Phần mở đầu
Trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào có tồn tại nhà nước,thuế đều giữ vai trò rất quan trọng. Nó ra đời cùng sự ra đời của nhà nước và là sự thể hiện quyền lực chính trị của nhà nước nhằm huy động những phương tiện vật chất trong nền kinh tế để đáp ứng nhu cầu chi tiêu to lớn của bộ máy nhà nước ở hầu hết các quốc gia thành công trong xây dựng kinh tế,thuế luôn luôn là một công cụ quan trọng và được sử dụng hết sức linh hoạt để kích thích sự sống của nền kinh tế. ở nước ta tron
32 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1366 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thuế giá trị gia tăng (VAT) và việc sử dụng sắc thuế này ở Việt Nam những tồn tại và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g những năm gần đây đã có những chuyển biến tích cực.Đặc biệt việc áp dụng thuế GTGT và các hình thức gián thu khác (thuế tiêu thụ đặc biệt,thuế xuất nhập khẩu ) là một phương hướng quan trọng của cải cách thuế trong giai đoạn hiện nay,nhằm sử dụng chức năng điều chỉnh thuế để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, khắc phục tính trùng lặp của thuế doanh thu và từng bước hoà nhập với chính sách thuế của các nước trong khu vực và thế giới. Việc áp dụng luật thuế GTGT vào đời sống của nước ta được 2 năm. Đây là một luật thuế mới do vậy vẫn còn nhiều vướng mắc cho cả đối tượng nộp thuế và người thu thuế khi thi hành. Mặc dù trong suốt quá trình triển khai, chúng ta đã có nhiều văn bản sửa đổi, bổ sung song luật thuế GTGT vẫn cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện cho sát thực tế và phù hợp với thông lệ quốc tế. Chính vì vậy, bài viết nhỏ này nhằm cung cấp những thông tin về nội dung cơ bản của thuế GTGT và việc sử dụng sắc thuế này ở Việt nam cùng với những vấn đề vướng mắc còn tồn tại và những giải pháp cần tháo gỡ.
Qua bài viết này em muốn gửi lời cảm ơn chân thành tới cô Phạm Hồng Vân - giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Lý thuyết tài chính tiền tệ - đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành đề án này và cũng như các ý kiến góp ý của tất cả bạn bè trong lớp.
Phần I
Những vấn đề cơ bản về thuế GTGT
Một số khái niệm chung về GTGT và thuế GTGT
Giá trị gia tăng là gì ?
Giá trị gia tăng là giá trị tăng thêm đối với một số sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ do cơ sở sản xuất,chế biên,buôn bán hoặc dịch vụ tác động vào nguyên,vật liệu thô hay hàng hoá mua vào,làm giá trị của chúng tăng thêm.Nói cách khác,đây là số chênh lệch giữa “giá đầu ra ” với “giá đầu vào ” do đơn vị kinh tế tạo ra trong quá trình sản xuất,kinh doanh,dịch vụ
Giá trị gia tăng có thể tính bằng phương pháp cộng hoặc phương pháp trừ.Theo phương pháp cộng,giá trị gia tăng là trị giá các yếu tố cấu thành giá trị tăng thêm bao gồm chủ yếu là giá trị lao động (thường được tính bằng giá trị lao động) và lợi nhuận về hoạt động sản xuất kinh doanh,dịch vụ.Theo phương pháp khấu trừ, GTGT là khoản chênh lệch giữa giá trị khâu sau của sản phẩm (đầu ra ) với giá trị của nguyên vật liệu hay sản phẩm ở khâu trước mà nhà kinh tế đã sử dụng để tạo ra sản phâm hàng hoá hay dịch vụ (đầu vào)
Từ những phương pháp trên,về mặt lý thuyết,người ta có thể biểu thị GTGT bằng các đẳng thức sau
GTGT=tiền công lao động +lợi nhuận
Hoặc GTGT = giá đầu ra –giá đầu vào
Mức chênh lệch giữa giá đầu ra và giá đầu vào càng cao thì đơn vị kinh doanh càng thành công về mặt hiệu quả.
Thuế GTGT là gì ?
Theo luật thuế GTGT đã được quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX,kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 10 tháng 5 năm 1997 thì thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá tri tăng thêm của hàng hoá,dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất,lưu thông đến tiêu dùng
Đây là một loại thuế gián thu,một yếu tố cấu thành trong giá hàng hoá (hay giá dịch vụ) nhằm động viên sự đóng góp của người tiêu dùng như thuế doanh thu.Tuy nhiên,thuế GTGT có điểm cơ bản khác với thuế doanh thu là chỉ người bán hàng (hoặc dịch vụ) lần đầu phải nộp thuế GTGT trên toàn bộ doanh thu bán hàng (hoặc cung ứng dịch vụ).Còn người bán hàng (hoặc dịch vụ) ở các khâu tiếp theo đối với hàng hoá dịch vụ đó,chỉ phải nộp thuế trên phần giá trị tăng thêm.Một trong những nguyên tắc cơ bản của thuế GTGT là sản phẩm hàng hoá,dù qua nhiều khâu hay ít khâu,từ sản xuất đến tiêu dùng,đều chịu thuế như nhau
Thuế GTGT đánh vào các sản phẩm,dịch vụ tiêu thụ trong cả nước,kể cả hàng hoá nhập khẩu.Thông thường hàng hoá,dịch vụ dùng cho mục đích xuất khẩu không thuộc diện đánh thuế GTGT.Mức thuế phải nộp thường căn cứ vào công dụng vật chất của sản phẩm,không phân biệt người mua dùng vào mục đích gì.
Phương pháp tính thuế GTGT
Xuất phát từ khái niệm chung về GTGT và thuế GTGT trên đây,các nhà kinh tế đã đưa ra 4 phương pháp cơ bản của việc tính thuế GTGT như sau
Phương pháp thứ nhất:phương pháp trực tiếp hay phương pháp kế toán,thuế GTGT được tính bằng cách lấy thuế suất (+) nhân với giá trị tăng thêm được biểu thị bằng tiền công,cộng với lợi nhuận,mà cụ thể là
Thuế GTGT= t*(giá đầu ra –giá đầu vào)
Phương pháp thứ hai phương pháp cộng gián tiếp,thuế GTGT được căn cứ vào từng thành phần riêng biệt của giá trị tăng thêm,ta có thể viết như sau
Thuế GTGT=(t*tiền công)+ (t*lợi nhuận)
Phương pháp thứ ba:phương pháp trừ trực tiếp hay phương pháp kế toán, thuế GTGT được tính dựa trên cơ sở tính giá trị tăng thêm là chênh lệch giữa giá đầu ra và giá đầu vào,cụ thể là :
Thuế GTGT =t*(giá đầu ra –giá đầu vào)
Phương pháp thứ tư phương pháp trừ gián tiếp (còn gọi là phương pháp hoá đơn hay phương pháp khấu trừ.).Theo phương pháp này,thuế GTGT phải được nộp trên cơ sở lấy thuế tính trên giá đầu ra trừ thuế tính trên giá đầu vào,cụ thể là
Thuế GTGT =(t*giá đầu ra)-(t*giá đầu vào)
Trong 4 phương pháp tính thuế GTGT nói trên thì 3 phương pháp đầu hầu như chỉ tồn tại về mặt lý thuyết,còn trong thực tế,người ta thường ít áp dụng. Đại bộ phận các nước đã thực hiện thuế GTGT đề sử dụng phương pháp 4, phương pháp trừ gián tiếp,hay phương pháp hoá đơn.Phương pháp này áp dụng phổ biến do một số nguyên nhân cơ bản sau đây
Việc tính thuế GTGT dựa vào hoá đơn cho nên có ưu điểm trội hơn hẳn những phương pháp khác về mặt kỹ thuật,luật pháp,tạo điều kiện thuận lợi cho sự theo dõi kiểm tra của các cơ quan quản lý thu thuế
Các phương pháp 1,2,3 tuy đơn giản nhưng khó chính xác.Nó đòi hỏi đơn vị kinh doanh phải xác định lợi nhuận kịp thời.Hơn nữa,nhìn vào tài khoản kế toán,người ta thường khó phân biệt doanh thu bán hàng cũng như giá vốn (giá đầu vào)của từng loại sản phẩm có thuế suất phân biệt khác nhau
Sử dụng phương pháp 4,người ta có thể tính được nghĩa vụ thuế một cách kip thời,tính thuế cho từng kỳ có thể không chính xác,nhưng cho một năm tài chính thì chính xác
Thuế GTGT thường có ít thuế suất,bảo đảm sự đơn giản,rõ ràng. Về ít thuế suất,sắc thuế này mang tính trung lập,về cơ bản không can thiệp sâu vào mục tiêu khuyến khích hay hạn chế sản xuất,kinh doanh dịch vụ tiêu dùng theo nghành nghề cụ thể,không gây phức tạp trong việc xem xét từng mặt hàng, nghành nghề có thuế suất chênh lệch nhau nhiều nhưng lại khó phân biệt để có sự vận dụng thật chính xác thuế suất theo đúng luật
Quá trình ra đời và phát triển của thuế GTGT trên thế giới
Thuế GTGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu được nghiên cứu và áp dụng từ sau đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914-1918) nhằm động viên sự đóng góp rộng rãi của quảng đại quần chúng nhân dân cho nhu cầu chi tiêu của chính phủ,để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh.Thuế doanh thu được áp dụng ở Pháp từ năm 1917.Trong thực tế cách đánh thuế này đã phát sinh nhiều nhược điểm về tính chất trùng lắp.Mặc dù qua nhiều lần bổ sung,thuế doanh thu vẫn còn nhược điểm nổi bật là thuế thu chồng chéo và trùng lắp.Đến năm 1954,chính phủ Pháp đã ban hành loại thuế mới với tên gọi là thuế GTGT “ theo tiếng Pháp là taxe sur la valeur ajoutee (được viết tắt là TVA)”.Lúc đầu TVA được ban hành để áp dụng trước đối với ngành sản xuất,chủ yêu nhằm hạn chế việc thu thuế chồng chéo qua nhiều khâu trong lĩnh vực công nghiệp với thuế suất đồng loạt là 20% và chỉ khấu trừ thuế đối với khâu trước đối với nguyên liệu,vật liệu.Quá trình thống nhất hoá Châu âu được thúc đẩy vào những năm 50 đã có tác dụng thuận lợi cho TVA được triển khai nhanh chóng ỏ các nước khác.Đến năm 1966 trong xu thế cải tiến hệ thống thuế “đơn giản và hiện đại” chung, ở Châu âu TVA được chính thức ban hành để thay thế một số sắc thuế gián thu
Từ năm 1978,theo yêu cầu điều hoà luật pháp của nước thành viên Cộng đồng kinh tế Châu âu (EEC),nước Pháp điều chỉnh lại luật tài chính,trong đó phần quan trọng liên quan đến TVA.Năm 1986,TVA ở Pháp được áp dụng rộng rãi đối với tất cả các nghành,nghề sản xuất,lưu thông hàng hoá và dịch vụ,nhằm đáp ứng mục tiêu quan trọng :Bảo vệ số thu kịp thời,thường xuyên cho ngân sách nhà nước và khắc phục tình trạng thu thuế trùng lắp của thuế doanh thu
Khai sinh từ nước Pháp,thuế GTGT đã nhanh chóng được áp dụng rộng rãi trên thế giới,trở thành nguồn thu quan trọng của nhiều nước.Đến nay đã có trên 100 nước áp dụng thuế GTGT,chủ yếu là các nước Châu phi,châu Mỹ la tinh,các nước trong khối cộng đồng chung Châu âu(EC) và một số nước Châu á
Về tên gọi,nhiều nước gọi là thuế GTGT,điển hình là Pháp,Anh,Thuỵ điển…một số nước gọi là thuế hàng hoá và dịch vụ như Canada, Newziland,.. ở Phần lan, áo, Đức vẫn còn gọi tên gọi cũ với quan điểm cho rằng đây không phải là thuế mới mà bản chất vẫn như thuế doanh thu như cũ,chỉ thay đổi nội dung,biện pháp thu.Mặt khác các nước này còn có lập luận cho rằng,đối với hàng hoá nhập khẩu,thuế GTGT đánh trên giá trị hàng hoá nhập khẩu,nên không có ý nghĩa là thuế đánh trên giá trị gia tăng thêm nữa
Các nước thành viên của Cộng đồng Châu âu (EC) đã chọn thuế GTGT như một giải pháp tốt nhất để tăng tính trung lập và thống nhất việc đánh thuế trong cộng đồng,khuyến khích quá trình công nghiệp hoá và tăng năng suất …các nước EC có ý định áp dụng một hệ thống thuế suất thống nhất,nhưng đến nay chưa được thực hiện
Một số nước sử dụng thuế GTGT không chỉ để thay thế các loại thuế gián thu với nhiều nhược điểm,mà còn nhằm tăng thu cho ngân sách nhà nước (như Chi Lê,Đan Mạch)Một số nước coi loại thuế này như một nguồn thu mới,cho phép giảm hay huỷ bỏ một số sắc thuế khác.Nhiều cuộc tranh luận ở Mỹ về thuế thu nhập công ty,giảm thuế suất thu nhập cá nhân,cho phép giảm thuế tài sản,tài trợ cho bảo hiểm xã hội,giảm thuế đánh trên quỹ lương… vì thực chất,thuế GTGT là một loại thuế đánh vào tiêu dùng,nói cách khác là động viên từ thu nhập của cá nhân hoặc của gia đình khi sử dụng thu nhập cho nhu cầu tiêu dùng
Hiện nay thuế GTGT được đánh giá như một nguồn thu đang nổi lên,kết hợp với tăng tiêu dùng,đã trở thành một yếu tố quan trọng trong tổng số thu của một số nước đang sử dụng loại thuế này.Nhiều nước đã xác định là số thu của họ trong năm đầu áp dụng thuế GTGT đã đem lại kết quả cao hơn thuế doanh thu trước đó
Những ảnh hưởng của thuế GTGT đến giá cả,lạm phát và ngân sách
ảnh hưởng của thuế GTGT đến giá cả và lạm phát
Thông thường giá cả và lạm phát tăng hay giảm do nhiều yếu tố tác động, cả về kinh tế lẫn xã hội.Trong cơ chế thị trường,quy luật cung cầu,quy luật giá trị cũng có tác động rất lớn đến giá cả và lạm phát.Do đó,nếu khẳng định việc ban hành một số hệ thống thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng có tác động đến mức nào với giá cả,lạm phát thường là khó chính xác.
Có người cho rằng,việc ban hành thuế GTGT sẽ làm tăng giá cả và lạm phát.Tuy nhiên ở nhiều nước trong quá nghiên cứu ảnh hưởng của thuế GTGT đối với giá cả và lạm phát người ta đã đi đến kết luận là đến nay,chưa có căn cứ khoa học nào để khẳng định rằng bản thân thuế GTGT có thể gây ra lạm phát. Nếu có ảnh hưởng nào đó của thuế GTGT đến giá cả,thì những ảnh hưởng này chỉ là một phần chứ không thể là tất cả.Để có kết luận trên,các nhà kinh tế thế giới đã tiến hành nghiên cứu bằng thực nghiệm những thay đổi chỉ số giá tiêu dùng,tín dụng và tiền lương ở 35 nước trong vòng 2 năm,cả trước và sau ngày ban hành thuế GTGT.Kết quả cho thấy có 22 nước (63% số nước được nghiên cứu) gần như không có hoặc có rất ít ảnh hưởng của việc ban hành thuế GTGT đến chỉ số giá tiêu dùng.Có 8 nước có sự tăng giá là do bị ảnh hưởng đáng kể bởi thuế GTGT như Đan mạch, Ecuado, Pháp, Newziland, Nauy, Panama, Tây ban nha và Urugoay.Giá cả tăng còn do nhiều nguyên nhân,như sự thay đổi các loại thuế khác,tăng lãi suất tín dụng,tình trạng cung cầu hàng hoá,khả năng quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế,tính độc quyền,tâm lý của các tầng lớp dân cư trước những điều chỉnh về chính sách kinh tế xã hội…
Về mặt lý thuyết,thuế GTGT thuộc loại thuế gián thu,một yếu tố cấu thành trong giá.Vì vậy việc ban hành thuế GTGT có liên quan và tác động trực tiếp đến giá cả là tất nhiên không thể phủ nhận.Vấn đề cần xem xét là trên thực tế đối với từng ngành nghề,từng loại sản phẩm hàng hoá,dịch vụ,cũng như trên toàn cục trên nền kinh tế,việc ban hành thuế gián thu nói chung,thuế GTGT nói riêng có ảnh hưởng đến giá cả trong phạm vi rộng hay hẹp,đến khu vực sản xuất hay các khu vực khác như thế nào,còn tuỳ thuộc vào hệ thống thuế suất,nội dung và tổ chức thực hiện có phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội,với trình độ dân trí và khả năng đóng góp của các tầng lớp dân cư hay không? Về nguyên tắc khi thay thế thuế doanh thu bằng thuế GTGT với mức động viên cuối cùng như nhau thì ảnh hưởng của thuế GTGT ngang với ảnh hưởng của thuế doanh thu với giá.Tuy vậy nêu nhà nước không có biện pháp quản lý kiểm tra giá cả để các cơ sở kinh doanh lợi dụng vin vào lý do có thuế GTGT mới để tăng giá thì vô hình chung giá cả sẽ có tác động xấu.
Tình hình lạm phát ở từng nước xảy ra thường do nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân khá quan trọng về sự phát triển chậm hay giảm sút về kinh tế do các chính sách kinh tế vĩ mô, điều hành của nhà nước do thu không đáp ứng nhu cầu chi, không cân đối được thu chi ngân sách, do tác động của giá cả vì giá cả vừa là tác nhân nhưng cũng vừa là hậu quả của lạm phát. Vì vậy không thể xem xét, đánh giá tác động cụ thể của chính sách thuế GTGT một cách riêng rẽ, tách biệt. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, nếu việc cải cách chính sách thuế nói chung, thuế GTGT nói riêng phù hợp với quy luật và sự phát triển kinh tế thị trường, sẽ có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế, bảo đảm nguồn thu ngân sách, do đó sẽ có tác động tốt, ngăn chặn hay hạn chế lạm phát. Ngược lại, nếu đưa ra mức thuế quá cao, hoặc quá thấp sẽ có ảnh hưởng đến kết quả thu ngân sách và lạm phát.
Việc đánh giá tác động của chính sách thuế GTGT đến lạm phát không thể là việc xem xét một cách phiến diện, cục bộ, mà phải được phân biệt một cách khách quan, toàn diện, khoa học trong mối quan hệ hữu cơ với nhiều tiêu thức về kinh tế, xã hội của đất nước và mối quan hệ với khu vực quốc tế trong từng thời kỳ nhất định
2. Tác động của thuế GTGT đến số thu ngân sách
Thuế GTGT có thể tạo được nguồn thu ngày càng tăng cho ngân sách Nhà nước, thông qua việc mở rộng và bao quát diện đánh thuế đối với mọi hoạt động nhập khẩu,sản xuất kinh doanh và dịch vụ
Mặt khác thuế GTGT bảo đảm việc thu tập trung phần lớn số thuế đánh vào từng sản phẩm hàng hoá ngay từ khâu đầu đối với từng doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh lớn,có khả năng hạn chế thất thu ngân sách tốt hơn thuế doanh thu.Việc thu thuế và khấu trừ thuế được dựa trên chứng từ,hoá đơn,tạo căn cứ pháp lý cho việc thu thuế sát hơn với thực tế kinh doanh.Trường hợp thất thu thuế ở khâu trước sẽ được khắc phục ở khâu sau.Song dù sao cũng không thể xây dựng mức thuế suất GTGT quá cao,gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp,tác động không tốt đến sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng xấu tới ngân sách nhà nước.
Nếu việc nghiên cứu,xây dựng mức thuế suất hợp lý với tính toán kỹ lưỡng để bảo đảm thuế GTGT thường hay cao hơn 5%-10% so với thuế doanh thu,sẽ mang tính khả thi,tạo được sốthu cho ngân sách nhà nước một cách tích cực,đồng thời góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất,mở rộng lưu thông có lợi cho quốc kế dân sinh
Những điểm giống nhau và khác nhau giữa thuế GTGT và thuế doanh thu
Những điểm giống nhau
Thuế GTGT và thuế doanh thu đều là thuế gián thu đánh vào người tiêu dùng hàng hoá hoặc được cung ứng dịch vụ.Thuế này do người sản xuất,kinh doanh dịch vụ nộp cho nhà nước,nhưng thực chất người tiêu dùng là người chịu thuế.Nhà doanh nghiệp đóng vai trò là người thu hộ thuế cho nhà nước,họ đã phải cộng số thuế gián thu phải nộp vào giá bán của sản phẩm hoặc giá dịch vụ để người tiêu dùng trả,nên họ phải nộp đầy đủ số thuế thu hộ này vào ngân sách Nhà nước.
Thuế gián thu bảo đảm cho mọi người có thể tự do lựa chọn hàng hoá,quyết định tiêu dùng để chịu thuế cao hay thấp tuỳ thuộc vào túi tiền,sở thích của mình.Thuế tránh được mối quan hệ trực tiếp giữa người tiêu dùng là người chịu thuế với cơ quan thuế nên có phần dễ thu hơn thuế trực thu.Đồng thơì,dễ điều chỉnh mức thuế tăng lên vì thuế gián thu thường nằm ẩn trong giá hàng hoá,dịch vụ,người chịu thuế thường ít cảm nhận được ngay đầy đủ gánh nặng của loại thuế này.Do vậy,phản ứng của dân chúng về thuế gián thu cũng ít gay gắt hơn so với thuế trực thu.Về mặt quản lý,thuế GTGT và thuế doanh thu không quan tâm đến các khoản chi phí hoạt động sản xuất,kinh doanh,dịch vụ của doanh nghiệp nên chi phí có phần thấp hơn thuế trực thu.
Những điểm khác nhau
Giữa thuế GTGT và thuế doanh thu có những điểm khác nhau cơ bản là:
Thuế GTGT chỉ đánh vào giá trị tăng thêm của sản phẩm ở từng khâu sản xuất,lưu thông.Nhưng thuế doanh thu lại đánh trên toàn bộ doanh thu của sản phẩm,qua mỗi lần chuyển dịch từ sản xuất đến lưu thông.
Thuế GTGT có khấu trừ thuế ở các giai đoạn trước thuế doanh thu không khấu trừ thuế đã nộp ở giai đoạn trước.
Tổng số thuế GTGT thu đối với từng sản phẩm không phụ thuộc vào sự tổ chức phân chia các chu trình kinh tế dù các công đoạn sản xuất kinh doanh được chuyên môn hoá cao,tập trung ở một số doanh nghiệp hay phân chia cho nhiều doanh nghiệp,tổng số thuế thu được vẫn bằng nhau.
Ngược lại,số thuế doanh thu đối với từng sản phầm phụ thuộc vào sự tổ chức,phân chia các chu trình kinh tế.Sản phẩm hàng hoá càng phải trải qua nhiều công đoạn sản xuất,lưu thông thì tổng số thuế thu được đối với từng sản phẩm từ khâu đầu đến khâu cuối mà người tiêu dùng phải chịu ngày càng cao.
Thuế GTGT thường có ít thuế suất hơn thuế doanh thu,nên có phần đơn giản rõ ràng,dễ thực hiện hơn thuế doanh thu.
Những ưu điểm và nhược điểm của thuế Giá Trị Gia Tăng
1. Ưu điểm chủ yếu của thuế giá trị gia tăng.
Tránh được hiện tượng đánh thuế chống lên thuế,phù hợp với nền kinh tế hàng hoá sản xuất theo cơ chế thị trường.
Thuế GTGT thuộc loại thuế đánh vào tiêu dùng được áp dụng rộng rãi đối với mọi tổ chức,cá nhân có tiêu dùng sản phẩm,hàng hoá hoặc được cung cấp dịch vụ,nên có thể tạo được nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước.
Thuế tính trên giá bán hàng hoá hoặc giá dịch vụ,nên không phải đi sâu xem xét,phân tích về tính hợp lý,hợp lệ của các khoản chi phí,làm cho việc tổ chức quản lý thu tương đối dễ dàng hơn các loại thuế trực thu
Thuế được hoán đổi đối với hàng xuất khẩu nên có tác dụng giảm chi phí,đẩy mạnh xuất khẩu,tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế
Thuế GTGT kết hợp với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với hàng nhập khẩu,có tác dụng tích cực bảo vệ sản xuất,kinh doanh hàng nôi địa
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao. Việc khấu trừ thuế GTGT được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã thúc đẩy người mua phải đòi hỏi người bán xuất hoá đơn,ghi doanh thu đúng với hoạt động mua bán,khắc phục tình trạng thông đồng giữa người mua với bán để trốn lậu thuế. ở khâu bán lẻ,thường xảy ra trốn lậu thuế. Người tiêu dùng không cần đòi hoá đơn vì đối với họ không còn xảy ra việc khấu trừ thuế.Tuy vậy,ở khâu bán lẻ cuối cùng,giá trị tăng thêm thường không lớn, số thuế thu ở khâu này không nhiều.
Nâng cao được tính tự giác trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người nộp thuế.Thông thường trong chế độ kê khai nộp thuế GTGT, cơ quan thuế tạo điều kiện cho cơ sở kinh doanh tự kiểm tra,tự tính thuế,tự kê khai,tự nộp thuế. Từ đó,tạo được tâm lý và cơ sở pháp lý cho đơn vị kinh doanh không phải hiệp thương,thoả thuận về mức doanh thu,mức thuế với cơ quan thuế. Việc kiểm tra thuế GTGT cũng có mặt thuận lợi vì đã buộc người mua,người bán phải lập và lưu giữ chứng từ,hoá đơn đầy đủ nên việc thu thuế thường tương đối sát với thực tế hoạt động kinh doanh.
Việc khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện đại hoá,chuyên môn hoá sản xuất,tích cực đầu tư,mua sắm trang thiết bị mới để hạ giá thành sản phẩm.
Nhìn chung,trong các sắc thuế gián thu,thuế GTGT được coi là phương pháp thu tiến bộ nhất hiện nay,được đánh giá cao do đạt được các mục tiêu lớn của chính sách thuế, như tạo được nguồn thu lớn cho Ngân Sách Nhà Nước, đơn giản,trung lập.
2. Nhược điểm chủ yếu của thuế GTGT
Nhược điểm của thuế GTGT được thể chủ yếu ở các mặt sau:
Chi phí về quản lý,thu thuế GTGT rất tốn kém. Để thực hiện tốt thuế GTGT,công tác ghi chép hoá đơn, sổ sách kế toán của người nộp thuế phải rõ ràng,minh bạch.Trên thực tế không phải tất cả các doanh nghiệp vừa và lớn thuộc mọi thành phần kinh tế đều làm tốt công tác này.Do đó, hầu hết các nước đang thực hiện thuế GTGT đều sử dụng hệ thống vi tính để đảm bảo chống thất thu đạt hiệu quả và quản lý thu thuế được thuận lợi. Nếu không theo dõi,quản lý thuế chặt chẽ,dễ xảy ra tình trạng phải hoàn thuế nhiều hơn là thu được thuế.
Thuế GTGT có ít thuế suất nên người tiêu dùng có thu nhập cao hay thất thường phải nộp giống nhau,thuế mang tính luỹ thoái. Tỷ lệ động viên qua thuế GTGT với người có thu nhập thấp lại lớn hơn tỷ lệ động viên đối với người có thu nhập cao,thuế không đảm bảo yêu cầu công bằng trong chính sách động viên giữa người giàu và người nghèo.
Giữa lý luận và thực tế,thuế GTGT cũng có những điểm chưa được nhất quán.Thuế GTGT đánh trên phần giá trị tăng thêm nhưng đối với một số nghành dịch vụ (như phục vụ sửa chữa,chuyển giao công nghệ,dịch vụ khoa học) cách đánh thuế và khấu trừ thuế GTGT như thế nào là hợp lý ? Đối với tài sản cố định,mức khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào thế nào là thoả đáng...Những vấn đề này là nội dung tranh luận trong nhiều cuộc hội thảo trên thế giới,nhưng đến nay ở nhiều nước vẫn có nhiều quan điểm và cách xử lý khác nhau.
Thuế GTGT có ưu điểm là tính tập trung rất cao.Đồng thời cũng lại có nhược điểm là thiếu linh hoạt, mềm dẻo,không thật thích hợp với nền kinh tế mới bước đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia.
PHần 2
Vấn Đề Xây Dựng Và áp Dụng Mô Hình
Thuế GTGT ở Việt Nam
I. Thực trạng của việc áp dụng thuế doanh thu ở nước ta trong những năm trước đây.
1. Ưu điểm của thuế doanh thu.
Thuế doanh thu là một loại thuế thu vào các hoạt động sản xuất,kinh doanh, dịnh vụ.Thuế doanh thu mang tính chất của một loại thuế gián thu,một yếu tố cấu thành trong giá,nhằm động viên đóng góp sự của người tiêu dùng cho ngân sách Nhà nước.
Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 7 đã thông qua luật thuế ngày 30 tháng 6 năm 1990,có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 10 năm 1990 thay thế chế độ thu quốc doanh ( đối với kinh tế quốc doanh) và một số loại thuế ( trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh) như thuế doanh nghiệp, thuế buôn chuyến, thuế muối, thuế hàng hoá đối với một số cơ sở sản xuất trước đây thuộc diện nộp thuế hàng hoá,nay không phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt.
Thuế doanh thu được áp dụng thống nhất chung đối với các thành phần quốc doanh và ngoài quốc doanh nhằm bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế và sự công bằng, bình đẳng về chính sách động viên thuế giữa những người tiêu dùng cho ngân sách Nhà nước.
Thuế được áp dụng rộng rãi đối với mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thuộc mọi nghành nghề, mọi hình thức, hoạt động thường xuyên hoặc không thường xuyên, có địa điểm cố định hay lưu động ( trừ sản xuất nông nghiệp trước nộp thuế nông nghiệp và từ 01-01-1994 nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp, sản xuất mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và sản xuất hàng xuất khẩu ). Vì vậy thuế doanh thu đã trở thành một nguồn thu tương đối tập trung, ổn định của ngân sách Nhà nước. Từ 1991 đến 1995,thuế doanh thu đã tăng nhanh qua các năm ( từ 35% đến 45% ) và chiếm từ 16,5% đến 20,3% tổng số phí và thuế trong ngân sách Nhà nước.
Thông qua cơ cấu thuế suất cao, thấp khác nhau ( từ 0% đến 30%) giữa các ngành nghề,Nhà nước thể hiện quan điểm khuyến khích hay hạn chế,nhằm hướng dẫn,điều chỉnh nền kinh tế có lợi cho quốc kế dân sinh theo hướng phát triển của đất nước.
Biện pháp tính thuế doanh thu đơn giản, thuận tiện cho việc kiểm tra của cán bộ thuế. Các mức thuế suất được có kế thừa chế độ thu trước, không gây đảo lộn về giá cả, về số thu ngân sách trong những năm đầu chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường.
Riêng đối với khu vực kinh tế quốc doanh, đã được Nhà nước ưu đãi, chiếu cố về miễn,giảm thuế giúp đỡ khắc phục một số khó khăn trong bước đầu chuyển đổi cơ chế sản xuất,kinh doanh, bảo đảm nộp được thuế và có lãi. Số xí nghiệp làm ăn thua lỗ hiện nay chỉ còn dưới 5% tổng số xí nghiệp, cùng với một số xí nghiệp được sắp xếp lại cho phù hợp với cơ chế mới.
2. Nhược điểm và hạn chế của thuế doanh thu
Trong quá trình thực hiện thuế doanh thu đã bộc lộ những nhược điểm, hạn chế chủ yếu là :
Thuế tính trên toàn bộ doanh thu ( gồm cả thuế doanh thu ) qua từng khâu luân chuyển hàng hoá từ sản xuất,bán buôn đến bán lẻ đã ảnh hưởng không tốt đến giá cả và sản xuất,kinh doanh. Cùng một mặt hàng nếu được tổ chức sản xuất và luân chuyển qua ít khâu tổng số thuế phải nộp sẽ thấp hơn so với việc tổ chức qua nhiều khâu không phù hợp với cơ chế thị trường.
Do thuế doanh thu còn nhiều nhóm thuế suất khác nhau nên đã hạn ché tính trùng lặp của thuế.Trong nghành sản xuất thương nghiệp, dịnh vụ thuế suất phân biệt quá chi li, nhưng tiêu thức sắp xếp cho từng loại thuế cụ thể thiếu rõ ràng, khó phân biệt để áp dụng được thuế suất chính xác.Có trường hợp hiểu thế nào cũng đúng, áp dụng thế nào cũng được mặc dù thuế suất chênh lệch nhau rất lớn.Ví dụ hoá chất cơ bản 1% và hoá chất thông thường đến 4% ; trong nghành cơ khí sản xuất máy móc, thiết bị cong cụ 1% ; các sản phẩm cơ khí khác 2%-4%...Do nhiều căn cứ xác định thuế chính xác , thuế suất lại chênh lệnh nhau nhiều nên đẫ phát sinh không ít tiêu cực, tuỳ tiện trong vận dụng luật thuế.
Thuế doanh thu chưa thu đối với mặt hàng thuộc diện đánh thuế tiêu thụ đặc biệt, hàng nhập khẩu, hàng xuất khẩu nên chưa tạo được môi trường thuận lợi cho việc hoà nhập với thông lệ khu vực, quốc tế, chưa hỗ trợ hàng xuất khẩu giảm giá thành để có điều kiện thuận lợi trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Mục tiêu,yêu cầu và điều kiện thay thế thuế doanh thu bằng thuế GTGT
1/ Mục tiêu,yêu cầu của việc ban hành thuế GTGT
Việc ban hành thuế GTGT thay thé thuế doanh thu ở Việt Nam nhằm những mục tiêu và yêu cầu chủ yếu sau :
Hạn chế những nhược điểm tồn tại của thuế doanh thu, góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển, đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu.Thuế GTGT được ban hành gắn với việc sửa đổi, bổ sung một số sắc thuế ( thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu...) làm cho hệ thống thuế của Việt Nam ngày càng hoàn thiện, phù hợp với cơ chế thị trường, tương đồng với hệ thống thuế trong khu vực và trên thế giới, góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Tăng cường việc thực hiện chế độ hoá đơn, sổ kế toán và hạch toán kinh tế đối với các nhà doanh nghiệp, bảo đảm ngày càng sát hơn với thực tế hoạt động của từng cơ sở kinh doanh, tập trung được nguồn thu thuế GTGT vào ngân sách Nhà nước ngay từ khâu sản xuất hạn chế được thất thu về thuế.
2. Điều kiện cần thiết để áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam
Những điều kiện cần thiết cho việc áp dụng thuế GTGT là :
Các hoạt động sản xuất, kinh doanh,mua bán hàng hoá lớn và vừa phải thực hiện đầy đủ chế độ chứng từ, hoá đơn, thuận tiện cho việc kiểm tra, xác định doanh thu tính thuế và khấu trừ thuế đối với từng cơ sở kinh doanh.
Trình độ cán bộ quản lý thu thuế được nâng cao về chế độ chứng từ , hoá đơn, sổ kế toán, thông thạo về ché độ quản lý, tính thuế, khấu trừ thuế, hoán thuế GTGT. Cơ quan thuế từng bước trang bị hệ thống máy vi tính, cán bộ ngày càng thông thạo việc sử dụng các mạng máy vi tính đạt hiệu quả cao.
Mở rộng diện thanh toán mua bán hàng hoá thông qua các tài khoản ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định doanh thu bán hàng, làm căn cứ cho việc tính thuế đựơc chính xác.
ý thức tự nguyện,tự giác chấp hành các luật thuế của các nhà doanh nghiệp từng bước được nâng nên theo phương châm tăng cường “đức trị”
gắn với việc xử lý các vi phạm về thuế nghiêm minh theo phương châm “pháp trị”.
Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh và đưa dần việc thực hiện pháp luật vào nề nếp, kỷ cương, cả trong nhận thức tư tưởng và trong hành động thực tề.
Mỗi điều kiện đều có vai trò, vị trí quan trọng khác nhau,đồng thời có mối quan hệ, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau để việc triển khai luật thuế GTGT được đồng bộ đạt hiệu quả tốt.
Sau hơn hai năm triển khai thực hiện luật thuế GTGT
1. Luật thuế mới đã góp phần khuyến khích đầu tư, xuất khẩu, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và sắp xếp cơ cấu lại nền kinh tế.
Sau khi đạt tốc độ tăng trưởng kỷ lục 9,54% năm 1995,từ cuối năm 1996, kinh tế bắt đầu có biểu hiện trì trệ, nhịp độ tăng trưởng suy giảm liên tục, năm 1999 chỉ đạt 4,8%. Nền kinh tế Việt Nam đã mấy lần lâm vào thiểu phát. Thiểu phát gắn với suy giảm đầu tư, tốc độ tăng trưởng kinh tế có biểu hiện phức tạp gây tác động tiêu cực trên nhiều phương diện. Trong điều kiện nước ta hiện nay, để ngăn chặn thiểu phát , thúc đẩy tăng trương nhanh, tạo ra việc làm và hiệu quả kinh tế cao, Nhà nước đã tiến hành các giải pháp kích cầu theo kiểu áp dụng học thuyết Keynes. muốn kích câù phải tăng khối lượng tiêu dùng cá nhân các hộ gia đình và Nhà nước lên, đồng thời phải kích thích tăng đầu tư của tư nhân và của Nhà nước để đạt được “cầu hiệu quả” có quan hệ trực tiếp đến chính sách thuế nói chung, trong đó có thuế gián thu.Chính vì vậy việc thực hiện các luật thuế mới đã góp phần khuyến khích đầu tư, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh.Việc thực hiện luật thuế GTGT đã tạo điều kiện cho giá thành các công trình đầu tư xây dựng cơ bản giảm khoảng 10%.
Trong năm 1999, tuy gặp nhiều khó khăn do đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm khoảng 12,3% nhưng tổng vốn đầu tư vẫn tăng so với năm 1998, trong đó vốn đầu tư trong nước tăng khoảng 28,6%; vốn ODA tăng khoảng 16%. Một số sản phẩm chủ yếu đạt khá so với năm 1998 là : dầu thô tăng 19% ; sữa hộp tăng 8,7% ; đường mật tăng 28%; bia tăng 1,5% ; giấy bìa tăng 8,8%; xi măng tăng 9,2%; thép cán tăng 12,9%; điện phát ra tăng 9,7%... Đại bộ phận các doanh nghiệp nộp được thuế GTGT theo đúng luật mà vẫn có lãi.
Theo quy định của luật thuế GTGT, hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35056.doc