Thuế thu nhập cá nhân & thực trạng ở Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU Việt Nam đang đi trên con đường đổi mới và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Những quy luật kinh tế khách quan và tất yếu đang từng giờ, từng phút điều chỉnh nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế của từng khu vực, từng quốc gia và bản thân mỗi chúng ta. Quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế trong khu vực tiến đến toàn cầu hoá nền kinh tế đang dần chứng tỏ là một quy luật của loài người tiến bộ. Để bắt kịp với quá trình này thì mỗi quốc gia phải liên tục có những cải cách nhằm làm phù hợp

doc41 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2287 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thuế thu nhập cá nhân & thực trạng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và thích nghi với môi trường bên ngoài. Trong công cuộc cải cách đó, cải cách về thuế luôn đươc các quốc gia chú trọng. Đối với Việt Nam trong thời gian tới sau khi Việt Nam được gia nhập WTO thì những biến đổi về cơ cấu thuế và nguồn thu ngân sách sẽ là một điều không thể tránh khỏi. Thuế là một vấn đề nhạy cảm ở khắp mọi nơi trêdn thế giới không riêng gì Việt Nam, thế nhưng tính trên dân số 82 triệu đa số người dân chỉ quen trả thuế gián thu qua tiêu sài mua hàng hoá, ít người phải đóng thuế lợi tức. Chính vì thế liên tiếp nhiều ngày qua, báo chí đưa lên mạng rất nhiều bài tường thuật liên quan đến bản dự thảo luật thuế thu nhập cá nhân vừa được bộ tài chính công bố ngày 05/09/2006. Dĩ nhiên đây mới chỉ là một dự thảo dự kiến sẽ được hoàn chỉnh lần chót để chuyển qua quốc hội xem xét thông qua vào năm 2007, và hiệu lực thi hành từ năm 2009. Trong thời gian gần đây hệ thống thuế nước ta đã có rất nhiều thay đổi nhằm thích nghi với điều kiện mới. Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân ra đời năm 1991, cho đến nay qua năm lần sửa đổi, bổ sung và hiện nay chính phủ đang nghiên cứu nhằm xây dựng thành Luật thuế thu nhập cá nhân là một trong những minh chứng cho công cuộc cải cách thuế của Việt Nam. Thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế trực thu có vai trò hết sức quan trọng. Nó đã ra đời tương đối sớm ở các nước phát triển và ngày nay thì phát triển rộng rãi ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Sự phát triển của nó đồng hành với sự phát triển của nền kinh tế và ngày càng khằng định được vai trò, chức năng là một nguồn thu quan trong trong ngân sách nhà nước và là công cụ góp phần đảm bảo công bằng xã hội một cách đắc lực. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và hoàn chỉnh pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân, đồng thời sớm xây dựng thành Luật thuế thu nhập cá nhân là một việc làm cần thiết từ bây giờ. Bởi vậy, mong muốn được tìm hiểu và nghiên cứu sâu hơn về thuế, em đã chọn đề tài: “ Thuế thu nhập cá nhân và thực trạng ở Việt Nam ”. Đề tài này bao gồm hai chương: Chương I: Giới thiệu về thuế TNCN và quản lý thuế TNCN bao gồm khái niệm, đặc điểm, cơ sở tính thuế, vai trò và các bước trong công tác quản lý thuế TNCN. Chương II: Giới thiệu về thực trạng thuế TNCN ở Việt Nam bao gồm những nội dung cơ bản trong pháp lệnh thuế TNCN Việt Nam, công tác quản lý thuế TNCN ở Việt Nam, kết quả, mục tiêu, quan điểm xây dựng luật thuế TNCN và những bất cập còn tồn đọng ở Việt Nam. Để đề tài này hoàn thành được như ngày hôm nay em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Nguyễn Tất Thắng. Em mong muốn sau đề tài này em sẽ bổ sung được hoàn chỉnh hơn về các kiến thức thuế thu nhập cá nhân nói chung và thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam nói riêng. CHƯƠNG I: THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN: 1.1.1 Khái niệm thuế thu nhập cá nhân: Thuế thu nhập cá nhân (thuế TNCN) là một loại thuế thực thu đánh trên thu nhập của các cá nhân trong từng thời kỳ. Thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế xuất hiện tương đối sớm. Lần đầu tiên nó xuất hiện ở Anh vào năm 1799. Ở Mỹ, thuế TNCN xuất hiện trong thời kỳ chiến tranh 1812. Sau năm 1815 nó bị xoá bỏ ở Mỹ do nhà nước không có nhu cầu tăng thu ngân sách. Nhưng đến năm 1862 thuế TNCN quay trở lại Mỹ nhằm mục đích cung cấp nguồn tài chính cho cuộc nội chiến. Thuế TNCN xuất hiện ở Nhật năm 1887, ở Trung Quốc năm 1936 còn ở Hàn Quốc năm 1974. 1.1.2 Đặc điểm của thuế TNCN: ● Thu nhập chịu điều tiết của thuế sẽ căn cứ vào cụ thể nguồn gốc phát sinh của các khoản thu nhập và căn cứ vào đặc điểm cư trú hay một số đặc điểm khác tuỳ theo luật của từng nước. ● Do đối tượng nộp thuế đồng thời cũng chính là đối tượng chịu thuế nên thuế TNCN được xếp vào loại thuế trực thu. Không giống các loại thuế gián thu (như thuế tiêu dùng…) khoản thuế được tính sẵn trong giá thanh toán nên nó không ảnh hưởng nhiều đến tâm lý người mua về khoản thuế mình phải nộp. Thuế trực thu có thể hiểu bóng bẩy là nhà nước trực tiếp thò tay vào túi chúng ta và lấy tiền của ta ra, điều đó chắc chắn có ảnh hưởng mạnh về tâm lý của người nộp thuế. Chính vì vậy mỗi khi chính phủ có những thay đổi trong chính sách thuế TNCN như việc điều chỉnh thuế suất hay thay đổi pham vi các đối tượng được miễn giảm thuế thì đều gây ra những phản ứng mạnh mẽ trong dân cư. ●Thuế TNCN thông thường là loại thuế luỹ tiến. Các nước thường xây dựng một biểu thuế luỹ tiến, các bậc ứng với mức thu nhập càng cao thì mức thuế suất biên càng cao. Do đó những người có thu nhập càng cao thì phải chịu mức thuế đóng góp cao hơn so với những người có mức thu nhập thấp hơn. Nó góp phần đảm bảo tính công bằng trong xã hội (công bằng ở đây là công bằng theo chiều dọc). Khoảng cách tương đối giữa các bậc thuế suất sẽ quyết định tính chất luỹ tiến mạnh hay yếu của biểu thuế. · Thuế TNCN là một loại thuế phức tạp và mang tính trung lập đối với cơ cấu kinh tế: Do đặc điểm là điều tiết lên thu nhập của dân cư, phạm vi điều chỉnh rất rộng nên việc quản lý đối loại thuế này là hết sức khó khăn. Nó dễ gây phản ứng cho người nộp thuế. Đồng thờI do tính chất phân tán và động của đối tượng chịu thuế và nguồn thuế nên công tác quản lý thu thuế rất khó khăn. Chính vì đặc điểm này mà chi phí hành thu của thuế thu nhập cá nhân rất cao. Cơ sở tính thuế: Để hướng tới mục tiêu công bằng dọc các nước thường quy định thu nhập bình quân làm căn cứ tính thuế theo hai cơ sở: Thu nhập bình quân chịu thuế được xác định theo từng cá nhân. MỗI cá nhân được chọn làm cơ sở tính thuế. Cách tính này đơn giản, dễ áp dụng nhưng những mục tiêu công bằng đạt đựơc chưa cao. Các nước áp dụng theo nguyên tắc này thường kèm theo những quy định khấu trừ hay trước giảm theo gia cảnh một số chi phí nhất định cho việct hực hiện nghĩa vụ đối với gia đình. Thu nhập bình quân chiụ theo thuế xác định theo hộ gia đình. TNBQ/người/hộ gia đình sẽ là thu nhập tính thuế. Số thuế thu sát vớI khả năng nộp thúe của các cá nhân và qua đó mục tiêu công bằng có khả năng đạt đựoc nhiều hơn. Tuy nhiên cách thu này hoàn toàn không đơn giản và đòi hỏI nhiều điều kiện mới có thể tổ chức quản lý thu tốt. 1.1.4 Vai trò của thuế TNCN: * Nền kinh tế ngày càng phát triển, mức sống ngườI dân càng cao thì thuế TNCN. ngày càng góp phần quan trọng trong nguồn thu nhân sách nhà nước. Do thuế TNCN thu được dựa vào mức thu nhập của dân cư. Thu nhập của dân cư càng cao thì điều đó đồng nghĩa vớI mức thu từ thuế TNCN sẽ tăng. Điều đó chỉ có thể có khi nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, GDP lớn. Thông thường ở những nước càng phát triển thì tỉ trọng đóng góp của thuế trực thu càng lớn, trong đó thuế TNCN chiếm tỉ trọng khá cao. Ngược lại, ở những nước đang phát triển, đời sống ngườI dân chưa cao, thu nhập trung bình mớI chỉ đủ cho các sinh hoạt cần thiết của ngườI dân và tiết kiệm ra một phần rất nhỏ nên khả năng đóng thuế TNCN cho nhà nước là rất thấp. BớI vậy thuế TNCN thu được tỉ lệ thuận với mức phát triển của nền kinh tế một quốc gia. Thuế TNCN do đó tất yếu sẽ dần trở thành một nguồn thu quan trọng hang đầu trong nguồn thu ngân sách nhà nước. * Thuế TNCN góp phần đảm bảo tính công bằng và giảm bớt sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội. Do đặc điểm của thuế là đánh trên thu nhập của các cá nhân cùng với tính chất luỹ tiến của thuế TNCN đã thu hẹp được khoảng cách về thu nhập của các cá nhân trong xã hội. Đây là quan điểm công bằng theo chiều dọc. Trên lý thuyết đây là một loạI thuế rất ưu việt trong việc điều hoà thu nhập giữa người giàu và người nghèo. Tuy nhiên trên thực tế nó vẫn còn gây rất nhiều tranh cãi giữa các nhà kinh tế do bản thân việc đánh giá hiệu quả công bằng của một chính sách thuế là một vấn đề rất khó khăn và trìu tượng. Bởi vậy nên ý nghĩa công bằng ở đây chỉ mang tính chất tương đối, nó mang công bằng cho đại đa số một bộ phận dân cư này nhưng lại không công bằng cho một bộ phận dân cư khác. Chính sách thuế TNCN được xây dựng để mang lại sự công bằng cao nhất cho xã hội trong điều kiện có thể, tất nhiên nó cũng cần đảm bảo các mục tiêu xã hội khác. * Thuế TNCN góp phần tăng tỉ lệ tiết kiệm quốc gia, tạo điều kiện tăng đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thuế TNCN là một công cụ để điều tiết giữa tiêu dùng và tiết kiệm, tránh những tiêu dùng xa hoa mà thay vào đó là đầu tư vào tư bản và con ngườI, điều đó sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế lâu dài. Tuy nhiên nếu mức thuế TNCN quá cao sẽ dẫn đến tình trạng mất động lực của ngườI lao động hoặc ngườI lao động sẽ chuyển qua những nước có mức thuế thu nhập nhỏ hơn để làm việc. Do đó chúng ta cần có một mức thuế suất vừa phảI và hợp lý để đảm bảo việc tăng tỉ lệ tiết kiệm quốc gia nhưng đồng thờI vẫn duy trì được nỗ lực và động cơ làm việc của ngườI lao động. * Thuế TNCN được các chính phủ của các nước sử dụng rộng rãi trong việc điều hành chính sách tài khoá và các chính sách kinh tế khác. Do thuế TNCN chiếm một phần lớn trong nguồn thu ngân sách nhà nước, đồng thờI nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định đầu tư và tiêu dùng của dân cư nên nó có vai trò hết sức quan trọng trong chính sách tài khoá cuả các quốc gia nhằm điều chỉnh tổng cầu của nền kinh tế và thanh toán nợ của chính phủ. Bên cạnh chức năng điều chỉnh chính sách tài khoá thì thông qua việc quản lý thuế cũng giúp nhà nước quản lý, giám sát thu nhập của dân cư để đưa ra các chính sách kinh tế như chính sách việc làm, bảo hiểm, trợ cấp xã hội… phù hợp hơn. * Thuế TNCN khẳng định quyền và nghĩa vụ của mỗi người dân với nhà nước. Thực tế so sánh cho thấy chính vì nhận thức về nghĩa vụ nộp thuế đối với nhà n ước cuẩ người dân những nước đang phát triển thấp hơn những nước phát triển cho nên ý thức về quyền con người của họ cũng thấp hơn. Những người càng có ý thức về quyền của mình đối với nhà nước càng cao thì họ càng có ý thức về quyền của mình đối với nhà nước cao hơn, họ đòi hỏi nhà nước cũng phải thực hiện lại những nghĩa vụ đối với họ. Chính vì vậy ta có thể thấy rằng sự path triển của thuế TNCN cũng là một bước đánh dấu sự phát triển về nhận thức và văn hoá của con ngưòi. 1.2 QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN: 1.2.1 Các bước quản lý thuế TNCN: Trước tiên ta phải nói đến vấn đề xây dựng văn bản pháp luật. Văn bản pháp luật nói chung phải đơn giản, rõ ràng và chặt chẽ. Nguyên tắc này rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đến hiệu quả thực hiện của công tác quản lý thuế TNCN. Ngoài ra, thì văn bản thuế TNCN phải quy định sao cho đảm bảo được nguồn thu ngân sách đã đựoc đề ra. Quy định trong văn bản thuế TNCN cũng cần phải đảm bảo tính công bằng đối vớI cả người nộp thuế và cả xã hội. Thứ hai là phảI xây dựng và quản lý bộ máy thu thuế TNCN. Một độI ngũ chuyên trách được đào tạo chuyên sâu trong công tác quản lý thuế TNCN. Đội ngũ này phải tổ chức thống nhất, đồng bộ và có khoa học. Thứ ba là công tác tính thuế và đối với đối tượng nộp thuế. Việc tính thuế và nộp thuế có thể được thực hiện qua hai cách: thứ nhất là thông qua uỷ ban nhiệm thu hay cơ quan chi trả thu nhập. Cách thứ hai là đốI tượng nộp thuế sẽ trực tiếp kê khai thu nhập của mình và tự tính mức thuế mình phải nộp. Thứ tư là việc phát hiện ra những bất cập, thiếu sót trong quy định về nộI dung luật thuế cũng như trong công tác quản lý, kê khai nộp thuế. Qua đó cơ quan thuế có thể kiến nghị lên cấp trên xem xét để từ đó có thể hoàn thiện tốt hơn Luật thuế TNCN và công tác tổ chức quản lý thuế TNCN. 1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới quản lý thuế TNCN: 1.2.2.1 Nội dung Luật thuế TNCN: Muốn thực hiện tốt trước tiên Luật thuế phải thống nhất, chặt chẽ, rõ ràng và dễ hiểu. Tránh những khe hở trong Luật thuế phòng trừ các đối tượng lợi dụng trốn thuế. 1.2.2.2 Bộ máy thu thuế: Đây là cơ quan chịu trách nhiệm tiến hành tính thuế và thu thuế đốI vớ các đốI tượng có nghĩa vụ phảI nộp thuế. Hiệu quả hoạt động của bộ máy hành thu phụ thuộc rất nhiều vào độI ngũ cán bộ thu thuế và cách thức tổ chức đội ngũ này. Một đội ngũ có trình độ và nghiệp vụ tốt cộng vớI phẩm chất đạo đức tốt là một điều kiện hết sức quan trọng đốI vớI bộ máy của cơ quan thuế. Hệ thống tín dụng, ngân hàng và ứng dụng công nghệ thông tin: Muốn có một hệ thống thu thuế phát triển thì sự phát triển của hệ thống ngân hàng là điều không thể thiếu. Việc sử dụng tài khoản rộng rãi trong dân cư, giảm bớt việc nắm giữ tìên mặt sẽ giúp cho cơ quan thu thuế bớt những việc không cần thiết, đặc biệt trong công tác quản lý thu nhập thực cuả người dân. Bên cạnh đó một hệ thống thanh toán điện tử hiện đạI cũng sẽ giảm bớt rất nhiều chi phí và tăng hiệu quả cho công tác thu thuế. Tình hình kinh tế, mức sống dân cư và trình độ dân trí: Hiệu quả của công tác quản lý thu thuế TNCN phụ thuộc không nhỏ vào mức độ phát triển kinh tế và đờI sống của dân cư. Sự phát triển của kinh tế đồng hành vớI sự phát triển của cơ sở hạ tầng phục vụ cho công tác quản lý nói chung và công tác quản lý thuế nói riêng, khi cơ sở hạ tầng tốt thì khả năng quản lý cũng sẽ đơn giản và hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, trình độ dân trí cũng tỷ lệ thuận vớI ý thức về trách nhiệm nộp thuế. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THUẾ TNCN Ở VIỆT NAM Trong thời gian qua các chính sách thuế đối với thu nhập cá nhân ở nước ta nhìn chung phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội đất nước, đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo nguồn thu cho ngân sách, kiểm soát thu nhập của cá nhân, phân phối lại thu nhập, thực hiện công bằng xã hội cũng như bước đầu tạo thói quen và góp phần nâng cao nhận thức của các đối tượng nộp thuế về trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho NSNN. Nghị quyết đại hội đảng IX và X đã xác định áp dụng thuế TNCN thống nhất và thuận tiện cho mọi đối tượng chịu thuế, đảm bảo công bằng và tạo động lực phát triển. Cụ thể hoá nghị quyết của Đại hội Đảng, Bộ Chính trị đã thông qua Chiến lược cải cách thuế đến năm 2010 và ban hành các quyết định triển khai thực hiện cải cách, trong đó thuế TNCN được xác định ban hành vào năm 2007. Bản dự thảo mới nhất về Luật thuế TNCN đã được trình quốc hội cho ý kiến trong kỳ họp vào trung tuần tháng 10. So với bản dự thảo trước đây, bản dự thảo này đã có nhiều điểm mới dựa trên cơ sở tiếp thu những ý kiến đóng góp của nhân dân và các cơ quan liên quan. Ngày 06/12 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành quyết định về việc phê duyệt chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010. Mục tiêu tổng quát của chương trình là xây dưngj hệ thống chính sách thuế đồng bộ , có cơ cấu hợp lý, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.1 NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG PHÁP LỆNH THUẾ TNCN Ở VIỆT NAM 2.1.1 Đối tượng nộp thuế: - Công dân Việt Nam ở trong nước hoặc đi công tác, lao động ở nước ngoài có thu nhập. - Cá nhân là người không mang quốc tịch Việt Nam nhưng định cư không thời hạn tại Việt Nam có thu nhập. - Người nước ngoài làm việc tại Việt Nam kể cả người nước ngoài không sinh sống ở Việt Nam nhưng có thu nhập phát sinh ở Việt Nam. Điểm mới trong dự thảo Luật thuế TNCN đưa cá nhân kinh doanh và chủ hộ gia đình sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực, ngành nghề hiện đang điều chỉnh tại Luật thuế thu nhập doanh nghiệp vào đối tượng điều chỉnh của Luật thuế TNCN. 2.1.2 Loại thu nhập phải chịu thuế và các khoản không thuộc diện chịu thuế, miễn thuế, chưa thu thuế: Loại thu nhập phải chịu thuế được chia làm hai loại: Thu nhập thường xuyên: Là những khoản phát sinh từ hoạt động chính của người nộp thuế như: tiền lương , tiền công, tiền phụ cấp, tiền bản quyền, nhuận bút… Thuế tính trên thu nhập bình quân tháng trong năm tính thuế, được tam nộp hàng tháng và quyết toán vào cuối năm hoặc cuối hạn hợp đồng. Thu nhập không thường xuyên: Là thu nhập không phát sinh từ hoạt động chính, như: thu nhập vè chuyển giao công nghệ; trúng thưởng xổ số, trúng thưởng khuyến mại… Thuế được tính và nộp từng lần phát sinh. Điểm mới trong dự thảo Luật thuế TNCN là: Đưa thu nhập thu nhập từ lợi tức cổ phần, lợi tức từ các hình thức góp vốn kinh doanh, thu nhập từ chuyển nhượng vốn hiện đang tạm thời chưa thu vào diện chịu thuế. Đưa thu nhập từ lãi tiền gửi tiết kiệm đang tạm thời chua thu vào diện chịu thuế. Dự luật dự kiến thu thuế đối với thu nhập từ thừa kế và quà tặng đối với tài sản thừa kế, quà tặng là cổ phiếu, trái phiếu, quyền sở hữu công ty; riêng đối với tài sản là nhà, đất chỉ đưa vào diện chịu thuế trong trường hợp người đã có nhà ở nhưng được nhận thừa kế quyền sử dụng đất và nhà. *Các khoản thu nhập không thuộc diện chịu thuế, thu nhập được miễn thuế, thu nhập chưa thu thuế: Thứ nhất, các khoản thu nhập không thuộc diện chịu thuế bao gồm: các khoản phụ cấp, trợ cấp, tiền thưởng, các khoản bồi thường bảo hiểm, tiền nộp tiền BHXH, BHYT từ tiền lương, tiền công của người lao động; thu nhập của hộ kinh doanh cá thể thuộc diện chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Xét giảm thuế, miễn thuế đối với trườg hợp đối tượng nộp thuế bị thiên tai, địch hoạ tai nạn làm thiệt hại đến tài sản, thu nhập và đời sống; mức xét miễn, giảm thuế tương ứng với mức độ thiệt hại nhưng không vượt quá mức thuế phải nộp. Đặc biệt, nếu việc nộp thuế của cá nhân làm ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia, bộ tài chính trình Thủ tướng chính phủ quyết định miễn, giảm thuế đối với từng trường hợp cụ thể. Điểm mới trong dự thảo Luật thuế TNCN là: Đối với thu nhập được miễn thuế: áp dụng trong lĩnh vực nông- lâm- ngư- diêm nghiệp gặp rủi ro cao, thu nhập thấp và các đối tượng chính sách xã hội. Đối với thu nhập chưa thu thuế: thu nhập từ lãi trái phiếu chính phủ, công trái, tín phiếu kho bạc nhà nước; thu nhập từ chuyển nguợng, chuyển đổi bất động sản trên 10năm. Đối với thu nhập không thuộc diện cịu thuế: thu nhập mang tính chất đãi ngộ, chính sách xã hội của nhà nước. Biểu thuế và cách tính thuế: 2.1.3.1 Đối với thu nhập thường xuyên: áp dụng theo biểu thuế luỹ tiến từng phần: Đối với công dân VN và cá nhân định cư tại VN: Đơn vị tính: triệu đồng bậc thu nhập bình quân tháng/người thuế suất 1 0-5 0% 2 5-15 10% 3 15-25 20% 4 25-40 30% 5 >40 40% Đối với người nước ngoài cư trú tại VN và công dân VN lao động, công tác ở nước ngoài Đơn vị tính: triệu đồng bậc thu nhập bình quân tháng/người thuế suất 1 0-8 0% 2 8-20 10% 3 20-50 20% 4 50-80 30% 5 >80 40% Đối với ngườì nước ngoài không cư trú rại VN: Áp dụng thuế suất 25% tính trên tổng thu nhập chịu thuế. Đối với công dân VN nếu trong năm vừa có thu nhập trong nước, vừa có thu nhập ở nước ngoài thì thuế suất áp dụng đối với thời gian ở trong nước theo biểu thuế đối với người VN, thời gian ở nước ngoài theo biểu thuế đôi với người nươc ngoài. Đối với thu nhập không thường xuyên: thuế suất áp dụng đối với tổng thu nhập chịu thuế: Thuế suất 5% đối với thu nhập chịu thuế về chuyển giao công nghệ. Thuế suất 10% đối với thu nhập chịu thuế về trúng thưởng xổ số, trúng thưởng khuyến mại. Điểm mới trong dự thảo Luật thuế TNCN là: Thứ nhất: Biểu thuế luỹ tiến từng phần: dự kiến áp dụng thống nhát cho cả người VN và người nước ngoài và áp dụng với thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công. Mức thu nhập theo năm và tạm thu theo tháng. Đơn vị tính: triệu đồng Bậc thuế Thu nhập tính thuế/năm Thu nhập tính thuế/tháng Thuế suất 1 0-48 0-4 0% 2 48-72 4-6 5% 3 72-108 6-9 10% 4 108-168 9-14 15% 5 168-288 14-24 20% 6 288-528 24-44 25% 7 528-1008 44-84 30% 8 >1008 >84 35% Mức giảm trừ gia cảnh cho cá nhân được coi là ngưỡng chịu thuế nên thuế suấ o% tương ưng đuợc coi là ngưỡng giảm trừ cúa người nộp thuế. Khoản giảm trừ cho người phụ thuộc sẽ được giảm trừ trước khi xác định thu nhập tính thuế. Thứ hai: Biểu thuế suất toàn phần: Áp dụng đối với thu nhập từ đàu tư , thu nhập từ chuyển nhượng vốn, thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản và cấc khoản thu nhập khác. Thuế thu nhập đựoc tính và thu theo từng lần phát sinh thu nhập. Thu nhập chịu thuế Thuế suất 1. Thu nhập chịu thuế từ đầu tư vốn: Lãi cho vay, lợi tức cổ phần và lợi tức từ các hình thức góp vốn kinh doanh khác. Lãi tiền gửi tiết kiệm vượt trên 5triệu đông/tháng 5% 2. Thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng vốn 25% 3. Thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng, chuyển đổi bất động sản 25% 4 Thu nhập chịu thuế khác: Thu nhập chịu thuế từ tiền bản quyền vượt trên 10triệu đồng/lần phát sinh thu nhập. Thu nhập chịu thuế từ trúng thưỏng xổ số, khuyến mại, trò chơi, có thường vượt trên 10 triệu đồng/ giải thưởng. Thu nhập từ thừa kế, quà tặng vượt trên 10triệu đồng/ lần phát sinh thu nhập. 5% 10% 10% Việc áp dụng các mức thuế suất như trên là vì các lí do: Đối với thu nhập từ đầu tư vốn hiện nay tạm thời chưa thu, luật dự kiến đưa vào diện chịu thuế để đảm bảo kiểm soát thu nhập này và động viên một phần vào ngân sách nhà nước. Tuy nhiên để khuyến khich phát triển thị trường vốn thì mức động viên 5% là hợp lý. Mức thuế suất này thấp hơn so với các nước ( hầu hêt các nước áp dụng mức thuế suất 15%-20%) Thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng vốn, hiện hành cá nhan kinh doanh nộp thuế là 28%, cá nhân không kinh doanh chưa nộp thuế đối với loại thu nhập này. Tuy nhien, dự lụt dự kiến quy định thu thuế đối với cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng vốn bất kể là kinh doanh hay không kinh doanh và áp dụng một mức thuế suất chung là 25%. Mức thuế suất này cũng là hợp lý và phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong thực tiễn không phải mọi trường hợp đều có thể xác định được thu nhập ròng nên đối với trường hợp không xác định được thu nhập ròng thì Dự luật qưy định thuế được tính bằng 0.1% trên giá chuyển nhượng, trên cơ sở xác định thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng bằng 0.4% trên giá chuyển nhượng nhân với thuế suất 25% - Đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, hiện thu thuế trên giá chuyển nhượng với thuế suất là 2% đối với đất nông nghiệp và 4% đối với đất khác. Dự luật dự kiến quy định thu một mức thuế suât thống nhất là 25% trên thu nhập ròng của loại thu nhập này để đẩm bảo động viên bình đẳng. Trường hợp không xác định được thu nhập ròng thì dự luật thuế được tính bằng 8% trên giá chuyển nhượng, nhân với thuế suất 25%. Đối với thu nhập từ bản quyền áp dụng thuế suất 5% , thu nhập từ trúng thưởng xổ sô áp dụng thuế suất 10% như hiện hành.Tuy nhiên, Để đảm bảo công bằng giữa người có thu nhập đến ngưỡng chịu thuế và người có thu nhập dưới ngưỡng chịu thuế, thuế chỉ tính trên phần vượt ngưỡng chịu thuế thay vì tính trên toàn bộ thu nhập như hiện hành. Đối với thu nhập từ thừa kế,quà tặng hiện chưa thu đốivới thu nhập này. Để kiếmoát thu nhập và động vien một phàncho nhân sách nhà nước, Dự luật quy định áp dụng là 10% trên phần thu nhập vượt ngưỡng là 10triệu đồng. Kê khai, thu nộp: Nguyên tắc khấu trừ tại nguồn: cơ quan chi trả thu thu nhập có nghĩa vụ khấu trừ tiền thu thúe trước khi chi trả thu nhậpc cho đối tượng nộp thuế để nộp thay tiền thuế vào ngân sách nhà nước Cá nhân có thu nhập chịu thuế cỏ trách nhiệm kê khai,thuế đầy đủ , đungs thời hạn hành năm thực hiện quyết toán thuế đối với thu nhập thường xuyên theo quy định của bộ tài chính. Điểm mới trong dự thảo luật thuế TNCN là: đối với khoản thu nhập từ kinh doanh và thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất là cá nhân tự kê khai, tự tính thuế và tự nộp thuế, cơ quan thuế thực hiện kiểm tra, kiểm soát. Đối với các khoản thu nhập thuộc diện chịu thuế còn lại áp dụng phương pháp thu thuế khẩu trừ tại nguồn: khi chi trả thu nhập cho người nộp thấp , cơ quan chi trả thu nhập thực hiẹn khấu trừ và nộp thuế vào ngân sách nhà nước. Cuối năm cá nhân tổng hợp các khoản thu thực hiện quyết toán nếu có số thuế nộp thừa thì được thoái trả tiền thuế. Các chính sách giảm thuế: Đối với trưòng hợp miễn giảm trừ gia cảnh: Trước đây trong Luật thuế cũ không có điều khoản này. Ở dự thảo Luật thuế TNCN mới có quy định mức giảm trừ gia cảnh bao gồm hai phần: ♦ Đối với người nộp thuế có hai phương án: - Trên 4 triệu đồng/ tháng - Trên 5triệu đồng/ tháng ♦ Đối với người phụ thuộc:  50% đối với người tàn tật  40% đối với người dưới 18 tuổi  30% đối với người phụ thuộc khác. Điểm mới trong dự thảo Luật thuế TNCN là mức giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc được áp dụng thống nhất là 40% thay cho ba mức 30%, 40%, 50% như dự thảo lần trước.Trước đó nhiều ý kiến cho rằng việc quy định mức giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc sẽ rất khó áp dụng, bởi sẽ kéo theo nhièu thủ tục hành chính phức tạp, từ đó dễ phát sinh tiêu cực. Bản dự thảo quy định mức giảm trừ mới cho người phụ thuộc là 1.6 triệu đồng/ tháng. Những người phụ thuộc mà người nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật là con, vợ chồng, bố mẹ, ông bà… Trường hợp trong gia đình có nhiều người có thu nhập chịu thuế thì việc tính giảm trừ đối với người phụ thuộc vào thu nhập chịu thuế của người nào là do gia đình tự lựa chọn và đăng ký theo nguyên tắc mỗi nguời phụ thuộc chỉ tính cho một người nộp thuế. Phần giảm trừ cho những người phụ thuộc mà người nộp thuế phải nuôi dưỡng cao nhất không qua 10 triệu đồng/ tháng. Mức giảm trừ gia cảnh được áp dụng thống nhất cho cả người Việt Nam và người nước ngoài. * Đối với việc đánh thúe tiền gửi tiết kiệm, thu nhập từ lãi cổ phiếu còn gây rất nhiều tranh cãi: Đưa thu nhập từ lợi tức cổ phần, lợi tức từ các hình thức góp vốn kinh doanh bao gồm cả mua bán chứng khoán vào diệnc ịu thuế bởi tới đây cùng với sự phát triển nhanh chóng của các thị trường và trogn điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, số lượng người nắm giữ cổ phần của các doanh nghiệp tăng lên. Đánh thuế ngoài động viên cho NSNN còn đảm bảo quyền đánh thuế của Việt Nam đối với các cá nhân nước ngoài có thu nhập phát sinh tại Việt Nam. Đối với thu nhập từ lãi tiết kiệm, số người có thu nhập với mức từ 4 triệu đến 10 triệu mỗi tháng đã tăng đáng kể đòi hỏi có sự động viên phù hợp. Tuy vậy dự luật dự kiến chỉ thu đối với trường hợp có lãi tiền gửi tiết kiệm vượt trên 4-5 triệu đồng/ tháng. Còn thu thuế đối với thu nhập từ thừa kế và quà tặng là nhằm kiểm soát sự chuyển dịch tài sản, khuyến khích mọi người lao động tự tạo ra thu nhập không trông chờ, ỷ lại vào người khác. Nhưng để phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam, dự kiến chỉ đánh thuế đối với tài sản thừa kế, quà tặng là cổ phiếu, trái phiéu quyền sở hữu công ty, tài sản là nhà đất chỉ đưa vào diện chịu thuế trong trường hợp người đó đã có nhà ở. Tuy nhiên, đối với lãi tièn gửi tiết kiệm, khi dự thảo luật đưa ra ý kiến này đã làm cho một số ngân hàng lo ngại về sự tác động đến quyền lơị của những “khách hàng bạc tỷ” của họ. Bà Trần Hải Anh-PTGĐ ngân hàng cổ phần Phương Nam cho biết: “ chúng tôi rất lo ngại về khả năng này. Tôi nghĩ người dân có thể sẽ không còn hứng thú với hình thức gửi tiền tiết kiệm nữa mà chuyển sang các kênh đầu tư khác”. Đó có thể là chuyển sang dầu tư vào vàng, giữ vàng, USD, bất động sản… nhưng đầu tư vào các loại này cũng có nhiều rủi ro, nhất là với những diẽn biến bất thường về giá trogn thời gian qua, hoặc người dân có thể chia nhỏ khoản tiền gửi tại nhiều ngân hàng, chia thành những khoản tiền gửi với những sổ tiết kiệm khác nhau hoặc nhờ người khác đứng tên. Nhưng với cách lách trên, người gửi tiền sẽ gặp phải những rủi ro khi nhờ người đứng tên, thiệt thồi khi chia nhỏ khoản tièn gửi, nếu từ 700-800 triệu trở lên thì lại bị đóng thuế tiếp. Dù thế nào thì nguời gửi tiền cũng sẽ bị thiệt thòi và tác động của chính sách thuế đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng sẽ rất lớn.. Để hạn chế, ngân hàng có thẻ chia sẻ với khách hàng của mình bằng cách tăng them một phần lãi suất , nhưng khả năng này rất khó, vì tăng lãi suất đầu vào lại phải tăng lãi suất cho vay đầu ra, bởi vậy sẽ làm khó cho các doanh nghiệp và ngưòi dân vay vốn. Tại ngân hàng Phương Nam lượng khách hàng có khoản tièn gửi từ 700 triệu trở lên đang chiếm tỉ trọng khoảng 50-60%. Vì vậy nếu đánh thuế tác động sẽ rất lớn. Tuy vậy, trả lời những thắc mắc này, thứ trưởng bộ tài chính Trương Chí Trung- nguời trực tiếp tham gia soạn thảo dự thảo Luật thuế TNCN nói: “Ở đây đặt ra vấn đề rất nhạy cảm. Nhưng nhìn ở góc độ nào đó thì có sự hợp lý của nó. Nếu ở góc độ nguyên tắc thu thuế đối với mọi công dân thì người nào có thu nhập trên mức trung bình xã hội đều phải đống thuế. Nếu không đánh thuế vào lãi tiền gửi tiết kiệm, những người làm công ăn lương chỉ thu nhập khoảng 6-7 triệu/ tháng phải đóng thuế, trong khi người gửi tiết kiệm thu được từ lãi chục triệu một tháng chẳng hạn lại không phải đóng thuế thì sẽ mất công bằng. Mà Luật thuế TNCN đòi hỏi tính công bằng rất cao. Việc áp dụng thuế cần phải tính toán đến tốc độ lạm phát, sự biến động của tỷ giá đồng Việt Nam so với ngoại tệ mạnh và mặt bằng lãi suát huy động.Nếu không thuế thu nhập cá nhân có thể gây cản trở những dòng vốn mạo hiểm chạy vào thị truường chứng khoán, giảm tiền gửi tiết kiệm trong tình hình mặt bằng lãi suất của ta còn cao và dòng vốn nhàn rỗi chảy vào khu vực sản xuất bị ngăn cản và hạn chế. Trường hợp thực hiện như dự thảo luật thuế thì nhành thuế và cả Ngân hàng phải có một hệ thống công nghệ cực kỳ hiện đại, lọc toàn bộ dữ liệu của hàng chục triệu khách hàng để trách trường hợp “lách” thuế. QUẢN LÝ THU THUẾ THU NHẬP ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ THU NHẬP CAO Ở VIỆT NAM: 2.2.1 Đối với thu nhập cao thường xuyên là người VN: Nước ta thống nhất áp dụng phương pháp khấu trừ tại nguồn đối với thuế thu nhập của người VN. Mọi tổ chức cá nhân chi trả thu nhập có nghĩa cụ kháu trừ tiền thuế thu nhập để nộp vào ngân sách trước khi chi trả thu nhập cho cá nhân.Một sổ trường hợp khác cơ quan thuể trực tiếp tổ chức thu. Mọi cá nhân là người VN khi có thu nhập thường xuyên đến mức chịu thuế và cơ quan chi trả thu nhập có cá nhan thuộc diện chịu thuế thu nhập đều phải đăng kí với cơ quan thuế để được cấp mã số thuế. Các cá nhân nộp thuế thu nhập thường xuyên thông qua cơ quan chi trả thu nhập nộp tờ khai đăng kí thuếTNCN cho cơ quan chi trả thu nhập. Cơ quan chi trả thu nhập tổng hợp tờ khai đăng kí thuế thu nhập của từng cá nhân và nộp cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý để được cấp mã thuế cho từng cá nhân.Cá nhân nộp thuế thu nhập trực tiép cho cơ quan thuế nộp tờ khai đăng kí thuế TNCN cho cơ quan tthuế để được câp mã su thuế. Cơ quan chi trả thu nhập, cá nhân nộp thuế th._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0136.doc
Tài liệu liên quan