`
LờI NóI ĐầU
Đại hội VI của Đảng tháng 12/1986 đã đánh dấu bước thay đổi căn bản của nền kinh tế nước ta, nền kinh tế nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo sự định hướng của Nhà nước. Để đáp ứng cho công cuộc cải cách nền kinh tế, Nhà nước ta đã thực hiện việc cải cách hệ thống thuế lần thứ nhất. Tuy nhiên, hệ thống thuế này vẫn còn bộc lộ những hạn chế. Để đáp ứng cho yêu cầu tập trung ngân sách Nhà nước, khuyến khích sản xuất phát triển và trư
92 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1315 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thuế giá trị gia tăng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc áp dụng thuế giá trị gia tăng tại Công ty XNK Thiết bị toàn bộ và Kỹ thuật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, Nhà nước ta đã tiến hành cải cách hệ thống thuế bước hai nhằm khắc phục những yếu kém của luật thuế cũ. Việc cải cách thuế bước hai này được tập trung vào một số vấn đề lớn, trong đó có sự thay đổi lớn là thay thuế doanh thu bằng thuế giá trị gia tăng, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1999.
Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế tiên tiến nhưng vẫn còn đang rất mới ở Việt Nam nên trong quá trình áp dụng vẫn còn những vướng mắc, tồn tại cần giải quyết.
Sau một thời gian thực tập tại công ty XNK Thiết bi toàn bộ và Kỹ thuật (TECHNOIMPORT), được sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Nguyễn Thu Thuỷ và các cô chú trong công ty em đã chọn đề tài “ Thuế giá trị gia tăng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc áp dụng thuế giá trị gia tăng tại công ty XNK Thiết bị toàn bộ và Kỹ thuật” với mục đích phân tích tình hình thực hiện tại công ty trong hai năm 2000 và 2001 để thấy được những tồn tại trong qua trình thực hiện thuế tại công ty.
Nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản của thuế giá trị gia tăng.
Chương II: Tình hình áp dụng thuế GTGT tại công ty XNK Thiết bị toàn bộ và Kỹ thuật (TECHNOIMPORT).
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc áp dụng thuế GTGT tại công ty TECHNOIMPORT.
Do kiến thức còn hạn chế và thời gian tìm hiểu thực tế không nhiều nên bài viết của em không tránh khỏi những sai sót. Em mong nhận được sự chỉ dẫn và góp ý của các thầy cô giáo và các cô chú trong công ty để đề tài này được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Nguyễn Thu Thuỷ và các cô chú trong công ty đã giúp đỡ em trong việc lựa chọn và hoàn thành luận văn này.
Sinh viên thực hiện: Đào Thị Hoàng Yến.
Lớp: K34-D3.
mục lục
Trang
Lời nói đầu……………………………………………………………………..1
Mục lục…………………………………………………………………………3
Chương I
Những vấn đề cơ bản về thuế giá trị gia tăng ………………………………….5
Những lý luận chung về thuế...……………………………………………...5
Khái niệm, đặc điểm của thuế………………………………………………5
1.1. Khái niệm về thuế………………………………………………………….5
Đặc điểm của thuế.………………………………………………………6
2. Những mục đích của việc đánh thuế………………………………………...8
3. Phân loại thuế………………………………………………………………..9
Phân loại thuế theo tính chất của thuế…………………………………..10
Phân loại thế theo cơ sở tính thuế……………………………………….11
Các yếu tố cấu thành của một sắc thuế……………………………………12
Vai trò của thuế…………………………………………………………...14
Đối với doanh nghiệp…………………………………………………...14
Đối với Nhà nước……………………………………………………….15
Những nội dung cơ bản về thuế giá trị gia tăng (GTGT)……………….17
Lịch sử ra đời của thuế GTGT…………………………………………..17
Sự cần thiết áp dụng thuế GTGT tại Việt Nam………………………….18
Sự cần thiết áp dụng thuế GTGT tại Việt Nam…………………………18
Điều kiện để áp dụng thuế GTGT ……………………………………...19
Những nội dung cơ bản của luật thuế GTGT……………………………20
Phạm vi áp dụng………………………………………………………...21
Đối tượng chịu thuế……………………………………………………..21
Đối tượng nộp thuế……………………………………………………...22
Phương pháp tính thuế GTGT…………………………………………...23
Phương pháp khấu trừ thuế……………………………………………...23
Phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên GTGT……………………..26
Hoá đơn, chứng từ mua bán hàng hoá dịch vụ………………………….28
Đăng ký, kê khai, nộp quyết toán thuế GTGT ………………………….31
Đăng ký nộp thuế GTGT………………………………………………..31
Kê khai thuế GTGT phải nộp……………………………………………32
Nộp thuế GTGT ………………………………………………………...34
Quyết toán thuế GTGT …………………………………………………36
Tác dụng của thuế GTGT ………………………………………………37
Chương II
Tình hình áp dụng thuế GTGT tại công ty XNK thiết bị toàn bộ và kỹ thuật (TECHNOIMPORT)…………………………………………………………..39
Vài nét khái quát về công ty XNK thiết bị toàn bộ và kỹ thuật…………39
Quá trình hình thành và phát triển của công ty…………………………39
Chức năng và nhiệm vụ của TECHNOIMPORT ……………………….39
Chức năng kinh doanh của công ty……………………………………...40
Nhiệm vụ của công ty…………………………………………………...40
Các lĩnh vực ngành nghề kinh doanh chủ yếu…………………………..41
Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của công ty………………………….42
Tổ chức bộ máy quản lý của công ty……………………………………42
Tổ chức bộ máy kế toán của công ty……………………………………44
Thực trạng việc áp dụng thuế GTGT tại công ty TECHNOIMPORT …………………………………………………………………………..……..45
Tình hình hoạt động kinh doanh tại công ty…………………………….45
Tình hình sử dụng vốn kinh doanh……………………………………...45
Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh………………………………………47
Tình hình thực hiện thuế GTGT tại công ty……………………………..48
Những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng thuế GTGT …………………48
Phân tích tình hình thực hiện thuế GTGT tại công ty TECHNOIMPORT .
Phương pháp xác định thuế GTGT và quản lý hoá đơn chứng từ……….49
Thuế GTGT đầu ra………………………………………………………49
Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ……………………………………..55
2.2.2. Công tác kê khai, nộp thuế GTGT tại công ty…………………………..60
Tình hình quyết toán thuế GTGT tại công ty TECHNOIMPORT ……...61
Nhận xét chung………………………………………………………….63
Những thành công………………………………………………………64
Những tồn tại……………………………………………………………64
Chương III
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc áp dụng thuế GTGT tại công ty TECHNOIMPORT ……………………………………………………………66
Các giải pháp đối với công ty TECHNOIMPORT ……………………..66
Một số kiến nghị về chính sách chế độ………………………………….67
Kết luận………………………………………………………………………...71
Tài liệu tham khảo……………………………………………………………..72
Chương I
Những vấn đề cơ bản về thuế giá trị gia tăng
I. những lý luận chung về thuế.
Khái niệm, đặc điểm của thuế.
1.1. Khái niệm về thuế.
Lịch sử phát triển cuả xã hội loài người đã chứng minh rằng thuế ra đời là sự cần thiết khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Sự xuất hiện của thuế trong kỷ nguyên của nhân loại gắn liền với nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình đồng thời đảm bảo vai trò cung cấp hàng hoá công cộng thì Nhà nước cần có những nhu cầu chi tiêu chung có tính chất xã hội. Do đó Nhà nước phải sự dụng quyền lực chính trị vốn có của mình để ban hành những quy định cần thiết làm công cụ phục vụ cho các chức năng, nhiệm vụ của mình.
Việc huy động tập trung nguồn của cải đó vào trong tay Nhà nước có thể được thực hiện bằng các phương pháp khác nhau như đóng góp bắt buộc và đóng góp tự nguyện. Công cụ thực hiện yêu cầu tất yếu đó dưới hình thức phân phối có tính chất bắt buộc để chuyển giao một phần thu nhập của xã hội cho Nhà nước gọi là thuế.
Cho đến nay nhìn chung vẫn chưa có khái niệm thống nhất về thuế. Tuỳ theo cách nhìn nhận từ những góc độ, những khía cạnh khác nhau mà có những quan niệm về thuế khác nhau.
Xét trên góc độ Nhà nước, thuế là khoản thu của Nhà nước đối với các tổ chức và mọi thành viên trong xã hội, khoản thu này mang tính chất bắt buộc, không hoàn trả trực tiếp, được pháp luật quy dịnh nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước .
Xét trên góc độ người nộp thuế thì thuế là một khoản đóng góp mang tính pháp lệnh của Nhà nước bắt buộc mọi người dân hoặc các tổ chức kinh tế nộp vào Ngân sách Nhà nước để cùng chia sẻ gánh nặng cộng đồng.
Xét về nội dung vật chất thì thuế là một khoản tiền hay sản vật mà các tổ chức kinh tế và mọi người phải có nghĩa vụ đóng góp để dùng vào việc chi tiêu của Nhà nước.
Xét về bản chất kinh tế, thuế là một hình thức phân phối thu nhập được Nhà nước sử dụng để động viên một phần thu nhập cuả các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội vào ngân sách Nhà nước nhằm phục vụ cho các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Đặc trưng cơ bản của thuế là mọi sắc lệnh về thuế đều có tính chất bắt buộc gắn liền với quyền lực của Nhà nước và mọi sắc luật thuế này đều do Quốc hội thông qua.
Gần đây trong một số công trình nghiên cứu về thuế của các nhà kinh tế cho rằng để vạch rõ được bản chất của thuế thì trong định nghĩa đó phải nêu bật được các khía cạnh sau: nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ giữa Nhà nước với pháp nhân và các thể nhân; những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh của Nhà nước; xét theo khía cạnh pháp luật, thuế là một khoản nộp cho Nhà nước được pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.
Từ các khái niệm trên ta có thể nêu lên một khái niệm tổng quát về thuế như sau:
Thuế là một biện pháp tài chính bắt buộc (phi hình sự) của Nhà nước nhằm động viên một bộ phận thu nhập từ lao động, của cải, vốn, từ việc chi tiêu hàng hoá, dịch vụ và từ việc lưu giữ, chuyển dịch tài sản của các thể nhân và pháp nhân nhằm trang trải các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Việc thu thuế bao giờ cũng được thể chế bằng hệ thống luật.
Song cũng cần phải hiểu rằng, quyền lực được thiết lập tuỳ theo chế độ chính trị. Trong thể chế dân chủ như hiện nay quyền lực thuộc về toàn dân, Nhà nước chỉ là người đại diện cho dân chúng về các hoạt động đối nội và đối ngoại. Do vậy, xét cho đến cùng, người dân nộp thuế là để phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của chính mình.
Đặc điểm của thuế.
Bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong vốn có của thuế. Khi nghiên cứu về thuế người ta đã nhận thấy những đặc trưng riêng có của thuế để phân biệt thuế với các công cụ tài chính khác.
Từ các khái niệm trên ta có thể nhận thấy những đặc điểm của thuế:
Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập của các tầng lớp trong xã hội cho Nhà nước mang tính chất bắt buộc phi hình sự và tính pháp lý cao vì thế thuế được quy định trong hiến pháp của Nhà nước, được điều chỉnh bởi luật và pháp lệnh. Đặc điểm này vạch rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ tiền tệ được hình thành một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt-việc động viên mang tính chất bắt buộc của Nhà nước. Tính cưỡng bức, bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn từ những lý do sau:
Thứ nhất, hình thức chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không gắn với lợi ích cụ thể của người nộp thuế do đó không thể sử dụng phương pháp tự nguyện trong việc chuyển giao. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công cộng, Nhà nước tất yếu phải sử dụng quyền lực chính trị để bắt buộc mọi đối tượng có thu nhập chuyển giao.
Thứ hai, nó xuất phát từ tính chất cung cấp hàng hoá công cộng và đặc điểm sử dụng hàng hoá công cộng. Nhu cầu sử dụng hàng hoá công cộng của các thành viên xã hội có xu hướng tăng mà phần lớn loại hàng hoá này là do Nhà nước sản xuất và cung cấp. Nhưng do tính chất đặc biệt của hàng hoá công cộng là không có tính cạnh tranh và không thể trao đổi trực tiếp được trên thị trường để bù đắp chi phí. Hơn nữa trong việc cung cấp hàng hoá công cộng của Nhà nước lại xuất hiện một vấn đề mà kinh tế học gọi là hiện tượng “người ăn không”. Chính vì vậy mà Nhà nước chỉ có thể sử dụng phương pháp thuế để bắt buộc chuyển giao thu nhập từ khu vực tư sang khu vực công.
Tuy nhiên tính bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự nghĩa là hành động đánh thuế cho Nhà nước không phải xuất hiện khi có biểu hiện phạm pháp mà hành động đánh thuế là hành động thực hiện nghĩa vụ của người công dân. Hành vi mà thuế tác động không phải là hành vi được coi là cản trở xã hội.
Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không mang tính chất hoàn trả trực tiếp.
Thuế mang tính nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước, thuế không phải là một khoản đối giá nghĩa là người nộp thuế không có quyền đòi hỏi ở Nhà nước cung cấp cho họ một lượng giá trị hàng hoá, dịch vụ công cộng tương ứng với số họ đã nộp. Mặt khác mức độ cung cấp các dịch vụ công cộng của Nhà nước không nhất thiết ngang bằng với mức chuyển giao của người nộp thuế. Mức độ chuyển giao thu nhập nhiều hay ít chỉ căn cứ vào kết quả hoạt động kinh tế và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội cũng như nhu cầu tài chính chung của Nhà nước. Đặc điểm này giúp ta phân biệt được sự khác nhau giữa thuế với các phí, lệ phí. Khác với thuế, phí và lệ phí là một khoản thu của Nhà nước có tính chất đối giá và mang tính tự nguyện tương đối.
Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế được quy định trước bằng pháp luật. Đặc điểm này thể hiện tính pháp lý cao của thuế, mặt khác nó cũng phản ánh sự chuyển giao thu nhập này không mang tính tuỳ tiện mà dựa trên cơ sở pháp luật nhất định và được xác định trước bằng luật thuế.
Thuế là một hình thức phân phối lại, vừa chứa đựng yếu tố kinh tế và xã hội. Đặc điểm này cho ta quan niệm rõ ràng rằng việc đánh thuế chính là kết quả của quá trình hoạt động kinh tế. Không có hoạt động kinh tế hoặc hoạt động kinh tế kém hiệu quả không thể tạo ra được nguồn thu của thuế. Ngược lại, việc đánh thuế của Chính phủ tất yếu sẽ ảnh hưởng đến quá trình kinh tế-xã hội. Chính mối quan hệ này đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách và quản lý thuế sự cân nhắc cần thiết khi thực hiện hành vi đánh thuế.
Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chỉ được giới hạn trong phạm vi biên giới quốc gia với quyền lực pháp lý của Nhà nước đối với con người và tài sản.
Tóm lại, với các đặc điểm cơ bản trên thuế đã phản ánh bản chất và nội dung bên trong của thuế, giúp ta phân biệt được thuế với các hình thức động viên khác của Ngân sách Nhà nước trên nhiều phương diện khác nhau.
Những mục đích của việc đánh thuế.
Quan niệm thông thường của người dân đều cho rằng mục đích duy nhất của Nhà nước là do Nhà nước cần để chi tiêu cho bộ máy và trang trải các chi phí cho việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng.
Tuy nhiên ngày nay, đứng trước những diễn biến phức tạp của nền kinh tế thì việc đánh thuế của Chính phủ không chỉ bó hẹp vì mục đích tạo nguồn thu cho ngân sách mà còn nhiều mục đích khác, đôi khi những mục đích khác đó lại vượt trội hơn mục đích ngân khố trong chính sách thuế. Trong thực tế, việc đánh thuế nhằm vào các mục đích chủ yếu sau:
2.1 Đánh thuế nhằm góp phần ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát.
Nếu Chính phủ và tư nhân mua một khối lượng hàng hoá, dịch vụ lớn mà không bị đánh thuế ở khu vực công và tư sẽ tạo ta sự mất cân đối lớn giữa cung và cầu. Một khi nền kinh tế có giá cả hàng hoá tăng, cầu vượt quá cung sẽ tạo ra sự lạm phát trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế có sự lạm phát thì biện pháp quan trọng mà chính phủ thường sử dụng là cắt giảm các khoản chi tiêu và nâng cao mức thuế để tạo ra sự cân đối giữa cung và cầu. Trên ý nghĩa đó, thuế được coi là công cụ góp phần kiềm chế lạm phát, điều chỉnh mức giá ổn định.
Để ổn định giá cả hàng hoá trong nước, nhằm hạn chế các đột biến về giá có thể xảy ra các Chính phủ thường sử dụng chính sách thuế để duy trì mức giá.
Đánh thuế góp phần tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm.
Tăng trưởng kinh tế, công ăn việc làm, ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát ngày nay đã trở thành mục tiêu theo đuổi của các Chính phủ. Nhằm thực hiện mục tiêu đó hầu hết các quốc gia đều nhấn mạnh vai trò của chính sách tài chính, tiền tệ. Chính sách thuế được thừa nhận là một chính sách nhạy cảm đối với nền kinh tế trong thời kỳ suy thoái kinh tế, tăng trưởng kinh tế giảm, thất nghiệp gia tăng. Để phục hồi nền kinh tế hầu hết các chính phủ đều sử dụng chính sách tài khoá, tăng mức chi tiêu của tài chính Nhà nước và cắt giảm thuế. Và trong hai giải pháp này các nhà kinh tế cho rằng giảm thuế có tác dụng nhanh chóng và hiệu quả hơn đối với nền kinh tế. Bởi vì giảm thuế có tính tự động, ít có những ràng buộc hơn so với các biện pháp thu chi.
Với một chính sách thuế hợp lý, Nhà nước có thể khuyến khích một ngành sản xuất , kinh doanh phát triển bằng việc áp dụng mức thuế thấp, từ đó tạo ra được nhiều công ăn việc làm cho người dân và nền kinh tế sẽ có sự tăng trưởng. Như trường hợp Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp thúc đẩy việc xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài bằng cách hạ mức thuế suất, đặc biệt là thuế giá trị gia tăng hay nhà nước áp dụng thuế giá trị gia tăng của hàng nhập khẩu để bảo hộ nền sản xuất trong nước.
Việc tác động của chính sách thuế kích thích được sản xuất tạo điều kiện cho đầu tư từ đó mà tạo ra được nhiều công ăn việc làm vì thuế thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.
Đánh thuế nhằm mục đích phân phối lại của cải xã hội.
Phân phối của cải trong nền kinh tế thị trường chủ yếu là dựa trên những cơ sở các yếu tố sản xuất, đó là sự phân phối mang tính kinh tế.
Ngoài những yếu tố tích cực, sự phân phối của cải trong cơ chế thị trường cũng bộc lộ những mặt hạn chế của nó về phương diện kinh tế cũng như xã hội. Trên phương diện kinh tế, sự phân phối tập trung của cải vào một nhóm ít người giàu có sẽ làm giảm tổng cầu trong nền kinh tế. Trên phương diện xã hội, sự phân phối của cải xã hội trong nền kinh tế thị trường khoét sâu hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo tạo nên sự bất bình đẳng trong xã hội.
Để khắc phục tình trạng đó, cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình phân phối. Nhà nước sử dụng công cụ thuế để thực hiện tái phân phối của cải nhằm tạo nên sự cân bằng trong xã hội và tăng cầu cho sự phát triển cân đối.
Tóm lại, nhìn một cách tổng quát, ngoài mục tiêu tạo nguồn thu nhập cho Ngân sách Nhà nước, việc đánh thuế còn góp phần xử lý các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Phân loại thuế.
Các cuộc cải cách thuế đều nhấn mạnh đến tính đơn giản của hệ thống thuế, song điều đó không có nghĩa hạn chế quá lớn số lượng các sắc thuế trong một hệ thống thuế. Hệ thống thuế có nhiều sắc luật thuế bắt nguồn từ những lý do chủ yếu sau đây:
Nếu chỉ có một sắc thuế duy nhất, đòi hỏi phải có mức thuế suất cao mới có khả năng đáp ứng nguồn tài chính cho Nhà nước, điều này khó thực hiện. Hơn nữa, chỉ có một sắc thuế đánh trên một cơ sở thuế nhất định thì khó lòng đảm bảo tính ổn định nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Nếu chỉ có một sắc thuế duy nhất thì khả năng bao quát nguồn thu sẽ bị hạn chế, không phát huy đươc vai trò điều tiết vĩ mô của thuế.
Do đó, ở hầu hết các nước, hệ thống thuế đều có nhiều sắc thuế phụ thuộc vào bối cảnh kinh tế, xã hội mỗi nước và quan điểm sử dụng công cụ thuế của Nhà nước. Đương nhiên, khi hệ thống thuế có nhiều sắc thuế thì việc tổ chức quản lý sẽ trở nên phức tạp. Để tổ chức, quản lý thu thuế tốt thì cần thiết phải có sự phân loại các sắc thuế.
Phân loại các sắc thuế là việc sắp xếp các sắc thuế có cùng tính chất, đặc điểm vào một loại theo những tiêu thức nhất định. Việc phân loại thuế là nhằm mục đích nghiên cứu tác dụng của từng loại thuế đối với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, quá trình hình thành số thu của ngân sách Nhà nước.
3.1. Phân loại thuế theo tính chất của thuế.
Căn cứ vào tính chất của thuế giữa người nộp thuế và người chịu thuế người ta phân thuế thành hai loại:
3.1.1. Thuế gián thu (Indirect Taxes).
Thuế gián thu là loại thuế không đánh trực tiếp vào thu nhập và tài sản của người nộp thuế mà đánh gián tiếp thông qua giá cả hàng hoá, dịch vụ. Loại thuế này được cộng vào giá, là bộ phận cấu thành nên giá cả hàng hoá, dịch vụ như thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu.
Trong thực tế, thuế gián thu đánh vào người tiêu dùng, do doanh nghiệp nộp cho Nhà nước thay người tiêu dùng. Thuế này làm cho người tiêu dùng (người chịu thuế) tránh được quan hệ trực tiếp với cơ quan thuế nên dễ thu hơn.
Về bản chất, thuế gián thu mang tính chất luỹ thoái, thuộc vào loại thuế có các sắc thuế mà cơ sở đánh thuế là các khoản thu nhập dùng để tiêu dùng.
Thuế gián thu dễ điều chỉnh tăng hơn so với thuế trực thu nên người tiêu dùng không cảm nhận được đầy đủ gánh nặng của loại thuế này. Thuế gián thu được coi trọng và có phạm vi thu rộng, thu được nhiều cho Nhà nước, dễ quản lý và chi phí bỏ ra để thu thuế cũng thấp hơn so với thuế trực thu.
3.1.2 Thuế trực thu (Direct Taxes).
Thuế trực thu là loại thuế trực tiếp thu vào thu nhập của các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân hay đôí tượng nộp thuế đồng thời cũng là người chịu thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất.
Về bản chất, thuế này mang tính luỹ tiến vì nó tính đến khả năng thu nhập của người nộp thuế nên loại thuế này mang tính công bằng hơn thuế gián thu vì phần đóng góp phù hợp với khả năng của từng đối tượng.
Tuy nhiên loại thuế này có nhược điểm là hạn chế sự cố gắng tăng thu nhập (vì người có thu nhập cao càng phải nộp thuế càng nhiều). Ngoài ra, do người chịu thuế nộp trực tiếp cho Nhà nước nên họ cảm nhận được gánh nặng về thuế và có thể dẫn tới từ chối, chây ỳ hoặc trốn, lậu thuế. Nên việc quản lý loại thuế này phức tạp và có chi phí cao hơn so với chi phí để thu thuế gián thu.
Phân loại thuế theo cơ sở tính thuế.
Căn cứ vào cơ sở tính thuế người ta chia thuế làm 3 loại: thuế thu nhập, thuế tiêu dùng và thuế tài sản.
Thu nhập là khoản tiền nhận được do lao động, kinh doanh, đầu tư…của các thể nhân và pháp nhân trong một thời kỳ nhất định thường là 1 năm. Thu nhập mà họ nhận được được hình thành từ các nguồn khác nhau, do đó thuế thu nhập có nhiều dạng. Các sắc thuế có cơ sở tính thuế là thu nhập được gọi là thuế thu nhập.
Nếu căn cứ vào các loại thu nhập để đánh thuế thì có nhiều sắc thuế thu nhập như thuế lương, thuế thu nhập từ hoạt động chứng khoán…
Nếu căn cứ vào chủ sở hữu thu nhập để đánh thuế thì có thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế lợi nhuận chuyển ra nước ngoài,…
Thuế tiêu dùng là các loại thuế có đối tượng đánh thuế là phần thu nhập được mang ra tiêu dùng trong hiện tại. Tiêu dùng thực chất là dùng một phần thu nhập kiếm được để chi tiêu vào việc mua sắm hàng hóa, dịch vụ. Trên lý thuyết loại thuế này là loại thuế gián thu do người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ gánh chịu. Trong thực tế, loại thuế tiêu dùng được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng…
Thuế tài sản là các sắc thuế có cơ sở đánh thuế là giá trị các tài sản được lưu giữ hay chuyển dịch. Tài sản có nhiều dạng biểu hiện khác nhau như:
+ Tài sản, tích sản là những bất động sản như nhà máy, thiết bị, đất đai, đồ dùng lâu bền hay là những tài sản chính như tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, cổ phần.
+ Tài sản vô hình như nhãn hiệu, kỹ thuật, thiện chí, bằng phát minh sáng chế…
Do tài sản có nhiều dạng khác nhau nên thuế tài sản cũng có nhiều sắc thuế như thuế nhà đất, thuế tài sản, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp. Trong thực tế loại thuế tài sản được phân ra làm 2 loại thuế là thuế bất động sản và thuế động sản. Tuy nhiên hiện nay chủ yếu thuế tài sản mới đánh vào giá trị bất động sản.
Ngoài 2 tiêu thức phân loại trên, người ta cũng có thể dựa vào chủ quyền đánh thuế để phân loại hoặc dựa vào cách thức đánh thuế để phân loại. Tùy theo mục tiêu, yêu cầu của từng giai đoạn mà cơ cấu và nội dung các chính sách thuế có khác nhau. Cũng tuỳ thuộc vào yêu cầu của việc xem xét, đánh giá, phân tích và phân loại các sắc thuế mà có nhiều tiêu thức phân loại thuế khác nhau.
Các yếu tố cấu thành của một sắc thuế.
Khác với các hình thức động viên tài chính khác, thuế thực hiện việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức biểu hiện cụ thể của mình bằng một sắc thuế. Mỗi một sắc thuế đều phải được quy định bằng một văn bản pháp luật gọi là luật thuế. Trong luật thuế thường chứa đựng các yếu tố cơ bản sau:
Tên gọi của luật thuế.
Tên gọi của một sắc thuế thể hiện đối tượng hoặc mục đích tác động của sắc thuế đó hay nó nói lên nội dung cơ bản của luật thuế đó. Ví dụ như thuế thu nhập cá nhân thì chỉ có người có thu nhập cao mới phải đóng loại thuế này.
Đối tượng nộp thuế.
Đối tượng nộp thuế chỉ rõ sắc thuế đó điều chỉnh các hoạt động kinh tế của ai?
Đối tượng nộp thuế xác định rõ tổ chức, cá nhân phải thực hiện việc kê khai thuế theo đúng quy định của sắc luật thuế đó.
Về đại thể đối tượng nộp thuế theo luật định có thể là các thể nhân và pháp nhân. Thể nhân là những cá nhân mà hoạt động kinh tế của họ được pháp luật thừa nhận. Pháp nhân là những tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh được pháp luật thừa nhận.
Đối tượng nộp thuế không nhất thiết là đối tượng chịu thuế. Cũng có trường hợp đối tượng nộp thuế cũng chính là đối tượng chịu thuế khi trong sắc thuế đó người nộp thuế không có khả năng chuyển giao gắnh nặng thuế cho người khác.
Đối tượng chịu thuế.
Đối tượng chịu thuế chỉ rõ sắc thuế đó điều chỉnh các hoạt động kinh tế nào, vào cơ sở tính thuế nào, nó thể hiện mục tiêu điều chỉnh của các sắc thuế đó. Đối tượng chịu thuế có thể được xác định trên một đơn vị vật lý (cái, chiếc, kg…) hoặc trên một đơn vị giá trị. Tuỳ theo từng sắc thuế mà đối tượng chịu thuế có thể là thu nhập, giá trị của hàng hoá, dịch vụ, tài sản… mỗi một sắc thuế có đối tượng chịu thuế riêng.
Thuế suất.
Thuế suất chỉ rõ mức động viên của sắc thuế đó trên một đối tượng chịu thuế, nó là một yếu tố rất quan trọng của một sắc thuế. Thuế suất là linh hồn của một sắc thuế, nó thể hiện yêu cầu động viên của Nhà nước trên đối tượng tính thuế đối với từng loại hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuỳ theo từng luật thuế mà người ta có thể áp dụng các dạng thuế suất khác nhau. Trong thực tế có các dạng thuế suất:
Thuế suất cố định: là loại thuế được sắc luật thuế hay Nhà nước ấn định bằng một con sô tuyệt đối cho các đối tượng tính thuế (thường được quy định trên một đơn vị tính thuế).
Thuế suất tỷ lệ là loại thuế suất được ấn định bằng con số tương đối hay tỷ lệ (%) trên đối tượng tính thuế. Đây là loại thuế được áp dụng phổ biến nhất, nó có thể thực hiện được và đảm bảo tính công bằng.
Thuế suất luỹ tiến: là dạng đặc biệt của thuế suất tỷ lệ, loại thuế suất phụ thuộc vào sự biến động giá trị của đối tượng chịu thuế. Loại thuế suất này được thiết kế theo tỷ lệ (%) trên giá trị của đối tượng tính thuế. Loại thuế suất này bao gồm:
+ Thuế suất luỹ tiến từng phần: nó được tính bằng tỷ lệ % trên đối tượng tính thuế nhưng được áp dụng theo từng bậc khác nhau.
+ Thuế suất luỹ tiến toàn phần: được tính bằng tỷ lệ (%) trên đối tượng tính thuế được áp dụng một cách duy nhất đối với đối tượng tính thuế, tỷ lệ (%) tăng dần đối với toàn bộ đối tượng tính thuế.
Thuế suất luỹ thoái: là loại thuế suất có tỷ lệ (%) càng giảm khi đối tượng tính thuế càng tăng. Tỷ lệ thu giảm khi đối tượng tính thuế tăng, khuyến khích người nộp thuế mở rộng sản xuất kinh doanh.
Đơn vị tính thuế: là đơn vị được sử dụng làm phương tiện tính toán đối tượng tính thuế như đơn vị tiền tệ, hay được tính theo số lượng.
Giá tính thuế; là giá cả của các hàng hoá, dịch vụ, tài sản, súc vật…. được quy định trong một sắc thuế, nó được quy ra thành tiền để làm căn cứ tính thuế.
Chế độ miễn giảm thuế.
Miễn giảm thuế là yếu tố ngoại lệ được quy định trong một số sắc thuế. Thực chất đó là số tiền thuế mà người nộp thuế phảu nộp cho Nhà nước song vì những lý do kinh tế-xã hội mà Nhà nước quy định cho phép không phải nộp toàn bộ (miễn thuế) hoặc chỉ nộp một phần (giảm thuế) trong số tiền thuế đó.
Việc quy định miễn giảm thuế nhằm mục đích:
Tạo điều kiện giúp đỡ người nộp thuế khắc phục hoàn cảnh khó khăn do nhiều nguyên nhân khách quan làm giảm thu nhập hoặc ảnh hưởng các hoạt động kinh tế của mình.
Thực hiện một số chủ trương chính sách kinh tế, xã hội trong khuyến khích hoạt động của người nộp thuế.
Tuy nhiên việc miễn giảm thuế cũng có tính hai mặt. Một mặt có tạo điều kiện thực hiện các chính sách kinh tế-xã hội của Nhà nước, mặt khác có làm méo mó những ý tưởng ban đầu khi thiết lập các sắc thuế và không thể thực hiện đực những tiêu chuẩn của một hệ thống thuế hiện đại. Vì vậy, cần phải hạn chế việc quy định các trường hợp miễn giảm thuế tràn lan.
Thủ tục nộp thuế: quy định rõ các đối tượng nộp thuế phải nộp thuế cho ngân sách Nhà nước theo trình tự thủ tục như thế nào.
Trách nhiệm, nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế, trách nhiệm của cơ quan thuế.
5.Vai trò của thuế.
Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với sự thay đổi phương thức can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, thuế đóng vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội. Vai trò của thuế được thể hiện:
5.1. Đối với doanh nghiệp.
Khi bước sang nền kinh tế thị trường với sự thay đổi căn bản, nền kinh tế nước ta đã xuất hiện các thành phần kinh tế mới, các hình thức, lĩnh vực ngành nghề kinh doanh trở nên đa dạng hơn. Từ đó mối quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Nhà nước càng trở nên phong phú và đa dạng hơn.
Mối quan hệ này phát sinh khi Nhà nước cấp vốn cho doanh nghiệp (doanh nghiệp Nhà nước), đồng thời các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình phải nộp cho Nhà nước các khoản thuế, phí và lệ phí.
Thuế và lệ phí là những khoản đóng góp có tính chất bắt buộc mà doanh nghiệp phải thực hiện theo luật định, nó được thể hiện thông qua các luật và văn bản dưới luật.
Với doanh nghiệp, thuế phải nộp là một khoản chi phí của doanh nghiệp (trừ thuế giá trị gia tăng tính theo phương pháp khấu trừ thuế). Đồng thời thuế cũng là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả hàng hoá.
Vì vậy, khi lựa chọn, quyết định và tổ chức thực hiện các phương án kinh doanh, cùng với việc tính toán xác định các yếu tố chi phí khác, doanh nghiệp phải tính toán tới các loại thuế và mức thuế mà doanh nghiệp phải nộp. Qua đó giúp doanh nghiệp xác định được mức lợi nhuận mà doanh nghiệp đã và sẽ thu được là bao nhiêu. Đồng thời, qua việc tính toán chính xác mức thuế các loại mà doanh nghiệp phải nộp sẽ góp phần tăng cường chế độ hạch toán kế toán trong doanh nghiệp, xác định được thực chất chất lượng, hiệu quả kinh doanh của mình. Vì vậy, việc tính toán đó là cần thiết khách quan.
5.2. Đối với Nhà nước.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển cao, mọi quan hệ kinh tế xã hội cơ bản được giải quyết thông qua thị trường và cơ chế thị trường. Tuy có nhiều ưu thế nhưng kinh tế thị trường cũng chưa đựng hàng loạt khuyết tật mà bản thân nó không tự giả quyết được. Chính vì vậy mà sự can thiệp của Nhà nước là rất cần thiết. Để thực hiện được nhiệm vụ này, Nhà nước cần phải sử dụng các công cụ tài chính mà trong đó thuế được sử dụng như một công cụ quan trọng đảm bảo thực hiện các mục tiêu của Nhà nước. Vai trò của thuế đối với Nhà nước được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thuế là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách Nhà nước.
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ từ nền kinh tế quốc dân. Một ngân sách lành mạnh trước hết phải dựa vào nguồn thu tr._.ong nước mà trong đó thuế là nguồn thu chủ yếu. Nguồn huy động tập trung thông qua thuế là tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân.
Theo khảo sát của tổ chức ngân hàng thế giới tại 85 nước trên thế giới thì có 60 nước có khoản thu từ thuế chiếm 80% tổng thu ngân sách. Đặc biệt ở các nước có nền kinh tế đứng đầu thế giới như Đức, Nhật, Pháp, Mỹ đạt tỷ trọng rất cao, trên 90% tổng thu ngân sách.
Sở dĩ thuế mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách vì thuế là một khoản đóng góp mang tính chất bắt buộc. Nhà nước quy định mọi thể nhân và pháp nhân trong xã hội có thu nhập thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế. Thuế tác động đến mọi mặt của nền kinh tế, đến các ngành nghề sản xuất, kinh doanh, các nguồn thu nhập nên phạm vi và diện thu của thuế rất rộng. Chính vì vậy mà nguồn thu từ thuế rất ổn định và mang tính tự chủ trong cân đối ngân sách Nhà nức.
Tuy nhiên nguồn thu này chỉ có thể gia tăng khi nền kinh tế có sự tăng trưởng và đạt năng suất, hiệu quả cao.
Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Chính sách thuế đặt ra không chỉ nhằm mang lại số thu đơn thuần cho ngân sách Nhà nước mà yêu cầu cao hơn là thông qua chính sách thuế góp phần thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế-xã hội.
Căn cứ vào tình hình cụ thể của nền kinh tế mà Nhà nước chủ động điều tiết về thuế. Thông qua các quy định về phạm vi, đối tượng đánh thuế, thuế suất, các điều kiện ưu đãi miễn giảm thuế…mà Nhà nước định hướng đầu tư, kích thích sản xuất kinh doanh các lĩnh vực ngành nghề bằng việc nâng cao hay giảm mức thuế suất. Điều này mang lại cơ cấu hợp lý cho nền kinh tế. Đồng thời thông qua thuế Nhà nước bảo hộ nền sản xuất trong nước là hạn ngạch để nhập khẩu. Từ đó tác động đến cán cân thương mại quốc tế, thúc đẩy sự hoà nhập kinh tế với khu vực và quốc tế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường thì vai trò của thuế rất rộng và trên một mức độ lớn nó tương đồng với phạm vi chức năng của Nhà nước trong mọi đời sống kinh tế xã họi. Nên thuế là một công cụ không thể thiếu trong công cuộc đổi mới nền kinh tế
Thuế góp phần điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội.
Với một nền kinh tế thị trường thì các quy luật kinh tế sẽ phát huy tác dụng một cách tối đa. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng phân hoá giàu nghèo, gây ra sự bất bình đẳng trong xã hội. Bởi vậy, sự cacn thiệp, điều tiết của Nhà nước là đặc biệt hữu ích trong sự phân phối thu nhập trong xã hội.
Thông qua thuế thu nhập, Nhà nước có thể điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư nhằm chuyển thu nhập cao sang cho đối tượng có thu nhập thấp, chuyển sử dụng cá nhân của nhóm người có thu nhập cao sang sử dụng xã hội.
Mặc dù có nhiều hạn chế nhất định nhưng tính công bằng vẫn là đặc trưng nổi bật và là một mục tiêu quan trọng của chính sách Nhà nước. Nếu không đảm bảo được tính công bằng và tính hợp lý trong chính sách thuế thì không thể khuyến khích, động viên các doanh nghiệp tích tụ vốn, đầu tư mở rộng sản xuất, lưu thông nâng cao hiệu quả kinh tế cũng như khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện tốt, đầy đủ nghĩa vụ của mình.
Trong những năm qua, hệ thống pháp luật thuế đã từng bước được ban hành, bổ sung và sửa đổi phù hợp với công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới công tac quản lý Nhà nước. Việc thực hiện các chính sách thuế thống nhất và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế đã động viên hợp lý các nguồn thu quan trọng từ nội bộ nền kinh tế, đáp ứng được yêu cầu cho ngân sách Nhà nước, góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá phát triển.
Thực hiện cải cách hệ thống thuế bước hai, Quốc hội đã thông qua Luật thuế giá trị gia tăng và các luật thuế mới để áp dụng từ ngày 1/1/1999 nhằm khắc phục những nhược điểm của luật thuế doanh thu, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư trong và ngoài nước, bảo vệ hợp lý và khuyến khích phát triển sản xuất trong nước, đặc biệt đối với hàng hoá xuất khẩu, tăng cường hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp.
II. Những nội dung cơ bản về thuế giá trị gia tăng (GTGT ).
Lịch sử ra đời của thuế GTGT .
Thuế GTGT (VAT – Value Added Tax hay TVA – Taxe sur la Valeur Ajouteé) là một loại thuế gián thu được áp dụng rộng rãi tại hầu hết các nước thuộc liên minh Châu Âu (EU). Nhờ vào một số ưu thế, thuế GTGT đã nhanh chóng được triển khai ở nhiều nước công nghiệp phát triển khác và một số nước đang phát triển.
Việc nghiên cứu thuế GTGT được tiến hành bắt đầu sau những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) do nhà kinh tế học người Đức Carlp Rilordrich Sienviens đề xuất vào những năm 1918 nhưng không được Chính phủ Đức phê duyệt. Phải đến năm 1968 Cộng hoà liên bang Đức mới bắt đầu áp dụng thuế GTGT.
Đến năm 1947, thuế GTGT lại được đề cập đến trong tác phẩm về “cải tổ hệ thống thuế“ của nhà kinh tế học người Mỹ tên là Chao. ở Nhật một dự án về thuế này đã được đệ trình lên Quốc hội năm 1953 nhưng không được thông qua.
Trên thực tế Pháp là nước đầu tiên áp dụng thuế GTGT nhưng mới chỉ áp dụng ở khâu sản xuất vào năm 1954 do kết quả của một quá trình rất lâu dài nhằm vào việc hoàn thiện hệ thống thuế khoánước này mà trung tâm của nó là tăng cường các loại thuế gián thu. Nguồn gốc của thuế GTGT ở Pháp là thuế doanh thu. Năm 1937, Pháp cải tổ thuế doanh thu thành thuế đánh một lần vào quá trình sản xuất. Năm 1948, loại thuế này được cải cách thành thuế đánh vào tổng số tiền bán hàng do các khâu sản xuất phải nộp hàng tháng (sau khi trừ đi thuế nằm trong gói cả sản phẩm của khâu sản xuất trước). Luật cải cách thuế của Pháp ban hành ngày 10/4/1954 cho phép cải tiến thuế đánh một lần vào sản xuất thành thuế GTGT. Thuế GTGT được áp dụng đầu tiên vào ngày 1/7/1954 trong một số ngành cá biệt nhưng vào năm 1968 nó đã có hiệu lực trong tất cả các lĩnh vực bán lẻ hàng hoá và cung ứng dịch vụ. Việc nghiên cứu những kinh nghiệm của Pháp trong lĩnh vực thuế khoá rất được quan tâm khi bàn đến việc hoàn thiện hệ thống thuế khoá ở Việt Nam.
Nếu đến giữa năm 1988 mới chỉ có 47 nước áp dụng thuế GTGT thì đến nay đã có hơn 120 nước áp dụng loại thuế này với các tên gọi khác nhau như thuế hàng hoá dịch vụ (Canada, Niu dilân), thuế tiêu dùng (Nhật Bản).
Đến tháng 7/1991 đã có 56 nước chính thức ban hành thuế GTGT (chưa kể 15 nước dự kiến áp dụng) và hiện nay đã có hơn 70 nước đưa thuế GTGT vào hệ thống thuế khoá của mình.
Châu Âu là nơi áp dụng sớm nhất và rộng rãi nhất thuế GTGT, sau đó đến Châu Mỹ la tinh cũng nhận thấy vai trò lớn lao của loại thuế này. riêng tại Châu á theo nhận định của quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) thuế GTGT đang ngày càng trở thành một sắc thuế phổ biến trong khu vực như Triều Tiên (1977), Indônêsia(1985), Đài Loan (1986), Philipine (1988), Nhật (1989),…
Sự cần thiết áp dụng thuế GTGT tại Việt nam.
Sự cần thiết áp dụng thuế GTGT tại Việt Nam.
Bước vào giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế nước ta đang có sự thay đổi rõ rệt. Các thành phần kinh tế trong nước phát triển nhanh, đa dạng về loại hình, về quy mô, phương thức kinh doanh và phong phú về mặt hàng kinh doanh, liên doanh liên kết với nước ngoài được mở rộng. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp về kinh tế xã hội do khuyết tật vốn có của nó gây ra.
Trong bối cảnh mới của đất nước, Nhà nước quyết định thực hiện cuộc cải cách thuế lần thứ nhất, xây dựng và ban hành hệ thống thuế thống nhất cả nước thay thế cho các hình thức thu trước đây. Kết quả là hệ thống thuế thống nhất bao gồm 9 luật thuế và pháp lệnh thuế đã được áp dụng cho tất cả các thành phần kinh tế.
Qua thời gian ngắn áp dụng (1990-1998) các sắc thuế mới kết quả tương đối khả quan và thể hiện được quan điểm sử dụng thuế nhưng luật thuế vẫn còn bộc lộ những hạn chế cần phải hoàn thiện đặc biệt là thuế doanh thu vẫn còn nhiều tồn tại cụ thể là:
Vẫn đánh trùng thuế nhiều lần và thuế đánh trên thuế đã làm tăng giá cả hàng hoá ảnh hưởng đến nhà sản xuất khi bán hàng ra trong quan hệ cung cầu.
Thuế doanh thu làm tăng giá cả hàng hoá nên người tiêu dùng và người sử dụng cuối cùng phải gánh chịu mức thuế khống, ảnh hưởng đến đời sống dân cư.
Thuế doanh thu còn có nhiều thuế suất và phân biệt ngành nghề không phù hợp với quan điểm là công bằng xã hội giữa các thành phần kinh tế.
Thuế doanh thu còn lồng vào đó nhiều chính sách xã hội để miễn giảm dẫn đến bất hợp lý giữa những người kinh doanh, làm cho quá trính quản lý và tính thuế trở nên phức tạp. Việc miễn giảm thuế cho người nộp thuế vô hình chung đã biến thu nhập của Nhà nước thành thu nhập của doanh nghiệp. Đồng thời, xuất phát từ yêu cầu kích thích tăng trưởn kinh tế nên cần thiết phải áp dụng thuế GTGT để giảm bớt ảnh hưởng của thuế tiêu dùng đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
Qua 10 năm thực hiện đường lối đổi mới quản lý kinh tế, nền kinh tế nước ta đã có nhiều thay đổi căn bản. Nước ta đã mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên tinh thần hội nhập, gia nhập khối ASEAN. Trong điều kiiện đó nước ta lại phải đương đầu với những khó khăn mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm lại, mức tăng GDP thấp. Từ tình hình trên Đảng ta chủ trương thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, tạo ra bước chuyển mới của nền kinh tế, khuyến khích thoả đáng tích luỹ đầu tư tăng trưởng kinh tế cả nước và từng cơ sở kinh doanh. Nhằm khắc phục những hạn chế yếu kém của luật thuế cũ và để thích hợp với tình hình cần phải tiếp tục cải cách hệ thống thuế lần thứ hai một cách căn bản. Việc cải cách thuế bước hai này được tập trung vào một số vấn đề trong đó có sự thay đổi lớn là thay thuế doanh thu bằng thuế GTGT.
Qua một thời gian nghiên cứu tại Việt Nam và những kinh nghiệm rút ra được từ lần thí điểm đầu tiên luật thuế GTGT đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủh nghĩa Việt Nam khoá IX kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 10/5/1997 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1999 trên phạm vi cả nước.
2.2 Điều kiện để áp dụng thuế GTGT.
Thuế GTGT có những đặc điểm, những ưu điẻm và tác động rất lớn đến toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Vì vậy, để phát huy có hiệu quả việc áp dụng thuế GTGT, hạn chế thấp nhất những nhược điểm của nó đòi hỏi việc áp dụng phải dựa trên những điều kiện cần thiết để có một sắc thuế áp dụng trong thực tế được hoàn thiện theo hướng tốt nhất, ở đây thuế GTGT cũng có những điều kiện áp dụng đó là:
Đối với nền kinh tế tương đối ổn định, theo nghiên cứu cho thấy thuế GTGT là sắc thuế của nền kinh tế đã phát triển và khi đó giá cả của hàng hoá ổn định và hợp lý. Nền kinh tế ổn định đảm bảo cho giá cả hàng hoá khâu sau cao hơn khâu trước, khi đó thuế đầu vào thường lớn hơn thuế đầu ra nên trường hợp hoàn thuế sẽ ít xảy ra hơn.
Nhà nước phải thực sự quản lý được nền kinh tế bằng pháp luật. Trong trường hợp thuế doanh thu, thuế được thu đứt ở từng khâu và từng cơ sở kinh doanh cho nên nếu có thất thu thuế ở một cơ sở hay một khâu nào đó chỉ là hiện tượng cá biệt và mang tính tạm thời. Đối với thuế GTGT, nếu Nhànước không quản lý được nền kinh tế thì không những không thu được mà có thể mất đi một phần thuế ở các khâu trước.
Chế độ sổ sách hoá đơn chứng từ phải chặt chẽ. Các cơ sở kinh doanh phải thực hiện việc ghi chép đầy đủ, sổ sách kế toán phải thống nhất. Hoá đơn chứng từ phải sử dụng trong tất cả các hoạt động giao dịch.
Các quan hệ thanh toán trong nền kinh tế phải phát triển ổn định ở trình độ cao. Trong một nền kinh tế nmà đại bộ phận các quan hệ thanh toán, giao dịch đều được thông qua hệ thống ngân hàng thì Nhà nước sẽ thông qua hệ thống ngân hàng để kiểm tra, giám sát được tất cả các hoạt động của các doanh nghiệp. Trên cơ sở đó các doanh nghiệp và cơ quan thuế sẽ thực hiện nghiêm chỉnh việc kê khai, tính nộp thuế GTGT một cách dễ dàng hơn
Trình độ của cán bộ thuế không ngừng được nâng cao cùng với các ý thức chấp hành luật thuế của người dân. vì với tính cách và đặc điểm của thuế GTGT đòi hỏi cán bộ thuế phải có đủ trình độ, năng lực để thực hiện các quy định, tính và quản lý thu thuế đúng theo quy định của luật thuế và Nhà nước. Đồng thời thuế GTGT chỉ phát huy tác dụng tích cực đối với nền kinh tế khi các cơ sở kinh doanh phải có ý thức chấp hành pháp luật nói chung và luật thuế GTGT nói riêng trong việc kê khai nộp thuế. Mặt khác, khi áp dụng thuế GTGT tiền thuế phải được ghi rõ trên các hoá đơn hàng hoá và người mua phải thanh toán tiền hàng. Trong điều kiện như vậy, các cơ sở kinh doanh cũng như mọi người dân phải hiểu về nghĩa vụ đóng thuế, biết cách ghi chép và lưu giữ hoá đơn, chứng từ, đó là cơ sở cho việc tính thuế
Phải có sự hỗ trợ cua các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong quản lý thu thuế. Do đặc điểm của thuế GTGT là loại thuế mà khi tính phải nộp ở khâu sau liên quan chặt chẽ với thuế ở khâu trước đó nên để tính thuế cần phải quản lý chặt chẽ doánhố bán ra và mua vào của các cơ sở kinh doanh. Điều đó chỉ được thực hiện tốt khi có hệ thống máy vi tính nối mạng giữa các cơ sở kinh doanh và cơ quan thuế.
Những nội dung cơ bản của luật thuế GTGT.
Để góp phần thúc đẩy sản xuất, mở rộng lưu thông hàng hóa dịch vụ, khuyến khích phát triển nền kinh tế quốc dân, động viên một phần thu nhập của người tiêu dùng vào ngân sách Nhà nươc. Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 11 đã thông qua ngày 10/5/1997 – Luật thuế giá trị gia tăng
“Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng, khoản thuế này do đối tượng tiêu dùng chịu”.
Thuế GTGT đánh vào tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh nhưng chỉ tính trên phâng tăng thêm của mỗi giai đoạn. Vì vậy tổng số thuế thu được ở các giai đoạn sẽ bằng với số thuế tính theo giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
Vấn đề cơ bản nhất khi nghiên cứu bản chất của thuế GTGT là cần phải xác định được thành phần của GTGT ở mỗi giai đoạn sản xuất kinh doanh. Có như vậy mới tính được một cách chính xác số thuế GTGT của giai đoạn đó.
GTGT là phần giá trị mới được tạo ra trong sản xuất kinh doanh. Nó được xác định bằng chênh lệch giữa tổng giá trị sản xuất và tiêu dùng với tổng giá trị hàng hoá dịch vụ mua vào tương ứng.
GTGT = Tổng giá trị hàng hóa _ Tổng giá trị hàng hóa, dịch
dịch vụ bán ra vụ mua vào tương ứng
GTGT cho phép cơ sở kinh doanh trả công cho 4 tác nhân chủ yếu đã tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, đó là:
Trả tiền lương, tiền công cho công nhân, nhân viên.
Trả tiền lãi vay cho người cho vay vốn.
Nộp thuế cho Nhà nước.
Lợi nhuận của chủ sở hữu cơ sở được hưởng.
Thuế GTGT có tính trung lập kinh tế cao, nó không chịu ảnh hưởng bởi kết quả kinh doanh của (doanh nghiệp) người nộp thuế, không phải là yếu tố của chi phí mà đơn thuần là một khoản được cộng thêm vào giá bán của người cung cấp hàng hóa, dịch vụ.
Dưới đây là những nội dung cơ bản của thuế GTGT được quy định trong các văn bản pháp luật.
Phạm vi áp dụng.
Đối tượng chịu thuế.
Theo quy định tại Điều 2 Luật thuế GTGT và Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ thì đối tượng tính thuế là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam.
Hiện nay Luật thuế GTGT ở nước ta quy định danh mục 26 loại hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT. Những hàng hoá, dịch vụ này thường có một trong các tính chất sau:
Là sản phẩm của một số ngành đang còn khó khăn, cần khuyến khích, tạo điều kiện phát triển như: sản xuất nông nghiệp, sản xuất muối, tưới tiêu nước phục vụ nông nghiệp; thiết bị máy móc nhập khẩu mà trong nước chưa sản xuất được; chuyển giao công nghệ,…
Các hàng hoá, dịch vụ thuộc các hoạt động không mang tính chất kinh doanh vì lợi nhuận hoặc thuộc các hoạt động được ưu đãi vì mục tiêu xã hội, nhân đạo; vũ khí, khí tài phục vụ an ninh, quốc phòng; bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học sinh; duy tu sửa chữa các công trình văn hoá nghệ thuật, công trình công cộng; một số hàng hoá nhập khẩu có tính chất viện trợ, quà tặng từ nước ngoài…
Một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu phục vụ nhu cầu đời sống sản xuất, cộng đồng, không đặt vấn đề điều tiết tiêu dùng như: dịch vụ y tế, văn hoá, giáo dục, đào tạo, thông tin đại chúng, vận chuyển hành khách công cộng bằng xe buýt,…
Tổ chức, cá nhân mua, bán, nhập khẩu hàng hoá, cung ứng dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT không được khấu trừ và hoàn thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ này ở khâu không chịu thuế GTGT.
Đối tượng nộp thuế.
Theo quy định tại Điều 3 Luật thuế GTGT và Điều 3 Nghị đinh số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế GTGT tì tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất , kinh donah hàng hó, dịch vụ chịu thuế GTGT ở Việt Nam, không phân biệt ngành nghề, hình thức, tổ chức kinh doanh (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và xcác tổ chức, cá nhân có nhậpkhẩu hàng hoá chịu thuế GTGT (gọi chung là người nhập khẩu) đều là đối tượng nộp thuế GTGT.
Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ bao gồm:
Các tổ chức kinh doanhđược thành lập và đăng ký kinh doanh theo Luật doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp Nhà nước và Luật Hợp tác xã.
Các tổ cức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức, đơn vị sự nghiệp khác.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp tác kinh doanh theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; các công ty nước ngoài và tổ chức nước ngoài hoạt động kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Cá nhân, hộ gia đình sản xuất, kinh doanh, nhóm người kinh doanh độc lập và các đối tượng kinh doanh khác.
Phương pháp tính thuế GTGT.
Thuế GTGT cơ sở kinh doanh phải nộp được tính theo một trong hai phương pháp: phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên GTGT.
Phương pháp khấu trừ thuế.
Đối tượng áp dụng là các đơn vị, tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp chấp hành tốt công tác hạch toán kế toán và chế độ sử dụng hoá đơn, chứng từ bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các công ty cổ phần, hợp tác xã, tổ chức kinh doanh khác, trừ các đối tượng tính thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT.
Trường hợp cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế có hoạt động kinh doanh mua bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ thì cơ sở phải hạch toán riêng hoạt động kinh doanh này để tính thuế trực tiếp trên GTGT.
Xác định thuế GTGT phải nộp.
Thuế GTGT phải nộp được xác định theo công thức:
Thuế GTGT = Thuế GTGT – Thuế GTGT đầu vào
phải nộp đầu ra được khấu trừ
trong đó:
Thuế GTGT đầu ra được tính theo công thức:
Thuế GTGT Số lượng hàng Đơn giá Thuế suất
đầu ra = hoá, dịch vụ x tính thuế x thuế
tiêu thụ đơn vị GTGT
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ khi bán hàng hóa, dịch vụ phải tính và thu thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra. Khi lập hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán chưa có thuế, thuế GTGT và tổng số tiền người mua phải thanh toán.
Trong trường hợp hoá đơn chỉ ghi giá thanh toán, không ghi giá chưa có thuế và thuế GTGT thì thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra phải tính trên giá thanh toán ghi trên hoá đơn chứng từ. trong trường hợp này thì thuế GTGT được xác định.
Thuế Giá thanh toán thuế suất
GTGT = x thuế
1 + (%) thuế suất GTGT
Thuế GTGT đầu vào bằng tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ (bao gồm cả TSCĐ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT ), số thuế GTGT ghi trên chứng từ nộp thuế của hàng hoá nhập khẩu( hoặc nộp thay cho phía nước ngoài) và số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ theo tỷ lệ dưới đây:
- Tỷ lệ 3% trên giá mua theo hoá đơn đối với:
+ Hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT, kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT có hoá đơn bán hàng theo mẫu số 02/GTGT – 3LL hoặc mẫu số 02/GTGT – 2LL.
+ Hàng hoá là nông sản, lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến mua của cơ sở sản xuất không chịu thuế GTGT ở khâu sản xuất sử dụng hoá đơn GTGT.
+ Hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt cơ sở kinh doanh thương mại mua của cơ sở sản xuất để bán ra có hoá đơn bán hàng (kể cả trường hợp mua của đại lý bán hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt theo đúng giá của cơ sở sản xuất, hưởng hoa hồng).
Tỷ lệ 2% trên giá trị hàng hoá mua vào theo Bảng kê đối với hàng hoá là nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến; đất, đá, cát sỏi, các phế liệu mua của người bán không có hoá đơn. Riêng đối với cơ sở snả xuất sản phẩm là nông sản, lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến không chịu thuế GTGT, nếu cơ sở dùng các sản phẩm này để tiếp tục sản xuất, chế biến ra các hàng hoá khác thuộc diện chịu thuế GTGT thì giá được tính khấu trừ theo tỷ lệ quy định là giá thành sản xuất của các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản.
Tỷ lệ khấu trừ trên được áp dụng thống nhất cho cả trường hợp kinh doanh trong nước và xuất khẩu.
Trường hợphàng hoá, dịch vụ mua vào là loại được dùng chứng từ đặc thù chỉ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT thì cơ sở được căn cứ vào giá đã có thuế để xác định giá không có thuế và thuế GTGT đầu vào được khấu trừ.
Xác định thuế GTGT đầu vào được khấu trừ.
Thuế GTGT đầu vào được khấu từ là thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT.
Trường hợp hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế GTGT thì chỉ được khấu trừ số thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT; số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ được tính vào chi phí của hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT. Nếu hàng hoá, dịch vụ mua vào không sử dụng phục vụ cho sản xuất kinh doanh thì thuế GTGT đầu vào được tính vào chi phí của hoạt động đó.
Đối với tài sản cố định mua vào sử dụng riêng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT thì thuế GTGT của tài sản cố định được tính vào nguyên giá của tài sản cố định.
Cơ sở kinh doanh phải hạch toán riêng thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế GTGT.
Đối với hàng hoá, dịch vụ sử dụng chung cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế GTGT nhưng cơ sở không hạch toán riêng được thuế đầu vào được khấu trừ, thì thuế đầu vào được tính khấu trừ theo tỷ lệ (%) doanh số của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT so với tổng doanh số của hàng hoá, dịch vụ bán ra.
Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ theo tỷ lệ doanh số bán ra của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT được kê khai tạm tính hàng tháng. Khi quyết toán năm, cơ sở phải tính toán lại số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ theo tỷ lệ doanh số của năm quyết toán. Đối với cơ sở kinh doanh có cơ cấu doanh thu giữa hàng hoá, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế GTGT tương đối ổn định, cơ sở kinh doanh có thể đăng ký với cơ quan thuế tạm tính hàng tháng theo tỷ lệ doanh số năm trước, khi quyết toán năm sẽ quyết toán theo thực tế.
Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ được khấu trừ phát sinh trong tháng nào được kê khai khấu trừ khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó, không phân biệt đã xuất dùng hay còn để trong kho. Trường hợp hoá đơn GTGT hoặc chứng từ nộp thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ mua vào phát sinh trong tháng nhưng chưa kê khai kịp trong tháng thì được kê khai khấu trừ vào các tháng tiếp sau, trường hợp do lý do khách quan thì được khấu trừ tối đa là 3 tháng tiếp sau.
Cơ sở sản xuất chịu thuế tiêu thụ đặc biệt trự tiếp hoặc uỷ thác xuâtá khẩu thì thuế GTGT đầu vào cuả hàng hoá, dịch vụ dùng để sản xuất các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt xuất khẩu được tính khấu trừ hoặc hoàn thuế theo quy định.
c) Căn cứ để xác định số thuế đầu vào được khấu trừ.
Đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào là số tiền thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào, chứng từ nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu, chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài.
Cơ sở kinh doanh không được tính khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với trường hợp hoá đơn GTGT không ghi thuế GTGT (trừ trường hợp đặc thù) hoặc không ghi đúng tên, địa chỉ, mã số thuế người bán nên không xác định được người bán.
Đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT mua vào có hoá đơn bán hàng được khấu trừ thuế đầu vào theo tỷ lệ 3% trên giá mua.
Đối với hàng hoá là nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến; đất, đá, cát, sỏi, phế liệu mua của người bán không có hoá đơn bán hàng được khấu trừ thuế đầu vào theo tỷ lệ 2% trên giá mua được kê vào bảng kê hàng hoá mua vào theo mẫu số 04/GTGT.
Đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào loại được tính khấu theo tỷ lệ (%) trên giá mua, cơ sở kinh doanh chỉ được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh để tính thu nhập doanh nghiệp theo giá mua trừ đi số tiền đã được tính khấu trừ thuế GTGT đầu vào theo tỷ lệ (%) quy định trên giá mua.
Phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên GTGT.
Đối tượng áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên GTGT.
Là cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt Nam.
Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế.
Cơ sở kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ.
Xác định thuế GTGT phải nộp.
Số thuế GTGT = GTGT của hàng hoá x Thuế suất thuế GTGT của
phải nộp dịch vụ chịu thuế hàng hoá, dịch vụ đó.
GTGT của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế được xác định:
GTGT của hàng Giá thanh toán của Giá vốn của hàng hoá,
hoá, dịch vụ = hàng hoá, dịch vụ - dịch vụ mua vào
chịu thuế bán ra tương ứng.
Trong đó:
Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra là giá bán thực tế bên mua phải thanh toán cho bên bán bao gồm cả thuế GTGT và các khoản phụ thu, phí thu thêm mà bên mua phải trả.
Giá vốn của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng được xác định bằng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào (giá mua bao gồm cả thuế GTGT) mà cơ sở sản xuất, kinh doanh đã dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT bán ra.
* GTGT xác định với một số ngành nghề như sau:
Đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh bán hàng là số chênh lệch giữa doanh số bán với doanh số vật tư, hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh. Trường hợp cơ sở kinh doanh không hạch toán được doanh số vật tư, hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng với doanh số hàng bán ra thì xác định như sau:
Giá vốn của hàng hoá, Giá trị hàng Giá trị hàng Giá trị hàng
dịch vụ mua vào tương = tồn kho - mua vào + tồn kho
ứng với hàng bán ra đầu kỳ trong kỳ cuối kỳ
Đối với hoạt động vận tải là số chênh lệch giữa tiền thu cước vận tải, bốc xếp trừ (-) chi phí xăng dầu, phụ tùng thay thế và các chi phí khác mua ngoài dùng cho hoạt động vận tải.
Đối với hoạt động kinh doanh vàng bạc, đá quý, ngoại tệ, GTGT là số chênh lệch giữa doanh số bán vàng bạc, đá quý, ngoaị tệ trừ đi giá vốn của vàng bạc, đá quý, ngoại tệ bán ra.
Đối với cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế có kinh doanh mua bán vàng bạc, đá quý, ngoại tệ áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên GTGT, cơ sở phải hạch toán riêng thuế GTGT đầu vào để kê khai thuế GTGT phải nộp của hàng hoá, dịch vụ theo từng hoạt động kinh doanh và phương pháp tính thuế riêng.
Đối với các hoạt động kinh doanh khác là số chênh lệch giữa số tiền thu về hoạt động kinh doanh trừ (-) đi giá vốn của hàng hoá, dịch vụ mua ngoài để thực hiện hoạt động kinh doanh đó.
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT không được tính vào giá trị tài sản mua ngoài, đầu tư, xây dựng làm tài sản cố định vào doanh số hàng hoá, dịch vụ mua vào để tính GTGT.
Phương pháp xác định GTGT làm căn cứ tính thuế GTGT phải nộp đối với từng cơ sở kinh doanh.
Đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ việc mua bán hàng hoá, dịch vụ có hoá đơn, chứng từ, ghi chép sổ sách kế toán thì GTGT được xác địnhcăn cứ vào giá mua, giá bán ghi trên chứng từ.
Đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ hoá đơn, chứng từ bán hàng hoá, dịch vụ, xác định được đúng doanh thu bán hàng hoá, dịch vụ theo hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ nhưng không có đủ hoá đơn mua hàng hoá, dịch vụ thì thuế GTGT được xác định bằng doanh thu nhân với tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu.
Đối với cá nhân kinh doanh chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ hoá đơn mua, bánhàng hoá, dịch vụ thì cơ quan thuế căn cứ vào tình hình kinh doanh của từng hộ ấn định mức doanh thu tính thuế; GTGT được xác định bằng doanh thu ấn định nhân với tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu.
Hoá đơn, chứng từ mua bán hàng hoá, dịch vụ.
Cơ sở kinh doanh khi mua, bán hàng hoá, dịch vụ phải thực hiện chế độ hoá đơn, chứng từ theo quy định của Pháp luật.
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế khi bán hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT phải sử dụng hoá đơn GTGT ( trừ trường hợp được dùng hoá đơn, chứng từ đặc thù chỉ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT).
Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT khi bán hàng hoá, dịch vụ phải sử dụng hoá đơn bán hàng.
Khi lập hoá đơn, cơ sở kinh doanh phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố quy định trên hoá đơn. Đối với hoá đơn GTGT phải ghi rõ giá bán chưa có thuế, thuế GTGT, tổng giá thanh toán đã có thuế, nếu không ghi tách riêng giá bán chưa có thuế và thuế GTGT, chỉ ghi chung giá thanh toán thì thuế GTGT đầu ra phải tính trên giá thanh toán.
Hoá đơn chứng từ hợp pháp được sử dụng:
Hoá đơn do Bộ Tài chính (Tổng cục thuế) phát hành do cơ quan thuế cung cấp cho các cơ sở kinh doanh.
Hoá đơn do các cơ sở kinh doanh tự in để sử dụng theo mẫu quy định và đã được Tổng cục thuế chấp nhận cho sử dụng.
Các loại hoá đơn, chứng từ đặc thù khác được phép sử dụng.
Các Bảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra theo quy định.
Một số trường hợp được phép sử dụng và ghi hoá đơn cụ thể là;
Cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế bán hàng hoá, dịch vụ sau: hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT, bán hàng hoá cho đối tượng được miễn thuế GTGT; bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ phải sử dụng hoá đơn GTGT, trên hoá đơn GTGT chỉ ghi dòng giá bán là giá không có thuế GTGT, dòng thuế suất, số thuế GTGT không ._.là 8.773.269 ngàn đồng chiếm tỷ trọng là 27,55%, năm 2001 là 4.813.800 ngàn đồng giảm 3.959.469 ngàn đồng so với năm 2000, với tỷ trọng giảm 5,29% và tỷ lệ giảm là 43,13%.
Để phục vụ cho hoạt động kinh doanh thì việc mua hàng hoá, dịch vụ không có hoá đơn tại công ty là không thể thiếu được. Do đó đối với những trường hợp mua không có hoá đơn như quy định thì việc không được khấu trừ thuế là một thiệt thòi cho công ty. Hơn nữa việc quản lý thuế GTGT đầu vào cũng đòi hỏi sự nêu cao tinh thần trách nhiệm của công ty trong việc thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
Công tác kê khai doanh số hàng hoá, dịch vụ mua vào được tổng hợp theo đúng hoá đơn GTGT hàng hoá, dịch vụ mua vào phát sinh trong kỳ tính thuế. Công tác kê khai được khá nghiêm túc theo đúng hoá đơn mua hàng, không xảy ra tình trạng kê khi số thuế đầu vào cao hơn số thuế thực tế trên hóa đơn mua nhằm làm cho thuế đầu vào được khấu trừ lớn dẫn đên số thuế phải nộp nhỏ hoặc âm.
Việc công ty kê khai thuế đầu vào nghiêm túc là do công ty luôn có số thuế đầu vào tăng giảm liên tục giữa các tháng trong năm, thuế đầu vào lớn hơn thuế đầu ra phát sinh dẫn đến hoàn thuế nên đơn vị luôn tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật thuế.
Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ là loại thuế có lợi cho doanh nghiệp khi được khấu trừ thuế. Theo quy định của luật thuế GTGT hiện hành thì đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ sẽ được xét hoàn thuế nếu có số thuế đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế GTGT đầu ra trong thời gian 3 tháng liên tiếp. Trong năm 2001 công ty luôn có số thuế đầu ra trong 3 quý liên tiếp (quý 1, 2, 3) nhỏ hơn số thuế đầu vào được khấu trừ, nên trong 3 quý này công ty được xét hoàn thuế. Riêng trong quý 4 công ty có số thuế đầu ra lớn hơn số thuế đầu vào nên không được xét hoàn thuế.
Việc xét hoàn thuế là một lợi thế của công ty vì hoàn thuế chính là quyền lợi của công ty trong việc thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên do số thuế đầu ra phải nộp của công ty phát sinh rất lớn nên để được hoàn thuế trong thời hạn 3 tháng liên tiếp trong 3 tháng là một khó khăn của doanh nghiệp khi bị Nhà nước chiếm dụng vốn, gây khó khăn cho công tác kinh doanh.
2.2.2. Công tác kê khai, nộp thuế GTGT tại công ty.
Công tác kê khai thuế GTGT hàng tháng của công ty được thực hiện theo nguyên tắc Bảng kê hoá đơn, chứng từ hàng hoá, dịch vụ bán ra, mua vào trong tháng sẽ được tập hợp trong thời gian 10 ngày đầu của tháng tiếp theo, theo đó số liệu sẽ được đưa vào tờ khai tính thuế GTGT. Tờ khai này sẽ được gửi cho cơ quan thuế kèm theo Bảng kê hoá đơn, chứng từ hàng hoá, dịch vụ bán ra, mua vào. Riêng đối với hàng nhập khẩu thì thuế GTGT của hàng nhập khẩu được kê khai cùng với thuế nhập khẩu. Thuế GTGT của hàng nhập khẩu nộp khi nào thì được khấu trừ ngay trong tháng khi mà có nghiệp vụ nộp thuế phát sinh và có biên lai thu thuế.
Số thuế GTGT phải nộp chính là phần chênh lệch giữa thuế GTGT đầu ra và thuế GTGT đầu vào. Số thuế phải nộp này cộng với số thuế GTGT kỳ trước chuyển qua từ đó xác định được trong tháng kê khai công ty có phải nộp thuế hay được khấu trừ trong tháng tiếp theo.
Sau khi nhận được bộ chứng từ thuế GTGT do công ty gửi lên, Cục thuế Hà Nội sẽ tiến hành kiểm tra và gửi thông báo nộp thuế cho công ty. Căn cứ vào số thuế phải nộp được ghi trong thông báo nộp thuế, nhân viên kế toán thuế của công ty sẽ tiến hành nộp thuế cho Kho bạc Nhà nước. Thời hạn nộp thuế là không quá 25 ngày đầu của tháng tiếp theo.
Đối với hàng hoá nhập khẩu thì thuế GTGT của hàng nhập khẩu được kê khai và nộp theo từng lần nhập khẩu cùng với việc nộp thuế nhập khẩu với cơ quan Hải quan.
Do công ty mở nhiều tài khoản tiền gửi tại nhiều ngân hàng trên địa bàn Hà Nội nên hình thức nộp thuế chủ yếu của công ty là bằng chuyển khoản.
Thuế GTGT nói riêng và các loại thuế khác nói chung đều được công ty nộp trực tiếp tại Kho bạc Nhà nước nơi công ty đóng trụ sở theo đúng quy trình quản lý nộp thuế được qui định. Kho bạc Nhà nước sẽ thu tiền thuế và xác nhận vào giấy nộp tiền chuyển cho cơ quan thuế làm căn cứ theo dõi tình hình nộp thuế của công ty.
Kết quả nộp thuế GTGT của TECHNOIMPORT được thể hiện thông qua số liệu sau.
Bảng 5 Kết quả nộp thuế GTGT cho ngân sách Nhà nước
Đơn vị tính: 1000đ
Năm
Số còn phải
nộp kỳ trước
Số phải
nộp trong kỳ
Số đã nộp
trong kỳ
Số còn phải
nộp cuối kỳ
2000
2001
152.903
-115.081
31.505.944
22.411.894
31.773.928
21.052.859
-115.081
1.243.954
Năm 2000 thuế GTGT phải nộp của công ty là 31.505.944 nghìn đồng, do trong năm 2000 hoạt động kinh doanh của công ty là rất tốt. Kim ngạch XNK của công ty tăng khá cao, điều này đã làm cho doanh thu của công ty năm 2000 đạt gần như là cao nhất trong các năm gần đây (1.280.318.059 nghìn đồng), nên số thuế GTGT phải nộp cũng tăng cao. Việc doanh thu bán hàng tăng trong năm 2000 là do công ty đã đáp ứng được nhu cầu khách hàng trong và ngoài nước. Do đẩy mạnh được hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ nên số thuế công ty nộp vào ngân sách Nhà nước là 31.773.928 nghìn đồng đạt 100,85% số phải nộp.
Năm 1999 công ty vẫn còn nợ số thuế là 152.903 nghìn đồng, tuy vậy do số thuế của công ty đã nộp cho ngân sách lớn (vượt quá số thuế phải nộp là 267.984 nghìn đồng) nên cuối năm 2000 số thuế công ty nộp thừa là 115.081 nghìn đồng. Đây là một bước tiến vượt bậc đánh dấu sự phát triển của công ty trong năm 2000, thể hiện sự phấn đấu nỗ lực thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước.
Bước sang năm 2001, do hoạt động kinh doanh không còn thuận lợi như năm 2000, số lượng hàng hoá bán ra giảm đã làm cho doanh thu của hàng hoá, dịch vụ công ty bán ra giảm mạnh so với năm 2000 (theo bảng 3 giảm 74,51%). Số thuế GTGT đầu ra phải nộp năm 2001 là 22.411.894 nghìn đồng giảm 9.094.050 nghìn đồng so với năm 2000 với tỷ lệ giảm là 28,86%. Số thuế mà công ty đã nộp là 21.052.859 nghìn đồng, chỉ đạt 93,93% số phải nộp. Số thuế nợ của năm 2001 công ty vẫn chưa thực hiện với ngân sách Nhà nước là 1.243.954 nghìn đồng. Số thuế nợ này là số tương đối lớn, công ty cần phải tìm ra biện pháp khắc phục để hạn chế việc dồn thuế đến cuối năm và nợ đọng thuế trong năm sau.
2.2.3. Tình hình quyết toán thuế GTGT tại công ty TECHNOIMPORT.
Theo quy định của pháp luật thuế GTGT hiện hành, các cơ sở đều phải thực hiện quyết toán thuế GTGT. Thời hạn nộp quyết toán thuế chậm nhất không quá 60 ngày kể từ ngày 31 tháng 12 của năm quyết toán. Tại TECHNOIMPORT việc quyết toán cũng được tiến hành theo như quy định. Trên quyết toán thuế công ty đã kê khai toàn bộ số thuế phải nộp, số đã nộp và số thuế còn phải nộp của năm quyết toán.
Quyết toán thuế GTGT năm của công ty được thực hiện trên sơ sở quyết toán tài chính năm. Tổng số thuế GTGT đầu ra và thuế GTGT đầu vào được tập hợp lại theo sổ sách và đối chiếu với các tài khoản có liên quan như tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, sổ nhật biên, sổ tổng hợp…đây là con số chính xác nhất về toàn bộ số thuế phải nộp, đã nộp, còn thiếu hay nộp thừa tính cho đến thời điểm quyết toán thuế.
Bảng 6
Trích dẫn một số chỉ tiêu trong bảng quyết toán thuế GTGT
Đơn vị tính: 1000đ
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Thuế GTGT kỳ trước chuyển qua
Thuế GTGT phải nộp năm quyết toán
Thuế GTGT đã nộp trong năm
Thuế GTGT được hoàn trong năm
Thuế GTGT cuối kỳ quyết toán
Nộp thiếu
nộp thừa
-703.957
-1.113.663
-3.547
1.003.104
-2.817.177
0
-2.817.177
-1.323.813
719.872
1.625.347
1.592.017
-637.270
0
-637.270
Công ty đã tiến hành quyết toán số thuế phải nộp trong năm với cơ quan thuế. Công tác lập quyết toán thuế được tiến hành sau khi công ty hoàn thành các báo cáo tài chính, trên cơ sở các báo cáo tài chính đã được lập công ty tiến hành lập báo cáo quyết toán thuế. Báo cáo quyết toán thuế được lập và chuyển đến cho cơ quan thuế vào tháng 3 của năm sau kể từ khi kết thúc năm quyết toán. Việc công ty nộp báo cáo quyết toán thuế không tuân thủ đúng thời gian của luật thuế quy định là tình trạng chung không phải chỉ riêng đối với công ty. Báo cáo quyết toán thuế của công ty nộp chậm là do công ty phải tiến hành tổng hợp số liệu, xác định kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị, lập báo cáo tài chính. Song song với việc tổng hợp xác định kết quả kinh doanh, nhân viên kế toán của công ty vẫn phải tiến hành công việc hạch toán kế toán bình thường, các nghiệp vụ phát sinh hàng ngày do đó thời gian dành cho việc lập báo cáo tài chính và báo cáo quyết toán thuế là rất eo hẹp. Mặt khác, trong quá trình tổng hợp số liệu, có những kết quả tổng hợp chưa chính xác làm cho nhân viên kế toán phái tiến hành kiểm tra lại dẫn đến kéo dài thời gian.
Sau khi công ty đã lập xong các báo cáo tài chính và báo cáo quyết toán thuế GTGT được chuyển đến cơ quan thuế. Cơ quan thuế sẽ tiến hành xác minh số liệu của quyết toán thuế.
Theo số liệu của bảng 7 (trích dẫn báo cáo quyết toán thuế năm 2000 và 2001) ta thấy năm 2000 không phát sinh số thuế GTGT phải nộp ( số phải nộp là số âm), đến năm 2001 số thuế GTGT phải nộp là 719.872 nghìn đồng. Số thuế GTGT công ty đã nộp thừa trong năm 2000 là 3.547 nghìn đồng. Năm 2001 công ty đã nộp số thuế là 1.625.347 nghìn đồng. Do cả 2 năm công ty đều có số thuế được hoàn cho nên tính đến cuối kỳ quyết toán số thuế GTGT công ty đã nộp thừa trong năm 2000 là 2.817.177 nghìn đồng, năm 2001 là 637.270 nghìn đồng. Nguyên nhân này là do trong cả 2 năm công ty đều có số thuế đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế đầu ra, bên cạnh đó công ty đã thực hiện khá tốt nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước, đặc biệt là năm 2000.
Trong năm 2000 do công ty kê khai không chính xác số thuế GTGT đầu ra (trốn thuế) nên trong năm 2000 công ty đã phải tiến hành điều chỉnh lại quyết toán thuế GTGT của năm 2000 theo sự kiểm tra của thanh tra Cục thuế Hà nội.
Công ty đã thực hiện chưa tốt thời gian nộp báo cáo quyết toán thuế, chính vì vậy mà công ty cần phải chủ trương và cố gắng hơn nữa để có thể tiến tới hoàn thành quyết toán thuế đúng thời hạn.
II. Nhận xét chung.
Qua toàn bộ phân tích và đánh giá trên ta có thể rút ra được một số thành công cũng như những tồn tại của công ty XNK thiết bị toàn bộ và kỹ thuật.
Những thành công.
Qua hai năm 2000 và 2001 ta thấy công ty đều làm ăn có lãi tuy nhiên trong năm 2001 các chỉ tiêu đều giảm so với năm 2000. Trong năm 2000 doanh thu của công ty đã đạt ở mức rất cao dẫn đến lợi nhuận trong năm cũng tăng, đây là một năm làm ăn rất có hiệu quả của công ty và công ty đã thực hiện rất tốt nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước. Đến năm 2001, tuy lợi nhuận của công ty đã giảm xuống nhiều so với năm 2000 nhưng đây là một sự cố gắng lớn đối với công ty trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm trong khi tỷ giá ngoại tệ tăng mạnh cùng với sự suy giảm của nền kinh tế thế giới. Công ty đã luôn chú trọng đến đời sống cán bộ công nhân viên, mặc dù lợi nhuận của công ty năm 2001 có giảm song mức thu nhập của cán bộ công nhân viên cũng không thay đổi đáng kể.
Công tác hạch toán kế toán của công ty được thực hiện tương đối nghiêm chỉnh, việc mở hệ thống sổ sách kế toán tại công ty được ban lãnh đạo công ty quan tâm sát sao.
Thuế GTGT được áp dụng tại công ty bắt đầu từ ngày 1/1/1999, trong 3 năm qua công ty đã cố gắng thực hiện tốt việc áp dụng thuế GTGT. Tại công ty đã tổ chức nhiều buổi hội thảo bàn về thuế GTGT không chỉ cho nhân viên trong phòng kế toán mà cho tất cả các phòng ban chức năng để họ hiểu rõ hơn về bản chất của thuế GTGT, góp phần nâng cao nhận thức cũng như ý thức trách nhiệm của họ đối với các hoạt động mua bán có liên quan đến thuế GTGT. Bên cạnh đó cán bộ thuế của công ty cũng có những ý kiến đề xuất, đóng góp về những vướng mắc của luật thuế GTGT hiện hành với Tổng cục thuế nhằm tháo gỡ những tồn tại trong việc áp dụng thuế đối với các doanh nghiệp.
Tại công ty việc xác định, tính toán thuế GTGT là khoa học, hợp lý và chính xác. Trong ba năm áp dụng tại công ty, thuế GTGT đã phát huy được những vai trò tích cực như giúp cho công ty tự ý thức phải nâng cao năng lực quản lý và tăng cường cong tác hạch toán kế toán, thực hiện chế độ tài chính một cách đầy đủ, giảm sát chặt chẽ hơn trong việc sử dụng, lưu giữ hoá đơn, chứng từ. Hoá đơn, chứng từ được sử dụng tại công ty đều là những hoá đơn chứng từ hợp pháp được cục thuế công nhận, việc quản lý các hoá đơn chứng từ rất chặt chẽ và khoa học, không để xảy ra tình trạng mất hoá đơn chứng từ.
Trình tự kê khai, nộp thuế của công ty cũng được thực hiện đúng quy định. Công ty đã rất cố gắng trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho ngân sách Nhà nước.
2. Những tồn tại.
Mặc dù đạt được những thành công đáng kể nhưng công ty vẫn còn có những tồn tại cần phải khắc phục.
Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, ta thấy doanh thu của năm 2001 giảm đáng kể so với năm 2000 mặc dù số vốn kinh doanh đầu tư cho hoạt động kinh doanh của năm 2001 tăng hơn năm 2000. Do trong năm 2001, nền kinh tế thế giới bị suy giảm, bên cạnh đó Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp từ đứng ra tìm kiếm thị trường xuất nhập khẩu nên đã làm cho hoạt động kinh doanh của công ty giảm sút, kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty giảm. Trong cả hai năm thị trường xuất khẩu của công ty vẫn còn hạn chế.
Bộ máy kế toán của công ty hiện nay là quá cồng kềnh (bao gồm 12 người), việc trang bị máy móc hỗ trợ cho công tác kế toán chưa thực sự được quan tâm.
Thuế GTGT được áp dụng vào Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường chưa hoàn chỉnh. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong điều kiện ViệtNam áp dụng thuế GTGT là việc làm có tính chất đột phá trong tiến trình cải cách căn bản và lâu dài hệ thống thuế nên không thể tránh khỏi những bất cập ban đầu. Các văn bản quy định về thuế GTGT như các nghị định, thông tư còn nhiều chồng chéo, bất cập, có nhiều quan điểm cần phải sửa đổi bổ sung, hiệu lực thi hành chưa cao. Trong việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào diện khấu trừ khống chưa được xác định cụ thể đến cho từng đối tượng nên đã dẫn đến nhiều điểm bất hợp lý.
Tại công ty XNK Thiết bị toàn bộ và Kỹ thuật, công tác hạch toán kế toán, kê khai khấu trừ thuế đầu ra, xác định số thuế phải nộp còn nhiều tồn tại cần phải khắc phục.
Trong công tác quản lý hoá đơn bán hàng thì công ty đã gặp khó khăn trong việc khách hàng không chịu nhận hoá đơn khi công ty đã lập bảng kê hàng hoá bán ra, mà lại đòi hỏi công ty lập lại hoá đơn vào kỳ sau.
Các khoản chi phí đầu vào của công ty phần lớn là hàng hoá nhập khẩu và một số hàng hoá, dịch vụ mua vào trong nước. Mà giá của hàng hoá nhập khẩu lại bao gồm cả thuế nhập khẩu, với cách tính trên thì thuế GTGT phải nộp cùng với thuế nhập khẩu là một số tiền khá lớn. Trong khi Nhà nước lại cưỡng chế việc nộp loại thuế này là không quá 30 ngày kể từ khi nhận được thông báo nộp thuế. Điều này là một khó khăn lớn cho công ty khi thời hạn hoàn thuế là quá dài, gây đọng vốn cho công ty.
Một hợp đồng XNK có thể được thực hiện với một thời gian dài trong khi công ty vẫn phải nộp thuế theo quy định, hơn nữa trong luật thuế lại quy định trường hợp được hoàn thuế GTGT đầu vào là trong 3 tháng liên tiếp công ty phải có số thuế GTGT đầu vào lớn hơn số thuế GTGT đầu ra. Tại công ty thì phần lớn các tháng đều phát sinh số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra, mà số thuế GTGT đầu ra mà công ty phải nộp là rất lớn chính vì vậy mà thời gian hoàn thuế chậm sẽ làm cho khả năng quay vòng vốn của công ty kém đi.
Công tác thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước của công ty vẫn còn có tình trạng nợ dồn đến cuối năm. Quyết toán thuế được lập cùng với báo cáo tài chính năm và được gửi cho cơ quan thuế không quá 60 ngày kể từ 31 tháng 12 của năm quyết toán. Trên thực tế đến tháng 3 công ty mới lập xong báo cáo quyết toán thuế làm cho công tác nộp chậm đi gần 1 tháng.
Việc đề ra những giải pháp để khắc phục những tồn tại trên là cần thiết đối với không chỉ công ty mà đối với cả phía Nhà nước. Qua quá trình tìm hiểu và phân tích thực trạng việc thực hiện thuế GTGT tại công ty XNK Thiết bị toàn bộ và Kỹ thuật, em mạnh dạn đưa ra một số giải pháp sau.
Chương III
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện
việc áp dụng thuế GTGT tại công ty TECHNOIMPORT
I. Các giải pháp đối với công ty TECHNOIMPORT.
Trong thời gian qua, công ty TECHNOIMPORT đã thực hiện luật thuế GTGT theo quy định của pháp luật, trong thời gian này công ty đã đóng góp số tiền thuế rất lớn vào ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện luật thuế này công ty đã gặp phải những khó khăn do kết quả của hoạt động kinh doanh dẫn đến tình trạng nợ đọng thuế. Trong thời gian tới công ty cần phải đề ra những biện pháp để khắc phục tình trạng trên. Để luật thuế GTGT được thực hiện tốt hơn ở công ty, hoà nhập với chính sách chung của Nhà nước, qua quá trình tìm hiểu thực tế tại công ty và những kiến thức có được của bản thân em xin đưa ra một số giải pháp sau:
Đối với hoạt động kinh doanh của mình, công ty cần phải tiến hành các hoạt động thâm nhập nghiên cứu thị trường, tìm kiếm thị trường mới đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Cần phải tạo uy tín với khách hàng và giữ vững sự tín nhiệm cũng như uy tín của công ty hiện nay với hoạt động kinh doanh.
Bên cạnh việc tìm kiếm khách hàng, thị trường mới công ty cũng nên tìm kiếm các nhà cung cấp có giá cả hợp lý hơn nhưng vẫn đảm bảo chất lượng, cố gắng giảm bớt các yếu tố chi phí quản lý kinh doanh như tiền điện nước, tiền điện thoại, chi phí hành chính… giữ cho mình uy tín tốt với bạn hàng, nâng cao tính cạnh tranh trong kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh tốt hơn từ đó mà lợi nhuận của công ty sẽ tăng lên tạo điều kiện cho công ty thực hiện tốt nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước từ đó tránh được tình trạng nợ đọng thuế dồn đến cuối năm.
Về tổ chức bộ máy quản lý, công ty nên thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ hay thực hiện kiểm toán hàng năm công ty có một cách nhìn toàn diện hơn, chính xác hơn về công tác kế toán của mình. Đồng thời các báo cáo tài chính của công ty sẽ mang tính pháp lý cao hơn, không làm mất thời gian thẩm tra của các cơ quan chức năng và ngay cả công ty.
Trong thực hiện luật thuế GTGT, công ty cần phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, sự trung thực của mình trước Nhà nước hơn nữa. Công ty phải kê khai đầy đủ và trung thực doanh thu bán ra cũng như thuế GTGT đầu ra, tránh tình trạng trốn lậu thuế đồng thời cũng tránh việc phải điều chỉnh các báo cáo thuế.
Hơn nữa để tránh được tình trạng nợ đọng thuế đến cuối năm, công ty phải từng bước khắc phục bằng cách khi phát sinh số thuế phải nộp thì phải tiến hành nộp ngay nếu có điều kiện. Mặt khác, khi Kho bạc Nhà nước tiến hành hoàn thuế thì công ty nên chuyển ngay số tiền được hoàn để nộp cho số thuế còn nợ. Tránh để cơ quan thuế phải dùng đến biện pháp cưỡng chế thuế đối với đơn vị mình.
Công ty cần phải củng cố và hoàn thiện công tác hạch toán kế toán tại đơn vị. Công tác kế toán phải đúng quy định, rõ ràng từng hoạt động kinh tế phát sinh làm cơ sở cho cơ quan thuế xác định được số thuế phải nộp của công ty. Nâng cao ý thức chấp hành tốt chế độ kế toán thống kê hiện hành. Từng bước nâng cao trình độ chuyên môn của các cán bộ kế toán. Mặt khác, công ty cũng nên nghiên cứu thực hiện việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào công tác hạch toán kế toán như áp dụng hình thức kế toán máy một cách đồng bộ giúp thay thế cho hình thức thủ công như hiện nay, giúp cho các cán bộ kế toán giảm tải được khối lượng công việc phải ghi chép thống kê hàng ngày. Từ đó giúp cho các cán bộ kế toán có thể tiến hành lập và nộp tờ khai thuế và báo cáo quyết toán thuế nhanh chóng hơn, đảm bảo đúng thời hạn quy định theo luật cũng như tính chính xác của các báo cáo đó. Đơn vị có thể tiến hành quyết toán thuế với cơ quan thuế 6 tháng một lần, như vậy thì công tác quyết toán thuế cuối năm sẽ được giảm nhẹ, tránh được việc dồn công việc và tiến hành quyết toán chậm như hiện nay.
Công tác hạch toán kế toán được tiến hành thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho việc xác định số thuế phải nộp chính xác hơn, từ đó sẽ giúp cho công ty cũng như cơ quan thuế hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất.
Ii. Một số kiến nghị về chính sách chế độ.
Việc ban hành và thực thi luật thuế GTGT Việt Nam là quá trình chuyển giao từ việc thực hiện thuế doanh thu. Thời gian thực thi luật thuế này cho đến nay đã được hơn ba năm, đây là một khoảng thời gian không dài nhưng cũng đã đủ để cho tất cả các đối tượng nộp thuế nói chung và công ty TECHNOIMPORT nói riêng thích ứng được việc chuyển giao thực hiện luật thuế này. Mặc dù trong thời gian qua, hệ thống văn bản đưa ra nhằm hướng dẫn thi hành luật thuế này còn nhiều điểm chồng chéo bất cập song đã được hệ thống hoá nhằm đảm bảo thống nhất văn bản của hệ thống thuế. Tuy nhiên trong thời gian tới, việc nghiên cứu dự kiến tất cả các trường hợp, loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh có thể phát sinh trong nền kinh tế thị trường trong thời kỳ phát triển để đưa vào phạm vi điều chỉnh. Xác định chuẩn các đối tượng chịu thuế, không chịu thuế.
* Hiện nay đối tượng không chịu thuế bao gồm danh mục 26 nhóm mặt hàng là qua nhiều, phải có sự điều chỉnh sao cho phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế nước ta, cần phải giảm bớt diện hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT.
* Về thuế suất, hiện nay mức thuế suất thuế GTGT gồm có 4 mức: 0%, 5%, 10% và 20%. Với bốn mức thuế suất như vậy là quá nhiều gây khó khăn cho công tác tính và quản lý thuế. Đây là một trở ngại lớn cho việc thực hiện quy trình quản lý thuế theo nguyên tắc tự khai, tự tính và tự nộp thuế của doanh nghiệp.
Trong thời gian tới cần phải từng bước tiến tới áp dụng một mức thuế suất thống nhất (trừ mức thuế suất 0% dành cho hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu), nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tính thuế, quản lý thuế và nộp thuế đồng thời nó cũng tạo điều kiện phù hợp cho Việt Nam tham gia vào các khu vực kinh tế trong khu vực và thế giới.
* Hiện nay, luật thuế GTGT Việt Nam quy định cùng tồn tại song song hai phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. Điều này gây khó khăn cho cả doanh nghiệp và cả cơ quan thuế. Mặt khác, phương pháp tính thuế theo phương pháp khấu trừ được Nhà nước khuyến khích và được hưởng nhiều ưu đãi hơn khi được khấu trừ toàn bộ số thuế GTGT đầu vào phát sinh ngay trong tháng. Như vậy vô hình chung đã tạo môi trường cạnh tanh không bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Nhà nước cần thống nhất một phương pháp tính thuế duy nhất để tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
* Trong luật thuế GTGT ban hành, các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ được tính khấu trừ khống thuế đầu vào theo tỷ lệ (%) tính trên giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào không có hoá đơn GTGT. Đối với diện khấu trừ khống này cần phải xác định rõ trường hợp nào có thuế GTGT trong giá mua và trường hợp nào không có thuế trong giá mua. Từ đó tính khấu trừ thuế cho hàng hoá, dịch vụ mua vào có thuế nằm trong đó để đảm bảo tính công bằng hợp lý cho các đối tượng nộp thuế. Cụ thể đối với hàng hoá là nông sản, lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến đơn vị mua vào không có hoá đơn nhưng trong giá mua có cấu thành thuế GTGT trong đó thì được phép tính khấu trừ theo tỷ lệ (%) theo quy định. Hàng hoá, dịch vụ có hoá đơn mua vào nhưng không phải là hoá đơn GTGT vẫn được phép tính khấu trừ. Riêng các loại đất đá, cát sỏi mua của người khai thác lẻ, các loại phế liệu mua vào không có hoá đơn thì không được tính khấu trừ vì giá mua đó không có thuế GTGT nằm trong giá.
* Đối với hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt khâu sản xuất bán ra theo luật thuế không chịu thuế GTGT nên các cơ sở sản xuất đó không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào mà phải đưa vào giá thành sản phẩm, điều này không đúng với tính chất của thuế GTGT.
Nên chăng Chính phủ cho phép hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt khâu sản xuất được đưa vào diện chịu thuế GTGT khâu sản xuất đê đảm bảo tính điều tiết khép kín của thuế GTGT, xoá bỏ diện khấu trừ khống đối với loại hàng hoá, dịch vụ này.
* Qua ba năm triển khai thuế GTGT ở nước ta, thuế GTGT cũng đã phát sinh nhiều vướng mắc trong việc áp dụng. Cụ thể là hiện trạng người tiêu dùng do không nhận thức được tầm quan trọng của hoá đơn GTGT khi mua hàng nên khi mua hàng họ không lấy hoá đơn. Trong khi đó một số doanh nghiệp đã lợi dụng cơ chế hoàn thuế GTGT đã tranh thủ xin hoàn thuế bằng thủ đoạn hợp thức hoá chứng từ đầu vào gây khó khăn cho công tác thu thuế và hạn chế tính ưu việt của thuế GTGT. Để khắc phục được những tồn tại này Nhà nước cần phải áp dụng các biện pháp:
Nhà nước cần phải công bố giá trị pháp lý của hoá đơn bán hàng như là phiếu bảo hành bắt buộc cuả doanh nghiệp. Điều này bắt buộc các doanh nghiệp có ý thức hơn trong khi xuất hoá đơn của người bán và sự tin tưởng của người tiêu dùng vào hoá đơn của người bán.
Nhà nước cũng cần phải công bố sự hợp pháp và khuyến khích áp dụng thẻ giảm giá cho người tiêu dùng khi mua hàng để người tiêu dùng và người cung cấp phân định nghĩa vụ nộp thuế và quyền lợi giảm giá dành cho họ từ đó khuyến khích được người tiêu dùng mua hàng lấy hoá đơn.
* Hiện nay tình trạng các cơ sở kinh doanh không chấp hành tốt các quy định về hoá đơn, chứng từ nhằm trốn lậu thuế như việc ghi hóa đơn của các liên khác nhau. Bên cạnh đó việc in ấn, mua bán sử dụng hoá đơn bất hợp pháp, xuất hoá đơn khống và bán hàng không viết hoá đơn nhằm trốn lậu thuế diễn ra khá phổ biến, gây thất thu lớn cho ngân sách Nhà nước.
Để giải quyết được vấn đề này cơ quan thuế cần phải kiểm tra sát sao hơn tình hình sử dụng hoá đơn của các đơn vị. Ngành thuế nên phối hợp chặt chẽ với các ngành khác như Toà án, Viện kiểm soát, Thanh tra Nhà nước, UBND các cấp, có thể nâng cao khung hình phạt đối với các tội danh trốn thuế, làm giả, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp từ đó có thể kiểm soát được hoá đơn và răn đe được những kẻ vi phạm pháp luật. Các cục thuế, chi cục thuế của các tỉnh, thành phố nên cập nhật thông tin để có thể theo dõi được qúa trình hành thu thuế một cách sát sao và nâng cao năng lực quản lý về thuế của các cán bộ thu thuế, từng bước thích nghi với quy trình quản lý thuế hiện đại.
* Việc đánh thuế GTGT vào hàng nhập khẩu là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, việc các doanh nghiệp nhập khẩu cùng một lúc phải nộp cả hai loại thuế là thuế nhập khẩu và thuế GTGT trong một lúc và thời hạn nộp cũng rất ngắn trong khi việc hoàn thuế là kéo dài. Nhà nước cần phải tìm biện pháp để các doanh nghiệp nộp thuế nhập khẩu có thể kéo dài thời gian nộp thuế (có thể là 45 ngày kể từ khi nhận được thông báo nộp thuế), để trong thời gian này các doanh nghiệp có thể đẩy nhanh được tốc độ vòng quay của vốn.
* Hoàn thuế hiện nay đang là vấn đề bức xúc của nhiều doanh nghiệp. Thời hạn để xin hoàn thuế là trong 3 tháng, đây là một khoảng thời gian dài làm cho vốn của doanh nghiệp bị ứ đọng, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Bộ Tài chính nên có những hướng dẫn cụ thể hơn về thủ tục hoàn thuế linh hoạt trong một số quyết định về thời hạn, tăng cường trách nhiệm của doanh nghiệp. Cơ quan thuế có trách nhiệm hoàn thuế đúng thời hạn và tăng cường thanh tra, kiểm tra sau hoàn thuế.
* Đối với cơ quan thuế thì cán bộ nhân viên thuế cần phải trang bị đầy đủ kiến thức lý luận, thực tiễn và nghiệp vụ chuyên môn, áp dụng triệt để khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin trong công tác quản lý thu thuế.
Xây dựng hệ thống văn bản pháp luật thuế hoàn thiện đang là vấn đề được các cấp, các ngành có liên quan quan tâm chặt chẽ. Hệ thống văn bản pháp luật thuế hoàn thiện sẽ phục vụ tốt cho công tác thu thuế của ngành thuế, các doanh nghiệp từ đó phải thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế của mình, đảm bảo nguồn thu quan trọng cho ngân sách Nhà nước.
Thực hiện tốt việc áp dụng thuế GTGT đối với các doanh nghiệp nói chung và công ty XNK Thiết bị toàn bộ và Kỹ thuật nói riêng là một yêu cầu quan trọng. Bước đầu nghiên cứu thực tiễn bản thân mới chỉ đúc rút được những vấn đề trên và mạnh dạn đưa ra một số giải pháp. Hy vọng rằng phần nào các giải pháp này sẽ có những lợi ích nhằm làm hoàn thiện hơn nữa việc áp dụng thuế GTGT đối với công ty TECHNOIMPORT cũng như các doanh nghiệp khác.
Kết luận
Với mục tiêu phấn đấu đưa đất nước tiến lên trong thế kỷ XXI chúng ta đã có nhiều cố gắng về mọi mặt kinh tế, văn hoá, xã hội. Các chính sách cải cách kinh tế trong đó có chính sách thuế đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới. Hệ thống thuế đã đi vào đời sống kinh tế xã hội, đang ngày càng phát huy vai trò to lớn của thuế trong việc tập trung ngân sách Nhà nước và thực hiện điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế.
Thuế GTGT được áp dụng ở Việt Nam đã hơn 3 năm trong điều kiện nước ta vẫn còn nhiều vấn đề chưa đáp ứng được các điều kiện áp dụng luật thuế tiên tiến này. Tuy là một sinh viên sắp tốt nghiệp xong kiến thức về lý luận cũng như thực tiễn còn non nớt, lại gặp nhiều hạn chế về thời gian, tài liệu tham khảo nhưng được sự giúp đỡ quý báu của các thầy cô giáo và các cán bộ nơi thực tập em cũng đã cố gắng thông qua bản luận văn này trình bày những hiểu biết của mình về thuế GTGT , từ đó đề ra được một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc áp dụng thuế GTGT đối với công ty XNK Thiết bị toàn bộ và Kỹ thuật. Hy vọng rằng các vấn đề nêu ra sẽ phần nào phục vụ cho công tác thực hiện thuế tại công ty.
Với trình độ lý luận và thực tiễn còn nhiều hạn chế nên việc thực hiện đề tài này còn nhiều hạn chế, sai sót. Em mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp, chỉ bảo của các thầy cô giáo và cán tại công ty để luận văn này đạt được giá trị trong thực tiễn.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo – Nguyễn Thu Thuỷ, các cô chú trong phòng kế toán tại công ty TECHNOIMPORT cùng các thầy cô giáo trong khoa đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình “ Thuế Nhà nước” Trường Đại học tài chính kế toán Hà nội.
Hệ thống hoá các văn bản pháp luật về thuế giá trị gia tăng đã được sửa đổi, bổ sung – Bộ Tài chính (Thông tư 122/2000/TT-BTC).
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp thương mại – Trường đại học Thương mại.
Báo cáo tài chính năm 2000-2001 của công ty XNK Thiết bị toàn bộ và Kỹ thuật.
Tạp chí thuế, tài chính.
Các luận văn.
Một số tài liệu tham khảo khác.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33914.doc