LỜI MỞ ĐẦU
Thuế giá trị gia tăng được tiến hành thí điểm ở Việt Nam từ tháng 9 năm 1993. Qua một thời gian thực hiện, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn và chọn những bài học thành công, thất bại của một số nước trên thế giới, dự thảo luật được xây dựng từ đầu năm 1995, được Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 11 thông qua vào giữa tháng 5 năm 1997 và bắt đầu áp dụng chính thức trên diện rộng từ 1/1/1999. Việc ban hành thuế giá trị giá tăng là một bước cải cách quan trọng trong hệ thống chính sách thuế của
53 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1594 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thuế giá trị gia tăng trong thương mại dịch vụ và vai trò của nó trong thúc đẩy kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Việt Nam.
Về lý thuyết, thuế giá trị gia tăng có tính khoa học rất cao, có khả năng tạo được công bằng trong việc thu thuế, khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, xuất khẩu,bảo hộ sản xuất trong nước, ổn định nguồn ngân sách Nhà nước và đặc biệt là khắc phục được sự trùng lắp, chồng chéo qua nhiều khâu của thuế doanh thu.
Sau một thời gian thuế giá trị gia tăng đi vào cuộc sống, chúng ta đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, đây là một sắc thuế còn rất mới đối với nước ta nên trong quá trình áp dụng không tránh khỏi những vướng mắc. Việt Nam đang trong tiến trình phát triển và hội nhập với nền kinh tế Khu vực và Thế giới. Một trong những yêu cầu đặt ra trong quá trình hội nhập là phải tiến hành cải cách, đổi mới và hoàn thiện hệ thống thuế hiện hành để phù hợp với điều kiện phát triển và hợp tác Quốc tế là tất yếu.
Qua tìm hiểu, nghiên cứu, bản thân muốn biết thêm về sắc thuế này, em xin chọn đề tài “ Thuế giá trị gia tăng trong Thương mại dịch vụ và vai trò của nó trong thúc đẩy kinh doanh ”. Đề án được trình bày gồm những phần sau:
Chương I : Thuế giá trị gia tăng trong Thương mại dịch vụ.
Chương II : Thực trạng của thuế giá trị gia tăng trong Thương mại dịch vụ nước ta hiện nay.
Chương III : Hướng giải quyết những vướng mắc của luật thuế giá trị gia tăng trong các ngành nói chung và Thương mại dịch vụ nói riêng.
Em xin chân thành cảm ơn GS.TS Đặng Đình Đào đã giúp em hoàn thành đề án này. Do còn hạn chế về trình độ và điều kiện nên khi trình bày đề án còn nhiều sai sót, kính mong thầy cô xem xét, chỉ bảo để đề án được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên : Lương Ngọc Hoàng.
CHƯƠNG I : THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TRONG THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ
I. Khái niệm chung về thuế giá trị gia tăng:
1. Khái niệm :
Theo điều 1 của thuế giá trị gia tăng: “ thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng ”.
- Thuế giá trị gia tăng là loại thuế đánh trên diện rộng, bởi lẽ qua loại thuế này về mặt lý thuyết mọi hàng hoá và dịch vụ đều có thể đưa vào diện đánh thuế.
- Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế tinh trên giá thể hiện ở chỗ tiền thuế phải được tính một tỷ lệ % nhất định trên giá cả mà không phải là số tiền cố định trên hàng hoá và dịch vụ.
- Thuế giá trị gia tăng đánh trên nhiều giai đoạn khác nhau từ sản xuất, phân phối đến tiêu thụ các loại hàng hoá và dịch vụ.
- Trong đó, giá trị tăng thêm là khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và khoản giá trị tăng thêm này do người tiêu dùng chịu.
2. Mục đích :
Mục đích của thuế giá trị gia tăng là nhằm khuyến khích các nhà doanh nghiệp đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm, tạo tích luỹ cao cho doanh nghiệp, tăng tỷ lệ huy động cho Ngân sách Nhà nước. Thuế giá trị gia tăng góp phần khuyến khích mạnh mẽ sản xuất hàng hoá xuất khẩu vì mức thuế hàng xuất khẩu là 0%, ngoài ra còn được thoái trả lại toàn bộ số thuế giá trị gia tăng đã nộp ở khâu trước, tạo điều kiện cạnh tranh trên thị trường Khu vực và Thế giới. Thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu có tác dụng thiết thực bảo vệ sản xuất kinh doanh hàng nội địa, đẩy mạnh sản xuât hàng hoá theo hướng xuất khẩu.
3. Vai trò của thuế :
Trong nền kinh tế thị trường, thuế có vai trò chủ yếu sau :
- Thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước : Thuế là nguồn thu vật chất quan trọng đảm bảo cho sự phát triển và tồn tại của bộ máy Nhà nước
và các mục tiêu kinh tế xã hội khác, để có một nền tài chính Quốc gia lành mạnh thì chủ yếu phải dựa vào nguồn thu từ mọi nội bộ nền Kinh tế Quốc dân. Tuy nhiên, giới hạn của thuế không bao giờ cho phép lớn hơn hoặc bằng thu nhập Quốc gia thuần.
- Thuế là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế : Thuế có vai trò quan trọng trong việc kiểm kê, kiểm soát, phân tích, hướng dẫn và điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác trong tất cả các thành phần Kinh tế. Việc xác định đúng đắn cơ cấu và mối quan hệ giữa các loại thuế, xác định mức thu hợp lý giữa các đối tượng tính thuế, phương pháp quản lý thuế phải góp phần khuyến khích, nâng đỡ hoạt động sản xuất kinh doanh, mở rộnh thị trường của các doanh nghiệp, hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng hợp lý.
- Thuế góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, điều hoà thu nhập và thực hiện công bằng xã hội : bình đẳng về động viên, đóng góp giữa các thành phần kinh tế thể hiện qua việc áp dụng chính sách thuế thống nhất giữa các ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, từ đó khuyến khích cải tiến kỹ thuật, đầu tư vốn, chất xám để có thui nhập chính đáng.
4. Nội dung của thuế giá trị gia tăng :
4.1. Đối tượng áp dụng :
4.1.1. Phạm vi và điều kiện áp dụng thuế giá trị gia tăng :
* Phạm vi áp dụng :
Xét về góc độ kinh tế, thuế giá trị gia tăng đánh trên phần giá trị tăng thêm phát sinh qua các khâu trong quá trình luân chuyển sản phẩm hàng hoá, do đó, moị hoạt động kinh doanh thuộc phạm vi hoạt động của quá trình sản xuất kinh doanh đều thuộc đối tượng nộp thuế.
Như vậy, phạm vi áp dụng của thuế giá trị gia tăng có thể bao gồm :
- Hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
- Hoạt động sản xuất mặt hàng thuộc diện đánh thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nói chung bao gồm cả sản xuất nông nghiệp đang thuộc diện chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp.
* Điều kiện áp dụng :
- Công tác kế toán và hoá đơn chứng từ ở doanh nghiệp. Hoá đơn chứng từ là căn cứ pháp lý để thực hiện tính thuế, kê khai thuế giá trị gia tăng. Cơ sở tính thuế là giá trị tăng thêm , vì vậy, muốn xác định được giá trị tăng thêm thì doanh nghiệp phải thực hiện ghi chép đầy đủ để xác định được đầu vào, đầu ra.
Mặt khác, đối với doanh nghiệp thực hiện theo phương pháp khấu trừ, không có hoá đơn thuế giá trị gia tăng của bên bán thì sẽ không được khấu trừ phần thuế giá trị gia tăng đã nộp ở khâu trước.
- Công tác quản lý của cơ quan thuế : Thực hiện luật thuế không những tác động đến công tác quản lý của các doanh nghiệp mà cả cơ quan thuế cũng phải cải tiến phương pháp quản lý như :Cấp mã số thuế, áp dụng tin học vào công tác thuế, phát hành và quản lý hoá đơn chứng từ, phát huy tinh thần tự giác của doanh nghiệp trong việc tự tính thuế, tự kê khai thuế và nộp thuế theo thông báo vào kho bạc Nhà nước. Qua đó quản lý được đối tượng nộp thuế, hạn chế được thất thu ngân sách và tiêu cực trong lĩnh vực thuế.
4.1.2. Đối tượng nộp thuế :
Đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng theo quy định tại điều 3 của luật thuế giá trị gia tăng lác tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam, không phân biệt ngành nghề, hình thức, tổ choc kinh doanh ( gọi chung là cơ sở kinh doanh ) và các tổ chức, cá nhân khác có nhập khẩu hàng hoá chịu thuế giá trị gia tăng ( gọi chung là người nhập khẩu ).
Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ gồm :
- Các tổ chức kinh doanh được thành lập và đăng ký kinh doanh theo luật doanh nghiệp, luật doanh nghiệp Nhà nước và luật hợp tác xã.
- Các tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức, đơn vị sự nghiệp khác.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp tác kinh doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các công ty nước ngoài và tổ chức nước ngoài hoạt động kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Cá nhân, hộ gia đình sản xuất, kinh doanh, nhóm người kinh doanh độc lập và các đối tượng kinh doanh khác.
4.1.3. Đối tượng không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng :
Hàng hoá, dịch vụ dưới đây không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng:
Sản phẩm trồng trọt ( bao gồm cả sản phẩm rừng trồng ) chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản chưa ché biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của các tổ chức, cá nhân tự sản xuất và bán ra.
Sản phẩm muối.
Hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt không phải nộp thuế giá trị gia tăng ở khâu đã chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được mà cơ sở có dự án đầu tư nhập khẩu để làm tài sản cố định theo dự án đó.
Chuyển quyền sử dụng đất thuộc diện chịu thuế chuyển quyền sử dụng đất.
Nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước do Nhà nước bán cho người đang thuê.
Dịch vụ tín dụng, quỹ đầu tư.
8. Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học sinh, bảo hiểm vật nuôi, cây trồng và các loại bảo hiểm không nhằm mục đích kinh doanh.
Dịch vụ y tế.
Hoạt động văn hoá, triển lãm và thể dục, thể thao không nhằm mục đích kinh doanh, biểu diễn nghệ thuật, sản xuất phim, phát hành và chiếu phim nhựa, phim vidio tài liệu.
Dạy học, dạy nghề.
Phát sang truyền thanh, truyền hình theo chương trình bằng nguồn vốn Ngân sách Nhà nước.
In, sản xuất và phát hành : Báo, tạp chí, bản tin chuyên ngành, sách chính trị, sách giáo khoa, giáo trình, sách văn bản pháp luật, sách in bằng tiếng dân tộc thiểu số, tranh, ảnh, áp phích tuyên truyền cổ động, in tiền.
Dịch vụ phục vụ công cộng về vệ sinh, thoát nước đường phố và khu dân cư, duy trì vườn thú, vườn hoa, công viên, cây xanh đường phố, chiếu sáng công cộng, dịch vụ tang lễ.
Duy tu, sửa chữa, xây dung các công trình văn hoá, nghệ thuật, công trình phục vụ công cộng, cơ sở hạ tầng và nhà tình nghĩa bằng nguồn vốn đóng góp của nhân dân và vốn viện trợ nhân đạo.
Vận chuyển hành khách công cộng bằng xe buýt.
Điều tra, thăm dò địa chất, đo đạc, lập bản đồ thuộc loại điều tra cơ bản của Nhà nước.
Tưới, tiêu nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, nước sạch do tổ chức, cá nhân tự khai thác để phục vụ cho sinh hoạt ở nông thôn, miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
Vũ khí, khí tài chuyên dùng phục vụ quốc phòng, an ninh.
Hàng nhập khẩu trong các trường hợp sau : Hàng viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lãi, quà tặng cho các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, đồ dùng của các tổ chức, cá nhân nước ngoài theo quy chế miễn trừ ngoại giao, hàng mang theo người trong tiêu chuẩn hành lý miễn thuế.
Hàng hoá chuyển khẩu, quá cảnh, mượn đường qua Việt Nam, hàng tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu và tạm xuất khẩu, tái nhập khẩu.
Hàng hoá, dịch vụ cung ứng trực tiếp cho vận tải Quốc tế và các đối tượng tiêu dùng ngoài Việt Nam.
Chuyển giao công nghệ.
Vàng nhập khẩu dạng thỏi, miếng chưa được chế tác thành các sản phẩm mỹ nghệ, đồ trang sức hay sản phẩm khác.
Một số sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên khoáng sản khai thác chưa qua chế biến do Chính phủ quy định cụ thể.
Hàng hoá, dịch vụ của những cá nhân kinh doanh có mức thu nhập thấp. Mức thu nhập thấp do Chính phủ quy định.
Hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng quy định tại điều này không được khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào.
4.2. Căn cứ và phương pháp tính thuế giá trị gia tăng trong Thương mại dịch vụ:
4.2.1. Căn cứ tính thuế :
Căn cứ tính thuế giá trị gia tăng là giá tính thuế và thuế suất.
* Giá tính thuế : Theo quy định tại điều 7 luật thuế giá trị gia tăng và điều 6 của nghị định số 79/2000/NĐ - CP, giá tính thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ được xác định như sau :
- Đối với hàng hoá, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra hoặc cung ứng cho các đối tượng khác là giá bán chưa có thuế giá trị gia tăng.
- Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng ( + ) với thuế nhập khẩu, giá nhập khẩu tại cửa khẩu làm căn cứ tính thuế giá trị gia tăng được xác định theo các quy định về giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
Trường hợp hàng hoá nhập khẩu được miễn, giảm thuế nhập khẩu thì giá tính thuế giá trị gia tăng là giá hàng hoá nhập khẩu cộng với ( + ) thuế nhập khẩu xác định theo mức thuế phải nộp sau khi đã được miễn giảm.
- đối với sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cơ sở kinh doanh xuất để tiêu dùng không phục vụ cho sản xuất, kinh doanh hoặc cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng thì phải tính thuế giá trị gia tăng đầu ra. Giá tính thuế tính theo giá bán của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cùng loại.
- Đối với dịch vụ do phía nước ngoài cung ứng cho các đối tượng tiêu dùng ở Việt Nam, giá tính thuế giá trị gia tăng là giá dịch vụ phải thanh toán cho phía nước ngoài.
- Dịch vụ cho thuê tài sản bao gồm cho thuê nhà xưởng, kho tàng, bến bãi, phương tiện vận chuyển, máy móc thiết bị.
Giá tính thuế giá trị gia tăng là giá cho thuê chưa có thuế. Trường hợp cho thuê theo hình thức thu tiền từng kỳ hoặc thu trước tiền thuê cho một thời hạn thuê thì thuế giá trị gia tăng tính trên số tiền thu từng kỳ hoặc thu trước, bao gồm cả các khoản thu dưới hình thức khác như thu tiền để hoần thiện, sửa chữa, nâng cấp nhà cho thuê theo yêu cầu của bên thuê.
- Đối với hàng hoá, dịch vụ khác là giá do Chính phủ quy định.
* Thuế suất : Luật thuế giá trị gia tăng hiện nay quy định 4 mức thuế suất : 0%, 5%, 10%, 20% trong đó :
Mức thuế suất 0% đối với hàng hoá xuất khẩu.
Mức thuế suất 5% đối với hàng hoá, dịch vụ :
Nước sạch phục vụ sản xuất và sinh hoạt.
Phân bón, quặng để sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu bệnh và chất kích thích tăng trưởng vật nuôi, cây trồng.
Thiét bị và dụng cụ y tế, bông và băng vệ sinh y tế.
Thuốc chữa bệnh, phóng bệnh.
Giáo cụ dùng để giảng dạy và học tập.
Đồ chơi cho trẻ em, sách khoa học – kỹ thuật, sách văn học nghệ thuật, sách phục vụ thiếu nhi, sách pháp luật, trừ sách văn bản pháp luật quy định tại khoản 13 điều 4 của luật thuế giá trị gia tăng.
Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản chưa qua chế biến gồm cả con giống, cây giống, hạt giống, trừ đối tượng quy định tại khoản 1 điều 4 của luật này.
Lâm sản ( trừ gỗ, măng ) chưa qua chế biến, thực phẩm tươi sống.
Sản phẩm bằng đay, cói, tre, nứa, lá.
Bông sơ chế từ bông trồng ở trong nước.
Thức ăn gia súc, gi a cầm và thức ăn cho vật nuôi khác.
Dịch vụ khoa học, kỹ thuật.
Dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Mức thuế suất 10% đối với hàng hoá, dịch vụ :
Dầu mỏ, khí đốt, than đá, quặng và sản phẩm khai khoáng khác.
Điện thương phẩm.
Sản phẩm điện tử, cơ khí, đồ điện.
Hoá chất, mỹ phẩm.
Sợi, vải, sản phẩm may mặc, thêu ren.
Giấy và sản phẩm bằng giấy.
Đường, sữa, bánh, kẹo, nước giải khát và các loại thực phẩm chế biến khác.
Sản phẩm gốm , sứ, thuỷ tinh, cao su, nhựa, gỗ và sản phẩm bằng gỗ, xi măng, gạch, ngói và vật liệu xây dung khác.
Xây dung, lắp đặt.
Vận tải, bốc xếp.
Dịch vụ bưu điện, bưu chính, viễn thông.
Cho thuê nhà, kho tàng, bến bãi,nhà xưởng, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải.
Dịch vụ tư vấn pháp luật.
Chụp, in, phóng ảnh, in băng, sang băng, cho thuê băng, quay vidio, chiếu vidio, sao chụp.
Uốn tóc, may đo quần áo, nhuộm, giặt, là, tẩy, hấp.
Các loại hàng hoá, dịch vụ khác không quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 4 điều này, trừ hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt ở khâu sản xuất, khâu nhập khẩu.
4. Mức thuế suất 20% đối với hàng hoá, dịch vụ :
Vàng, bạc, đá quý do cơ sở kinh doanh mua vào.
Khách sạn, du lịch, ăn uống.
Sổ xố kiến thiết và các loại hình sổ xố khác.
Đại lý tàu biển.
Dịch vụ môi giới.
Trong trường hợp cần thiết, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có thể sửa đổi, bổ sung danh mục hàng hoá, dịch vụ theo các mức thuế suất quy định tại điều này và phải báo cáo để Quốc hội phê chuẩn trong kỳ họp gần nhất.
4.2.2. Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng:
Thuế giá trị gia tăng cơ sở kinh doanh phải nộp được tính theo một trong hai phương pháp: Phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên thuế giá trị gia tăng. Trường hợp cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế có hoạt động kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ thì cơ sở phải hạch toán riêng hoạt động kinh doanh này để tính thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng.
Đối tượng áp dụng và việc xác định thuế phải nộp theo từng phương pháp như sau:
a) Phương pháp khấu trừ thuế:
Đối tượng áp dụng: Là các đơn vị, tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp thành lập theo luật doanh nghiệp Nhà nước, luật doanh nghiệp, luật hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các đơn vị, tổ chức kinh doanh khác, trừ các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng.
Xác định số thuế giá trị gia tăng phải nộp:
Số thuế GTGT = Thuế GTGTđầu ra - Thuế GTGT đầu vào
phải nộp được khấu trừ
Trong đó, thuế giá trị gia tăng đầu ra bằng ( = )giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế bán ra nhân với ( x ) thuế suất thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ đó.
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế khi bán hàng hoá, dịch vụ phải tính thuế và thu thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ bán ra. Khi lập hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán chưa có thuế, thuế giá trị gia tăng và tổng số tiền người mua phải thanh toán. Trường hợp hoá đơn chỉ ghi giá thanh toán, không ghi giá chưa có thuế và thuế giá trị gia tăng thì thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ bán ra phải tính trên giá thanh toán ghi trên hoá đơn, chứng từ. Doanh thu chưa có thuế được xác định bằng giá bán trừ ( - ) thuế tính trên giá bán.
Ví dụ: Doanh nghiệp bán sắt, thép
Giá bán chưa có thuế GTGT đối với sắt f6 là: 4.600.000 đ/tấn
Thuế GTGT 5%: 230.000 đ/tấn
Khi bán, có một số hoá đơn doanh nghiệp chỉ ghi giá bán 4.800.000 đ/tấn
Thuế GTGT tính trên danh số bán được xác định là:
4.800.000 đ/tấn x 5% = 240.000 đ/tấn
Doanh thu được xác định lại bằng:
4.660.000 đ ( = 4.800.000 đ - 240.000 đ )
Doanh nghiệp mua thép cũng không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hoá đơn mua không ghi thuế giá trị gia tăng này.
Thuế GTGT Tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT
đầu vào = mua hàng hoá, dịch vụ
Đối với hộ kinh doanh nộp thuế theo phương phápkhấu trừ thuế, được khấu trừ thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ mua vào phát sinh kể từ tháng được áp dụng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế; Đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào tháng trước được áp dụng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế thì không được tính khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào.
b) Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng trực tiếp trên giá trị gia tăng:
Đối tượng áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng là:
- Cá nhân sản xuất,kinh doanh là người Việt Nam.
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hóa đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế.
Xác định thuế giá trị gia tăng phải nộp ;
Số thuếGTGT = GTGTcủa hàng hóa x Thuế suất thuế GTGT của
phải nộp dịch vụ chịu thuế hàng hóa, dịch vụ đó.
GTGT của hàng hóa = Doanh số của hàng - Giá vốn của hàng hóa,
dịch vụ hóa, dịch vụ bán ra dịch vụ bán ra
Giá trị gia tăng xác định đối với một số nghành nghề kinh doanh như sau:
- Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh bán hàng là số chênh lệch giữa doanh số bán với doanh số vật tư, hàng hóa, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh. Trường hợp cơ sở kinh doanh không hạch toán được doanh số vật tư,
hàng hóa, dịch vụ mua vào tương ứng với doanh số bán hàng ra thì xác định như sau:
Giá vốn hàng bán ra bằng ( = ) doanh số tồn đầu kỳ, cộng ( + ) doanh số mua trong kỳ, trừ ( - ) doanh số tồn cuối kỳ.
Ví dụ: Một cơ sở A sản xuất đồ gỗ, trong tháng bán được 150 sản phẩm, tổng doanh số bán là 25 triệu đồng.
- Giá trị vật tư, nguyên liệu mua ngoài để sản xuất 150 sản phẩm là 19 triệu đồng trong đó:
+ Nguyên liệu chính ( gỗ ): 14 triệu.
+ Vật liệu và dịch vụ mua ngoài khác: 5 triệu.
Thuế suất thuế giá trị gia tăng là 10%, thuế giá trị gia tăng cơ sở A phải nộp được tính như sau:
+ Giá trị gia tăng của sản phẩm bán ra:
25 triệu đồng – 19 triệu đồng = 6 triệu đồng
+ Thuế giá trị gia tăng phải nộp:
6 triệu đồng x 10% = 0,6 triệu đồng
- Đối với xây dựng, lắp đặt là số chênh lệch giữa tiền thu về xây dựng, lắp đặt công trình, hạng mục công trình ( - ) chi phi vật tư nguyên liệu, chi phí động lực, vận tải, dịch vụ và chi phí khác mua ngoài để phục vụ cho hoạt động xây dựng, lắp đặt công trình, hạng mục công trình.
- Đối với hoạt động vận tải là số chênh lệch giữa tiền thu cước vận tải, bốc xếp trừ ( - ) chi phí xăng dầu, phụ ting thay thế và chi phí khác mua ngoài dùng cho hoạt động vận tải.
- Đối với hoạt động kinh doanh ăn uống là số chênh lệch giữa tiền thu về bán hàng ăn uống, tiền phục vụ và các khoản thu khác trừ ( - ) giá vốn hàng hóa, dịch vụ mua ngoài dùng cho kinh doanh ăn uống.
- Đối với hoạt động kinh doanh vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ, giá trị gia tăng là số chênh lệch giữa doanh số bán ra vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ trừ ( - ) giá vốn của vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ bán ra.
- Đối với cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế có kinh doanh mua bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng, cơ sở phải hạch toán riêng thuế giá trị gia tăng đầu vào để kê khai thuế giá trị gia tăng phải nộp của hàng hóa, dịch vụ theo từng hoạt động kinh doanh và phương pháp tính thuế riêng.
Trường hợp không hạch toán được riêng thì được xác định phân bổ thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ tương ứng với tỷ lệ doanh thu của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng tính theo phương pháp khấu trừ thuế trên tổng doanh thu bán hàng phát sinh trong kỳ.
- Đối với các hoạt động kinh doanh khác là số chênh lệch giữa tiền thu về hoạt động kinh doanh trừ ( - ) giá vốn của hàng hóa, dịch vụ mua ngoài để thực hiện hoat động kinh doanh đó.
Doanh số hàng hóa, dịch vụ bán ra quy định trên đây bao gồm cả các khoản phụ thu, phí thu thêm ngoài giá bán mà cơ sở kinh doanh được hưởng, không phân biệt đã thu tiền hay chưa thu được tiền.
Doanh số hàng hóa, dịch vụ mua vào quy định trên đây bao gồm các khoản thuế và phí đã trả tính trong giá thanh toán hàng hóa, dịch vụ mua vào.
- Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng không được tính giá trị tài sản mua ngoài, đầu tư, xây dựng làmm tài sản cố định vào doanh số hàng hóa, dịch vụ mua vào để tính giá trị gia tăng.
4.3. Phương pháp xác định giá trị gia tăng làm căn cứ tính thuế giá trị gia tăng phải nộp đối với từng cơ sở kinh doanh như sau:
- Đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ có hoá đơn, chứng từ, ghi chép sổ sách kế toán thì giá trị gia tăng được xác định căn cứ vào giá mua, giá bán ghi trên chứng từ.
- Đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ hoá đơn, chứng từ bán hàng hoá, dịch vụ, xác định được đúng doanh thu bán hàng, dịch vụ theo hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ nhưng không có đủ hoá đơn mua hàng hoá, dịch vụ thì giá trị gia tăng được xác định bằng doanh thu nhân với tỷ lệ (%) giá trị gia tăng tính trên doanh thu.
- Đối với cá nhân ( hộ ) kinh doanh chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ hoá đơn mua, bán hàng hoá, dịch vụ thì cơ quan thuế căn cứ vào tình hình kinh doanh của từng hộ ấn định mức doanh thu tính thuế giá trị gia tăng được xác định bằng doanh thu ấn định nhân với tỷ lệ (%) giá trị gia tăng tính trên doanh thu.
Tổng cục thuế hướng dẫn các cục thuế xác định tỷ lệ (%) giá trị gia tăng tính trên doanh thu làm căn cứ tính thuế giá trị gia tăng phù hợp với từng nghành nghề kinh doanh và hợp lý giữa các địa phương.
4.4. Các quy định khác.
* Hoá đơn chứng từ mua bán hàng hoá, dịch vụ.
Từ hai phương pháp tính thuế có hai loại hoá đơn phù hợp với từng phương pháp tính thuế và phù hợp với trình độ quản lý, kế toán của đối tượng nộp thuế. Đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ sử dụng hoá đơn thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, đối tượng nộp thuế theo phương pháp tính thuế giá trị gia tăng được sử dụng hoá đơn thông thường.
Cở sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế sử dụng hoá đơn giá trị gia tăng. Khi lập hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố quy định trên hoá đơn và ghi rõ: Giá bán chưa có thuế, phụ thu và phí tính ngoài giá bán(nếu có), thuế giá trị gia tăng , tổng giá thanh toán đã có thuế. Nếu cơ sở kinh doanh bán hàng hoá, dịch vụ không ghi tách riêng số bán và thuế giá trị gia tăng, chỉ ghi chung giá thanh toán thì thuế giá trị gia tăng, đầu ra phải tính trên giá thanh toán. Cơ sở kinh doanh không được tính khấu trừ thuế giá trị gia tăng( trừ trường hợp hàng hoá, dịch vụ đặc thù được dùng chứng từ giá thanh toán là giá đã có thuế giá trị gia tăng).
Các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng và các cơ sở kinh doanh hang hoá, dịch vụ không thuộc đối tương chịu thuế giá trị gia tăng, sử dụng hoá đơn thông thường. Giá bán hàng hoá, dịch vụ ghi trên hoá đơn là giá thực thanh toán đã có thuế giá trị gia tăng( đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng ).
Cơ sở kinh doanh muốn sử dụng hoá đơn, chứng từ khác với quy định chung, phải đăng ký với Bộ tài chính ( Tổng cục thuế ) và chỉ được sử dụng khi đã được thông báo bằng văn bản cho sử dụng. Mọi trường hợp doanh nghiệp đăng ký sử dụng hoá đơn theo mẫu quy định.
Các cơ sở kinh doanh phải thực hiện việc quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ theo quy định về chế độ hoá đơn, chứng từ do Bộ tài chính ban hành. Các cơ sở kinh doanh phải thực hiện đầy đủ việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ có hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật.
* Mã số thuế:
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý đối tượng nộp thuế, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 75/1998/QĐ_TTg ngày 4/4/1998 quy định về mã số đối tượng nộp thuế.
Các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế là đối tượng nộp thuế theo pháp luật Việt Nam đều phải thực hiện kê khai, đăng ký thuế với cơ quan thuế để câp mã số xác định đối tượng được nộp thuế (gọi tắt là mã số thuế ), mã số thuế được sử dụng để nhận diện đối tượng nộp thuế. Mỗi một đối tượng nộp thuế chỉ được cấp một mã số thuế duy nhất trong suốt quá trình hoạt động từ khi thành lập đến khi chấm dứt hoạt động. Mã số thuế đã được cấp sẽ không được sử dụng lại để cấp cho đối tương nộp thuế khác.
Các đối tượng nộp thuế phải ghi mã số của mình trên mọi giấy tờ giao dịch, chứng từ hoá đơn mua, bán, trao đổi kinh doanh trên các sổ sách kế toán, trên các giấy tờ kê khai thuế, chứng từ nộp thuế và các biểu mẫu kê khai với các cơ quan quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật. Các đơn vị được sử dụng hoá đơn tự in phải in sẵn mã số thuế của mình ở góc trên bên phải củaơ từng tờ hoá đơn.
* Hoàn thuế giá trị gia tăng :
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được xét hoàn thuế trong các trường hợp sau :
- Cơ sở kinh doanh trong 3 tháng liên tục trở nên có luỹ kế số thuế đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế đầu ra được hoàn thuế. Số thuế được hoàn là số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết của thời gian xin hoàn thuế.
- Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hoá xuất khẩu nếu có số thuế đầu vào chưa được khấu trừ từ 200 triệu đồng trở lên thì được xét hoàn thuế theo tháng hoặc chuyến hàng ( nếu xác định được thuế giá trị gia tăng đầu vào riêng của chuyến hàng ).
Đối với hàng hoá uỷ thác xuất khẩu, gia công xuất khẩu qua một cơ sở khác ký hợp đồng gia công xuất khẩu, đối tứợng hoàn thuế là cơ sở có hàng hoá đi uỷ thác xuất khẩu, cơ sở trực tiếp gia công hàng hoá xuất khẩu.
- Đối với cơ sở mới thành lập, đầu tư tài sản mới đã đăng ký theo phương pháp khấu trừ nhưng chưa có phát sinh doanh thu bán hàng để tính thuế giá trị gia tăng đầu ra, nếu thời gian đầu tư từ một năm trở lên được xét hoàn thuế đầu vào theo tổng năm. Số thuế giá trị gia tăng đầu vào của tài sản đầu tư được hoàn
có giá trị lớn từ 200 triệu đồng trở lên thì được xét hoàn thuế trong quý.
- Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sát nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản có thuế giá trị gia tăng nộp thừa, cơ sở có quyền đề nghị cơ quan thuế hoàn lại số thuế giá trị gia tăng nộp thừa.
- Cơ sở kinh doanh được hoàn thuế theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Cơ quan thuế có trách nhiệm hướng dẫn đối tượng được hoàn thuế lập đúng, đủ các hồ sơ đề nghị hoàn thuế theo đúng quy định. Chịu trách nhiệm kiểm tra, xem xét hồ sơ, giải quyết hoàn thuế trong thời gian 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hoàn thuế của đơn vị gửi đến. Trường hợp phải kiểm tra, xác minh, bổ sung hồ sơ… thì thời gian tối đa là 30 ngày. Nếu không đủ thủ tục và điều kiện hoàn thuế phải trả lời cho đơn vị biết trong khoảng thời gian 7 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ.
* Khấu trừ thuế :
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế được tính khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào như sau :
- Thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ mua vào cho kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng thì được khấu trừ toàn bộ.
- Thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hoá, dịch vụ mua vào đồng tời cho kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng và không chịu thuế giá trị gia tăng thì chỉ được khấu trừ số thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng.
- Thuế đầu vào dược khấu trừ phát sinh trong tháng nào được kê khai, khấu trừ khi xát định số thuế phải nộp của tháng đó.
- Các cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế được tính khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào theo tỷ lệ ( % ) tính trên giá hàng hoá dịch vụ mua vào không có hoá đơn giá trị gia tăng theo quy định sau :
Tỷ lệ 2% đối với hàng hoá là nông sản, lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến, đất đá cát sỏi và các loại phế liệu mua vào không có hoá đơn.
Tỷ lệ 3% đối với hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng mua của cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng có hoá đơn bán hàng.
5. Tác động của thuế giá trị gia tăng._. trong thương mại dịch vụ :
Thứ nhất, thuế giá trị gia tăng khắc phục được sự trùng lắp thuế nên có tác
động tích cực đến sản xuất và thương mại,dịch vụ. Có một số ngành nghề, mặt hàng không tránh khỏi khó khăn, lúng túng ban đầu do chậm chuyển đổi phù hợp với mức thuế mới như bốc xếp, xây dựng, khách sạn, ăn uống, nhà hàng, du lịch… Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ đã kịp thời ban hành các văn bản pháp quy tháo gỡ khó khăn như : cho bổ sung một số hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế, mở rộng việc khấu trừ thuế… Đến nay, các cơ sở đó đã đi vào ổn định, sản phẩm tăng, nộp thuế đầy đủ và có lãi.
Các hoạt động dịch vụ có khá hơn, giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 3,5% so với năm 1998. Thuế giá trị gia tăng còn giúp các doanh nghiệp của tất cả các thành phần kinh tế tăng cường quản lý như : ghi chép ban đầu, mở sổ sách kế toán và mua bán hàng hoá có hoá đơn, chứng từ, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm để đủ sức cạnh tranh trong tình hình mới.
Về lưu thông hàng hoá, vì thuế giá trị gia tăng chỉ điều tiết trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ nên đã thúc đẩy việc lưu thông hàng hoá thuận lợi. Tính chung cả năm 1999, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ tăng 5,1% và tăng dần năm 2001: 11,1%; năm 2002: 11,3% ; năm 2003: 12% và kế hoạch 2004 tăng 13%.
Thứ hai, thuế giá trị gia tăng và các luật thuế mới đã khuyến khích đầu tư trong nước, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ hiệh đại.
Với các ưu đãi về thuế, các nhà đầu tư sẽ đầu tư nhiều hơn vào thị trường trong nước, hình thành nên các tổ hợp sản xuất cũng như mạng lưới kinh doanh, buôn bán với quy mô lớn. Các hệ thống, mạng lưới bán hàng liên tục phát triển với các hình thức phong phú đa dạng. Ví dụ như các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, năm 2002 nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt 34000 tỷ đồng gấp 1,54 lần so với năm 1995 …
Môi trường kinh doanh đã không bó hẹp trong phạm vi các đô thị, do có những ưu đãi, các doanh nghiệp phải cạnh tranh mạnh mẽ hơn trong nội bộ ngành. Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp đã dần dần thay đổi thị trường mục tiêu của mình, chuyển hướng từ đô thị về các vùng nông thôn, miền núi làm tăng hiệu quả của mạng lưới kinh doanh Thương mại.
Thứ ba, thuế giá trị gia tăng đã góp phần khuyến khích xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh hàng hoá xuất khẩu, giải quyết nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Luật thuế giá trị gia tăng quy định hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% và được
hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào nên đã khuyến khích xuất khẩu, tạo điều kiện để hàng hoá Việt Nam có thể cạnh tranh được về giá với hàng hoá tương tự của các nước trên thế giới.
Đối với hàng hoá nhập khẩu, rõ ràng là việc thuế suất sẽ có tác dụng lớn đối với việc tăng hay giảm lượng hàng hoá mua bán đó. Tuy nhiên, thuế suất của các mặt hàng thường xuyên thay đổi cho phù hợp với tình hgình trong nước và Quốc tế. Như trong thời gian qua, việc tăng giá thép trên thị trường thế giới đã có tác động mạnh đến thị trường sắt thép trong nước. Thị trường sắt thép trở nên khan hiếm, giá sắt thép tăng cao, ảnh hưởng đến cả người sản xuất cũng như người tiêu dùng. Vì vậy , một trong những biện pháp để bình ổn thị trường sắt thép trong nước là giảm thuế nhập khẩu phôi thép . Ngày 27/2/2003, Thứ trưởng Bộ Tài chính đã kí quyết định giảm thuế suất nhập khẩu ưu đãi đối với 6 nhóm mặt hàng sắt thép từ mức 5-40% xuống còn 3-20%. Việc giảm thuế này đã có tác động tích cực đến việc bình ổn thị trường sắt thép, chi phí của các doanh nghiệp giảm xuống khoảng 400.000 đồng một tấn. Tuy nhiên, đây không phải là biện pháp duy nhất để bình ổn thị trường thép, nhưng cũng là một phương thức hiệu quả để đạt mục tiêu.
Thứ tư, thuế có tác động bảo hộ sản xuất trong nước, làm hạn chế việc nhập khẩu cũng như lưu thông hàng hoá qua biên giới đối với mặt hàng đó. Tuy nhiên, không phải mặt hàng nào cũng được bảo hộ, mà nó phải tuỳ thuộc vào loại hàng hoá dịch vụ, tuỳ thuộc vào giai đoạn phát triển của đất nước, cũng như mục đích của Nhà nước.
Thứ năm, tác động đến tổng thu ngân sách Nhà nước, góp phần ổn định được ngân sách Nhà nước, huy động nguồn lực để phát triển đất nước trong tương lai.
Cuối cùng, xét ở tầm vĩ mô, thuế giá trị gia tăng trong hoạt động thương mại và dịch vụ giúp cho Nhà nước có thể quản lý tốt hơn, thu thuế dễ dàng hơn, tránh tình trạng thu chồng chéo, khó xác định số thuế phải nộp của các doanh nghiệp, tăng ngân sách Nhà nước. Bởi lẽ, lĩnh vực thương mại là một lĩnh vực Kinh tế quan trọng của đất nước, là lĩnh vực đem lại nhiều ngoại tệ, bảo đảm cho người dân được sử dụng những hàng hoá thiết yếu cũng như cao cấp để thoả mãn nhu cầu của mình.
Nhìn chung, các luật thuế áp dụng trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ đã bảo đảm được yêu cầu của nhà nước đề ra, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, khuyến khích các
doanh nghiệp đầu tư, tăng cường công tác hạch toán, kế toán và thúc đẩy việc mua bán hàng hoá có hoá đơn chứng từ, tạo điều kiện chống thất thu thuế, bảo đảm nguồn thu ổn định, lâu dài và ngày càng tăng cho ngân sách. Đồng thời, góp phần hoàn thiện hệ thống, chính sách thuế ở nước ta, phù hợp với sự vận động và sự phát triển của nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện mở rộng hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới.
II. Kinh nghiệm thực hiện thuế giá trị gia tăng ở một số nước:
1. Thuế giá trị gia tăng áp dụng ở một số nước trên thế giới:
1.1. Trung Quốc.
- Thuế giá trị gia tăng của Trung Quốc được bắt đầu áp dụng từ năm 1984. Tuy nhiên, do những quy định về thuế năm đó được coi là phức tạp, không công bằng và rất khó áp dụng vì chủ yếu được áp dụng ở cơ sở sản xuất. Đến năm 1994, luật thuế giá trị gia tăng mới được ban hành thay cho thuế giá trị gia tăng năm 1984.
- Về cơ bản, thuế giá trị gia tăng năm 1994 của Trung Quốc là một loại thuế đánh trên diện rộng, từ khâu sản xuất đến khâu bán lẻ.
- Thuế giá trị gia tăng của Trung Quốc có hai điểm khác biệt quan trọng so với thuế giá trị gia tăng ở các nước Châu Á khác:
Thứ nhất, tài sản cố định bị đánh thuế giá trị gia tăng song lại không được khấu trừ thuế đầu vào.
Thứ hai, hầu hết các dịch vụ đều không chịu thuế giá trị gia tăng(thay vào đó, các dịch vụ này chịu thuế kinh doanh).
* Một số nhân xét và bài học về việc thực hiện thuế giá trị gia tăng của Trung Quốc:
- Về đối tượng nộp thuế:
Có hai loại đối tượng: Đối tượng nộp thuế thông thường ( chiếm 20%) và đối tượng nộp thuế nhỏ( chiếm 80%), căn cứ vao doanh số bán hàng và điều kiện hạch toán của từng đối tượng.
Tiêu chí để trở thành đối tượng nhỏ như sau:
Đối với các đối tượng kinh doanh dịch vụ: Các cơ sở có doanh số chịu thuế giá trị gia tăng hàng năm dưới 1 triệu NDT.
Đối tượng kinh doanh hàng hoá có doanh số chịu thuế hàng năm dưới 1,8 triệu NDT.
Những cá nhân, đơn vị, doanh nghiệp không thường xuyên tiến hành các các hoạt động chịu thuế, không kể có doanh số là bao nhiêu cũng được coi là đối tượng nộp thuế nhỏ.
Trong số các đối tượng nộp thế thì có tới 80% là đối tượng nộp thuế nhỏ và 20% là đối tượng nộp thuế thông thường.
Khi đối tượng nộp thuế nhỏ có chế độ hạch toán lành mạnh và khả năng hạch toán chính xác thuế đầu ra, thuế đầu vào, số thuế phải nộp hoàn toàn tuân thủ theo các chế độ kế toán và những yêu cầu của cơ quan thuế, thì có thể trở thành đối tượng nộp thuế thông thường, nếu được cơ quan thuế có thẩm quyền chấp nhận.
- Căn cứ và phương pháp tính thuế: Tương ứng với hai nhóm đối tương nộp thuế, có hai phương pháp tính thuế:
Các đối tượng nộp thuế nhỏ được áp dụng thuế doanh thu với một mức thuế suất thống nhất là 6% trên doanh thu, không được phép miễn giảm và khấu trừ thuế. Từ 1998, mức thuế này giảm xuông còn 4%.
Các đối tượng nộp thuế thông thương được áp dụng phương pháp khấu trừ thuế. Số thuế phải nộp sẽ là: Số chênh lệch giữa số thuế đầu ra sau khi đã khấu trừ thuế đầu vào cho giai đoạn đó. Nếu như số thuế đầu ra ít hơn hay không đủ để bù đắp thuế đầu vào, thì số thuế đầu vào vượt trội đó được chuyển sang các giai đoạn tiếp theo để bù đắp.
Đối tượng nộp thuế thông thường mua nông sản miễn thuế; phế liệu và dịch vụ vận chuyển, không được cung cấp hoá đơn, giá trị gia tăng đặc biệt sẽ được khấu trừ theo tỷ lệ là 10% theo giá thực mua.
Với việc quy định một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ, còn những đối tương có doanh số chưa đạt tới ngưỡng tối thiểu chịu thuế giá trị gia tăng thì áp dụng thuế doanh thu đơn giản, đã tạo thuận lợi cho công tác quản lý thuế.
Thuế giá trị gia tăng của Trung Quốc được áp dụng cả đối với hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, do đó rất dễ dàng trong quản lý. Đối với hàng nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng đánh trên cả thuế hải quan và thuế tiêu dùng( nếu có).
- Đối với hàng xuất khẩu.
Theo quy định thuế giá trị gia tăng năm 1994, những hàng hoá xuất khẩu chịu thuế xuất 0% và được hoàn lại số thuế giá trị gia tăng đã nộp ở khâu đầu vào. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng, việc hoàn thuế đã phát sinh một số
vấn đề phức tạp khác như: Số lượng thuế phải hoàn trả tăng lên nhanh chóng, tốc độ hoàn thuế tăng nhanh hơn cả tốc độ thu thuế và lương xuất khẩu, tình trạng gian lận trong việc nhận các khoản hoàn thuế dẫn đến thất thu nghiêm trong cho ngân sách, gây cản trở cho công tác hoàn thuế kịp thời đối với những doanh nghiệp làm ăn hợp pháp.
Để giải quyết những khó khăn trên, Hội đồng Nhà nước đã quyết định giảm tỷ lệ hoàn thuế từ 1/7/1995 căn cứ vao gánh nặng mà các doanh ngiệp xuất khẩu phải gánh chịu ,đồng thời củng cố công tác hành chính về việc hoàn thuế khi xuất khẩu. Các tỷ lệ hoàn thuế cụ thể được quy định như sau:
3% đối với nông sản và than.
10% cho các sản phẩm công nghiệp được sản xuất hay chế biến từ nguyên vật liệu nông nghiệp và các sản phẩm khácchịu thuế suất thuế giá trị gia tăng là 13%.
14% cho các hàng hoá chịu thuế suất thuế giá trị gia tăng 17%.
Đến 01/01/1996 mức hoàn thuế này được giảm xuống còn 9%.
Việc giảm tỷ lệ hoàn thuế đối với hàng xuấ khẩu đã có tác dụng giảm bớt sự căng thẳng đối với ngân sách nhà nước. Đồng thời do chú trọng tới việc đảm bảo tốc độ cũng như độ chính xác trong quá trình hoàn thuế cho nên quyền lợi của các doanh nghiệp xuất khẩu vẫn được đảm bảo, hoạt động xuất khẩu được đẩy mạnh .
1.2.Inđônêxia.
Luật thuế giá trị gia tăng của Inđonêxia được ban hành tháng 4/1985 và được áp dụng thành 3 giai đoạn :
Giai đoạn I( Từ năm 1985 – 1989 ):Trong giai đoạn này thuế giá trị gia tăng chỉ được áp dụng cho những hàng hoá xuất khẩu trong nước và hàng nhập khẩu với một mức thuế suất là 10%. Khác với luật thuế giá trị gia tăng của Việt Nam ,theo luật thuế giá trị gia tăng của Inđônêxia ,những mặt hàng đã chịu thuế tiêu thụ đặc biệt vẫn phải chiu thuế giá trị gia tăng .
Giai đoạn II( Từ 1989 – 1994 ): Từ 1/4/1989, thuế giá trị gia tăng được mở rộng tới người bán buôn và áp dụng đối với 21 loại dịch vụ .Về nguyên tắc, tất cả các dịch vụ đều là đối tượng chịu thuế , song In đônêxia cũng quy định một số trường hợp được miễn : dịch vụ y tế , ngân hàng ,giáo dục và khách sạn (vì đã có một loại thuế địa phương đánh vào khách sạn) .
Giai đoạn III: Bắt đầu từ tháng 1/1995 thuế giá trị gia tăng tiếp tục mở rộng đối tượng nộp thuế tới người bán lẻ .Tuy nhiên , những người bán lẻ có doanh thu dưới một ngưỡng nhất định không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng .
Theo đánh giá của Bộ tài chính Indonexia ,việc áp dụng thuế giá trị gia tăng theo từng giai đoan như trên là một trong những yếu tố dẫn đến thành công của thuế giá trị gia tăng ở nước này.
Một số kinh nghiệm cụ thể được rút ra từ thực tế Inđônêxia :
-Về ảnh hưởng của thuế giá trị gia tăng tới số thu ngân sách và giá cả: Khi áp dụng thuế giá trị gia tăng, giá cả ở Inđônêxia vẫn ở mức ổn định, không tăng. Trong khi đó số thu ngân sách lại tăng lên. Năm 1989 , sau 5 năm áp dụng thuế giá trị gia tăng , số thu từ thuế giá trị gia tăng đã tăng từ 1% lên 3,5% GDP.
- Thuế giá trị gia tăng của Indônexia chỉ có hai mức thuế suất là 0% và 10% điều này làm cho luật thuế giá trị gia tăng của Inđonexia rất đơn giản ,thuận lợi cho công tác quản lý thuế .
-Việc áp dụng thuế giá trị gia tăng thành từng giai đoạn là một yếu tố đảm bảo sự thành công của thuế giá trị gia tăng ở nước này.
-Do quy định mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt vẫn phải chịu thuế giá trị gia tăng nên Indonexia hầu như không gặp phải khó khăn gì trong việc xử lý đối với loại hàng hoá này .
-Quy định hoàn thuế giá trị gia tăng của Indonexia rất rõ ràng và có những chỉ dẫn cụ thể nên cán bộ thuế hầu như khong có cơ hội để trì hoãn hoặc cản trở quá trình hoàn thuế.
-Công tác tuyên truyền cho đối tượng nộp thuế cần hết sức quan trọng. Ban đầu, Indonexia găp phải rất nhiều phản ứng từ những đối tượng nộp thuế do họ không biết phải làm gì để đươc nộp thu. Chỉ khi cơ quan thuế cung cấp những hưỡng dẫn cụ thể, rõ ràng đối với từng trường hợp cụ thể thì những phản ứng này mới lắng xuống.
- Tình trạng gian lận giá trị gia tăng được thực hiện dưới nhiều hình thức, phổ biến nhất là việc sử dụng hoá đơn giả ở khâu đầu vào nhằm tăng số thuế được khấu trừ. Cũng có một số trường hợp gian lận được đưa ra toà án, song vẫn không ngăn chặn được hiện tượng này.
1.3. Singapore:
Với nhận thức là việc đánh thuế đối với hàng nhập khẩu không mang tính chất là một loại thuế đánh trên giá trị gia tăng nên ở Singapore không dùng tên thuế giá trị gia tăng như ở các nước mà gọi là thuế hàng hoá và dịch vụ. Thuế hàng hoá và dịch vụ (GST) ở Singapore được áp dụng vào ngày 1/4/1994. Sự ban GST là một phần trong kế hoạch đổi mới toàn bộ hệ thống thuế của Chính phủ Singapore. Điều này cho thấy sự thay đổi quan trọng trong chính sách quản lý tài chính từ việc chú trọng các loại thuế trực tiếp đánh trên thu nhập tới các loại thuế gián tiếp đánh vào tiêu dùng. Song song với việc ban hành GST, thuế suất thuế thu nhập công ty, thuế thu nhập cá nhân và thuế tài sản được giảm xuống, từ đó duy trì được tính cạnh tranh quốc tế của hệ thống thuế của Singapore.
Để giảm tối đa chi phí tuân thủ và chi phí hành chính liên quan tới việc áp dụng GST cho cả đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế, đảm bảo cho hệ thống GST hoạt động có hiệu quả, GST của Singapore được xây dựng rất đơn giản:
- Thuế đánh vào tiêu dùng trong nước, sử dụng phương pháp khấu trừ trên cơ sở hoá đơn và áp dụng một mức thuế suất thống nhất là 3%.
- Giảm tối đa các loại hàng hoá và dịch vụ được hưởng thuế suất 0%, chỉ xuất khẩu và một số ít dịch vụ quốc tế đặc biệt mới được hưởng thuế suất 0%.
- Giảm tối đa việc miễn giảm thuế cho các loại hàng hoá và dịch vụ.
- Singapore cũng quy định ngưỡng đăng ký thuế: các doanh nghiệp có cung cấp chịu thuế hàng năm lớn hơn 1 triệuUSD Singapore đều phải đăng ký GST.
Theo quy định này, chỉ có khoảng 20% tổng số doanh nghiệp (35000 doanh nghiệp) phải thực hiện nghĩa vụ đăng ký thuế.
- Khác với một số nước thực hiện miễn thuế giá trị gia tăng hoặc áp dụng thuế suất 0% đối với lương thực, thực phẩm, y tế và các nhu yếu phẩm khác nhằm giúp đỡ các hộ có thu nhập thấp, Singapore cho rằng những ưu đãi như vậy có lợi cho các hộ có thu nhập cao hơn các hộ có thu nhập thấp. Chính vì vậy, hệ thống GST của Singapore bao phủ hầu hết các loại hàng hoá và dịch vụ.
Về giá cả: Theo kinh nghiệm của các nước, khi áp dụng GST thường chỉ gây tăng giá một lần. Lường trước sự tăng giá đó và hạn chế đến mức thấp nhất sự lợi dụng của các nhà buôn có thể dẫn đến lạm phát, Chính phủ Singapore đã tiến hành:
- Làm việc với các nhóm tiêu dùng và người bán lẻ để phổ biến với các nhà buôn và dân chúng về GST và ảnh hưởng của nó tới giá cả hàng hoá và dịch vụ.
- Theo dõi chặt chẽ mọi sự tăng giá và tiến hành điều tra mọi khiếu nại về
các hiện tượng gian lận của các nhà buôn.
- Khuyến khích các nhà buôn không tăng giá bằng toàn bộ mức thuế GST, mà rút bớt một phần vào giá thành bù đắp bằng sự tiết kiệm tăng lên từ việc giảm thuế thu nhập công ty khi GST được thực thi.
2. Vận dụng kinh nghiệm vào Việt Nam:
- Để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc áp dụng thuế giá trị gia tăng phải có một thời gian áp dung thử thuế giá trị gia tăng sau đó mới áp dụng rộng rãi cho mọi nghành nghề.
- Không áp dụng một mức thuế suất duy nhất cho tất cả các nghành nghề để khuyến khích một số nghành nghề phát triển cũng như hạn chế những ngành nghề không cần thiết cho nền kinh tế quốc dân.
- Dần dần đưa việc thực hiện chế độ hoá đơn chứng từ, sổ sách kế toán đi vào nề nếp, đi đến việc chấm dứt không có hoá đơn.
- Cần chú trọng đến công tác tuyên truyền về ý nghĩa, mục tiêu, yêu cầu của chính sách thuế mới cũng như yêu cầu về nghiệp vụ để tranh thủ ý kiến của nhiều nhà khoa học, nhiều nhà quản lý cũng như nhà kinh doanh, người tiêu dùng. Đặc biệt là có sự quan tâm giải đáp thắc mắc cụ thể để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp dân cư, thúc đẩy tinh thần tự nguyện, tự giác chấp hành nghĩa vụ kê khai, nộp thuế theo đúng quy định của pháp luật.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CỦA THUẾ GTGT TRONG THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ NƯỚC TA HIỆN NAY
I. Tình hình thương mại dịch vụ hiện nay:
Thực hiện chính sách đổi mới kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV ( 1986 ), với nền kinh tế nhiều thành phần đã làm cho kinh tế Việt Nam có những thay đổi lớn lao không phải chỉ ở mức tăng trưởng mà còn thay đổi cơ cấu kinh tế. Hoạt động dịch vụ xuất hiện ngày càng nhiều và tỏ ra thích ứng nhanh vì đem lại hiệu quả kinh tế cao. Nhìn chung, tỷ trọng dịch vụ tăng dần trong cơ cấu tổng sản phẩm trong nước từ 32,48% năm 1985 lên 38,46% năm 2002. Tương ứng với sự tăng trưởng dịch vụ là sự giảm tỷ trọng nông lâm – ngư nghiệp từ 40,17% năm 1985 xuống còn 22,99% năm 2002. Đồng thời công nghiệp và xây dựng có tăng mặc dù tăng không lớn ( so với dịch vụ ) từ 27,35% năm 1985 lên 38,55% năm 2002. Có thể đánh giá rằng sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong hơn 15 năm là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong các ngành dịch vụ phải kể tới vai trò không nhỏ của lĩnh vực thương mại. Những năm đổi mới vừa qua, thương mại phát triển khá, bảo đẩm lưu chuyển, cung ứng vật tư, hàng hoá trong cả nước và trên từng vùng. Thương mại quốc doanh được săp xếp lại theo hướng nắm buôn bán, tham gia kinh doanh, bán lẻ đối với một số mặt hàng thiết yếu; thương mại ngoài quốc doanh tăng lên đáng kể về số lượng, từ đó góp phần làm cho thị trường trong nước sôi động phong phú. Mạng lưới chợ, các điểm bán hàng hoá và kinh doanh dịch vụ phát triển rộng khắp trên phạm vi cả nước. Hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, hội chợ và triển lãm hàng hoá được hình thành và phát triển. Phương thức kinh doanh đã được đổi mới theo hướng văn minh hiện đại. Nhiều hình thức thu hút khách hàng của các nước tiên tiến trên thế giới được áp dụng như: Tổ chức các hội chợ ( hội chợ thương mại quốc tế, hội chợ hàng chất lượng cao, hội chợ hàng đêm,… ) quảng cáo tiếp thị khuyến mại dịch vụ sau bán hàng ( bảo hành, bảo trì ) bán hàng qua điện thoại, fax. Đội ngũ nhân viên, nhà quản lý trong lĩnh vực thương mại dịch vụ đã trưởng thành nhiều mặt, biết cách thu hút khách hàng bằng chính chất lượng phục vụ của mình. Từ đó, tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội tăng liên tục trong hơn 10 năm ( 1991-2003 ) với mức tăng bình quân hằng năm là 27,7%. Mức bán lẻ bình quân đầu người /năm cũng tăng đáng kể từ 0,3 triệu đồng năm 1990 lên 1,7 triệu đồng năm 1995 và 2,8 triệu đồng năm 2000 và 3,7 triệu đồng năm 2003. Đồng thời, năm 2003 tóc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là 6,68% đứng thứ hai thế giới sau Trung Quốc, tổng mức lưu chuyển hàng hoá tăng 112,1%.
Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu về thị trường
trong nước thời kỳ 1991 – 2004.
Năm
GDP
(%)
Bán trong nước
Chỉ số giá tiêu dùng
Ngàn tỷ đồng
Nhịp tăng
(%)
Nhịp tăng so với GDP
1991
1992
1993
1994
1995
B.quân năm
1996
1997
1998
1999
2000
B.quân năm
2001
2002
2003 (ước)
2004 (KH)
5,81
8,70
8,08
8,83
9,54
8,19
9,34
8,15
5,76
4,77
6,75
6,94
6,84
7,04
7,2-7,3
7,5-8,0
33,40
51,21
67,27
93,49
121,16
145,87
161,90
185,60
200,92
219,40
241,84
272,79
305,53
345,25
75,5
53,3
31,4
39,0
29,6
44,81
20,4
11,0
14,6
8,2
9,2
12,61
8,5
12,8
12,00
13,00
12,99
6,13
3,89
4,42
3,10
5,47
2,18
1,35
2,53
1,72
1,36
1,82
1,25
1,81
1,67
1,73
167,5
117,5
105,2
114,4
112,7
104,5
103,6
109,2
100,1
99,4
100,8
104,0
103,0
104,0
Bên cạnh thành tựu nêu trên, về cơ bản nền thương mại nước ta vẫn là một nền thương mại nhỏ, sức mua còn thấp, chất lượng hàng hoá dịch vụ chưa cao; khả năng cạnh tranh của hàng hoá và doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế còn thấp. Môi trường pháp lý cho hoạt động thương mại – dịch vụ còn chưa đồng bộ, thay đổi luôn… Vì vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Phát triển mạnh thương mại, nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động để mở rộng thị trường trong nước và hội nhập quốc tế có hiệu quả”.
II. Tình hình thực tế áp dụng thuế giá trị gia tăng trong thương mại dịch vụ ở Việt Nam:
Thuế giá trị gia tăng ở Việt nam được tiến hành thí điểm từ tháng 9/1993. Qua một thời gian thực hiện, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn của Việt Nam và chọn lọc những bài học thành công, thất bại ở một số nước, dự thảo luật được xây dung từ đầu năm 1995, được Quốc hội khoá 9, kỳ họp thứ 11 thông qua vào
giữa tháng 5/1997 đã bắt đầu áp dụng chính thức trên diện rộng từ 1/1/1999.
1. Công tác tổ chức thực hiện.
Thực hiện nghị quyết của Quốc hội khoá IX , kỳ họp thứ 2, thông qua ngày 23/12/1992 giao cho Chính phủ thực hiện thí điểm việc áp dụng thuế giá trị gia tăng để rút kinh nghiệm xây dựng dự án luật thuế này, Bộ Tài chính đã được Chính phủ giao cho triển khai thực hiện thí điểm thuế giá trị gia tăng.
1.1. Tình hình thực hiện thí điểm :
Trước áp dụng luật thuế giá trị gia tăng (1/1/1999), Bộ Tài chính đã cùng các doanh nghiệp tiến hành hai đợt tính thử thuế giá trị gia tăng ở các doanh nghiệp lớn. Đợt 1 được tiến hành vào tháng 1/1998, tuy nhiên các số liệu tính toán trong đợt này chưa phản ánh đúng tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Cách tính, phương pháp xác định thuế đầu vào, thuế đầu ra, giá bán chưa có thuế…ở một số doanh nghiệp còn chưa chính xác, cho nên khó có thể đánh giá đúng những tác động của hai luật thuế tới doanh nghiệp. Chính vì vậy, 8/1998, đợt tính thử nghiệm lần hai được tiến hành với sự tham gia của các chuyên gia Bộ Tài chính nhằm đánh giá chính xác tình hình tài chính của các Tổng công ty khi thực hiện luật thuế giá trị gia tăng .
Theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, các doanh nghiệp đã tiến hành tính thử số thuế giá trị gia tăng phỉa nộp so với thuế doanh thu và dự đoán những tác động của nó tới hoạt động kinh doanh của đơn vị mình. Có hai xu hướng đánh giá trái ngược nhau:
- Những doanh nghiệp có số thuế giá trị gia tăng phải nộp thấp hơn so với thuế doanh thu: trong nhóm này chỉ bao gồm một số nghành nghề đang áp dụng thuế doanh thu với thuế suất cao như điện (8%), xi măng (10%), da giày (6%), một sản phẩm công nghiệp thực phẩm (6%), xổ số kiến thiết (20 – 30%)… và các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu. Những doanh nghiệp này khi áp dụng thuế giá trị gia tăng với thuế suất không cao hơn nhiều so với thuế doanh thu, đồng thời phần thuế đã nộp ở đầu vào khấu trừ lớn, những doanh nghiệp xuất khẩu không phải nộp thuế đầu ra, đồng thời lại được hoàn thuế đầu vào, do vậy số thuế giá trị gia tăng phải nộp giảm nhiều so với thuế doanh thu.
Một số tổng công ty có số thuế giá trị gia tăng phải nộp giảm so với thuế doanh thu.
( Đơn vị : triệu đồng )
Đơn vị
Thuế DT
Thuế GTGT
Thuế GTGT giảm so với thuế DT
Phải nộp
Được hoàn
TCT lương thực miền nam
143.872
0
162.290
143.872
TCT cà phê
31.626
0
2.260
31.626
TCT gia giày
2.932
0
22.249
2.932
TCT khoáng sản
2.708
0
7.300
2.708
TCT cao su
20.921
4.903
16.018
TCT sữa
68.100
61.200
6.900
TCT xi măng
520.948
220.678
300.270
TCT bưu chính viễn thông
638.739
501.981
136.758
TCT điện lực
1.171.321
188.600
982.721
( Nguồn : Bộ tài chính )
- Những doanh nghiệp gặp khó khăn: nhóm này gồm các doanh nghiệp hiện đang nộp thuế doanh thu với thuế suất thấp hoặc kinh doanh những mặt hàng có chi phí ít, giá trị gia tăng chiếm tỷ trọng lớn. Ví dụ:
+ Sản phẩm cơ khí với thuế suất thuế doanh thu 1 –2%, khi áp dụng thuế giá trị gia tăng với thuế suất 10% , thì số thuế giá trị gia tăng phỉa nộp tăng gấp 3 lần so với thuế doanh thu.
+ Đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, khách sạn, việc áp dụng thuế giá trị gia tăng với thuế suất 20%, mức thuế cao nhất trong biểu thuế giá trị gia tăng thay cho thuế doanh thu 10% cũng được kiến nghị là quá cao. Kết quả tính thử số thuế phải nộp trong 6 tháng đầu năm theo luật giá trị gia tăng so với thuế doanh thu nộp ở 40 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ dulịch, khách sạn cho thấy: đối với doanh nghiệp kinh doanh du lịch lữ hành, số thuế phải nộp tăng gấp 2 lần; còn đối với doanh nghiệp kinh doanh khách sạn, mức thuế tăng từ 1,6 – 1,8 lần.
+ Đối với nghành điện tử, tin học: mức thuế doanh thu của nghành điện tử là 4% và tin học là 1%. Khi áp dụng thuế giá trị gia tăng , thuế suất 10%. Theo tính toán của Tổng công ty điện tử – tin học, số thuế giá trị gia tăng phải nộp sẽ tăng lên 2 lần so với thuế doanh thu nếu như mọi điều kiện khác không thay đổi. Theo số liệu tính thử cho năm 1999, số thuế giá trị gia tăng mà tổng công ty này phải nộp là 32,4 tỷ đồng, so với thuế doanh thu là 17,2 tỷ.
Bảng một số Tổng công ty có số thuế giá trị gia tăng phải nộp tăng so với thuế doanh thu .
(Đơn vị : triệu đồng)
Tên đơn vị
Thuế doanh thu
Thuế GTGT
Chênh lệch
TCT Vật tư nông nghiệp
6.342
79.456
73.114
TCT xăng dầu
508.176
1.156.188
648.012
Liên hiệp đường sắt Việt Nam
46.756
70.787
24.031
TCT tầu thuỷ
76.000
85.000
9.000
TCT hàng hải
120.000
158.000
38.000
( Nguồn: Bộ Tài chính)
Việc chuyển từ thuế doanh thu với 11mức thuế suất (từ 0% - 30%)sang thuế giá trị gia tăng với 4 mức thuế suất (0%, 5%, 10%, 20%) tất yếu dẫn đến tình trạng có mặt hàng chịu thuế giá trị gia tăng cao hơn thuế doanh thu, có mặt hàng được hưởng thuế suất thấp hơn, do đó số thuế doanh nghiệp phải nộp
cũng thay đổi. Nhiều trường hợp được nộp thuế thấp hơn nên rất phấn khởi trong việc thực hiện luật thuế mới. Ngược lại, có không ít nghành phải nộp thuế cao hơn so với thuế doanh thu nên rất băn khăn lo lắng. Đặc biệt, trong hoàn cảnh phải đương đầu với bao thách thức, khó khăn như nghành cơ khí, kinh doanh khách sạn, du lịch, ăn uống, bảo hiểm, tư vấn, vì được khấu trừ thuế đầu vào không đáng kể.
1.2. Tổ chức thực hiện:
*Tổ chức bộ máy chỉ đạo triển khai thực hiện:
Chấp hành chỉ thị số 44CT/TƯ ngày 4/11/1998 của Bộ Chính Trị và Nghị quyết số 18 năm 1998/QH ngày 25/11/1998 của Quốc Hội, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 208/1998/QĐ-TTg ngày 26/10/1998 về việc thành lập ban chỉ đạo triển khai thực hiện các luật thuế mới của Chính phủ do một phó thủ tướng Chính phủ làm trưởng ban. Thành viên gồm lãnh đạo các bộ: Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghiệp, Bộ Xây dựng, Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ban vật giá Chính phủ, Tổng cục Hải quan, Tổng Cục thuế. Bộ phận thường trực của ban chỉ đạo triển khai thực hiện các luật thuế mới của Chính phủ được đặt tại Bộ Tài chính. Tiếp theo, Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị số 41/CT-TTg ngày7/2/1999 về việc tổ chức thực hiện các luật thuế mới. Căn cứ vào chỉ thị số 41/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, các địa phương đã thành lập ban chỉ đạo triển khai thực hiện các luật thuế mới do một đồng chí Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch UBND làm trưởng ban, thành viên là lãnh đạo các sở, nghành có liên quan.
Các ban chỉ đạo triển khai thực hiện các luật thuế mới đều có chương trình hành động, phân công trách nhiệm cụ thể cho từng bộ phận để chỉ đạo, kiểm tra việc triển khai thựchiện các luật thuế mới, chỉ đạo quản lý thị trường, giá cả, xử lý những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các luật thuế mới.
* Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Sau khi Quốc hội thông qua các luật thuế mới, dưới sự lãnh đạo của Chính phủ, các ban soạn thảo đã tích cực chuẩn bị các văn bản hướng dẫn thi hành các luật thuế mới và các luật có liên quan như: Luật ngân sách, luật khuyến khích đầu tư trong nước…
Đến ngày31/12/1998 đã có trên 70 văn bản mang tính pháp quy về cơ bản đã đủ để hướng dẫn thi hành các luật thuế mới; Các văn bản hướng dẫn đã bảo đảm
đúng luật, phù hợp với điều kiện thực tế sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp.
* Tổ chức công tác hướng dẫn, tuyên truyền.
Đã tổ chức tập huấn, hướng dẫn về mục đích, ý nghĩa, nội dung, tác dụng và quy trình nghiệp vụ quản lý thuế cho cán bộ chủ chốt của các bộ, ngành, địa phương, cho cán bộ nghành tài chính và ngành thuế, cho các doanh nghiệp quốc
doanh, việc tuyên truyền về thuế đã được tiến hành thường xuyên, liên tục bằng nhiều hình thức: Trên các phương tiện thông tin đại chúng (Đài báo trung ương, đài báo địa phương, hệ thống thông tin phường, xã…), in sách, phát hành tờ rơi, xây dựng phim truyện, hội thảo.
Ban tư tưởng văn hoá TW đã có văn bản hướng dẫn thục hiện chỉ thị số 41CT/TW của Bộ Chính trị, tổ chức tập huấn về thuế cho các tổng biên tập báo, cho ban tuyên huấn của các bộ, địa phương để phục vụ cho công tác tuyên truyền, phối hợp với Bộ tài chính soạn thảo thông tin vắn tắt về thuế để làm tài liệu sinh hoạt trong công tác chi bộ Đảng.
* Tổ chức bộ máy, nghiệp vụ quản lý thuế.
Cấp mã số cho đối tượng nộp thuế: Việc cấp mã số cho đối tượng nộp thuế nhằm mục đích quản lý số lượng đối tượng nộp thuế và là khâu đầu trong công tác đưa tin học vào quản lý thuế. Đến hết quý I/1999 đã cấp mã số thuế cho 985.194 cơ sở kinh doanh, trong đó có 485.517 cơ sở kinh doanh được phép thành lập và có đăng ký kinh doanh, số còn lại chưa có đăng ký kinh doanh nhưng vẫn cấp mã số để quản lý thu thuế.
Về hoá đơn, chứng từ: Hoá đơn, chứng từ là căn cứ pháp lý để thực hiện tính thuế, kê khai thuế, nhất là trong việc tính thuế giá trị gia tăng. Bộ tài chính đã in và c._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33652.doc