thuế quan hay thuế nhập khẩu. Thuế điều tiết cao hay thấp tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất nhập khẩu hàng hóa và sản xuất tiêu dùng nội địa. Thuế quan yêu cầu người nhập khẩu hàng hóa phải nộp thuế nhập khẩu bằng một tỷ lệ % tính trên giá quốc tế cho Ngân sách Nhà nước. Như đã trình bày ở trên, chính sách thuế tác động vào giá cả hàng hóa dịch vụ làm thay đổi quan hệ cung cầu trên thị trường giá cả hàng hóa dịch vụ đầu vào và đầu ra của họat động sản xuất kinh doanh khi gánh thêm tiền thuế gián thu làm giá cả thị trường tăng lên. Thu nhập cá nhân, doanh nghiệp cũng phải chịu điều tiết bởi các loại thuế trực thu đã làm giảm đi phần thu nhập khả dụng làm hạn chế khả năng thanh toán trong tiêu dùng và tiết kiệm đầu tư của hộ gia đình. Tuy nhiên mức thuế đánh cao hay thấp sẽ tạo sự dịch chuyển đầu tư sản xuất kinh doanh theo hướng có lợi nhất cho doanh nghiệp. Đây là điểm mấu chốt của việc gắn kết tác động của thuế với cơ chế thị trường để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Chương 2 Thuế với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua 1. Sơ lược tình hình kinh tế, thuế Việt Nam thời gian qua 1.1. Tình hình kinh tế Việt Nam thời gian qua 1.1.1. Kinh tế nước ta từ 1991 đến 2004 Sau 20 năm đổi mới đặc biệt những năm gần đây tăng trưởng kinh tế Việt Nam có thể đánh giá chung trong những năm 1991-1995, sản xuất phát triển, lưu thông hàng hóa thông thoáng, giá cả ổn định dần. Nền kinh tế tăng trưởng tương đối cao, cơ cấu chuyển dịch tích cực. Tính chung năm 1991-1995 tổng sản phẩm trong nước tăng 48,3%, bình quân mỗi năm tăng 8,2%. Trong đó năm 1991 tăng 6,0%; năm 1992 tăng 8,6%, 1993 tăng 8,1%, 1994 tăng 8,8% và năm 1995 tăng 9,%. Nền kinh tế nước ta giai đoạn này tăng trưởng khá tốt, năm sau cao hơn năm trước. Giai đoạn 1996-2000 nền kinh tế nước ta đứng trước những khó khăn, nhịp độ tăng trưởng kinh tế chững lại, năm 1999 đạt mức tăng trưởng 4,8% là mức thấp nhất trong 10 năm đổi mới. Nền kinh tế bắt đầu khôi phục được là tăng trưởng từ nửa sau của 1999-2000, GDP đạt tăng trưởng 6,75%, năm 2001 tăng 6,84%, năm 2002 tăng 7,1%, năm 2003 tăng 7,24% và cuối 2004 tăng 8%. 1.1.2 Tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2006 Trong năm 2006 vừa qua, nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao đạt và vượt kế hoạch. Tổng sản phẩm trong nước GDP tăng gần 8,2% (mức kế hoạch là 8%). Trong đó khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,23% (kế hoạch 3,8%), khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,46% (kế hoạch là 10,2%). Riêng công nghiệp tăng 10,28% và khu vực dịch vụ tăng 8,26% (kế hoạch là 8%). Tốc độ tăng trưởng kinh tế thời kỳ sau lớn hơn thời kỳ trước, trong đó quý I tăng 7,2%, quý II tăng 7,4%, quý III tăng 7,8%, quý IV tăng 8,4%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiến bộ: Tỷ trọng khu vực I là 20,9% GDP năm 2005 giảm còn 20,36% năm 2006 Tỷ trọng khu vực II tằng từ 41,03% (2005) đến 41,56% (2006) Tỷ trọng khu vực III tăng từ 38,07% (2005) đến 38,08% (2006) trong hai năm tương ứng. GDP bình quân đầu người đạt trên 11,5 triệu đồng (xấp xỉ 720 USD) tăng 80 USD so với 2005. Tổng thu ngân sách 2006 ước đạt trên 261,1 nghìn tỷ đồng, vượt mức dự toán 9,8% (dự toán 237,9 nghìn tỷ đồng), tăng 20,3% so với năm 2005. Tổng chi ngân sách đạt trên 31 nghìn tỷ đồng, vượt mức chi dự toán là 294,4 nghìn tỷ đồng, tăng 20% so với 2005. Kinh tế Việt Nam luôn đạt mức tăng trưởng cao thứ hai Châu á và trên thế giới chỉ sau Trung Quốc, được cộng đồng thế giới đánh giá cao. Tuy vậy tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam còn nhiều điều phải làm sáng tỏ về cả lý luận và thực tiễn như: tốc độ và chất lượng tăng trưởng đã tương xứng với tiềm năng Việt Nam chưa? Chất lượng tăng trưởng đạt mức nào? Làm thế nào để tăng trường vững và nâng cao chất lượng tăng trưởng Việt Nam, thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực. Đó là những vấn đề đặt ra cho nền kinh tế nước ta trong thời gian tới. .Tình hình thuế Việt Nam thời gian qua Để thực hiện sự nghiệp đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trên mọi lĩnh vực cải cách thuế đóng vai trò quan trọng. Trong giai đoạn 1986-1990, Việt Nam vẫn áp dụng các chính sách thuế cũ đã ban hành trong thời kỳ trước đổi mới kinh tế. Đồng thời, Nhà nước đã tập trung nghiên cứu xây dựng hệ thống chính sách thuế mới. Tiến trình cải cách thuế được thực hiện thông qua hai bước. Cải cách thuế bước 1 (1990-1996) Thực hiện chủ trương của Đảng đã đề ra yêu cầu về công tác thuế trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6/1991) với nội dung “Tiếp tục đổi mới và bổ sung các luật thuế, kiện toàn hệ thống thu thuế, chống thất thu lạm phát, chống mọi biểu hiện tiêu cực trong công tác thuế”. Nước ta đã ban hành Quyết định số 05-CT ngày 12/1/1989 thành lập tổ chức chỉ đạo soạn thaoe dự án luật mới, lần lượt thông qua và ban hành các loại thuế dưới hai hình thức: Bằng hình thức luật, có: Thuế doanh thu (30/6/1990), thuế tiêu thụ đặc biệt (30/6/1990), thuế lợi tức (30/6/1990), thuế xuất nhập khẩu (26/12/1991), thuế sử dụng đất nông nghiệp (24/7/1993), thuế chuyển quyền sử dụng đất (1/7/1994). Bằng hình thức pháp lệnh: Thuế tài nguyên (30/3/1990), thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (27/12/1990), thuế nhà đất (31/7/1992) Kết quả cải cách thuế bước 1 Nhìn chung, công cuộc cải cách thuế bước 1 (1990-1996) đã đạt được nhiều kết quả đáng kể. Hệ thống chính sách thuế mới gồm 9 loại đã từng bước điều tiết các nguồn thu có thể động viên vào Ngân sách Nhà nước, góp phần điều chỉnh hoạt động kinh tế, áp dụng chính sách thuế thống nhất cho các thành phần kinh tế tạo sự bình đẳng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Thuế thúc đẩy các doanh nghiệp phải hạch toán kinh doanh đầy đủ nhằm củng cố, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước. Thuế góp phần thu hút chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ mà vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng ở tất cả các ngành. Vai trò của thuế trong cơ chế thị trường ngày càng rõ nét hơn. Tuy nhiên hệ thống chính sách thuế còn khá phức tạp bởi còn quá nhiều thuế suất trong một luật thuế, quy định quản lý Nhà nước về thuế còn rườm rà cần sửa đổi sao cho phù hợp hơn với tình hình kinh tế xã hội nước ta. Cải cách thuế bước 2 (1997-2000) Đối với thời kỳ đổi mới, công nghiệp hiện đại hoá đất nước phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hội nhập kinh tế quốc tế thì hệ thống chính sách thuế hiện hành đã bộc lộ một số khuyết điểm như: hệ thống thuế còn phức tạp và trùng lặp, trong mỗi loại thuế cùng một lúc vừa phải thực hiện mục tiêu thu cho Ngân sách Nhà nước, vừa phải thực hiện chính sách xã hội làm nội dung chính sách thuế thiếu bình đẳng gây khó khăn cho quản lý thuế. Đại hội Đảng lần thứ VIII nă 2006 đề ra phương hướng cho công tác thuế: “Tiếp tục đổi mới chính sách thuế theo hướng vừa đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, vừa khuyến khích sản xuất kinh doanh, vừa thúc đẩy thực hành tiết kiệm trong sản xuất và têu dùng để tăng tích luỹ. Đơn giản hoá hệ thống thuế và biểu thuế suất, nâng tính ổn định của thuế, áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu; bổ sung thuế sử dụng tài nguyên thiên nhiên trong tái tạo; tách thuế nhập khẩu, không nhập làm một với thuế doanh thu (GTGT) và thuế tiêu thụ đặc biệt, thu hẹp biểu thuế suất và giảm dần mức thuế suất nhậ khẩu”. Quốc hội khoá IX, kỳ họp 11 ngày 10/5/1997 thông qua Luật thuế GTGT và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực từ 1/1/1999. Luật thuế tiêu thụ đặc biệt bổ sung thêm một số dịch vụ phải gánh chịu thuế như: kinh doanh vũ trường, karaoke (20%), kinh doanh casino, trò chơi (25%). Cùng với việc ban hành các luật thuế mới, sửa đổi bổ sung các luật và pháp lệnh về thuế, phí làm hệ thống chính sách thuế Việt Nam được cải tiến về cơ bản, kích thích tăng trưởng và phát triển kinh tế, góp phần ổn định kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta. 2. Sơ lược về tình hình sử dụng công cụ thuế của Việt Nam nhằm thúc đẩy kinh tế Hệ thống thuế nước ta đã trở thành công cụ Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế trong cơ chế thị trường. Có thể nói thuế là công cụ nhạy cảm và hiệu quả để thực hiện sự quản lý của Nhà nước. Thông qua các chính sách thuế đã khuyến khích cá nhân, tổ chức và các cơ sở sản xuất kinh doanh đầu tư chiều sâu, đầu tư mở rộng, tạo động lực thúc đẩy sự chuyển dịch đầu tư dẫn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ trong khi vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng ở các ngành khác một cách toàn diện. 2.1. Tác động của thuế đến sản xuất nông nghiệp 2.1.1. Sản xuất nông nghiệp phát triển Trong thời gian vừa qua, sản xuất nông nghiệp nước ta đã vượt qua khó khăn, đạt được kết quả tích cực. Cụ thể năm 2005 gần gấp đôi năm 1990. Nói cách khác trong 15 năm, chúng ta đã tạo ra sản lượng lương thực lớn hơn sản lượng của cả hai châu thổ lớn nhất đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Xuất khẩu gạo tăng liên tục: năm 2005 đã đạt mức kỷ lục về lương thực (trên 5 triệu tấn) cũng như kim ngạch (trên 1,3 tỷ USD). Diện tích lúa, cà phê, dừa, đay, mía… giảm trong khi diện tích trồng ngô, chè, bông, hồ tiêu, điều, cây ăn quả… tăng. Tổng đàn trâu, gia cầm giảm trong khi tổng đàn bò, lợn gia tăng. Tỷ trọng Nông nghiêp giảm trong khi tỷ trọng Thuỷ sản tăng, tỷ trọng khai thác giảm trong khi tỷ trọng nuôi trồng tăng… Nhìn chung, Nông nghiệp những năm vừa qua đạt được những thành tựu nhất định nhờ sự tác động tích cực của chính sách thuế mà chủ yếu là thuế sử dụng đất nông nghiệp. 2.1.2. Tác động của thuế đến sản xuất nông nghiệp Thuế sử dụng đất nông nghiệp khuyến khích sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả đảm bảo công bằng về nghĩa vụ nộp thuế của tất cả các cá nhân, tổ chức sử dụng đất nông nghiệp. Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp đã được đổi mới hợp lý bao quát đầy đủ nguồn thu hơn theo hướng giảm nhẹ mức điều tiết vào Ngân sách Nhà nước từ hoạt động sản xuất nông nghiệp. Căn cứ vào năm yếu tố: chất đất, vị trí địa hình, điều kiện khí hậu, thời tiết và điều kiện tưới tiêu để phân dạng đất khoa học và công bằng. Hạng đất tính thuế được ổn định trong 10 năm để khuyến khích thâm canh tăng năng suất và thu nhập cho nông dân. Định suất thuế 1 năm tính kg thóc/ha của từng hạng đất đối với cây hàng năm và lâu năm ở mức sản lượng bình thường. Để tăng đầu tư và mở rộng sản xuất, Nhà nước đã thực hiện chế độ miễn giảm thuế được mở rộng theo hướng khuyến khích khai hoang, phục hoá và chuyển đổi cây trồng kinh tế hơn. Từ 2003 đến 2010, Nhà nước có chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn mức sản xuất nông nghiệp cho tất cả hộ nông dân, miễn toàn bộ cho hộ nghèo, cho tổ chức, gia đình, cá nhân đặc biệt khó khăn, miền núi theo Quyết định QĐ135/1998/GĐ-TTG ngày 31/7/1998; giảm 50% thuế sử dụng đất nông nghiệp cho tất cả các trường hợp không được miễn thuế. Tất cả các chính sách to lớn của Đảng và Nhà nước nhằm thu hút đầu tư, tích cực tham gia lao động sản xuất, khuyến khích phát triển đột phá trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp hàng hoá, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 2.2. Tác động của thuế đến lãi suất công-thương nghiệp 2.2.1. Chính sách thuế trong sản xuất công- thương nghiệp Công thương nghiệp và xây dựng trong những năm qua tăng trưởng với tốc độ cao, góp một khoản tiền lớn vào Ngân sách Nhà nước với tỷ trọng GDP của nhóm ngành Công nghiệp-xây dựng tăng từ 36,7% (2000) lên 41% (2005). Việc ban hành và áp dụng các luật thuế như thuế doanh thu (G._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0091.doc
Tài liệu liên quan